Trên đỉnh Hải Vân, ánh trăng khi mờ khi tỏ. Gió
lạnh từng đợt lùa vào lều vải. Ông bỏ thêm củi cho to ngọn lửa để xua đuổi khí
lạnh đang bao vây quanh người. Xa xa dưới dãy núi chỉ thấy một dải trắng xám mờ
mờ. Trời lẫn lộn với biển và thỉnh thoảng có đám mây từ từ bay qua dưới chân
ông. Ông lại nhớ Kiếm Qua sau thời gian động phòng 2 người đều không có mái nhà
để ở và cả hai đều ở cách nhau 4, 5 cây số. Lúc đó ông từ Cục chính trị được
điều về tại báo Kháng Địch nên ít gặp Kiếm Qua. Tờ báo này đã ra được 20 lần và
viết chữ ngược lên đá litho1 để in báo. Khi ông ra thêm 1 số thì tòa báo bị máy
bay Nhật đánh phá sập trụ sở. Ông được Ủy ban huyện cấp cho 1 máy in với số chữ
chì. Những máy móc này rất lạ đối với ông nhưng ông quyết mấy mò cùng anh em xếp
chữ tranh thủ ra báo lần thứ 22 - Sức làm việc của ông suốt ngày đêm đã cuốn hút
các nhân viên cán bộ, nhà in và toà soạn cùng làm như ông. Từ đấy ông viết
truyện ngắn, xã luận và thơ. Thời gian ông phụ trách đã ra được 5 lần báo thì
ông được chuyển công tác.
Tư lệnh Bát lộ quân đã công nhận tờ báo của biên
khu do ông làm chủ nhiệm đã tạo nội dung tốt và trình bày phong phú hơn trước.
Song song trong thời gian này ông cũng đã thành lập Ban kịch nói với 5 người và
1 nữ là vợ ông. Sau lần ấy vợ ông đã lôi kéo bạn bè trong hội phụ nữ được thêm 4
người làm ca sĩ trong Ban kịch2.
Năm 1939 do sự phát triển của Bát lộ quân yêu cầu
phải thành lập thêm trường huấn luyện cấp bách, Hồng Thủy được điều về làm Phân
hiệu phó phân hiệu 2 trường đại học kháng Nhật do La Thụy Khanh phụ trách. Đây
là trường đại học đầu tiên tại khu căn cứ địa. Các giáo viên đều có trình độ tú
tài trở lên, Hồng Thủy phụ trách chủ nhiệm khoa chính trị.
Thu đông 1939 Bát lộ quân đánh 3 trận lớn tại Trấn
Đông Bắc đập tan chiến dịch vây quét mùa đông của giặc Nhật. Sau đó Sư đoàn Hạ
Long lại thắng 1 trận lớn tại Trần Gia Trang gần nhà trường.
Ngày 3 tháng 4 năm 1940, tướng Nhật là Trung tướng
Abê Norihido phái Đại tá Mêruna Kankichi chỉ huy 1500 quân tấn công khu căn cứ
cách mạng. Đội quân này đã bị Bát lộ quân tiêu diệt hoàn toàn tại núi Nhạn Túc -
Đại tá Kankichi bị chết dưới hoả lực mạnh mẽ của Hồng Quân.
Trung tướng Abê người đã tự phụ là vị chỉ huy tài
giỏi đứng đầu trong hàng tướng Nhật Bản, sau cái chết của sĩ quan cấp dưới, ông
coi đây là một cái tát lớn của Hồng Quân đã giáng vào mặt ông. Tính tự cao, kiêu
căng đã làm ông nổi giận. Bốn ngày sau ông Abê thân chinh dẫn đại quân tấn công
vào biên khu tại Hoàng Phố để trả thù trận thua cay đắng vừa rồi. Abê đã bị đại
quân Dương Thành Vũ bao vây. Một trận chiến đấu khốc liệt giữa hai bên. Sau cùng
Abê bị tiêu diệt cùng quân đoàn của mình. Chiến thắng oai hùng này đã vang dậy
khắp cả nước Trung Hoa vì đây là chiến thắng to lớn nhất chưa từng có của Hồng
Quân.
Đêm nay nhớ đến chuyện cũ ông ngâm nho nhỏ, bài
thơ ông viết về Abê sau trận thất bại to lớn này. Bài này đã được đăng lên báo
Kháng Địch.
“Chiến thuật mũi dao nhọn thọc sâu”
“Phản công hợp kích”
“Phân khu càn quét”
…
Còn có trò nào
có thể làm
bày ra cho hết!
Hỡi các anh hùng “Hoàng khuẩn”!!
(Hoàng quân)
“Chín mũi tiến công”
“bảy vòng vây quét”
…
Đã bao phen
Mộng xâm lược tan như bèo bọt
Thế nhưng
Như lợn chết, không sợ dội nước sôi:
lại muốn tới
lại phải tới
lại phải mò đến nơi
Chiến dịch Trần Gia Trang
Bài học đó
vẫn không dạy người sâu sắc
trận tiêu diệt Ngân Phương Nhạn Tú
cũng chưa làm người mở mắt
Cho nên “Trung tướng Abê”, con người xuất sắc,
thân chinh xuất mã
là danh tướng, tỏ rõ uy phong
nở hết cỡ “Đoá hoa danh tướng”
Tiếc thay!...
Hoa đẹp mà sao “mệnh bạc”
“Danh tướng chi hoa”
cũng chẳng sao tránh nổi
mệnh vẫn bi thảm trời dành
Ô Ê hô! Ra ma!
*
Đường sao mà hiểm ác
như báo “Triều Nhật” đã nêu
đúng đấy
những con đường
Trung Quốc
bọn xâm lược đi trên đường Trung Quốc
thì đâu đâu cũng là hiểm ác.
dù là phương Nam
hay lên miền Bắc
“Trung tướng”
cũng chẳng còn đường nào khác
… ngoài những con đường hiểm ác...
Vậy làm sao?
miệt mài,
lặn lội,
Ông cố gắng
miệt mài
mò mẫm,
từ Trương Gia Khẩu tới được Mã Dịch xong,
là đến...
chỗ cuộc đời ông đi tong!
“Trung tướng”
Cái vận ông đen như chó mực
Không!...
Cái vận tối của Thiên hoàng mới là đích thực,
đã hại ông!
biến ông thành cây mục
chẳng nhận nỗi hình dung
Biển báo đường
đã đề rất rõ:
“Trương Gia Khẩu” từ chữ “khẩu” mà ra
“Trương Gia Phần” theo chữ “phần” mà tiến
“Xin lỗi ông,
Đừng nổi cáu!...
Trung Quốc không có họ “Abê”
trong tính danh trận họ
Họ Trương là họ đứng đầu!
Vậy nên ông,
vừa tới địa giới “Phần”
Đạn pháo!
Lũ đạn pháo thật là vô lễ
đã đợi ngài tới nổ ầm ầm.
Ông đã tới nơi ông định tới,
miệt mài,
mò mẫm
mời tới được chả muốn tới:
“Phần mộ Abê”
(trên nghĩa trang đã ghi)
“Adi đà phật!
Quan thế âm Bồ tát,
xin cứu khổ ông
cứu nạn cho ông ấy,
Khổ nạn của ông do chiến tranh xâm lược
đấy!
“Trung tướng”
Ngài thương kẻ dưới trướng lắm nhỉ?
thương chàng đội trưởng Kankichi
Ngài thương hắn...
hết lòng chiến đấu
khổ cực
bên vực Nhạn Túc
chết rục
Ngài rơi lệ
Ngài nắm tay kêu
và bèn cùng hắn
chết theo...
Ôi gương “nhân ái” thực là đáng nêu
Chúng tôi
đám con cháu của Thái Hàng Sơn
Xin cám ơn ngài
Từ huyện Thanh Sơn
quê hương ngài yêu dấu
đã miệt mài
mò mẫm
đến tặng cho
mảnh đất khô cằn
thêm được ít phân bón
Đoá hoa danh tướng!...
Nay thành phân bón cho Thái Hàng Sơn
Hồng Thủy rất có tài về thơ, văn. Đoàn kịch do ông
tổ chức tại Trung Quốc lúc đầu chỉ có vợ ông và ông đơn ca, hoặc nói chuyện tếu
vì ông rất có khiếu hài hước. Trong cuộc trường chinh vạn lý rất khổ sở, đói
khát, ai nấy mặt mày ủ rũ, mồ hôi đầm đìa ông lại có nhiều tình tiết để khai
thác làm đề tài văn nghệ. Trong hoàn cảnh gian nan ông vẫn lạc quan yêu đời và
đem cuốn Kiều ra ngâm nga để quên đi những cực khổ trước mắt hoặc ông lại trêu
chọc tướng Trần Canh và anh em đang mệt nhọc trên đường đi xa thẳm.
Lúc đầu tiết mục trình diễn rất nghèo nàn. Ông còn
nhớ vợ ông hát được 6 bài là “cạn vốn.” Bài hát ruột của vợ ông được quân dân
hoan hô với những lời lẽ mộc mạc, Nguyễn Sơn nhớ lại và se sẽ hát:
Chiếc đèn nho nhỏ leo lét cháy
Chồng tôi đánh trận tôi ở lại
Không buồn không đau không rầu rĩ
Tôi mang cho chiếc áo thật ấm thật mềm
A! Hây a!
Đàn con lớn lên lại đi đánh giặc Nhật
A! Hây a!
…
Nguyễn Sơn còn có khiếu sáng tác kịch thơ như
“Xuân canh”, “Tòng quân Triều” và trường ca “Thiên chân” 3 bản bi kịch đã đăng
nhiều kỳ báo. Những bài thơ ông đều được quần chúng và nhất là thương binh bộ
đội thích nhất. Sau đó kịch của ông được các anh các chị kịch sĩ ở thành thị vào
kháng chiến đã dàn dựng diễn xuất và sau này có những diễn viên nổi tiếng như Hồ
Bằng, Diễm Hoa và các biên tập Lưu Giai, Hồ Khả, Đỗ Phong cùng các đạo diễn Nguỵ
Nguỵ, Đinh Lý, Hồ Xô, Uông Dương về với ban kịch nên có thêm nhiều sáng tác giá
trị và tiết mục biểu diễn càng thêm phong phú.
Đoàn kịch Kháng Nhật đã tạo thêm nguồn sinh lực
trong quần chúng - là đạo quân tiên phong phục vụ nâng cao tinh thần chiến đấu
và giáo dục bộ đội, quần chúng nhân dân trong khu căn cứ địa. Đây là đoàn kịch
đầu tiên của Hồng Quân Trung Hoa có những kịch bản sâu sắc với diễn viên diễn
xuất rất hay được toàn quân đội và dân chúng các tỉnh hoan nghênh.
_______________________________________
1. Phải viết chữ ngược và in bằng tay trên đá.
Miếng đá trắng, viết chữ ngược bằng mực charbonel.
2. Ban Kịch sau thành đoàn kịch Kháng Nhật có
tăng cường các tri thức nam nữ ở thành vào chiến khu nên lực lượng Đoàn kịch trở
nên vững mạnh và phong phú về tiết mục biểu diễn.
3. Tiếc rằng chúng tôi chưa sưu tầm được tác
phẩm và thơ của ông.
27
Qua đêm khác, trên dải Trường Sơn ông cũng đã
không ngủ được. Ông đặt lưng trên vải bạt. Đêm càng khuya. Trăng mờ dần. Ông vẫn
suy nghĩ miên man về những ngày hoạt động ở Trung Quốc, với người vợ trẻ nhưng
kiên cường - ông nghĩ đến con ông, hai đứa Tiểu Việt, Hàn Phong còn nhỏ quá. Ông
nằm trằn trọc, trong những hình ảnh quay cuồng. Mắt ông khi nhắm, khi mở.
Ba tháng trước đây ông đã nghe tin vợ con ông đều
bị chết vì bom do máy bay Nhật oanh tạc. Không thể nào ngủ yên! Vợ yêu của ông
có chết thật không! Chao ôi! Chiến tranh khói lửa mịt mùng. Cái gì cũng có thể
gọi là đúng được. Ông bước ra ven rừng nhìn những ngọn núi xanh lam trùng điệp
lớp lớp chung quanh. Xa xa có phải là cửa biển Thuận Hóa không? Ông lại nhớ đến
cô Nội một chiến sĩ cách mạng năm 1940 của thời Nam Kỳ khởi nghĩa. Cô Nội trong
thời kỳ bí mật đã từng là vợ đồng chí Trần Văn Bẩy, Bí thư Liên chi ủy Hậu
Giang. Đồng chí đã bị giặc bắt và bị thủ tiêu trong tù. Cũng như cô Tú Anh1,
cũng đi mua vật liệu làm súng, mìn cùng một công tác với cô Nội. Từ năm 1936 hai
cô đã gia nhập cách mạng lúc còn rất trẻ. Đảng ủy liên tỉnh Hậu Giang đã giao
cho hai cô công tác sưu tầm vật liệu làm vũ khí như thuốc nổ, ống nước đem về
xưởng tại U Minh để chế tạo vũ khí, chuẩn bị thời cơ chống Pháp. Tuy cùng 1 công
tác nhưng 2 người phải đi riêng với 2 hướng đi khác nhau.
28
Trước khi vào nhận nhiệm vụ tại Quảng Ngãi, Nguyễn
Sơn đã ghé Huế hai ngày vì ông được biết một sĩ quan cao cấp Nhật chỉ huy các
đội quân Nhật tại miền Trung nên ông cần gặp họ. Nếu thuyết phục được bộ chỉ huy
này theo kháng chiến thì ta được lợi vô kể. Cuộc gặp gỡ đã diễn ra tốt đẹp.
Đã từ lâu ông có ý định thưởng thức cảnh đẹp của
sông Hương núi Ngự do các bạn khen ngợi và mô tả về Phu Vân Lâu chỗ vua ngự và
chùa Thiên Mụ.
Đây cũng là dịp may để ông được xem thành nội,
lăng các vị vua triều Nguyễn, chỗ ở của vua, hoàng hậu và các cung tần mỹ nữ. Ở
Huế còn có món ăn đặc biệt như cơm âm phủ, bánh bột lọc, tôm chua... và các nơi
như chợ Đông Ba, bến Kim Luông, núi Ngự, đò sông Hương...
Ông lái ô tô đến Huế, ông được Ủy ban nhân dân
thành phố bố trí ở tại khách sạn Morin Frère và ăn tại nhà sẹt2. Qua một đêm
trên giường nệm êm ái, ông thức dậy đi tắm. Ông đã phải ở Huế hai ngày trong
việc gặp gỡ sĩ quan Nhật.
Lúc tờ mờ sáng ông lái xe qua cầu Tràng Tiền. Ông
rẽ bên trái từ từ đậu vào lề đường. Ông tò mò muốn biết chỗ vua hay ra hóng mát
tại Phu Vân Lâu. Ông nhớ rất rõ lúc ấy ánh mai vừa hừng sáng. Ông bước lên bậc
tam cấp của ngồi nhà cổ kính cất gần bờ sông. Chung quanh cỏ cây xinh đẹp. Chợt
ông sững sờ nhìn thấy bóng một người đàn bà đang đứng nhìn ra bờ sông Hương.
Người phụ nữ này dong dỏng tầm thước. Trên đầu mái tóc đen huyền được bới gọn và
xệ xuống dưới vai. Gió dưới sông thổi lên làm bộ bà ba lụa trắng của cô dán sát
vào người nổi bật những đường cong tuyệt mỹ. Phía sau đã vậy ông tìm cách ra
phía trước để quan sát. Ông giả vờ hỏi:
- Thưa cô! Tôi từ Hà Nội vào, nghe nói chùa Thiên
Mụ đẹp lắm, mong cô chỉ hộ chùa Thiên Mụ đi đường nào?
- Thiên Mụ à! May quá, người ta mới chỉ cho tôi,
tôi cũng đang định đến đó.
- Thế tôi có thể đưa cô đi được không? Tôi đậu xe
ngoài kia.
Ông nói thêm:
- Người bạn ở Hà Nội có giới thiệu về bún bò Huế ở
Đông Ba, mắm tôm chua ở thành nội, cơm âm phủ, tiện thể mời cô ăn thử bún bò Huế
sáng nay!
- Quá hân hạnh cho tôi!
Cả hai lên xe ông cầm lái. Cô ngồi bên xe Jeep
chăm chú nhìn hai bên cầu. Khi qua ngang cầu Tràng Tiền ông cao hứng ngâm nho
nhỏ bắt chước giọng Huế. “Cầu Tràng Tiền mười hai cái nhịp - em đi qua không kịp
ờ - chậm - Cô cướp lời - chậm thì em đi nhờ xe anh. Cả hai cùng cười thích thú.
Không khí giữa họ đã trở nên thân mật.
Ăn bún bò xong, khi lên xe ông giơ tay nắm tay cô
nâng cô lên chỗ ngồi. Bàn tay búp mầng của cô hồng hào mềm mại. Cô cảm ơn và
nhìn ông với cặp mắt dịu hiền. Đôi má trái xoan của cô ửng hồng. Cô cười rất
tươi và nói:
- Mong ông giúp đỡ những người miền Nam xa xôi như
tôi
Ông cầm vô lăng lái và nói:
- Tôi từ miền Bắc vào công tác có thể sẽ vào tới
miền Nam của cô. Tôi cũng ước mong được sự giúp đỡ của - lúc ấy hai người cùng
nhìn nhau, ông nói tiếp của mọi người và nhất là cô.
Trên xe, cô cho biết khi các mặt trận trong Nam
tan vỡ cô cùng các đồng chí Dương Bạch Mai, Vũ Trường Khê (đã học 5 năm trường
Hoàng phố) và Hà Huy Giáp đi thị sát mặt trận Buôn Ma Thuột khi trở về bị phục
kích, Khê đã chỉ huy một tiểu đội bắn cầm chân địch để đoàn rút lui an toàn.
Tiếc thay Khê đã bị một viên đạn vào ngực và hy sinh anh dũng. Năm ấy anh mới 24
tuổi. Đàm Minh Viễn anh ruột Đàm Quang Trung cũng hy sinh ở mặt trận này cách
một tuần trước.
Ông liếc nhìn cô và thầm nghĩ người đẹp như cô lại
thích chịu khổ cực nơi mặt trận. Quả thật cô là người đẹp toàn bích. Nếu so sánh
Kiếm Qua có vẻ non trẻ và dáng người thấp hơn, chắc da chắc thịt với giọng nói
cương nghị biểu hiện bản chất người nông dân cứng cỏi. Còn cô Nội lại có một vẻ
đẹp quý phái trong nước da trắng hồng, với đôi mắt long lanh, với mái tóc được
búi tròn và thòng xuống theo kiểu những thiếu nữ đảng Dân chủ đi kháng chiến ở
Nam Bộ. Cô mặc bộ quần áo bà ba cổ “bà lai” 3 làm nổi lên một bộ ngực tròn trịa
với thân hình thon thả. Quả là một vẻ đẹp lý tưởng trong sự giản đơn của bộ đồ
màu mỡ gà lụa Hà Đông.
“Em Kiếm Qua! Hồn em bây giờ ở đâu có lẽ xác em và
con biến thành những mảnh vụn trong làn bom khủng khiếp của bọn giặc Nhật và
Quốc dân đảng. Tha lỗi cho anh trong sự so sánh ngày hôm nay. Đây cũng là đồng
chí bạn của em đấy. Họ cũng gian nan cực khổ không kém em”.
_________________________________
1. Tú Anh là một nữ sinh – Đảng viên Đảng ủy
Rạch Giá (Kiên Giang) đóng tại rừng U Minh. Thời đầu Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940.
Sau 1975 cô là Giám đốc nhà hàng xuống khách sạn tỉnh Minh Hải suốt gần 20 năm,
cô là vợ của đồng chí Tăng Hồng Phẩm, Bí thư tỉnh Minh Hải. Khi Tây đi ruồng bố
U Minh, phần lớn các đồng chí bị bắt chỉ còn đồng chí Tám Kiệt (Tám Lục lạc) và
Năm Tôn thoát khỏi. Rừng U Minh lúc ấy là nơi căn cứ của liên tỉnh ủy gồm Long
Xuyên (An Giang), Rạch Giá (Kiên Giang), Cần Thơ (Hậu Giang), Sóc Trăng, Bạc
Liêu (Minh Hải).
2. Nhà Sẹt, tiếng Pháp Cercle: Câu lạc bộ hồi
ấy nơi này toàn tiếp khách sang trọng và các dân biểu Trung phần thời chế độ cũ
(Diệm, Thiệu)
3. Bà lai: cổ chéo.
29
Khi xe dừng lại bên thềm chùa Thiên Mụ, hai người
vào chùa và cũng dâng hương lễ phật. Đây là lần đầu tiên, ông thắp hương bắt
chước vái theo cô.
- Anh biết tôi vái gì không?
- Chắc cô cầu cho ông, bà cha mẹ...
- Không phải? Tôi vái cho chồng tôi đấy.
Ông ngạc nhiên nhưng không dám hỏi giữa khói hương
nghi ngút của điện thờ.
Khi hai người bước ra sân gần lan can chùa, họ
đứng bên nhau cùng hướng mắt xuống dưới sông Hương nhìn con đò đang cô đơn cắm
sào ở bên kia bờ sông.
Cô Nội nói tiếp:
- Chắc anh ngạc nhiên là tôi đã có chồng. Chồng
tôi là Bí thư Liên chi ủy Hậu Giang1, tuy chúng tôi gần nhau có một đêm và sáng
hôm sau chồng tôi bị bắt. Giặc Pháp từ Rạch Giá đi từ tờ mờ sáng vào bao vây căn
cứ bắt hầu hết những người trong căn cứ. Lúc đó tôi đang đánh răng tại bờ rạch
rừng U Minh. Tôi nghe tiếng súng, tôi vội lặn vào bụi ô rô nhưng tôi cũng bị
bắt. Bọn Pháp dẫn tôi đi dập dềnh trên bờ kênh và lùng sục trong rừng. Khoảng
chừng một tiếng đồng hồ thằng quan Pháp hô lớn
- Rassemblement2. Tiếng chạy và tiếng súng lách
cách tiếp theo.
- En avant! à la direction du bâteau! Marche ! 3
Nguyễn Sơn là người học tiếng Pháp thông thạo. Ông
nghe cô Nội nói tiếng Tây4 lưu loát và phát âm đúng giọng “đầm” 5 sau này ông
mới biết cô là sinh viên địa chủ ở Bình Minh, tỉnh Cần Thơ. Từ đấy ông và cô nói
chuyện với nhau bằng tiếng Pháp vì ông rất thích giọng nói của cô phát âm giống
người Pháp.
Ánh sáng ban mai hồng lên trên bờ sông Hương. Hai
người vừa chuyện trò vừa nhìn những con thuyền đánh cá đang buông lưới trên dòng
Kim Luông.
Ông cũng đã nói đến công tác và hoàn cảnh gia đình
vợ ông ở Ngũ Hành Sơn (Trung Quốc). Cô cũng nói thời gian cô công tác với các
đồng chí ở rừng U Minh.
Cô nói tiếp: bọn Pháp đã bắt được tôi và một số
đồng chí đưa về nhốt tại khám Rạch Giá, sau đó tôi bị đày ra Côn Đảo6. May mắn
thay còn hai anh đi công tác đến trưa mới về là anh Tám Kiệt7 và anh Năm Tôn
không bị bắt.
Chiều hôm đó các anh Quảng Trọng Linh, Chín Ngự,
Ba Đôn đã gặp đ/c Ba Hồ trong rừng sâu. Đ/c Ba Hồ8 là Bí thư đầu tiên của tỉnh
Rạch Giá năm 1941. Đ/c phân công các anh đi các nơi để tránh mũi nhọn của giặc
và tạm thời ngừng hoạt động chờ lệnh mới. Căn cứ tỉnh ủy được chuyển về Canh Đền
khoảng 8 cây số gần nơi đồng chí Chín Ngự đang ở.
Hai người nói chuyện càng tâm đầu ý hợp. Tình cảm
đồng chí càng dâng trào. Họ đều đồng chung cảnh ngộ một bên không vợ, một bên
không chồng. Họ nắm tay nhau tung tăng hết đi quanh thành nội thăm ngai vàng của
Vua Bảo Đại, khi dừng bên hồ Tĩnh Tâm đầy sen nở thơm ngát. Khi vào Hoàng cung
ông lại lái xe đưa cô Nội đi các Lăng Minh Mạng, Thiệu Trị, cuối cùng là lăng Tự
Đức. Họ hẹn nhau sau này nếu có thì giờ sẽ đi thăm lăng vua Gia Long. Cô Nội hứa
sẽ thuê một chiếc thuyền mui, cùng ông đi trên dòng sông dài 27 cây số để hưởng
thú vui trên sóng nước sông Hương. Cô quả là một trí thức có tình cảm dạt dào,
lãng mạn.
Tại Lăng Tự Đức 2 người đứng bên nhau nơi ngự
phòng, vua Tự Đức thường ngắm cảnh và làm thơ ở đấy. Họ nhìn ra hồ sen nở đầy
mầu hồng chung quanh nhà thủy tạ. Hương sen thoảng thơm ngát. Ông nhắc lại khi
Bằng Phi chết, vua Tự Đức tiếc thương và đã làm một bài thơ trong đó ông còn nhớ
2 câu thơ rất hay:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi!...
Những đóa sen hồng như ánh lên giữa những tia nắng
chiều trong cảnh tranh tối tranh sáng, Nguyễn Sơn nhẹ nhàng đặt hai tay lên vai
cô và từ từ hai đôi môi giáp lại vào nhau. Hai thân xác nóng bỏng như đang lên
cơn sốt đã hòa nhập trong những cánh tay xiết chặt giữa ánh chiều đang lóe sáng
trước khi tắt.
______________________________________
1. Liên chi ủy Hậu Giang là Liên chi ủy miền
tây Nam Bộ gồm Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long
Xuyên.
2. Rassemblement: tập họp
3. Theo hướng tàu chiến “tiến”
4. Tiếng tây: tiếng Pháp.
5. Đầm: tiếng Pháp: madame là đàn
bà.
6. Côn Đảo (Poulo condore) cách Vũng Tàu 80 cây
số.
7. Tám Kiệt được gọi là “Tám lục lạc”. Đi đến
đâu, tiếng nói rổn ràng và lội nước rất hay. Sau này ông Tám làm thủ tướng chính
phủ Việt Nam .
8. Đồng
chí Ba Hồ tên thật là Huỳnh Hữu Phước Bí thư tỉnh uỷ đầu tiên của tỉnh Rạch Giá
(Kiên Giang) - Trích tư liệu lịch sử đảng Kiên Giang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét