Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc (26-29) tt

Trên đỉnh Hải Vân, ánh trăng khi mờ khi tỏ. Gió lạnh từng đợt lùa vào lều vải. Ông bỏ thêm củi cho to ngọn lửa để xua đuổi khí lạnh đang bao vây quanh người. Xa xa dưới dãy núi chỉ thấy một dải trắng xám mờ mờ. Trời lẫn lộn với biển và thỉnh thoảng có đám mây từ từ bay qua dưới chân ông. Ông lại nhớ Kiếm Qua sau thời gian động phòng 2 người đều không có mái nhà để ở và cả hai đều ở cách nhau 4, 5 cây số. Lúc đó ông từ Cục chính trị được điều về tại báo Kháng Địch nên ít gặp Kiếm Qua. Tờ báo này đã ra được 20 lần và viết chữ ngược lên đá litho1 để in báo. Khi ông ra thêm 1 số thì tòa báo bị máy bay Nhật đánh phá sập trụ sở. Ông được Ủy ban huyện cấp cho 1 máy in với số chữ chì. Những máy móc này rất lạ đối với ông nhưng ông quyết mấy mò cùng anh em xếp chữ tranh thủ ra báo lần thứ 22 - Sức làm việc của ông suốt ngày đêm đã cuốn hút các nhân viên cán bộ, nhà in và toà soạn cùng làm như ông. Từ đấy ông viết truyện ngắn, xã luận và thơ. Thời gian ông phụ trách đã ra được 5 lần báo thì ông được chuyển công tác.
Tư lệnh Bát lộ quân đã công nhận tờ báo của biên khu do ông làm chủ nhiệm đã tạo nội dung tốt và trình bày phong phú hơn trước. Song song trong thời gian này ông cũng đã thành lập Ban kịch nói với 5 người và 1 nữ là vợ ông. Sau lần ấy vợ ông đã lôi kéo bạn bè trong hội phụ nữ được thêm 4 người làm ca sĩ trong Ban kịch2.
Năm 1939 do sự phát triển của Bát lộ quân yêu cầu phải thành lập thêm trường huấn luyện cấp bách, Hồng Thủy được điều về làm Phân hiệu phó phân hiệu 2 trường đại học kháng Nhật do La Thụy Khanh phụ trách. Đây là trường đại học đầu tiên tại khu căn cứ địa. Các giáo viên đều có trình độ tú tài trở lên, Hồng Thủy phụ trách chủ nhiệm khoa chính trị.
Thu đông 1939 Bát lộ quân đánh 3 trận lớn tại Trấn Đông Bắc đập tan chiến dịch vây quét mùa đông của giặc Nhật. Sau đó Sư đoàn Hạ Long lại thắng 1 trận lớn tại Trần Gia Trang gần nhà trường.
Ngày 3 tháng 4 năm 1940, tướng Nhật là Trung tướng Abê Norihido phái Đại tá Mêruna Kankichi chỉ huy 1500 quân tấn công khu căn cứ cách mạng. Đội quân này đã bị Bát lộ quân tiêu diệt hoàn toàn tại núi Nhạn Túc - Đại tá Kankichi bị chết dưới hoả lực mạnh mẽ của Hồng Quân.
Trung tướng Abê người đã tự phụ là vị chỉ huy tài giỏi đứng đầu trong hàng tướng Nhật Bản, sau cái chết của sĩ quan cấp dưới, ông coi đây là một cái tát lớn của Hồng Quân đã giáng vào mặt ông. Tính tự cao, kiêu căng đã làm ông nổi giận. Bốn ngày sau ông Abê thân chinh dẫn đại quân tấn công vào biên khu tại Hoàng Phố để trả thù trận thua cay đắng vừa rồi. Abê đã bị đại quân Dương Thành Vũ bao vây. Một trận chiến đấu khốc liệt giữa hai bên. Sau cùng Abê bị tiêu diệt cùng quân đoàn của mình. Chiến thắng oai hùng này đã vang dậy khắp cả nước Trung Hoa vì đây là chiến thắng to lớn nhất chưa từng có của Hồng Quân.
Đêm nay nhớ đến chuyện cũ ông ngâm nho nhỏ, bài thơ ông viết về Abê sau trận thất bại to lớn này. Bài này đã được đăng lên báo Kháng Địch.
“Chiến thuật mũi dao nhọn thọc sâu”
“Phản công hợp kích”
“Phân khu càn quét”
Còn có trò nào
        có thể làm
bày ra cho hết!
Hỡi các anh hùng “Hoàng khuẩn”!!
(Hoàng quân)
“Chín mũi tiến công”
“bảy vòng vây quét”
Đã bao phen
Mộng xâm lược tan như bèo bọt
Thế nhưng
Như lợn chết, không sợ dội nước sôi:
lại muốn tới
lại phải tới
lại phải mò đến nơi
Chiến dịch Trần Gia Trang
Bài học đó
vẫn không dạy người sâu sắc
trận tiêu diệt Ngân Phương Nhạn Tú
cũng chưa làm người mở mắt
Cho nên “Trung tướng Abê”, con người xuất sắc,
thân chinh xuất mã
là danh tướng, tỏ rõ uy phong
nở hết cỡ “Đoá hoa danh tướng”
Tiếc thay!...
        Hoa đẹp mà sao “mệnh bạc”
“Danh tướng chi hoa”
cũng chẳng sao tránh nổi
mệnh vẫn bi thảm trời dành
Ô Ê hô! Ra ma!

*
Đường sao mà hiểm ác
như báo “Triều Nhật” đã nêu
đúng đấy
những con đường
        Trung Quốc
bọn xâm lược đi trên đường Trung Quốc
thì đâu đâu cũng là hiểm ác.
dù là phương Nam
hay lên miền Bắc
“Trung tướng”
cũng chẳng còn đường nào khác
… ngoài những con đường hiểm ác...
Vậy làm sao?
        miệt mài,
                lặn lội,
Ông cố gắng
miệt mài
mò mẫm,
từ Trương Gia Khẩu tới được Mã Dịch xong,
là đến...
        chỗ cuộc đời ông đi tong!
“Trung tướng”
Cái vận ông đen như chó mực
Không!...
Cái vận tối của Thiên hoàng mới là đích thực,
đã hại ông!
biến ông thành cây mục
chẳng nhận nỗi hình dung
Biển báo đường
đã đề rất rõ:
“Trương Gia Khẩu” từ chữ “khẩu” mà ra
“Trương Gia Phần” theo chữ “phần” mà tiến
“Xin lỗi ông,
Đừng nổi cáu!...
Trung Quốc không có họ “Abê”
trong tính danh trận họ
Họ Trương là họ đứng đầu!
Vậy nên ông,
vừa tới địa giới “Phần”
Đạn pháo!
Lũ đạn pháo thật là vô lễ
đã đợi ngài tới nổ ầm ầm.
Ông đã tới nơi ông định tới,
miệt mài,
mò mẫm
mời tới được chả muốn tới:
“Phần mộ Abê”
(trên nghĩa trang đã ghi)
“Adi đà phật!
Quan thế âm Bồ tát,
xin cứu khổ ông
cứu nạn cho ông ấy,
Khổ nạn của ông do chiến tranh xâm lược đấy!
“Trung tướng”
Ngài thương kẻ dưới trướng lắm nhỉ?
thương chàng đội trưởng Kankichi
Ngài thương hắn...
hết lòng chiến đấu
khổ cực
bên vực Nhạn Túc
chết rục
Ngài rơi lệ
Ngài nắm tay kêu
và bèn cùng hắn
chết theo...
Ôi gương “nhân ái” thực là đáng nêu
Chúng tôi
đám con cháu của Thái Hàng Sơn
Xin cám ơn ngài
Từ huyện Thanh Sơn
quê hương ngài yêu dấu
đã miệt mài
mò mẫm
đến tặng cho
mảnh đất khô cằn
thêm được ít phân bón
Đoá hoa danh tướng!...
Nay thành phân bón cho Thái Hàng Sơn
Hồng Thủy rất có tài về thơ, văn. Đoàn kịch do ông tổ chức tại Trung Quốc lúc đầu chỉ có vợ ông và ông đơn ca, hoặc nói chuyện tếu vì ông rất có khiếu hài hước. Trong cuộc trường chinh vạn lý rất khổ sở, đói khát, ai nấy mặt mày ủ rũ, mồ hôi đầm đìa ông lại có nhiều tình tiết để khai thác làm đề tài văn nghệ. Trong hoàn cảnh gian nan ông vẫn lạc quan yêu đời và đem cuốn Kiều ra ngâm nga để quên đi những cực khổ trước mắt hoặc ông lại trêu chọc tướng Trần Canh và anh em đang mệt nhọc trên đường đi xa thẳm.
Lúc đầu tiết mục trình diễn rất nghèo nàn. Ông còn nhớ vợ ông hát được 6 bài là “cạn vốn.” Bài hát ruột của vợ ông được quân dân hoan hô với những lời lẽ mộc mạc, Nguyễn Sơn nhớ lại và se sẽ hát:
Chiếc đèn nho nhỏ leo lét cháy
Chồng tôi đánh trận tôi ở lại
Không buồn không đau không rầu rĩ
Tôi mang cho chiếc áo thật ấm thật mềm
A! Hây a!
Đàn con lớn lên lại đi đánh giặc Nhật
A! Hây a!
Nguyễn Sơn còn có khiếu sáng tác kịch thơ như “Xuân canh”, “Tòng quân Triều” và trường ca “Thiên chân” 3 bản bi kịch đã đăng nhiều kỳ báo. Những bài thơ ông đều được quần chúng và nhất là thương binh bộ đội thích nhất. Sau đó kịch của ông được các anh các chị kịch sĩ ở thành thị vào kháng chiến đã dàn dựng diễn xuất và sau này có những diễn viên nổi tiếng như Hồ Bằng, Diễm Hoa và các biên tập Lưu Giai, Hồ Khả, Đỗ Phong cùng các đạo diễn Nguỵ Nguỵ, Đinh Lý, Hồ Xô, Uông Dương về với ban kịch nên có thêm nhiều sáng tác giá trị và tiết mục biểu diễn càng thêm phong phú.
Đoàn kịch Kháng Nhật đã tạo thêm nguồn sinh lực trong quần chúng - là đạo quân tiên phong phục vụ nâng cao tinh thần chiến đấu và giáo dục bộ đội, quần chúng nhân dân trong khu căn cứ địa. Đây là đoàn kịch đầu tiên của Hồng Quân Trung Hoa có những kịch bản sâu sắc với diễn viên diễn xuất rất hay được toàn quân đội và dân chúng các tỉnh hoan nghênh.
_______________________________________
1. Phải viết chữ ngược và in bằng tay trên đá. Miếng đá trắng, viết chữ ngược bằng mực charbonel.
2. Ban Kịch sau thành đoàn kịch Kháng Nhật có tăng cường các tri thức nam nữ ở thành vào chiến khu nên lực lượng Đoàn kịch trở nên vững mạnh và phong phú về tiết mục biểu diễn.
3. Tiếc rằng chúng tôi chưa sưu tầm được tác phẩm và thơ của ông.


27
Qua đêm khác, trên dải Trường Sơn ông cũng đã không ngủ được. Ông đặt lưng trên vải bạt. Đêm càng khuya. Trăng mờ dần. Ông vẫn suy nghĩ miên man về những ngày hoạt động ở Trung Quốc, với người vợ trẻ nhưng kiên cường - ông nghĩ đến con ông, hai đứa Tiểu Việt, Hàn Phong còn nhỏ quá. Ông nằm trằn trọc, trong những hình ảnh quay cuồng. Mắt ông khi nhắm, khi mở.
Ba tháng trước đây ông đã nghe tin vợ con ông đều bị chết vì bom do máy bay Nhật oanh tạc. Không thể nào ngủ yên! Vợ yêu của ông có chết thật không! Chao ôi! Chiến tranh khói lửa mịt mùng. Cái gì cũng có thể gọi là đúng được. Ông bước ra ven rừng nhìn những ngọn núi xanh lam trùng điệp lớp lớp chung quanh. Xa xa có phải là cửa biển Thuận Hóa không? Ông lại nhớ đến cô Nội một chiến sĩ cách mạng năm 1940 của thời Nam Kỳ khởi nghĩa. Cô Nội trong thời kỳ bí mật đã từng là vợ đồng chí Trần Văn Bẩy, Bí thư Liên chi ủy Hậu Giang. Đồng chí đã bị giặc bắt và bị thủ tiêu trong tù. Cũng như cô Tú Anh1, cũng đi mua vật liệu làm súng, mìn cùng một công tác với cô Nội. Từ năm 1936 hai cô đã gia nhập cách mạng lúc còn rất trẻ. Đảng ủy liên tỉnh Hậu Giang đã giao cho hai cô công tác sưu tầm vật liệu làm vũ khí như thuốc nổ, ống nước đem về xưởng tại U Minh để chế tạo vũ khí, chuẩn bị thời cơ chống Pháp. Tuy cùng 1 công tác nhưng 2 người phải đi riêng với 2 hướng đi khác nhau.

28
Trước khi vào nhận nhiệm vụ tại Quảng Ngãi, Nguyễn Sơn đã ghé Huế hai ngày vì ông được biết một sĩ quan cao cấp Nhật chỉ huy các đội quân Nhật tại miền Trung nên ông cần gặp họ. Nếu thuyết phục được bộ chỉ huy này theo kháng chiến thì ta được lợi vô kể. Cuộc gặp gỡ đã diễn ra tốt đẹp.
Đã từ lâu ông có ý định thưởng thức cảnh đẹp của sông Hương núi Ngự do các bạn khen ngợi và mô tả về Phu Vân Lâu chỗ vua ngự và chùa Thiên Mụ.
Đây cũng là dịp may để ông được xem thành nội, lăng các vị vua triều Nguyễn, chỗ ở của vua, hoàng hậu và các cung tần mỹ nữ. Ở Huế còn có món ăn đặc biệt như cơm âm phủ, bánh bột lọc, tôm chua... và các nơi như chợ Đông Ba, bến Kim Luông, núi Ngự, đò sông Hương...
Ông lái ô tô đến Huế, ông được Ủy ban nhân dân thành phố bố trí ở tại khách sạn Morin Frère và ăn tại nhà sẹt2. Qua một đêm trên giường nệm êm ái, ông thức dậy đi tắm. Ông đã phải ở Huế hai ngày trong việc gặp gỡ sĩ quan Nhật.
Lúc tờ mờ sáng ông lái xe qua cầu Tràng Tiền. Ông rẽ bên trái từ từ đậu vào lề đường. Ông tò mò muốn biết chỗ vua hay ra hóng mát tại Phu Vân Lâu. Ông nhớ rất rõ lúc ấy ánh mai vừa hừng sáng. Ông bước lên bậc tam cấp của ngồi nhà cổ kính cất gần bờ sông. Chung quanh cỏ cây xinh đẹp. Chợt ông sững sờ nhìn thấy bóng một người đàn bà đang đứng nhìn ra bờ sông Hương. Người phụ nữ này dong dỏng tầm thước. Trên đầu mái tóc đen huyền được bới gọn và xệ xuống dưới vai. Gió dưới sông thổi lên làm bộ bà ba lụa trắng của cô dán sát vào người nổi bật những đường cong tuyệt mỹ. Phía sau đã vậy ông tìm cách ra phía trước để quan sát. Ông giả vờ hỏi:
- Thưa cô! Tôi từ Hà Nội vào, nghe nói chùa Thiên Mụ đẹp lắm, mong cô chỉ hộ chùa Thiên Mụ đi đường nào?
- Thiên Mụ à! May quá, người ta mới chỉ cho tôi, tôi cũng đang định đến đó.
- Thế tôi có thể đưa cô đi được không? Tôi đậu xe ngoài kia.
Ông nói thêm:
- Người bạn ở Hà Nội có giới thiệu về bún bò Huế ở Đông Ba, mắm tôm chua ở thành nội, cơm âm phủ, tiện thể mời cô ăn thử bún bò Huế sáng nay!
- Quá hân hạnh cho tôi!
Cả hai lên xe ông cầm lái. Cô ngồi bên xe Jeep chăm chú nhìn hai bên cầu. Khi qua ngang cầu Tràng Tiền ông cao hứng ngâm nho nhỏ bắt chước giọng Huế. “Cầu Tràng Tiền mười hai cái nhịp - em đi qua không kịp ờ - chậm - Cô cướp lời - chậm thì em đi nhờ xe anh. Cả hai cùng cười thích thú. Không khí giữa họ đã trở nên thân mật.
Ăn bún bò xong, khi lên xe ông giơ tay nắm tay cô nâng cô lên chỗ ngồi. Bàn tay búp mầng của cô hồng hào mềm mại. Cô cảm ơn và nhìn ông với cặp mắt dịu hiền. Đôi má trái xoan của cô ửng hồng. Cô cười rất tươi và nói:
- Mong ông giúp đỡ những người miền Nam xa xôi như tôi
Ông cầm vô lăng lái và nói:
- Tôi từ miền Bắc vào công tác có thể sẽ vào tới miền Nam của cô. Tôi cũng ước mong được sự giúp đỡ của - lúc ấy hai người cùng nhìn nhau, ông nói tiếp của mọi người và nhất là cô.
Trên xe, cô cho biết khi các mặt trận trong Nam tan vỡ cô cùng các đồng chí Dương Bạch Mai, Vũ Trường Khê (đã học 5 năm trường Hoàng phố) và Hà Huy Giáp đi thị sát mặt trận Buôn Ma Thuột khi trở về bị phục kích, Khê đã chỉ huy một tiểu đội bắn cầm chân địch để đoàn rút lui an toàn. Tiếc thay Khê đã bị một viên đạn vào ngực và hy sinh anh dũng. Năm ấy anh mới 24 tuổi. Đàm Minh Viễn anh ruột Đàm Quang Trung cũng hy sinh ở mặt trận này cách một tuần trước.
Ông liếc nhìn cô và thầm nghĩ người đẹp như cô lại thích chịu khổ cực nơi mặt trận. Quả thật cô là người đẹp toàn bích. Nếu so sánh Kiếm Qua có vẻ non trẻ và dáng người thấp hơn, chắc da chắc thịt với giọng nói cương nghị biểu hiện bản chất người nông dân cứng cỏi. Còn cô Nội lại có một vẻ đẹp quý phái trong nước da trắng hồng, với đôi mắt long lanh, với mái tóc được búi tròn và thòng xuống theo kiểu những thiếu nữ đảng Dân chủ đi kháng chiến ở Nam Bộ. Cô mặc bộ quần áo bà ba cổ “bà lai” 3 làm nổi lên một bộ ngực tròn trịa với thân hình thon thả. Quả là một vẻ đẹp lý tưởng trong sự giản đơn của bộ đồ màu mỡ gà lụa Hà Đông.
“Em Kiếm Qua! Hồn em bây giờ ở đâu có lẽ xác em và con biến thành những mảnh vụn trong làn bom khủng khiếp của bọn giặc Nhật và Quốc dân đảng. Tha lỗi cho anh trong sự so sánh ngày hôm nay. Đây cũng là đồng chí bạn của em đấy. Họ cũng gian nan cực khổ không kém em”.
_________________________________
1. Tú Anh là một nữ sinh – Đảng viên Đảng ủy Rạch Giá (Kiên Giang) đóng tại rừng U Minh. Thời đầu Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940. Sau 1975 cô là Giám đốc nhà hàng xuống khách sạn tỉnh Minh Hải suốt gần 20 năm, cô là vợ của đồng chí Tăng Hồng Phẩm, Bí thư tỉnh Minh Hải. Khi Tây đi ruồng bố U Minh, phần lớn các đồng chí bị bắt chỉ còn đồng chí Tám Kiệt (Tám Lục lạc) và Năm Tôn thoát khỏi. Rừng U Minh lúc ấy là nơi căn cứ của liên tỉnh ủy gồm Long Xuyên (An Giang), Rạch Giá (Kiên Giang), Cần Thơ (Hậu Giang), Sóc Trăng, Bạc Liêu (Minh Hải).
2. Nhà Sẹt, tiếng Pháp Cercle: Câu lạc bộ hồi ấy nơi này toàn tiếp khách sang trọng và các dân biểu Trung phần thời chế độ cũ (Diệm, Thiệu)
3. Bà lai: cổ chéo.

29
Khi xe dừng lại bên thềm chùa Thiên Mụ, hai người vào chùa và cũng dâng hương lễ phật. Đây là lần đầu tiên, ông thắp hương bắt chước vái theo cô.
- Anh biết tôi vái gì không?
- Chắc cô cầu cho ông, bà cha mẹ...
- Không phải? Tôi vái cho chồng tôi đấy.
Ông ngạc nhiên nhưng không dám hỏi giữa khói hương nghi ngút của điện thờ.
Khi hai người bước ra sân gần lan can chùa, họ đứng bên nhau cùng hướng mắt xuống dưới sông Hương nhìn con đò đang cô đơn cắm sào ở bên kia bờ sông.
Cô Nội nói tiếp:
- Chắc anh ngạc nhiên là tôi đã có chồng. Chồng tôi là Bí thư Liên chi ủy Hậu Giang1, tuy chúng tôi gần nhau có một đêm và sáng hôm sau chồng tôi bị bắt. Giặc Pháp từ Rạch Giá đi từ tờ mờ sáng vào bao vây căn cứ bắt hầu hết những người trong căn cứ. Lúc đó tôi đang đánh răng tại bờ rạch rừng U Minh. Tôi nghe tiếng súng, tôi vội lặn vào bụi ô rô nhưng tôi cũng bị bắt. Bọn Pháp dẫn tôi đi dập dềnh trên bờ kênh và lùng sục trong rừng. Khoảng chừng một tiếng đồng hồ thằng quan Pháp hô lớn
- Rassemblement2. Tiếng chạy và tiếng súng lách cách tiếp theo.
- En avant! à la direction du bâteau! Marche ! 3
Nguyễn Sơn là người học tiếng Pháp thông thạo. Ông nghe cô Nội nói tiếng Tây4 lưu loát và phát âm đúng giọng “đầm” 5 sau này ông mới biết cô là sinh viên địa chủ ở Bình Minh, tỉnh Cần Thơ. Từ đấy ông và cô nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp vì ông rất thích giọng nói của cô phát âm giống người Pháp.
Ánh sáng ban mai hồng lên trên bờ sông Hương. Hai người vừa chuyện trò vừa nhìn những con thuyền đánh cá đang buông lưới trên dòng Kim Luông.
Ông cũng đã nói đến công tác và hoàn cảnh gia đình vợ ông ở Ngũ Hành Sơn (Trung Quốc). Cô cũng nói thời gian cô công tác với các đồng chí ở rừng U Minh.
Cô nói tiếp: bọn Pháp đã bắt được tôi và một số đồng chí đưa về nhốt tại khám Rạch Giá, sau đó tôi bị đày ra Côn Đảo6. May mắn thay còn hai anh đi công tác đến trưa mới về là anh Tám Kiệt7 và anh Năm Tôn không bị bắt.
Chiều hôm đó các anh Quảng Trọng Linh, Chín Ngự, Ba Đôn đã gặp đ/c Ba Hồ trong rừng sâu. Đ/c Ba Hồ8 là Bí thư đầu tiên của tỉnh Rạch Giá năm 1941. Đ/c phân công các anh đi các nơi để tránh mũi nhọn của giặc và tạm thời ngừng hoạt động chờ lệnh mới. Căn cứ tỉnh ủy được chuyển về Canh Đền khoảng 8 cây số gần nơi đồng chí Chín Ngự đang ở.
Hai người nói chuyện càng tâm đầu ý hợp. Tình cảm đồng chí càng dâng trào. Họ đều đồng chung cảnh ngộ một bên không vợ, một bên không chồng. Họ nắm tay nhau tung tăng hết đi quanh thành nội thăm ngai vàng của Vua Bảo Đại, khi dừng bên hồ Tĩnh Tâm đầy sen nở thơm ngát. Khi vào Hoàng cung ông lại lái xe đưa cô Nội đi các Lăng Minh Mạng, Thiệu Trị, cuối cùng là lăng Tự Đức. Họ hẹn nhau sau này nếu có thì giờ sẽ đi thăm lăng vua Gia Long. Cô Nội hứa sẽ thuê một chiếc thuyền mui, cùng ông đi trên dòng sông dài 27 cây số để hưởng thú vui trên sóng nước sông Hương. Cô quả là một trí thức có tình cảm dạt dào, lãng mạn.
Tại Lăng Tự Đức 2 người đứng bên nhau nơi ngự phòng, vua Tự Đức thường ngắm cảnh và làm thơ ở đấy. Họ nhìn ra hồ sen nở đầy mầu hồng chung quanh nhà thủy tạ. Hương sen thoảng thơm ngát. Ông nhắc lại khi Bằng Phi chết, vua Tự Đức tiếc thương và đã làm một bài thơ trong đó ông còn nhớ 2 câu thơ rất hay:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi!...
Những đóa sen hồng như ánh lên giữa những tia nắng chiều trong cảnh tranh tối tranh sáng, Nguyễn Sơn nhẹ nhàng đặt hai tay lên vai cô và từ từ hai đôi môi giáp lại vào nhau. Hai thân xác nóng bỏng như đang lên cơn sốt đã hòa nhập trong những cánh tay xiết chặt giữa ánh chiều đang lóe sáng trước khi tắt.
______________________________________
1. Liên chi ủy Hậu Giang là Liên chi ủy miền tây Nam Bộ gồm Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên.
2. Rassemblement: tập họp
3. Theo hướng tàu chiến “tiến”
4. Tiếng tây: tiếng Pháp.
5. Đầm: tiếng Pháp: madame là đàn bà.
6. Côn Đảo (Poulo condore) cách Vũng Tàu 80 cây số.
7. Tám Kiệt được gọi là “Tám lục lạc”. Đi đến đâu, tiếng nói rổn ràng và lội nước rất hay. Sau này ông Tám làm thủ tướng chính phủ Việt Nam .
8. Đồng chí Ba Hồ tên thật là Huỳnh Hữu Phước Bí thư tỉnh uỷ đầu tiên của tỉnh Rạch Giá (Kiên Giang) - Trích tư liệu lịch sử đảng Kiên Giang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét