Hiển thị các bài đăng có nhãn TƯỚNG NGUYỄN SƠN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn TƯỚNG NGUYỄN SƠN. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc tt

Vào truyện...

1
Nắng chiều đỏ rực làm nổi bật dãy núi xanh thẫm bao bọc chung quanh đồi An Khê… Từ phía tây nam có bóng ngựa đang phi từ xa xuống thung lũng. Bụi đất cuồn cuộn ở phía sau lưng. Nguyễn Sơn từ trên lầu đi xuống, với một sĩ quan Nhật. Trong lúc đó hết giờ làm việc ba chúng tôi ngồi chơi trên ghế xi măng đặt hai bên cửa toà lầu. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe những loạt súng văng vẳng từ rừng xa vọng về. Ông Sơn tay cầm ống nhòm vừa ra giữa sân thì người phi ngựa đã dừng trước mặt ông cách ba thước. Người cưỡi ngựa đứng nghiêm và giơ tay chào:
- Tôi , Nam Long1, trung đoàn trưởng trung đoàn tiền tuyến xin báo cáo: Trung đoàn đã nhận được tin từ mặt trận cho biết, địch đã lọt vào vòng phục kích của ta tại Bô Keo, quân ta đã tiêu diệt 2 xe tăng địch. Trước hỏa lực trây đơ2 và “Ép em” 3 của ta bắn dữ dội, địch đã quay xe chạy thoát. Ta lấy được 4 khẩu súng máy liên thanh gắn trên xe4, 2 súng lục, 2 thông sông5, 4 tên chết, 2 tên chạy thoát vào rừng. Hết!!
- Lực lượng chúng bao nhiêu? - Tướng Nguyễn Sơn hỏi.
- Khoảng hơn Trung đội, 2 xe tăng bị cháy, 2 xe “đốt” chở lính quay đầu chạy. - Trung đoàn trưởng Nam Long trả lời.
Với giọng sang sảng, tướng Nguyễn Sơn nói tiếp:
- Phải cảnh giác đề phòng, không phải chúng chạy luôn đâu. Chúng sẽ quay trở lại với lực lượng lớn hơn. Đồng chí hãy tổ chức ngay mạng lưới trinh sát cách mặt trận 2 cây số để nắm địch tình đồng thời tổ chức thông tin về chỉ huy sở. Tăng cường thêm chướng ngại vật đốn một số cây cho đổ ngang đường. Đồng chí thông báo khẩn cấp vào 12 giờ trưa mai, các cán bộ đại đội về họp tại đây! Đồng chí rõ chưa?
- Rõ! Tuân lệnh!
Lúc ấy hơn 5 giờ rưỡi. Chúng tôi, nhìn cảnh núi rừng lần đầu tiên mới được thấy. Khi mục kích những việc xảy ra trước mặt chúng tôi ngắm ông Long, thân hình vạm vỡ, hơi lùn. Ông đội mũ nỉ to vành, bên mũ cắm một lông ngỗng dài. Trên vai ông có một hàng đạn nhỏ dài kéo xuống thắt lưng xệ bên phải với bao da đựng cây côn đui6. Vòng dây dù cột liền với súng được luồn qua cầu vai tạo thành một kiểu trang trí đẹp mắt. Trông ông Long giống những chàng trai “cô bồi” 7 Chicagô trong phim găng-tơ8 thường chiếu tại các rạp chiếu bóng lúc bấy giờ.
Khi ông Long đi khuất vào cánh rừng. Nguyễn Sơn còn nói với sĩ quan Nhật này vài câu sau đó cùng đi thẳng đến mép rừng.
Ánh chiều mờ dần và tối hẳn. Chúng tôi bước vào nhà thì mâm cơm đã dọn sẵn ở nhà sau. Chiều nay thầy Tố đi công tác nên còn lại 3 chúng tôi bên mâm cơm.
Hồi sáng, thầy Tố có dặn chúng tôi đừng gọi bằng “thầy” nữa vì đi làm cách mạng, đi kháng chiến ở chung với đồng đội chúng ta chỉ xưng hô là đồng chí mà thôi.
Chúng tôi ngạc nhiên sao lại có 2 lính Nhật trong quân đội cách mạng. Sau những lần gặp ông Sơn ở dưới thung lũng sau nhà lầu, ông đã kể: khi tôi được Bác Hồ giao trọng trách chỉ huy kháng chiến tại miền Nam , tôi đã ở Huế hai ngày trước khi nhận nhiệm vụ. Tôi cũng đã thấy vũ khí của quân đội ta rất nghèo nàn. Một phân đội chỉ có một số súng Nga, một số súng Nhật, một số súng Pháp, thậm chí có người chỉ có lựu đạn và mã tấu. Hiện giờ tôi biết nguồn súng của Nhật rất dồi dào. Để họ giao cho quân đội đồng minh nhưng thực tế là quân ô hợp của tướng Lư Hán dưới quyền Tưởng Giới Thạch là Thống chế quân đội quốc dân đảng thì thật rất uổng. Do đó tôi đàng hoàng xin gặp vị tướng Nhật chỉ huy miền trung tại Huế. Vị tướng này thấy tôi mặc quần tây đen, áo sơ mi cộc tay, da mặt đen sạm nhưng cử chỉ đĩnh đạc. Tôi tự xưng là người chỉ huy các lực lượng yêu nước từ Trung Bộ vào đến Nam Bộ. Tôi kêu gọi các sĩ quan Nhật ủng hộ tôi chống thực dân Pháp. Lúc đầu hai bên nói tiếng Trung Quốc nhưng có đoạn khó họ lại phải bút đàm với tôi. Sĩ quan nói chuyện với tôi là Ykawa Tham mưu trưởng quân đội Nhật Bản ở Việt Nam . Ông này đang trực tiếp phụ trách quân Nhật tại Miền Trung. Ykawa có vẻ trầm ngâm nghĩ ngợi. Sau đó tôi bảo bọn họ: Các ông thấy đây là việc làm tốt đẹp cho nhân dân Việt Nam thì các ông đi theo chúng tôi. Tôi nói với giọng tự nhiên và chân thành. Các sĩ quan đã tiễn đưa tôi ra tận cổng...
Trở vào bàn, Ykawa ngồi suy tư... Ông nhìn từng chiếc lá vàng rơi ngoài sân lúc cuối đông. Ông đã chứng kiến bọn lính Tàu khi tiếp nhận vũ khí từ tay quân đội Nhật tại Thái Nguyên. Bọn này đã hoảng sợ bỏ chạy khi nghe vị chỉ huy Nhật hô nghiêm và giao súng. Hình ảnh ấy đã làm ông cảm thấy nhục nhã khi phải giao súng cho bọn ô hợp này. Ông suy nghĩ tại sao ta không theo Việt Minh và giao khí giới cho họ vì họ cũng là bộ phận của đồng minh thắng trận, hơn nữa mình lại được tiếng tham dự cuộc kháng chiến chống Pháp của họ. Đây cũng là ý tưởng cao đẹp...
Cả tuần bàn bạc, sau đó họ nhất định kéo một số sĩ quan vào Phú Phong thuộc tỉnh Bình Định.
Ông Sơn nhận được tin liền mời hai người là Ykawa (tên Việt Nam là Nhất Cử) và Minh Ngọc được đi thẳng lên An Khê gặp ông. Còn các sĩ quan khác vẫn ở lại Phú Phong nghỉ ngơi. Họ lên ở với ông 4 ngày trên nhà lầu là trụ sở của ông Sơn. Sau đó Nguyễn Sơn phái Ykawa cùng theo phái đoàn đồng chí Lê Văn Hiến đi thanh tra mặt trận Buôn Ma Thuột và Pleiku.
Do cảm nhận sự chân thành và bộc lộ lòng yêu nước tha thiết của Nguyễn Sơn, Ykawa đã ra lệnh cho số sĩ quan Nhật theo cách mạng. Họ đã đi mở các kho vũ khí từ Huế vào tới Phú Yên, đèo Cả giao súng cho quân đội ta đủ trang bị gần một trung đoàn.
_________________________________________
1. Nam Long, sau này là Trung tướng.
2. Tiếng Pháp Trây đơ (treige deux) súng liên thanh nặng 13 ly 2
3. “Ép em” tiếng Pháp là Fusil Miltrailleur (liên thanh nhẹ)
4. 2 liên thanh gắn trên xe là Fusil jumelé có nghĩa là 2 súng máy gắn liền nhau.
5. Thông sông: liên thanh nhẹ. Tiếng Anh là thompson
6. Côn đui tiếng Pháp Colt.douze (súng lục với 12 viên đạn)
7. Cô bồi tiếng Anh: Cowboy: là kẻ chăn ngựa.
8. Găng-tơ tiếng Anh: Ganster: là kẻ cướp.


2
Sáng hôm sau, thầy Tố trở về Văn phòng lúc 9 giờ sáng. Thầy nhận được lệnh tham dự buổi họp của Uỷ ban đồng thời coi sóc việc chuẩn bị cơm chiều và đồ giải khát cho cuộc họp trên 30 cán bộ từ mặt trận về.
Trước 1 giờ trưa cán bộ các cấp đã tập trung đông đảo trên lầu. Thầy giao cho anh Quảng ghi chép, theo dõi hội nghị còn thầy lo đôn đốc “hoả đầu quân” 1 phục vụ cơm chiều.
Đồng chí Nguyễn Sơn lên tiếng: Nhân danh người phụ trách các đơn vị miền Nam Việt Nam tôi xin chào các đồng chí chỉ huy đơn vị. Khi tới Quảng Ngãi tôi cũng đã tìm hiểu một phần nào về tình hình diễn biến tại miền Nam Việt Nam . Tôi phải lập tức lên gặp các đồng chí để cùng đề ra kế hoạch đối phó gấp rút với địch. Như các đồng chí đã biết, đất nước ta dài nhưng khoảng giữa lại rất mỏng manh. Địch có thể uy hiếp ta từ vùng cao nguyên xuống 4 tỉnh miền trung (Quảng Nam , Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên). Kể cả chúng đổ bộ mặt biển.
Tỉnh Buôn Ma Thuột là điểm chiến lược giữa ta và địch vì nó tiếp giáp nước Lào, nước Thái Lan (vùng ba biên giới).
Trước ngày toàn quốc kháng chiến (19/12). Ngày 14/10/1945, quân Pháp đổ bộ lên Hòn Cau đánh chiếm thị xã Nha Trang tháng 11/1945, 1 vạn quân của sư đoàn Thiết giáp số 2, Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 (5c RIC) 2 và chiến hạm Richclieu phối hợp máy bay, xe tăng tấn công các tỉnh Nam Trung Bộ.
Ngày 18/11/1945, cánh quân cơ giới lên Bù Đốp theo đường 14 tiến chiếm Buôn Ma Thuột. Phía ta, đơn vị giải phóng quân từ Khánh Hoà lên phối hợp với quân địa phương bảo vệ Buôn Ma Thuột.
Ngày 30/11/1945, Pháp chia 2 mũi tập kích vào thị xã Buôn Ma Thuột. Một đại đội ta bị tập kích đã tan rã chung với một phái đoàn đi kiểm tra mặt trận.
Do sự chống trả quyết liệt của số đơn vị ta nên quân Pháp tạm thời rút lui.
Ngày 2/12/1945, ta đã tăng cường thêm đơn vị của Thu Sơn và Nguyễn Đôn bảo vệ đường 14 về Buôn Ma Thuột.
Ngày 5/12/1945, binh đoàn bộ binh cơ giới Pháp có pháo binh, cơ giới yểm trợ đã tấn công vào Buôn Ma Thuột. Ta đánh mìn nổ cầu Sêrêpôk nhưng vẫn không ngăn cản được sự tấn công của địch. Mất Buôn Ma Thuột ta phải rút ra ngoài chờ chi viện của cánh quân ba biên giới (lúc đó ta đã mất phòng tuyến CADA và phòng tuyến Phượng Hoàng3.
Trước tình hình trên chứng tỏ quân dân Buôn Ma Thuột không chống cự nổi lực lượng mạnh mẽ của địch. Qua hoạt động trên ta có nặng về chiến đấu chính quy. Chưa nắm được tương quan lực lượng giữa ta và địch để đối phó với mọi tình huống. Một phần cũng vì quân đội ta chưa được huấn luyện tốt: kinh nghiệm chiến đấu còn ít.
Sau thắng lợi của trận Bô Keo tôi mong các đồng chí chỉ huy đơn vị uyển chuyển vận dụng du kích chiến để tránh mũi nhọn của địch, nên đánh vào lưng và đuôi địch. Không nên háo thắng mà phải vận động đánh vào chỗ yếu của địch. Địch tập trung thì ta phân tán vì ta không đủ lực lượng gấp ba địch nên phải phối hợp với dân quân thực hiện đánh tỉa và gài lựu đạn tiêu hao địch.
Yêu cầu của chiến trường Buôn Ma Thuột là bằng mọi cách không cho địch nống ra chiếm các vùng phụ cận. Huy động du kích bắn tỉa để chúng không thực hiện xây lô cốt chung quanh thị xã. Chúng ta khống chế được Buôn Ma Thuột thì vùng đồng bằng mới mong được an toàn.
Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam sẽ cố gắng mở lớp đào tạo một số sĩ quan để cung cấp cho các mặt trận Tây Nguyên và đồng bằng. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến, phía địch mạnh, ta yếu ta phải dùng trí hơn là dùng sức, vì vậy lực lượng vũ trang tuyên truyền cùng địch vận phải cố hoạt động để làm yếu địch và xây dựng cơ sở quần chúng là rất cần thiết.
Bộ chỉ huy miền Nam sẽ dời về đồng bằng vì An Khê là vị trí tuyến đầu để tạm thời giải quyết những diễn biến về quân sự, chính trị trước mắt tại quân khu 5 và quân khu 15.
Trước khi chấm dứt cuộc họp, đồng chí Nguyễn Sơn nhấn mạnh: củng cố tinh thần quân đội quyết dành độc lập tự do, phải tổ chức sâu rộng các đoàn thể người Kinh, người Thượng cùng sát cánh với quân đội để chống Pháp đến cùng. Chúng ta phải chống tư tưởng sợ địch cũng như khinh địch. Đánh giá đúng giữa địch và ta để tập trung lực lượng hoặc phân tán lực lượng đánh du kích. Các đồng chí về kê khai các cấp chỉ huy cấp trung, đại đội có thành tích chiến đấu hoặc có trình độ học lực ngang trung học (lớp 9) để sau này Ủy ban sẽ mở trường huấn luyện quân sự chính quy cho các cấp.
Trước mắt, ta phải tập luyện binh sĩ bắn giỏi, học tập cách gài lựu đạn, đặt mìn phá xe cơ giới, sử dụng mìn định hướng, nếu thiếu mìn thì bó 2 quả lựu đạn làm một gói để chống. Lấy khúc cây cột lại để vào dưới xích xe địch khi xe tăng chúng tấn công. Ta cho nổ, xích đứt, xe tăng sẽ dừng lại. Phải xây dựng hầm chông, bãi chông v v… Tìm những chiến sĩ xuất sắc để tăng cường các đội bắn tỉa làm tiêu hao và làm hoang mang tinh thần địch.
________________________________________
1. Hoả đầu quân: là cán bộ cấp dưỡng bây giờ.
2. RIC tiếng Pháp Régiment Infanterie Colonial.
3. Trích lịch sử đảng bộ và nhân dân thị xã Buôn Ma Thuột xuất bản 7/1992.
    - Ngày 20/12/1945 ta phản công chiếm thị xã Buôn Ma Thuột hướng Bắc từ đường 14 vào do Lê Thanh chỉ huy Đại đội Nghệ An. Hướng Đông đánh theo đường 12, đánh đồn có Đại đội Bắc Sơn, 2 trung đội Nghệ An, trung đội Thuận Hoá do đ/c Nam Long chỉ huy. Hướng Nam do lực lượng tỉnh đảm nhiệm. Ta pháo kích và tấn công dữ dội. Pháp phải co cụm tại khu vực Bungalow. Ta tiêu diệt 400 địch. Sau đó dịch phản công mạnh mẽ, ta bỏ thị xã và rút về cây số 19 (Hà Đông) để củng cố lực lượng, xây dựng phòng tuyến. Ngày 21/1/1946 địch tập trung toàn lực tấn công phòng tuyến CADA. Phòng tuyến ta vỡ ngày 25/1/1946 phòng tuyến Môxắk, Phượng Hoàng cũng bị vỡ luôn.


3
Buổi họp một số cán bộ tiếp giáp khu 15 được kết thúc. Đồng chí Tố mời tôi và Huệ cùng ăn chung bữa cơm này.
Đêm đó tôi trằn trọc không ngủ được, tôi lại nghĩ đến thầy Tố. Thầy xuất thân là thầy ký làm việc tại Tòa sứ Quảng Ngãi. Tôi không biết thầy có tham gia công tác bí mật thời tiền khởi nghĩa trong hàng ngũ công chức không? Hồi đó tôi làm trinh sát trong thành nội Quảng Ngãi đôi khi có đưa thơ cho thầy Trọng và thầy Tố. Cha tôi làm Giám đốc bưu điện tỉnh1.
Khi dân chúng đang sục sôi đứng lên diệt phát xít Nhật, Quảng Ngãi là tỉnh có cao trào cách mạng mạnh mẽ so với các tỉnh miền Trung. Vài năm trước đây bọn thực dân Pháp đã xâu dây kẽm vào tay hàng chục người chúng nghi là chính trị phạm2. Chúng đánh cho họ chạy xuống nước và chết tại sông Trà Khúc. Ở Ba La, Vạn Tường tại bãi cát này chúng đã chặt đầu hoặc chôn sống nhiều chiến sĩ. Dân chúng khi đi ngang qua vùng bãi cát này còn nghe dưới lớp cát có tiếng kêu “ri - ri” 3 của người chưa chết.
Khắp thôn xóm trong huyện, nhiều nông dân đã bị chết trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 đến Nam kỳ khởi nghĩa năm 1940. Các nhà tù Gi Lăng, Ba Tơ đều chật ních những chính trị phạm. Dân chúng Quãng Ngãi nơm nớp lo sợ và nhiều người đã căm thù trước hành động dã man của bọn chúng. Họ đã tìm đường lên núi theo cách mạng.
Ngọn cờ đỏ sao vàng đã phất cao tại tỉnh Quảng Ngãi. Những chủ sở làm cho Tây đều bị bắt giam hoặc bị xử tử. Các tên mật thám và cảnh sát ác ôn bị hành quyết. Riêng cha tôi, ông đã chống lại thằng Phó công sứ Dubois, ông đã lên án nó tại Toà sứ Trung kỳ về tội nó đánh đập ức hiếp dân. Một tháng sau nó đã bị khiển trách và bị đổi đi nơi khác. Chuyện đó đa số người trong tỉnh đều biết sự ngay thẳng, không khuất phục của cha tôi mà người ta tại thị xã thường gọi là “ông chủ dây thép cứng đầu”. Vì thế cha tôi không bị tù và còn được xem là nhân sĩ yêu nước trong tỉnh. Tôi cũng được tổ chức giao cho việc theo dõi những hành động, số quân và di chuyển của bọn Nhật đóng tại nhà dây thép (bưu điện).
Cách mạng tháng 8 tỉnh Quảng Ngãi thành công, tôi được phụ trách đội Thiếu niên xung phong của thị xã. Đội này thường đi tuyên truyền tham gia diễn hành và ca hát4.
Trong không khí hăng say cách mạng tôi không còn tâm trí để tiếp tục học tập. Tôi nghiêng về dạy cho đội các bài hát cách mạng, hoặc tập quân sự, tập diễn hành.
Trong giấc ngủ, tôi nghe tiếng trống, tiếng kèn, tiếng hô 1, 2, 1 của các chiến sĩ từ chiến khu ra, cùng các chị em du kích Ba Tơ mặc đồ soóc xanh5, đầu húi cua đi đều trông rất nhịp nhàng, oai dũng với tiếng hát hùng hồn.
Tại thị xã luôn tưng bừng, nhộn nhịp.
Độc lập rồi! Tự do rồi!
Ta đã đuổi Pháp, đuổi Nhật thoát ách nô lệ ngoại bang! Còn gì sung sướng cho bằng! Đi khắp nơi đâu đâu cũng nghe tiếng hát, tiếng trống, tiếng sáo vang lừng...
Đài phát thanh6 vang vang loan tin khắp phố phường: Bọn thực dân Pháp đã núp sau bọn đồng minh Anh, Ấn chúng tiến vào Sài Gòn và bắt đầu cuộc lấn chiếm đến các tỉnh miền đông, miền tây. Các mặt trận được quân dân ta dựng lên như mặt trận Cầu Bông, Thị Nghè, Cây Mai, Bà Điểm, Bình Điền, Bình Chánh v.v... đều lần lượt tan vỡ. Chúng đi đến đâu nhà cửa bị đốt, con trai bị bắn, con gái bị hãm hiếp. Biết bao cảnh tang thương trong khói lửa.
Nghe lời Bác Hồ kêu gọi, toàn dân đứng lên diệt thù. Ai có gươm dùng gươm, ai có súng cầm súng quyết tiến ra mặt trận. Tại bắc bộ, trung bộ phát động phong trào Nam Tiến. Các đoàn học sinh, sinh viên nhập ngũ nườm nượp tiến vào nam diệt giặc xâm lược.
Rồi Tiếp Phòng Quân cũng vậy7, tôi đã lác mắt trước bước chân các chiến sĩ mặc bộ ka ki và đội ca lô vàng, giầy cao cổ đen. Hết đoàn này lại đoàn khác nhộn nhịp đi qua thị xã Quảng Ngãi làm tôi đứng xem không biết chán. Tôi lại liên tưởng tới tại rạp Cinêma8 các cán bộ uỷ ban nhân dân tỉnh hô hào tòng quân. Trong đầu óc tôi đã nẩy ra sự quyết tâm “phải đi giết giặc”. Lòng tôi luôn nôn nao, chân tôi không ngừng bước khi đến trụ sở thị xã, hoặc đến ban âm nhạc tỉnh đoàn để học hát. Lúc ấy tôi lại khâm phục thầy Thiều nghiện hút á phiện, thân thể gầy còm vẫn dạy cho đoàn hát và thổi sáo suốt ngày không biết mệt. Tôi lại nhớ bài Quân Tiền phong từ trung ương gửi vào không đánh dấu nên thầy và chúng tôi đã hát: Quân Tiền phong “theo cơ đồ sáo vang” thay vì phải hát “cờ đỏ sao vàng”...
Ngoài giờ học ở trường, tôi lăn vào huấn luyện cho các em những buổi tối. Đội Thiếu niên xung phong chỉ có gần 40 người. Tất cả đều đồng phục, quần xanh cụt, áo trắng cụt, đầu đội mũ calô9. Đội tôi được đánh giá là đội hạng nhất trong toàn thị xã về hát và diễn hành. Các em phần đông là con công chức nên đầy vẻ khôi ngô, tuấn tú dễ thương.
________________________________________
1. Giám đốc Bưu điện: (Receveur des Postes Télegraphe et Téléphpne)
2. Chính trị phạm: Những người yêu nước hoặc những cán bộ cách mạng hô hào tổ chức dân chúng đứng lên đánh đổ thực dân Pháp đang cai trị nước ta. Họ bị chính quyền Pháp bắt bỏ tù.
3. Bọn thực dân Pháp bắt đồng bào tình nghi là hoạt động cách mạng, chúng chôn sống dưới cát nên đồng bào đi qua chỗ chôn vẫn còn nghe tiếng ri ri.
4. Trong đội thiếu niên xung phong có em Trương Quang Lục, sau này là Nhạc sĩ nổi tiếng và một số em thành đạt là kỹ sư, bác sĩ...
5. Soóc: tiếng Anh là Short là quần cụt hay quần đùi.
6. Đài phát thanh Tiếng nói Nam Bộ thuộc phòng Nam bộ do Nhạc sĩ Huỳnh Văn Tiểng trong nhóm Hoàng Mai Lưu (Hoàng là Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước). Đài này do đ/c Tiểng phụ tránh cùng với đ/c Cao Hồng Lĩnh...
7. Tiếp Phòng Quân là một lực lượng quân đội Việt Nam được đóng chung với quân Pháp có nhiệm vụ cùng quân Pháp giải quyết những việc đụng chạm giữa nhau trước ngày toàn quốc kháng chiến.
8. Ci nê ma: tiếng Pháp Cinema là rạp chiếu bóng.
9. Calô: Tiếng Pháp là calot loại mũ vải đầu trước và sau hơi nhọn.

4
Chiều hôm đó. Quảng, bạn học trong đội hướng đạo sinh lại gặp tôi tại sân bóng rổ nằm trong chu vi nhà dây thép1. Quảng bảo:
- Mày đi bộ đội không? Trưa mai đi liền.
Tôi ngừng tung bóng và hỏi.
- Đi chứ, nhưng bằng cách nào?
- Không lo, thầy Tố2 bảo trưa mai sẽ có ô tô chở chúng mình lúc 12 giờ
- Được! Tao sẽ đúng hẹn đến nhà mày và cùng đi với mày.
Tối hôm đó tôi nhét vào túi xách 2 bộ đồ và áo lạnh, phu la3 1 cuốn sổ và vài đồ linh tinh.
Ba tôi hỏi:
- Con xếp quần áo đi đâu?
- Con chuẩn bị đi cắm trại ở núi Thiên Ấn 2 ngày.
Đêm hôm đó tôi trằn trọc không ngủ được. Những bước chân du kích Ba Tơ, những hình bóng trẻ, khoẻ của nữ dân quân, những tiếng súng lách cách lên đạn đã dấy lên sự sôi sục trong huyết quản làm tôi nôn nao như muốn thét lên. Chợt tôi vừng thức dậy viết lên giấy vài lời: “Kính chúc bố mẹ mạnh khoẻ, con tòng quân vào nam đánh giặc, nếu thuận tiện con sẽ gửi thư. Con rất yêu quý bố mẹ nhưng nếu đánh đuổi bọn giặc Pháp giành lấy Độc lập, Tự do lại càng quý hơn. Kính mong bố mẹ hiểu cho nỗi lòng của con khi đất nước còn bị đe doạ bởi quân thù”.
Tôi đặt tờ giấy lên giường và đè chân bình mực lên trên.
Sáu giờ sáng, tôi gửi ba lô ở nhà bạn Quảng và lại trụ sở Thiếu niên xung phong để từ giã các em. Có một số các em khóc: “Anh đi rồi ai dạy quân sự và dạy hát cho bọn em”? Tôi trả lời:
- Phòng tuyên truyền thị xã sẽ cử người phụ trách, các em đừng lo. Nếu gặp khó khăn hãy liên lạc với giáo sư Hồ Văn Điềm4 sẽ được hướng dẫn công tác.
Tình cảm giữa các em và tôi rất thắm thiết. Tôi đã lo cho các em từng li từng tý về học tập lẫn giải trí và giải khát khi biểu tình.
Tôi phải kết thúc và giải tán nhanh các em để chuẩn bị lên đường. Nếu còn kéo dài tôi sợ sẽ ra đi không nổi.
Chiều hôm đó ba chúng tôi ra đi ô tô đến tỉnh Bình Định.
Trong thành cổ ở đấy đang bị các dân quân đập phá - Cơm chiều vừa xong chúng tôi lại lên ô tô cùng với một số chiến sĩ ở trạm lên bổ sung mặt trận An Khê. Xe qua Phú Phong nơi có nhà máy dệt lớn nhất miền Trung. Nửa đêm xe đã đến An Khê. Chúng tôi được bố trí một góc trong căn lầu. Anh Nguyễn Tố tiếp đón chúng tôi niềm nở. Anh phân công liền:
- Huệ phụ trách kế toán tài chính có nhiệm vụ giữ và xuất tiền, Quảng lo văn phòng nhận và thảo công văn, Tài phụ trách quân khí nhận vũ khí hư hỏng và cung cấp vũ khí đạn dược cho các đơn vị - Ưu tiên đơn vị đang bám gần địch.
Tôi ngạc nhiên:
- Thưa anh! Phòng quân nhu của mình chỉ có ba người!
- Mới đầu thành lập, tạm thời có bấy nhiêu sau này theo yêu cầu công tác sẽ phát triển thêm người (thầy Tố đã nói đúng, chúng tôi từ 4 người, 2 tháng sau đã phát triển gần năm chục chiến sĩ)
Dưới lầu là phòng quân nhu chúng tôi, trên lầu là văn phòng Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam với một người thư ký cùng ông Sơn và hai người Nhật.
__________________________________
1. Dây thép: Là nhà bưu điện bây giờ.
2. Thầy Tố: trước cách mạng là Thư ký toà bố (Sécrétaire de Résidence)
3. Phu La tiếng Pháp: Foulard là khăn quàng cổ.
4. GS Hồ Văn Điềm dạy trường Cẩm Bàng phụ trách tổ chức tráng sinh hướng đạo tại Quảng Ngãi. Sau này ông là Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu 5.
 
 
5
Càng đến ngày giáp tết, gió rừng càng lạnh buốt. Mỗi đêm ông Sơn thường trằn trọc có khi 2, 3 giờ sáng mới chợp mắt. Trong đầu óc ông đầy ắp những kế hoạch, những phương án cho các đơn vị các nơi nhận lệnh để thực hiện. Ông ngồi dậy khoác chiếc áo dạ từ Trung Quốc mang về. Nó là trang phục chính quy của Hồng quân Trung Hoa nhưng khi về nước ông ít dùng đến và áo này chỉ để khoác vào những đêm giá lạnh.
Hơn 20 năm chiến đấu ở Hải ngoại. Lúc gặp lại người thân trong gia đình đã làm ông xúc động. Ông nhớ lại những phút hàn huyên giữa mọi người trong gia tộc. Ông hỏi anh Bảo con bác hai:
- Nhà mình có ai nghiện thuốc phiện không nhỉ?
- Không ạ!
- Có ai làm việc cho bọn dưới kia không?
(Ông chỉ vào trụ sở bọn phản động quốc dân đảng1 ở cuối phố Quán Thánh).
- Không ạ!
Ông vui mừng hiện ra mặt vì bọn này dựa vào Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch đã lập ra một đảng gọi là Quốc dân đảng để quấy rối và muốn cướp chính quyền nhà nước ta.
Ông lại hỏi thăm các chú, các bác, các bà chị dâu, em dâu. Ông vỗ ngực oang oang:
- Thế là gia đình ta toàn là những công dân tốt, các bác các anh chị tôi họ Vũ nhưng không giống tên Vũ Hồng Khanh phản loạn. Nào chúng ta vỗ tay mừng cho cuộc hội ngộ gia đình quí báu này. Tất cả vỗ tay vang lên...
Ở một đêm khác ông lại nhớ đến Kiếm Qua người vợ tiến bộ, kiên cường, khí phách. Một sinh viên có tầm hiểu biết sâu sắc về văn học cổ đại trung quốc, một phụ nữ có đầu óc tân tiến, một người vợ tâm đầu ý hợp, ông thường mơ thấy trong giấc ngủ.
Cây rừng vẫn rải lá xào xạc. Núi rừng vẫn mờ sương, gió vẫn thổi lùa từ dưới nhà lên lầu tạo một không khí lạnh lẽo. Đấy là những đêm cô đơn cuối năm của ông tại núi đồi An Khê.
Giữa đêm 30 Tết mịt mùng của núi rừng tôi nghĩ đến Ủy ban kháng chiến miền Nam lúc đầu lèo tèo vài ba người như chúng tôi quả thật đầy rẫy khó khăn. Nguyễn Sơn đã dám mời những người Nhật kể cả thầy ký toà sứ “Tố” của chúng tôi. Sau này ông Sơn lại lôi kéo một số trí thức làm cho Pháp cho Nhật vào tham gia kháng chiến chống bọn thực dân xâm lược Pháp. Ông quả là có đầu óc khoa học trong việc sử dụng người. Cách tiếp cận của ông như đá nam châm có sức hút mạnh mẽ thuyết phục mọi người đi làm theo cách mạng.
Như Bác Hồ nói: “Cây cong, thợ khéo vẫn sử dụng được” huống chi ông lại tìm ra những người tài giỏi đi theo ông làm cách mạng.
_______________________________________
  1. Đảng quốc dân Đảng là một tổ chức phản động đứng đầu là Cường Đế và các phụ tá là Võ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam...

6
Tối hôm qua thầy Tố đã giới thiệu sơ khởi với chúng tôi và có những điểm tôi còn nhớ rõ - đồng chí Chủ tịch Nguyễn Sơn nguyên là Sư đoàn Trưởng của Bát lộ quân thuộc Tư lệnh Nhiếp Vĩnh Trăn chỉ huy. Ông là người sinh tại thôn Kiêu Kỵ thuộc huyện Gia Lâm. Sống trong gia đình địa chủ, cha ông làm thầu khoán xây cất nhà cửa ở Hà Nội và vùng ngoại ô. Mỗi tuần ông cụ trở về làng, ông mang theo một bị đựng đầy bạc giấy. Ông Sơn được học trường Bưởi1 năm 1939. Nhân dịp nghỉ hè, ông đã qua Pháp cùng với cha ông trong thời gian nửa tháng. Bên bờ sông Seine ông đã làm quen người thợ chụp ảnh. Đó chính là Bác Hồ. Bác đã chỉ cho ông những nơi danh lam thắng cảnh của kinh đô Balê2 hoa lệ. Nào là viện bảo tàng Mỹ thuật Louvre, nào là tháp Eiffel, xóm Monmarte có người Việt Nam và số hoạ sĩ các nước tụ tập hành nghề v.v... Thấy ông thông minh, từ nước nhà qua chơi, Bác đã dần dần gieo cho ông đầu óc ghét thực dân Pháp nên cuộc đời ông đã có chuyển biến, “Phải cứu vãn người Việt Nam nghèo khổ dưới ách nô lệ của bọn thực dân Pháp”.
Tên thật của ông là Vũ Nguyên Bác nhưng khi ông bắt đầu hoạt động cách mạng trong đội quân du kích Trung Hoa thì ông lấy tên là Hồng Thủy.
Buổi đầu Bác Hồ đặt cho các đồng chí hoạt động tại Quảng Châu lấy dòng họ Lý để bảo đảm bí mật. Tên ông là Lý Anh Tự, tên đồng chí Trần Phú là Lý Quý, tên đồng chí Phạm Văn Đồng là Lý Tống và một học sinh là Lý Tự Trọng, tên Bác Hồ là Lý Thụy. Năm 17 tuổi tại đây ông được đi học trường Hoàng Phố.
Việc Nguyễn Sơn hoạt động cách mạng tại Trung Hoa đã gặp rất nhiều khó khăn. Lúc đầu Tôn Trung Sơn là vị lãnh tụ Đảng Tân Dân chủ, Tưởng Giới Thạch chỉ huy quân sự. Bên Cộng sản có Bác Cổ (Tần Bang Hiến) Lý Duy Đức: Trưởng ban Tổ chức, Trương Văn Thiên - Trưởng ban Tuyên truyền, Chu Đức - Chủ tịch Hội đồng quân sự, Tổng tư lệnh Hồng quân, Chu Ân Lai - Chính uỷ, Lưu Bá Thừa - Tổng tham mưu trưởng, Vương Gia Tường - Tổng cục chính trị, cố vấn quân sự Lý Đức (là người Đức tên là Otto Braun), Mao Trạch Đông rất có công trong xây dựng căn cứ địa nhưng bị cô lập và không được phân công trong hàng lãnh đạo. Tôn Trung Sơn chủ trương Quốc - Cộng kết liên để diệt phát xít Nhật nên có một số cán bộ Hồng quân hoạt động chung trong hàng ngũ Quốc dân Đảng.
Năm 1934, Tưởng Giới Thạch với ác tâm đã chủ trương “yên trong mới dẹp ngoài”. Vì chúng cho là lực lượng quân đội Nhật ít ỏi ở vài tỉnh nên chúng trở mặt chống lại Hồng quân và mở cuộc tàn sát đẫm máu.
Nguyễn Sơn tức giận trước sự phản bội với hành động dã man tàn bạo của bọn chúng đối với các đồng chí mình, ông rời bỏ hàng ngũ bọn chúng. Ông tổ chức dân chúng chống lại. Cuộc khởi nghĩa Quảng Châu do Hồng quân tổ chức bắt đầu. Khi quân ông tấn công vào thị xã ông thấy trên tường viết chữ Cộng sản là Hồng Thủy.
Ông tức tối bèn lấy tên mình là Hồng Thủy3 với ý nghĩa nước lũ sẽ cuốn hết bọn Tưởng ra ngoài biển Đông.
Mùa thu 1934, quân Tưởng tiếp tục tấn công Hồng quân. Khu Xô Viết bị thu hẹp. Hội nghị Tuân Nghĩa chấm dứt chủ trương mạo hiểm chính qui của Ottoman, đã làm lực lượng Hồng quân hao mòn phân nửa. Mao Trạch Đông đã phê phán gay gắt lối “phòng ngự tiêu cực”. Sau đó hội nghị bầu Mao Trạch Đông làm ủy viên thường trực bộ chính trị vì chủ trương đúng đắn của ông4. Chu Đức, Chu Ân Lai chỉ huy quân sự. Mao thực hiện vạn lý trường chinh tiến lên Thiểm Tây thành lập căn cứ địa. Nguyễn Sơn đã nằm trong cánh quân của Trương Quốc Đào.
Đào ỷ y trong tay nắm số quân lớn nên chống lại chủ trương Mao. Y muốn tách ra nhưng bị phát hiện. Lúc ấy ông Sơn đã tranh đấu quyết liệt với Đào và bị Đào quy là gián điệp quốc tế. Ông bị Đào khai trừ ra khỏi đảng và suýt bị thiệt mạng, nếu không có các tướng Trần Canh, Lưu Bá Thừa can thiệp. Ba lần ông bị khai trừ đảng nhưng sau đấy đều được cấp trên xét và lại được phục hồi đảng tịch cả 3 lần.
Nguyễn Sơn đã ba lần vượt qua núi tuyết5 theo sự phân công của cấp trên. Có lần thua trận trước lực lượng địch mạnh gấp mười lần. Các binh sĩ thuộc đơn vị ông đều bị hy sinh hết chỉ còn lại một mình ông thoát chết. Ông sống lang thang đói rách. Ông phải chăn cừu thuê để có cơm ăn và lần lần đi về căn cứ địa.
Anh Tố nói tiếp.
- Nguyễn Sơn rất nghiêm khắc với những việc sai trái ông quyết đoán mau, nhưng ông lại sống rất hài hoà với đồng đội, đồng bào. Ông có con mắt tinh đời hễ giao công việc cho người nào ông biết chắc người ấy sẽ làm được - Sau này các đồng chí sẽ biết thành tích của ông. Tạm thời, chúng ta được biết lai lịch của thủ trưởng Nguyễn Sơn là như thế. Tôi mong các đồng chí phải làm việc chăm chỉ, nghiêm túc và vượt mọi khó khăn trong buổi ban đầu.
_______________________________________
1. Trường Bưởi là trường trung học công lập. Hồi ấy thường gọi là Lycée Protectorat (trường bảo hộ của Nam triều)
2. Balê (tiếng Pháp: Paris )
3. Hồng thủy có nghĩa là cơn lũ lớn tàn phá nhà cửa và các sinh vật. Bọn quốc dân đảng đặt tên cho những người cộng sản là hồng thủy, là thú dữ cộng vợ, cộng chồng.
4. Xem phụ trang nói về sự sai lầm của cấp lãnh đạo Hồng quân.
5. Núi tuyết (Miêu Sơn), cao hiểm trở khi hành quân lên đỉnh không được ngồi nghỉ. Nếu ngồi xuống sẽ không thể đứng lên được vì người đóng thành băng


7
Chúng tôi đã ăn khoanh bánh tét1 gọi là đón xuân tại An Khê. Tiếng súng từ xa dội lại thay tiếng pháo. Khí trời lành lạnh gió thổi vào nhà rát mặt. May là tôi đã đem chiếc áo bludông bằng nỉ nên cũng chống lại sự lạnh lẽo phần nào2.
Mỗi buổi sáng lúc 5 giờ Nguyễn Sơn đã chạy ra giữa sân hô “tập họp”: Dáng ông mờ đen lẫn trong sương mù. Đám văn phòng chúng tôi và một số sĩ quan Nhật vội vã chạy ra xếp thành hàng. Ông thổi một hơi còi dài lập tức đơn vị cảnh vệ cũng đã chạy đến xếp hàng ba sau chúng tôi với đầy đủ súng lớn nhỏ.
“Chạy đều… chạy!” Nguyễn Sơn hô to. Ông chạy trước và dẫn anh em chạy sau - Lâu lâu ông lại lách qua một bên đôn đốc đội hình phải ngay hàng - Nhóm quân nhu chúng tôi đều mang ba lô chạy theo nhóm văn phòng và cần vụ3. Ông vẫn băng mình qua suối, có khi leo lên ngọn đồi - hoặc nhảy qua dòng suối nhỏ - Tôi tính nhẩm cuộc chạy vòng vo cũng khoảng 4 cây số.
Chạy một hồi lâu mới thấy ánh sáng ban mai hừng lên một màu hồng trên dãy núi. Sương mù dần tan. Lúc đầu chúng tôi còn thấy lạnh nhưng khi chấm dút cuộc chạy chúng tôi lại thấy nóng toàn thân.
Huệ nói: Chưa quen chạy! Mệt quá!
Khi giải tán, ba chúng tôi ngồi nghỉ tại ghế đá dài đặt trước lầu ủy ban, Nguyễn Sơn lại gần chúng tôi, ông hỏi:
- Chạy có mệt lắm không?
- Thưa mệt ạ!
Ông liếc nhìn chúng tôi, người thì mặc quần dài trắng, áo vàng, người quần cụt áo xanh. Mặt ai cũng trắng trẻo đúng vẻ thư sinh. Anh em mới vào bộ đội nên chưa nhận được quân phục.
Ông cười và nói tiếp:
- Mấy cậu học sinh tiểu tư sản này chưa quen với sinh hoạt quân đội! Cố gắng lên! Bây giờ các cậu đã là chiến sĩ mà đã là quân đội phải luôn tập tành để tạo ra sức khoẻ phục vụ đất nước, luôn luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Các cậu phải luôn chuẩn bị tinh thần khắc phục khó khăn gian khổ - Thế đã hiểu rõ chưa!
Ba chúng tôi đồng thanh hô:
- Rõ!
- Các đồng chí đi xuống suối tắm đi.
Nói xong ông quay lại đi lên lầu. Ở dưới nhà, sau khi tắm và ăn cháo chúng tôi quây quần trên bàn và chuẩn bị sổ sách cho chuyên môn của mình. Giữa lúc này đồng chí Tố đi xuống đơn vị đã về.
Lúc 5 giờ chiều hôm ấy khi ánh nắng đã bắt đầu hạ xuống và sáng lên ở đỉnh núi xung quanh. Tôi lững thững xuống đèo, men theo đường mòn tôi gặp một đoạn suối xa chỗ chúng tôi tắm. Tôi thấy ông Sơn đang ngồi trên tảng đá tay cầm ống điếu, miệng phả từng chùm khói thuốc. Thấy ông trầm ngâm tôi chào và nói:
- Trông Chủ tịch giống nhạc sĩ Mozart và cảnh trước mặt giống trong phim Symphonie Pastoral.
Thấy tôi nói pha tiếng Pháp ông khoái chí:
- Đồng chí học lớp mấy?
- Tôi lên quatrième anneé4, vừa mới học xong vở kịch của Sếc-Pia5 thì đi kháng chiến.
Ông nói:
- Ở Hà nội tôi cũng học đến thế - Đồng chí ngồi xuống đây nói chuyện chơi!
Tôi nói:
- Đây cảnh đẹp thật! Hoa trắng hoa đỏ chen nhau mọc trùm lên những mảng đá xám, giống như tranh vẽ.
- Đồng chí quan sát đúng đấy! Ông nói tiếp:
- Cảnh này giống thôn Thạch Từ vùng Ngũ Hành Sơn tỉnh Sơn Tây bên Trung Quốc. Lúc ấy tôi đã có vợ tên là Trần Kiếm Qua. Vợ tôi phụ trách mẫu giáo phân khu Tấn Sát Ký bên Trung Quốc. Chúng tôi vì công tác nên ở xa cách nhau khoảng 5 cây số thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau và cảnh này đã làm tôi nhớ đến nước bạn. Ông ngừng lại một phút, rồi nói tiếp:
- Lúc ấy Tưởng Giới Thạch trở mặt không liên minh với Hồng Quân để đánh phát xít Nhật. Chúng quyết tâm tiêu diệt Cộng sản trước. Chúng huy động một triệu quân để đánh vào căn cứ Hồng Quân hòng tiêu diệt toàn bộ - Ta chỉ có hai chục vạn quân nên buộc phải rút lui - Vợ tôi đang có thai phải di tản theo Bát lộ quân. Hành quân biết bao vất vả. Vợ tôi sinh con dọc đường thiếu sữa phải nhờ đồng bào nuôi. Tôi đặt tên con tôi là Phong Ba, nhưng 6 tháng sau nó đã chết vì sưng phổi - Tiếc rằng suốt thời gian rút lui tôi không có mặt ở bên vợ tôi vì tôi bị phân công ở đơn vị khác cách xa đơn vị vợ tôi.
Ông rít một hơi thuốc dài và từ từ nhả làn khói ra trước mắt. Ông nhìn đăm đăm ra suối. Tôi biết ông buồn vì mất con, tôi hỏi luôn.
- Thế Chủ tịch còn cậu nào nữa không?
- Có! Sau đấy vợ tôi sinh 2 cháu trai tên Hàn Phong và Tiểu Việt - Khi tôi về Việt Nam cháu lớn mới 1 tuổi, cháu nhỏ đang trong bụng mẹ.
Tôi hỏi tiếp:
- Đây là người vợ đầu tiên?
- Không! Đây là người vợ thứ 2, vì người vợ đầu tiên là cô Diệm ở Hà Nội đã chết6 và tôi ở với cô chỉ 1 năm, cô đã có được 1 đứa con gái. Khi nhận được tin Bác Hồ cho người đưa tôi đi Trung Quốc học tôi mừng quá, tôi phải kiếm cách dứt tình với vợ để ra đi.
Ông lại nhả thêm một làn khói dầy đặc.
Trong buổi hoàng hôn, sương đêm dần trắng xoá núi đồi. Khí trời lạnh lẽo ập đến. Ông đứng lên nói:
- Chúng ta về đi, đồng chí chuẩn bị mai hành quân dời địa điểm - Tôi đáp:
- Tôi nghe rõ!
Tôi bước từng bước sau lưng Tư lệnh. Tôi ngạc nhiên sao ông lại dễ dàng thổ lộ tâm tình của ông. Phải chăng ông cũng là nhà trí thức nên dễ cảm thông với tôi cũng là trí thức.
Hôm sau khi chấm dứt cuộc chạy buổi sáng chúng tôi ăn cháo xong thì ô tô lớn đã đậu trước cửa văn phòng - Anh Tố huy động anh em ra xe. Đi dọc đường xe ghé Phú Phong rước thêm 5 người thuộc bộ phận tiếp tân và y tế cùng bốn người sĩ quan Nhật Bản đồng lên xe chạy thẳng về Bồng Sơn. Gần đến nơi tôi nhìn dọc đường những hàng dừa cao đầy quả, bóng tàn cây dừa làm rợp mát dọc đường. Khi xe ngừng trước toà lầu có lô cốt chúng tôi xuống xe và biết đây là đồn của bọn lính Pháp trước kia đã đóng quân. Chúng bỏ lại khi thất trận trước sự tấn công của quân đội phát xít Nhật.
______________________________________
1. Bánh tét: lại bánh nếp miền Trung gói tròn và dài khoảng gần 2 tấc.
2. Bludông (tiếng Pháp Blouson là áo khoác)
3. Cần vụ: Nấu bếp, quản lý gạo nước. Hồi đó còn có danh từ “hoả đầu quân”.
4. Quatrième ammé (năm thứ tư thành chung chương trình Pháp) tương đương lớp 10 bây giờ.
5. Secpia tiếng Anh: Shakesper là một văn sĩ nổi tiếng của Anh.
6. Thực ra là sau 5 năm ông đi thì cô lấy chồng khác





8
Bồng Sơn là một huyện nhỏ thuộc tỉnh Bình Định - Nhà dân chúng đều bám theo dọc quốc lộ 1 rải rác đến Tam Quan. Một vùng có tiềm năng kinh tế, sản xuất dầu dừa và dây dừa, thảm dừa đủ cỡ cung cấp cho những nhà đánh cá ven biển kể cả kẹo dừa, kẹo lạc1. Bộ đội cảnh vệ thường lấy đường làm sân tập dọc theo quốc lộ 1 - ngã ra Bắc đi Quảng Ngãi, ngã vào Nam đi Phú Yên, Tuy Hòa.
Mỗi buổi sáng như thường lệ, Chủ tịch Sơn mặc thường phục quần dài đen, áo “Puy ô vơ” 2 xanh lá cây chạy dẫn đầu. Nối theo là bộ phận tư lệnh bộ rồi đến cảnh vệ. Hôm ấy tôi đang đau chân nhưng vẫn cố khập khiễng chạy. Máu đọng nên đau nhức. Nguyễn Sơn vừa chạy vừa quan sát và đôn đốc đội hình cho ngay thẳng, cự ly đúng tầm 1 cánh tay. Ông đã thấy tôi chạy khập khiễng.
Đến giờ làm việc ông gọi tôi lên lầu. Ông bắt cởi băng chân cho ông xem. Ông thấy vết sâu bằng đồng xu có cạnh có mủ xanh như sâu quảng - Tôi nói:
- Vết thương lúc đầu chỉ bằng đồng trinh nhưng sau lở lói, có mủ và rộng ra bằng đồng xu có lẽ do tắm nước suối An Khê độc quá.
Ông Sơn quay sang thư ký và bảo:
- Viết giấy giới thiệu cho đồng chí Tài đi bệnh xá để rửa thuốc cho mau khỏi.
Thế là tôi được đi rửa vết thương trong thời gian một tuần lễ.
Vừa đi vừa suy nghĩ: Nguyễn Sơn vị Tư lệnh đã ưu ái chăm sóc cấp dưới và coi như anh em. Lúc này ông đã 38 tuổi.
Bộ phận “Quân khí” (sau đổi tên là quân giới) của tôi đã may mắn được 2 người Nhật tiếp tay để sửa súng hóc đạn, hoặc sửa nòng và sửa cò súng. Trong công việc hàng ngày họ đã đáp ứng được những nhu cầu về súng hỏng và tiếp tế một số đạn dược cho các đơn vị. Công việc điều hoà làm tôi rất phấn khởi. Tôi lại được dịp trao dồi tiếng Nhật. Tôi còn nhớ khi Nhật chiếm Đông Dương chúng đã bắt buộc các trường trung học phải học chữ Nhật (Katakana và loại chữ Hiromenzi). Cũng nhờ ba tên lính Nhật canh gác nhà dây thép. Họ ăn ở luôn tại đấy nên tôi nói được tiếng Nhật tàm tạm.
Tại Bồng Sơn tôi lại được tăng cường thêm 2 đội viên tên là Hào và Thọ. Nhờ họ nên việc chuyển tải vũ khí càng dễ dàng nhanh chóng.
Một lần nữa, khi tôi đang làm báo cáo các vũ khí hỏng của một số đơn vị. Tôi thấy một chiến sĩ quần rách ở đầu gối. Anh đưa giấy cho tôi xin chữ ký để được cấp lộ phí nghỉ phép về Hà Nội. Trong giấy đề tên Báu. Anh này mặt trắng xanh, ốm yếu. Tôi giật mình chợt nhớ nửa năm trước khi tôi tham dự buổi họp Truyền bá Quốc Ngữ tại Hàng Da ở Hà Nội có anh Báu đã hát bài Thanh niên trước đông đảo anh em.
Tôi chợt hỏi:
- Hình như lúc trước anh có hát bài Thanh Niên tại buổi họp Hội Truyền Bá Quốc Ngữ3. Anh đáp “Đúng ạ!” và anh cao hứng hát luôn:
“Này thanh niên ơi! Dắt nhau lên đường cùng vang hát. Sánh vai cùng đi. Này thanh niên ơi! Ngắm trông phương trời đừng lui bước và chớ phân ly... Ta trông xem trời nam xinh tươi, kìa hoa sau đêm còn vương sương rơi” Đắm đuối cười, nhắn nhủ lời...
Anh hát luôn 6 câu. Tôi giơ tay ra dấu ngừng và nói:
- Bây giờ trưởng phòng ngày mai mới về, nhưng tôi ký xuất không biết có được không?
Anh cầm giấy có chữ ký của tôi và anh lĩnh được tiền. Anh lại bắt tay tôi lắc mạnh và luôn miệng nói “Cám ơn đồng chí! Cám ơn đồng chí!”
Trưa hôm ấy Huệ vẫy tôi lại, anh cằn nhằn:
- Ký xuất lĩnh tiền chỉ có chữ ký thầy Tố và chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam , ngoài ra các chữ ký khác đều không có giá trị.
Tôi nói vuốt ve:
- Huệ cảm thông. Mình đâu muốn sai nguyên tắc nhưng thấy thương anh ấy “cà lơ, thất thểu” quần áo rách xơ xác ở mặt trận về. Anh ấy cũng là trí thức quen từ mấy tháng trước ở Hà Nội. Anh được trở về nhà nghỉ phép mười ngày. Vả lại anh Tố vắng mặt...
Câu chuyện lại đến tai ông Sơn, ông gọi tôi lên gác - Khi bước lên cầu thang tôi đã có linh cảm như mình đã phạm tội nào đó.
Tôi đứng nghiêm chào trước mặt ông. Ông nhìn sâu vào mắt tôi. Mắt ông sáng lên. Tôi hồi hộp - ông nói từng tiếng một:
- Đồng chí Tài! Nguyên tắc là nguyên tắc! Phải tuyệt đối tuân thủ! Không phải quyền hành mình mà ký phiếu xuất là sai. Tôi đã nghe đồng chí kia hát và đã hiểu nội dung đồng chí muốn giúp đỡ đồng đội! Cũng tốt! Nhưng lần sau không nên tái phạm.
- Xin cám ơn Chủ tịch, tôi xin ghi nhớ.
Tôi xuống lầu. Cậu Trung, cần vụ rỉ tai tôi:
- Mai, chủ tịch đi vào Nam . Tôi phải lo 2 gói cơm nắm, muối vừng giao cận vệ theo ông.___________________________________
1. Tiếng nam bộ: kẹo đậu phộng.
2. Puy ô vơ (tiếng Anh) áo thụng (Pull’ over)
3. Hội truyền bá quốc ngữ là một tổ chức của những người yêu nước có cán bộ Việt Minh lèo lái.

Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc

9
Theo lệnh Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi ấy là chủ tịch Ủy ban kháng chiến toàn quốc1 được Bác Hồ ủy nhiệm vào thanh tra phía Nam . Trong cuộc mít tinh ở sân vận động Quảng Ngãi. Tôi đã thấy ông Giáp mặc âu phục xanh nước biển và đội mũ nỉ xanh. Ông nói chuyện rất khoan thai về tình hình miền Nam và động viên đồng bào dốc toàn lực đầu quân giết giặc giữ nước.
Khi ông Giáp đi vào Khánh Hòa ông đã gặp ông Nguyễn Sơn tại đình làng Phan Rang. Ông Sơn đã báo cáo tình hình về các tỉnh phía nam cũng như Buôn Ma Thuột… Hai ông đang ngồi uống nước trà thì Đại đoàn trưởng Trần Công Khanh bước vào chào hai người.
Ông Sơn chỉ ông Giáp và bảo:
- Đây là đồng chí Võ Nguyên Giáp bộ trưởng Bộ quốc phòng đi thanh tra các mặt trận miền Nam .
Ông Khanh đứng nghiêm chào và báo cáo với vẻ có phần tự đắc.
- Thưa các đồng chí tôi vừa đánh trận Võ Canh và Võ Xương mới về...
Ông Sơn thấy quần áo ông Khanh dính bùn be bét từ ngực xuống chân, hai tay đầy bụi bậm. Ông gằn giọng và chỉ ngón tay ra góc phòng:
- Đồng chí Khanh ra đứng tại góc phòng...
Ông Khanh ngơ ngác.
Ông Giáp cười và nói:
- Chủ tịch Sơn phạt đồng chí đứng nghiêm đấy!
Ông Khanh vội ra đứng góc phòng.
Với giọng sang sảng, ông Sơn nói:
- Là Đại đoàn trưởng có nghĩa là đồng chí nắm sinh mạng cả sáu nghìn chiến sĩ. Đồng chí không thể nào bỏ chỉ huy sở để xuống chiến đấu với binh sĩ cùng cầm súng bắn địch như vai trò một người lính. Nếu đồng chí thích làm lính thì tôi sẽ cho đồng chí xuống trung đội để chiến đấu.
Ông Khanh sợ sệt tái mặt... Chừng vài phút sau ông Sơn hô “nghỉ”... và ông dịu giọng nói:
- Đồng chí lại ngồi đây uống nước.
Ông Giáp lại cười... đoạn ông hỏi ông Khanh tình hình giữa ta và địch...
Ban lãnh đạo Liên khu 5 đều không thể quên chuyện này: khi đồng chí Phạm Kiệt biệt danh T đơ2 là Đại đoàn phó từ mặt trận về báo cáo trước chủ tịch Sơn. Ông thấy quần áo dơ bẩn đầy bùn. Ông nói: tôi đã dự đoán tình hình trong ấy, đồng chí về tắm rửa sạch sẽ rồi lại đây báo cáo cũng không muộn.
Phong cách của ông Sơn là thế. Ông rất nghiêm khắc trong công việc. Một vị tướng có tính kỷ luật cao khi đã nói thì như đinh đóng cột không nể nang dầu với cấp trên như khi ông đã hoạt động bên Trung Quốc. Cách nói của ông oai nghiêm, dõng dạc, trấn áp người nghe như buộc họ phải làm theo ý ông.
Khi ông Giáp trở về Trung ương, Nguyễn Sơn lại tiếp phái đoàn Trung ương do đồng chí Đàm Minh Viễn vào thị sát mặt trận. Lần này ông đã phái đại tá Ykawa đi theo đoàn ông Viễn, ông Viễn rất mừng được Ykawa là vị tướng lừng danh của Nhật hoàng đầy kinh nghiệm chiến trường. Họ lên đường bằng hai xe jeep và ô tô do quân đội Nhật trước đây thất bại để lại. Đoàn đang đi trên đèo Mang Giang thì bị hai máy bay Spitfire của địch phát hiện và truy kích. Chúng bắn xối xả. Đoàn xe phải ngừng lại. Trên xe Ykawa đã dùng súng trường bắn lên máy bay. Một chiếc đã bị trúng đạn rơi vào rừng. Cả đoàn phải nhảy xuống vì xe bị cháy. Đoàn đã bị máy bay bắn, lớp mìn gài hai bên lề đường cả đoàn đều hi sinh3.
Thời điểm này cũng là lúc tướng Leclecre đã trực tiếp chỉ huy chiếm trọn thị xã Buôn Ma Thuột. Sau đó vài ngày quân Pháp lại chiếm luôn Pleicu.___________________________________
1. Chiếu theo tài liệu của Bộ quốc phòng xuất bản về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
2. Tê đơ: là hai chữ T có nghĩa ở tù 2 lần.
3. Sau này Hiệu trưởng Nguyễn Sơn nhân dịp lễ Quốc khánh năm 1946 đã tổ chức lễ truy điệu, kỷ niệm vị danh tướng Nhật này.

10
Cuối tháng 7 năm 1947. Tư lệnh Nguyễn Sơn thông báo cuộc họp khẩn cấp cho các đơn vị toàn quân khu về họp trên lầu khu bộ ở Bồng Sơn.
Với giọng nói sang sảng ở dưới nhà cũng nghe rõ, Tư lệnh trình bày tình hình chung, dã tâm của thực dân Pháp vẫn quyết đặt ách nô lệ lên cổ người Việt Nam lần thứ hai.
Để khủng bố tinh thần dân chúng và cán bộ Việt Minh chúng đốt phá nhà cửa, tàn sát dân lành. Cán bộ thì bị chặt đầu moi gan do các lính lê dương1 Sénégalais, Maroc dã man, tàn bạo. Chúng ta không thể làm nô lệ lần nữa.
Lực lượng của ta lúc đầu còn yếu kém: Việc đánh Pháp là việc lâu dài. Tư tưởng các đồng chí phải luôn trung thành với nước, tác phong luôn khẩn trương, sáng suốt lãnh đạo bộ đội và am hiểu chiến thuật, chiến lược. Kinh nghiệm của Hồng quân Trung Hoa đã chỉ cho ta thấy rõ khi lực lượng của địch lớn gấp 20 lần của ta, ta phải tránh để bảo toàn lực lượng. Hồng Quân phải trải qua cuộc vạn lý trường chinh lên phía bắc, đường dài 12.500 km bằng 4 lần chiều dài nước Việt Nam . Một cuộc hành quân đầy gian khổ, phải ăn cả cỏ, nhai cả gót giày vì không có gì ăn. Có khi phải giết ngựa gầy để ăn. Đại đội đi trước được ăn thịt, đại đội đi sau phải gậm xương để chống cơn đói đang hoành hành trong bụng lép xẹp. Có người bị chết vì ăn phải cỏ dại. Rùng rợn nhất là đi qua thảo nguyên mênh mông đầy sình lầy. Khi nắng dữ dội, khi mưa dầm bất chợt, chiến sĩ phải bện giầy rơm to để chống lún xuống sình lầy. Họ phải tết dây dài để mỗi người cầm lấy dây. Họ dìu nhau đi giữ vững đội hình. Kỹ lưỡng như vậy nhưng cũng có người lún sâu xuống sình và ngập đầu chết luôn. Khi vượt qua Miêu Sơn (núi Tuyết) gồm 18 ngọn núi. Lệnh hành quân cấm các chiến sĩ trong khi dừng lại nghỉ không được ngồi xuống vì ngồi xuống sẽ đứng lên không nổi và bị đóng băng chết tại chỗ. Ông đã đi qua núi Tuyết ba lần do sự phân công của cấp trên. Ông đã thấy các đồng chí mình vẫn còn bị đóng băng ngồi tại đó. Trên đường đi Hồng quân bị Quốc quân 6 lần chặn đánh cho đến khi về tới căn cứ. Quân số lúc đầu 20 vạn, hy sinh và chết dọc đường hết 18 vạn nhưng cuối cùng vị lãnh đạo tài tình Mao Trạch Đông đã lập chiến khu phát triển quân đội, đánh thắng Nhật, thắng quân đội Quốc dân đảng phản động của Tưởng Giới Thạch. Bài học này cho ta thấy phải sáng suốt cân nhắc khi chỉ huy.
Tình hình trong nước ta còn rất khó khăn Chính phủ ta đã phải cực nhọc để đối phó 20 vạn quân Tưởng do tướng Lư Hán chỉ huy nhân danh đồng minh qua giải giới bọn Nhật. Bọn Tàu Tưởng này đi đến đâu cướp phá sách nhiễu dân chúng đến đó. Hồ Chủ tịch đã nhận được báo cáo tới tấp về đạo quân Lư Hán này. Bác Hồ đã tìm cách đẩy chúng về Trung Quốc. Quả là một thành công lớn. Ngoài ra bọn Việt Nam quốc dân đảng và bọn Việt Nam phục quốc hội thừa cơ muốn lật đổ chính quyền ta. Lúc đầu ta đã phải nhượng bộ để phe Cường Đế2 có một số ghế trong Chính phủ. Bọn Quốc dân đảng đã lợi dụng sự nhượng bộ của ta, chúng bắt cóc các cán bộ của ta như ở Ôn Như Hầu và vài nơi khác chúng giết và lấy súng. Cụ Hồ và chính phủ đã phải khổ trí đối phó từng giờ từng phút với bọn phản động này.
Tôi nói qua về tình hình phía Nam :
Sáng ngày 23/9 Pháp núp sau lực lượng đồng minh gồm Anh, Ấn giải giới quân Nhật. Chúng chiếm Sài Gòn và nống ra các tỉnh tại Sài Gòn. Mặt trận Cầu Bông, Cây Mai, Bình Điền cùng các mặt trận khác dần dần tan vỡ vì chúng có vũ khí tối tân còn ta chỉ có súng kíp, súng săn, gươm giáo, tầm vông, vạt nhọn nên không ngăn nổi bọn thực dân Pháp gồm các binh lính Lê Dương viễn chinh tinh nhuệ đã lần lần chiếm các tỉnh miền đông và miền tây3. Phía miền Nam trung bộ lúc ấy bọn Pháp đã chiếm Nha Trang và nống ra lập các tiền đồn ở Củng Sơn, Vạn Giã, Bàn Nham, Núi Hiềm. Chúng còn lăm le toan chiếm Tuy Hòa của tỉnh Phú Yên - Trên cao nguyên chúng đã xông ra từ Buôn Ma Thuột đánh chiếm Bô Keo. Chúng bị ta làm tê liệt và không thể chiếm An Khê được. Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam rời khỏi An Khê - để những thông tin báo cáo từ miền Nam gửi ra và ở trung ương gửi vào nhận được mau chóng, đối phó kịp thời.
Trong cuộc họp hôm nay một số cán bộ đòi kỷ luật đồng chí Trần Công Khanh, vị Tư lệnh mặt trận Khánh Hoà đã không tuân lệnh chủ tịch Sơn ra lệnh phải rút lui khi ta yếu hơn giặc nhưng ông đã liều lĩnh chống trả với lực lượng địch mạnh hơn nên bị thất bại thật nặng nề.
Ông Sơn giơ tay bình tĩnh nói:
- Chuyện này tôi đã được báo cáo rõ ràng, các đồng chí nên bình tĩnh phê phán.
_________________________________________
1. Bọn Pháp lấy lính ở các thuộc địa Phi châu như nước Maroc, Tunisie, Sônégalei... Chúng gọi là quân dội Lê dương viễn chinh (Légion étrangère)
2. Cường Đế là con vua Thành Thái đã chạy sang ở nước Nhật. Bọn quốc dân đảng tôn Cường Đế và Nguyễn Hải Thần ở vai lãnh đạo. Mục đích chúng là lập lại nền quân chủ.
3. Phía quân ta tại Nam Bộ các lực lượng Thanh niên Tiền Phong của ta kể cả lính Hai Hổ và đệ tam sư đoàn chia ra nhiều cánh phân tán lực lượng và rút lui. Cánh đi lên miền Đông, cánh đi xuống miền Tây để củng cố bộ đội và xin Trung ương viện trợ. Trong lúc đó tại miền Bắc và miền Trung, Chính phủ lập nhiều đoàn quân đi giải phóng miền Nam gồm sinh viên, học sinh do tướng Cao Văn Khánh dẫn đầu nhưng đi tới Nha Trang đụng địch bị tan rã. Bác Hồ đã kịp thời phái tướng Nguyễn Bình đưa một Đại đội vào Nam . Nguyễn Bình đã vào đến khu 7 lập một số chi đội như chi đội 25 và bộ đội Hoàng Thọ. Sau đó lập 10 ban công tác thành, tiểu đoàn Phạm Hồng Thái. Trong hoàn cảnh tan vỡ của chiến trường Nam Bộ, Bác Hồ lại phái cụ Vũ Đức là đảng viên cộng sản bị địch bắt trong trận càn vào chiến khu Việt Bắc khoảng năm 1944 (ông bị đày ra đảo Madagascar. Khi đồng minh Pháp, Anh, Mỹ đang đánh Phát xít Nhật tại Việt Nam họ có nghe ở Việt Bắc có 1 lực lượng chống Nhật nên đã tìm trong nhà tù đưa Vũ Đức ra học nhảy dù tại Ấn Độ và sẽ nhảy vào chiến khu Việt Bắc để tiếp tế súng đạn cho Việt Minh)
    Cụ Vũ Đức đã đưa 1 đại đội vào Nam sau đó là Khu trưởng Khu 4 cùng với các cán bộ dong mán, Thiếu Lang, Tăng Thiên Kim...
    Tư liệu “Lịch sử Đảng thành phố Hồ Chí Minh”

11 
- Sau khi mặt trận Khánh Hoà tan vỡ trước sự tấn công ồ ạt với hỏa lực mạnh mẽ của số lê dương tinh nhuệ trong quân đội Pháp(1), các chiến sĩ ta đã hốt hoảng và mất tinh thần chiến đấu - Chúng ta đã rút được kinh nghiệm gì? Các đơn vị hoàn toàn tan rã - Các chỉ huy không được huấn luyện tốt và một số lớn cũng chưa từng ra trận nghĩa là chúng ta chưa am hiểu về cách đánh địch, về chiến thuật.
Vậy chiến thuật là gì? Là các lối đánh khi giao chiến với giặc, mục đích ngăn giặc, đuổi đánh hay tiêu diệt giặc. Muốn làm thế phải sắp xếp bộ đội, qui định tiến thoái, phối hợp các binh chủng, các đơn vị rồi tuỳ ở tình hình địch, ở địa hình địa vật, ở nhiệm vụ của mình mà điều khiển cuộc giao chiến.
Chiến thuật áp dụng từ cấp trung đoàn trở xuống. Nó là những nguyên tắc cụ thể dùng trong tác chiến đòi hỏi từ đội viên lên đến cấp trung đoàn phải am hiểu nhuần nhuyễn.
Trong quân đội cấp tướng là chiến lược, cấp tá là chiến thuật, cấp úy là chiến đấu. Phối hợp cả 3 cấp ấy mới giành được thắng lợi trong cuộc chiến.
Hội nghị hôm nay tôi chỉ nói những nét chính của chiến thuật như:
1. Tích cực tiến công
2. Giữ thế mạnh đè bẹp giặc
3. Tập trung đánh vào chỗ yếu của giặc
4. Khéo dùng cơ động
Cấp dưới phải hiểu ý định của cấp trên khi nhận lệnh. Để thực hiện kế hoạch phương châm chiến lược thì những hình thức chiến thuật cần thiết phải cần những động tác chiến đấu mau lẹ thành thuộc, cương quyết trực tiếp tiêu hao mau lẹ, sức người, sức vũ khí của quân giặc, đó là nhiệm vụ của binh sĩ. Chúng ta chưa tận dụng đúng mức lực lượng dân quân. Về mặt trinh sát, tình báo chưa phối hợp với dân quân để thực hiện theo dõi địch làm gì, đi đâu, số lượng quân và vũ khí của địch - Khi chúng ruồng bố, cướp tài sản, hãm hiếp thường dân, ta lại chưa có các lực lượng dân quân, du kích, những tổ 3 người để tổ chức bắn tỉa hoặc gài mìn với mục đích chận lại sự hung hăng tàn bạo của chúng - Phải quan niệm những đội du kích, những đội thường trực kể cả bộ đội địa phương ta phải tận dụng lực lượng cũng như lắng nghe sáng kiến của họ.
Ông đi sâu vào nguyên tắc chiến thuật, phải tích cực tiến công - giữ thế mạnh đè bẹp địch - tập trung binh lực đánh vào chỗ yếu của giặc - Khéo dùng lực lượng cơ động - hoặc đánh cắt phía sau lưng địch, hoặc đánh đồn là phụ, đánh tiếp viện là chính. Cách đánh hay nhất vẫn là địch vận, đánh chiếm đồn ít tốn đạn, ít hy sinh chiến sĩ hoặc gọi lính ra đầu hàng, ta không tốn một viên đạn.
Tích cực tiến công không có nghĩa là đánh liều, đánh ẩu. Yếu tố trinh sát là hàng đầu. Phải luôn theo dõi động, tĩnh của địch. Đánh ẩu, khi ta đuối sức, giặc sẽ đè bẹp ta ngay tức khắc.
Kinh nghiệm tại mặt trận Khánh Hòa: Chi đội Vi Dân vì không công phá được đồn địch nên tức giận, ông đã tập trung cán bộ từ tiểu đoàn xuống phụ trách đại đội từ đại đội xuống phụ trách trung đội và từ trung đội xuống phụ trách tiểu đội để biến thành một đại đội mạnh. Vì không “tri kỷ tri bỉ” (2) nên Vi Dân tấn công thất bại. Ông đã hy sinh cùng với cả đại đội.
Bên Trung Quốc cũng vậy: Trong trận đánh Cao Hưng gần tháp Tử Lộ Quan, Lâm Bưu cũng tập trung cán bộ y như Vi Dân đã làm để có một đơn vị mạnh xung phong đánh vào quân Tưởng Quang Đại - Không ngờ Tưởng Quang Đại cũng thành lập đơn vị y như Lâm Bưu - Hai bên đánh nhau 5 ngày khốc liệt. Hai bên đều rút lui và đều thiệt hại nặng nề.
Mới nghe diễn biến trận đánh có vẻ oai lắm nhưng Mao Trạch Đông đã gọi Lâm Bưu về phê bình: Không phải là đọ lực với nhau, đánh ăn thì đánh, đánh kém thì rút lui. Đem cán bộ hy sinh như thế không phải chỉ từng người mà là hàng loạt. Cán bộ chiến sĩ Quân đoàn Lâm Bưu mất 50 đại đội trưởng, non 100 cán bộ Trung đội trở xuống bị hy sinh và mất đứt 30 đại đội. Thật là một chuyện đau đớn!
- “Không thể đem tính anh hùng cá nhân để đánh cho sướng! Ai cho phép thế!”
Đó là hành vi không duy vật - không biện chứng - Đánh lấy tinh thần gây ảnh hưởng chính trị tất nhiên cũng tốt nhưng thiếu gì cách để gây ảnh hưởng chính trị. Đánh thục mạng quả là tội lỗi lớn đối với quân đội và đối với nhân dân.
Ông Sơn liếc nhìn các cán bộ ngồi họp. Ông gằn giọng:
- Có người nghĩ rất sai: bộ đội ta giác ngộ tinh thần cao, không cần phải tập luyện kiên trì vẫn đánh thắng giặc.
____________________________________
1. Lê dương: légion étrangère.
2. biết người, biết ta (ý nói về tương quan lực lượng và cách đánh sở trường của địch)

- Có người duy tâm đến nỗi nói rằng quân đội Pháp đánh giặc với tư tưởng phi chính nghĩa, nội bộ hoang mang nên đánh không thể thắng ta được. Ta có chính nghĩa nên ta phải thắng. Đó là nhận định sai lầm - Ta phải đánh nhiều vào nó, đánh mạnh địch để chúng không phản công nổi, chúng suy yếu mới có thể làm chúng hoang mang. Tiểu đoàn Ba Dương thuộc Phòng Nam Bộ bao vây ba ngày tại đồn Bàn Nham tỉnh Phú Yên đã uy hiếp địch từng giờ, từng phút với hỏa lực mạnh của ta làm địch hoảng loạn. Ngày thứ 4 chúng chờ đêm khuya đã lén rút chạy vì thiếu lương thực, thiếu đạn và cùng vì sức quyết chiến của ta. Trận này lại bắt chước theo Vi Dân để làm đơn vị mạnh tuy có thắng nhưng ta đã bị hy sinh 1 tiểu đoàn phó (Tấn) và Trẩm là đại đội trưởng1.
Mỗi chỉ huy nên tự kiểm điểm về thiếu sót của mình đã hy sinh bao nhiêu chiến sĩ trong một trận đánh!
Yếu tố bất ngờ cũng quyết định trận đánh. Trong trận chiến giữa Anh và Pháp. Quân Pháp đã lập phòng tuyến dọc theo bờ biển Bretagne để chống sự đổ bộ của quân Anh. Họ đã bố trí lực lượng phòng ngự tại bãi cát là lài vùng này vì địch dễ đổ bộ nhưng họ không đề phòng chỗ có bờ biển hiểm trở. Quân Anh đã vượt 30 cây số đường biển để đổ bộ vào nước Pháp. Họ không đổ bộ lên bãi cát lài là chỗ thấp vì họ biết ở đó sẽ có sự bố phòng nên quân lính họ đã leo lên những vách đá dựng đứng của bờ biển Pas de Calais nơi quân Pháp không lập phòng tuyến. Quân Anh đã chiến thắng Pháp ở chỗ Pháp không ngờ tới.
Đồng chí Trần Công Khanh có sai lầm đã trải dài quân lại không có hệ thống thông tin nên không nắm được lực lượng của đồng chí. Tướng đại tài của Đức là Clausewitz nói: “Tấn công là lối phòng ngự hay nhất” “Le meilleur de défense c’est l’attaque”. Với lực lượng mạnh, địch đã chủ động tấn công ta, đồng chí lại quyết cố thủ, nhưng đã bị hy sinh một số lớn cán bộ, chiến sĩ. Đó là không nắm được “biết địch, biết ta”, không có trinh sát, tình báo để nắm hoạt động địch, không tận dụng dân quân để phá rối địch. Cán bộ, binh sĩ chỉ với tinh thần yêu nước cao không đủ - Nói đến quân đội là nói đến luyện tập mọi cách để tiêu diệt địch: Rèn luyện khỏe mạnh, bắn giỏi, vận động mau chóng chiếm lĩnh trận địa địch, biết đánh chỗ nào trước chỗ nào sau. Đánh có duy vật biện chứng phán đoán địch. Bình tĩnh, không nên đánh liều, đánh ẩu.
Tôi đã tham dự một trận đánh tại Tây Khang bên Trung Quốc. Vì tuân lệnh cấp trên phải giữ trận địa nhưng quân Tưởng lực lượng gấp 10 lần Hồng Quân nên tiểu đoàn tôi bị tiêu diệt chỉ còn hai người. Tôi sống sót trở về đơn vị ăn không ngon, ngủ không yên, luôn nghĩ trong đầu phải tìm cách chôn các đồng chí ấy - Hơn một tuần sau tôi huy động dân quân mới chôn hết số tử sĩ.
Vì vậy ai chịu trách nhiệm sự hy sinh to tát này! Sự hy sinh này rất ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của chiến sĩ.
Các chiến sĩ đã cùng đồng cam cộng khổ với ta, ta phải mến yêu và bảo trọng sinh mạng họ. Tôi nhớ lại chuyện xưa tại Tây Âu: đội quân Les Croisades của Pháp đi viễn chinh. Trời lạnh lẽo. Có người lính bị thương đang co ro nằm rên. Vị tướng chỉ huy cởi áo đắp cho họ. Vì nghĩa cử đó, đã động viên binh lính chiến thắng quân địch.
Chiến sĩ khi đã vũ trang cho mình lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tin tưởng và thương yêu người cấp chỉ huy mình như anh em. Họ sẽ dốc lòng chiến đấu vì danh dự của đơn vị, vì cách mạng. Họ quyết hy sinh đến hơi thở cuối cùng.
Hiện thời đ/c có công nhận đ/c là Tổng chỉ huy mặt trận Khánh Hòa? Và tôi là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam không?
Khi tôi nhận quyết định của Bác Hồ phân công tôi vào miền Nam, Bác chỉ vỗ vai tôi nhấn mạnh một câu: Tôi là Chủ tịch nước, chú là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam có nghĩa là chú chỉ huy một nửa nước rồi đấy. Tôi vội nói: Bác ạ! Trọng trách nhiều, khó khăn cũng nhiều, Bác cho phép tôi vào lập được chiến công hãy nhận chức này. Từ đấy những văn bản phần nhiều tôi để cho đ/c Thanh Sơn, Phó chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam ký thay tôi.
- Đồng chí Khanh thân mến, chúng ta là đồng đội sống chết có nhau! Chúng ta không nên khinh suất để chiến sĩ đổ máu nhiều do cái háo thắng và anh hùng cá nhân của ta. Đồng chí cũng đã thấy trong phim ngoại quốc tại cuộc đấu bò ở đấu trường Madrid bên Tây Ban Nha. Khi thấy màu đỏ của tấm vải do người đấu bò dương ra, bò như thấy mầu máu đỏ nó cứ việc húc không nghĩ đến hậu quả của những nhát gươm người đấu bò đã làm chúng gục ngã. Người ta thường bảo: Ngu như bò - Ông gằn giọng: Chúng ta không nên bắt chước những con bò háo thắng - Là chỉ huy phải sáng suốt nhanh nhậy - Khi tấn công phải như thế nào và cả lúc rút lui cũng làm sao bảo toàn được lực lượng. Về việc rút lui trong cuốn Tam Quốc Chí cũng mô tả đến phép tăng và giảm bếp ăn của Khổng Minh, Thừa tướng Tây Thục quân sư của Lưu Bị 2
Sinh mạng chiến sĩ giao cho đồng chí. Đồng chí phải biết nuôi dưỡng, rèn luyện, thận trọng và cân nhắc khi nào cần phải hy sinh xương máu đồng đội. Việc đồng chí cãi lệnh trên là một lỗi nặng nhưng tôi sẵn sàng bỏ qua nếu đồng chí còn tái phạm thì sẽ bị chết như Trương Phi của thời Tam Quốc do tác phong độc tài độc đoán sẽ mất lòng tin của quân sĩ 3.
Trần Công Khanh, lắng nghe một hồi và thấm thía lỗi của mình. Ông cúi đầu đứng lên nhận lỗi và hứa không tái phạm. Sau này ông Khanh nói với các chỉ huy một số đơn vị:
- Cuộc hội nghị này Nguyễn Sơn đã làm tôi sáng mắt và tôi đã thấy vai trò chỉ huy của mình rõ ràng. Tôi đã có sai lầm nặng nhưng được Tư lệnh khoan hồng tha lỗi làm cho tôi mến phục vì từ trước tới nay tôi chưa bao giờ sợ ai nhưng bây giờ lại sợ ông Sơn.
Do việc xử lý của tư lệnh, toàn hội nghị đã có một niềm tin tưởng vững mạnh vào sự lãnh đạo của Nguyễn Sơn, một vị tướng lẫy lừng của Trung Quốc sẽ chỉ đạo thắng được những âm mưu thâm độc của giặc Pháp.
Để tạo một khí thế dũng mãnh của quân đội, quân khu phải cố gắng lập nên một chiến công có tiếng vang lớn tại miền Nam .
Buổi họp hôm sau ông đưa ra quyết định phải nhổ cho được đồn Vạn Giã để mở cửa vào miền Nam . Các vị chỉ huy Trung đoàn hôm ấy đã cùng nhất trí. Ông giao Trung đoàn 99 làm chủ công và Trung đoàn Nam Long chia ra đánh chặn đường tiếp viện.
Sau buổi họp 2 ngày Trung đoàn trưởng Hữu Thành đã trình lên ông Sơn đủ sơ đồ đồn Vạn Giã. Ông Sơn đi khảo sát một lần nữa. Ông đến kiểm tra lại thực địa. Sau khi quan sát kỹ ông về thảo ra kế hoạch thực tập công đồn. Ông cho lập một đồn to như thật, bố trí dây kẽm gai xung quanh cho giống sự bố phòng của địch. Các chiến sĩ đã hăng hái tập luyện chiến đấu. Để khắc phục bàn chông của địch, khi xung phong được lót những tấm ván gỗ để chiến sĩ vượt qua bàn chông dễ dàng. Ông thông báo trước: cuộc tập này phải coi như một cuộc tấn công thật sự. Các đồng chí giả làm địch phải bắn đạn thật. Ai bò vào không thấp, bị trúng đạn chớ có than vãn.
Sau đó trung đoàn xuất quân chiến đấu đúng theo kế hoạch của Bộ Tư lệnh. Kết quả ngày 13/5/1946 ta đã tiêu diệt một đại đội Âu Phi 150 lính tại đồn Vạn Giã.
Chiến công lớn Vạn Giã đã làm các cứ điểm khác tan vỡ bỏ chạy. Uy tín của tướng Nguyễn Sơn đang lớn lên dần. Từ tư lệnh Trần Công Khanh đến các sĩ quan cao cấp và binh sĩ các quân khu 5, 6, 15 đã trọn niềm tin tưởng vào vị tướng tài ba xuất sắc từ Trung Quốc về biết làm thay đổi cục diện đen tối của một quân khu non yếu.
Sau này sinh viên đại đội 4 của trường lục quân trung học Quảng Ngãi là Đại tá công binh Ung Răng người dân tộc Ê Đê đã phát biểu:
- Đây là trận đầu tiên, điển hình về chiến thuật “công kiên chiến” không những của khu 6 mà còn là của toàn chiến trường Việt Nam trong mùa hè năm 1946.
__________________________________
1. Trận này sinh viên Quốc Tài, Nguyễn Tuấn và Bạch thọt có tham dự.
2. Khi Lưu Bị phái Thừa tướng Khổng Minh đem quân ra đánh Tràng An. Suốt một tháng bị mưa dầm không đánh được. Ông đã tính rút lui về thì nghe Tư Mã Ý, một tướng tài của Tào Tháo đem đại quân đến để đón đánh. Ông biết rằng sức quân không chống lại được quân Tư Mã Ý nên tổ chức rút lui. Tư Mã Ý nghe được, cho quân đuổi theo. Ông bèn làm kế tăng bếp, cứ mỗi ngày rút quân ông lại tăng thêm 500 bếp. Tư Mã Ý lại kiểm tra thấy mỗi ngày bếp ăn đều tăng lên nên Ý sợ lọt vào vòng mai phục của Khổng Minh. Y bèn tổ chức mau rút quân trở về Tràng An. Vì thế khi rút lui Khổng Minh đã bảo toàn được lực lượng.
3. Quan Công và Trương Phi, tướng nhà Thục, là anh em kết nghĩa. Khi Quan Công bị giết, Trương Phi bắt thợ may phải may gấp 500 đồ tang trong 1 đêm nếu không kịp thì bị chém đầu. Đang đêm thợ may vào báo cáo thấy Trương Phi ngủ ngồi, thợ may bèn giết luôn.


12
Nguyễn Sơn có thần uy của bậc tướng. Ông nhìn ai là biết người đó có thể làm, có gan làm. Tính kỷ luật cao, ai sai là khiển trách thẳng, không vị nể nhưng sau đó lại dịu dàng uốn nắn cho người sai cách sửa như thế nào. Một tướng lĩnh thương yêu và quan tâm đến cán bộ chiến sĩ, kể cả quan tâm đến đời tư của họ.
Một người nào đó khi tiếp xúc lần đầu với ông nếu nhát gan không dám nhìn thẳng vào mắt ông. Đôi mắt sắc sảo sáng như mắt cọp, chiếc mũi như chim ưng, miệng rộng tiếng nói sang sảng, gò má cao, xương quai hàm bạnh ra, trán rộng, dính theo những làn tóc quăn dài như chưa bao giờ cắt tóc. Khuôn mặt rất uy nghi đúng phong cách của một Tư lệnh và cũng có vẻ là một nghệ sĩ. Trên 23 năm hoạt động bên nước bạn Trung Quốc đã đào tạo ông thành con người thép, con người chỉ biết theo lẽ phải, theo chủ nghĩa cộng sản. Tính cứng rắn của ông đã làm những kẻ cơ hội trong Đảng Trung Quốc không hài lòng nên ông đã bị quy kết “gián điệp quốc tế” và nếu không có các tướng Trần Canh, Lưu Bá Thừa, Nhiếp Vĩnh Trăn cứu và che chở cho ông thì ông đã bị hại. Qua kinh nghiệm cho thấy thẳng thắn quá cũng có hại. Cả ba lần bị trục xuất ra khỏi Đảng. Lần nào khai trừ sau đó đều được phục hồi đảng tịch. Trong thời gian khai trừ ông vẫn bình tĩnh công tác, rút kinh nghiệm và trở nên tế nhị, tránh lỗi lầm vì tính nóng nẩy của mình.
Tháng 4/1946 Chủ tịch Nguyễn Sơn đã triệu tập hội nghị mở rộng, gồm thành phần Bộ Tư lệnh có các chỉ huy đơn vị các nơi và một số cán bộ phòng ban để thực hiện nghị quyết của hội nghị trung ương1. Bộ Tổng chỉ huy sẽ mở lớp huấn luyện cho cán bộ cấp Trung đoàn và cấp Tiểu đoàn.
Chủ tịch đưa ra 3 vấn đề:
1. Tổ chức lớp quân chính đại đội cấp tốc cho các cán bộ đại đội tiểu đoàn (học tại đồn Khố Đỏ2 trong 4 tháng) 3
2. Trong thời gian 4 tháng chấn chỉnh phòng Nam Bộ do đồng chí Nguyễn Thanh Sơn làm Trưởng phòng kiêm Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam lên kế hoạch đem vàng và vũ khí, tài liệu và cán bộ Trung ương vào Nam (bằng 2 đường thủy và bộ) đồng thời mở lớp ngắn ngày bồi dưỡng cán bộ trung, tiểu đoàn, tại Bungalow4
3. Mở trường Lục quân Quảng Ngãi để đào tạo các sĩ quan chính quy làm nòng cốt trong việc đào tạo 3 thứ quân tại 3 miền đất nước. 

13
Đầu tháng 4 năm 1946 Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam ra thông tư gửi khắp 3 miền: Ủy ban thành lập trường Lục quân trung học. Trong bản chiêu sinh có ghi: Các sinh viên trong toàn quốc có bằng tương đương với Thành Chung5 đều được học. Học viên phải được cấp ủy địa phương giới thiệu, với hồ sơ khám sức khoẻ và chứng chỉ học lực. Ngày 10/5/1946 thí sinh thi trong một ngày. Các môn thi gồm: Toán, hình học, sử, và luận văn. Ngày 15/5/1946 được báo kết quả cuộc thi. Ngày khai giảng là ngày 1/6/1946, các thí sinh phải tự túc ăn ở trong thời gian thi. Địa điểm tại trường công lập thành phố Quảng Ngãi. Học sinh tập trung trước ngày 25 tháng 5 để dự lễ khai giảng.
Về nội bộ Chánh văn phòng bộ tư lệnh ra thông báo cho các phòng, ban để chọn lựa cán bộ dự thi học trường Lục Quân Quảng Ngãi. Phòng Quân Nhu vẫn anh Tố phụ trách. Quân Khí được đổi thành phòng Quân Giới do anh Cúc Trung úy hải quân (chế độ cũ) làm Trưởng phòng. Tôi làm Phó phòng, anh Cống làm Chính trị viên (sau này Cống ra trung đoàn độc lập làm Chính trị viên đại đội) cùng một số binh sĩ miền Nam là nhân viên biết sửa súng.
Khi xét học lực của nhân viên phòng Quân nhu Quân giới chỉ có 3 chúng tôi là có trình độ tương đương với Thành chung nên được đưa đi học. Trong chúng tôi, Huệ không muốn thi để ra sĩ quan, chỉ có tôi và Quảng đăng ký thi vào trường Lục quân. Chúng tôi trước kia cùng học chung tại Collège Cẩm Bàng6. Khi biết kết quả cả hai chúng tôi đều đậu vào trường, tôi được xếp vào đại đội 3 và Quảng ở đại đội 2.
___________________________________
1. Trích từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam (Nhà xuất bản Quân đội 18/1/1985)
2. Đồn Khố Đỏ là đồn trước đây quân Pháp đóng.
3. Tháng 3 năm 1946 Trung ương Đảng mở trường Quân chính Bắc Sơn.
    Tháng 5 năm 1946 Bộ Quốc Phòng mở trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.
    Tháng 6 Uỷ ban kháng chiến miền Nam VN mở trường Lục Quân Quảng Ngãi. (Trích trang 232 lịch sử Quân đội Việt Nam, lịch sử Học viện Lục Quân (1946 - 1991).
4. Bungalow chỗ khách sạn của Pháp, mỗi tỉnh đều có.
5. Thành Chung: Lớp 10 chương trình Pháp
6. Collège: trường trung học.

14
Trường Lục Quân Quảng Ngãi được cất ở phía trái trên đường lên nhà ga Quảng Ngãi. Đi dọc cuối trại lính Khố Đỏ1 là trường Quân Chính Đại đội rồi đến trường Lục Quân. Trường được cất thành 10 căn nhà lá, hai căn đầu ở bên trái của trường là Đại đội 1 dùng để ngủ, 1 là nhà ăn vừa là chỗ học. Căn thứ ba cũng để ngủ và căn thứ tư để ăn của Đại đội 2. Căn thứ 5 cùng để ngủ và căn thứ 6 để ăn dành cho Đại đội 3, hai căn thứ 7 và 8 ở bên phải cổng trường dành cho Đại đội 4 - 1 căn dài gần cổng vào dành cho các giáo viên - 1 phòng cho nhân viên hành chính - 1 phòng cho tổng đội có Ban giám hiệu và giáo viên Nhật trong đó có 1 bác sĩ.
Hiệu trưởng Trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi là Nguyễn Sơn Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam . Tổng đội trưởng là Phạm Kiệt (trong thời gian chiêu sinh là Trần Thùy) nguyên chỉ huy đội Du kích Ba Tơ.
Tổng đội phó là Nguyễn Thuần.
Chính trị viên: Nguyễn Chính Giao (thời gian đầu Bí thư Chi bộ toàn trường).
Phụ trách tổng đội toàn khoá: Đoàn Khuê2
Các giảng viên về chính trị, triết học, lịch sử dân tộc… đều là cán bộ cao cấp trong Đảng như Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Chánh, Trần Lương, Đoàn Khuê, Đào Văn Trường, Hoàng Minh Thi, Nguyễn Sơn - với hai giảng viên người Áo là Hồ Chí Dân cháu nuôi Bác Hồ dạy về học thuyết Mác-Lê Nin bằng tiếng Pháp. Giảng viên này là người Đức giảng bài bằng tiếng Pháp về thuyết tiến hoá của Darwin . Anh nói hơi khó nghe vì có lai giọng địa phương. Ban huấn luyện phải nhờ anh Tố sinh viên đại đội 3 đã đậu tú tài toàn phần lên làm phiên dịch trong những lần anh Dân, anh Long lên lớp.
Ban huấn luyện chia ra 2 nhóm A và B. Các học viên được quyền đăng ký học tiếng Việt vào nhóm A và tiếng Pháp ở nhóm B. Trong toàn trường sinh viên có trình độ Thành chung (lớp 9) chiếm 3/4.
Đồng chí Lê Duẩn trước khi vào Nam có dành 3 buổi để nói về tình hình trong nước và quốc tế. Đồng chí nhấn mạnh vấn đề thanh niên với nhiệm vụ trước mắt. Đồng chí Nguyễn Văn Nguyên nói về vấn đề dân tộc, đồng chí Đoàn Khuê giảng về kinh tế, đồng chí Đào Xuân Trường về chủ nghĩa mác xít, duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Thầy Nguyễn Sơn nói về quân sự và chính trị. Thầy là kho trí thức luôn làm sáng tỏ bài học của các giảng viên. Ấn tượng đầu tiên với tôi là thầy giảng về chính trị. Chính trị là gì? Là cung cách áp bức người làm theo mình. Thật là đơn giản. Sau này tôi suy rộng ra ai cũng có chính trị, nước mình có chính trị của nước mình, nước khác có chính trị của họ. Khi đã mất chính trị có nghĩa là mình mất quan điểm, lập trường mình sẽ thất bại.
Hồ Chí Long dạy về vũ khí - Ban chính trị phụ trách tổ nghiên cứu Mác - Lê Nin cũng nắm phần tổ chức và sinh hoạt Đảng cho toàn trường. Trường lại có Ban thể dục thể thao đã từng đấu bóng đá với đội bóng của tỉnh.
Huấn luyện quân sự có các sĩ quan Nhật Bản tình nguyện đi theo cách mạng.
Đại đội 1 có huấn luyện viên Đông Hưng (tên Nhật Camo)
Đại đội 2 có huấn luyện viên Minh Ngọc (Nakahara)
Đại đội 3 có huấn luyện viên Phan Lai (Igari)
Đại đội 4 có huấn luyện viên Minh Tâm (Sato)
Huấn luyện viên trưởng Nguyễn Văn Thống (ishu Taku và phụ tá là Phan Khuê)
Một số sĩ quan Việt Nam phụ trách quản lý sinh hoạt:
Đại đội 1 có anh Hiền, Lộc, Thành
Đại đội 2 có anh Bằng và Thám
Đại đội 3 có anh Trường và Thắng
Đại đội 4 có anh Phi Hùng (Mũi) và Thám
Ban hành chính quản trị có anh Du Phong tức Nguyễn Chính nguyên chánh văn phòng Bộ tổng tham mưu. Chánh vãn phòng Ủy ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ trong những ngày tựu trường sau đó Ngô Kiên thay thế đến gần ngày mãn khóa là Trần Ren. _______________________________
1. Thời Pháp thuộc có 2 loại lính: Khố đỏ và Khố xanh. Lính khố đỏ thuộc quân đội Pháp. Khố xanh là lính của Nam triều (garde indigène)
2. Các cán bộ trường sau này ở cấp cao: Đoàn Khuê: Bộ trưởng bộ Quốc phòng. Phạm Kiệt: Trung Tướng. Nguyễn Thuần: Tư lệnh phó quân khu 4. Nguyễn Chính Giao: Phó ban đối ngoại Trung ương. Phan Hàm: Thiếu tướng. Lê Văn Nhiều: Chánh Văn phòng Tổng cục chính trị...