Hôm khai mạc trường
Lục quân trung học Quảng Ngãi, đồng chí Nguyễn Sơn giới thiệu thành phần tham dự
có thủ tướng Phạm Văn Đồng đại diện Nhà nước tại miền trung, đồng chí Hoàng Quốc
Việt - ủy viên Trung ương Đảng, đồng chí Nguyễn Chánh (Chính trị viên đội du
kích Ba Tơ) làm ủy viên UBKC và ba là Ủy trưởng quốc phòng Trung bộ. Trần Hữu
Dực UBHC Trung Bộ và Nguyễn Duy Trinh, Ủy viên, đồng chí Trương Quang Giao, Bí
thư tỉnh, đồng chí Trần Toại (tức Phương) - Chủ tịch UBNDCM tỉnh
Quảng Ngãi.
Đồng chí Nguyễn Sơn
nói mục đích của Bác Hồ và Bộ Tổng tham mưu chủ trương lập một trường quân sự
chính quy ở miền Trung và miền Bắc để cung cấp cán bộ trước mắt cho các tỉnh
trong toàn quốc.
Đồng chí nhắc lại lời
nói của Bác Hồ với quân đội: “Trung với nước, hiếu với dân” là bổn phận thiêng
liêng, một trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sĩ
trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta và những lời dặn dò của Đại tướng
Võ Nguyên Giáp về huấn luyện quân đội1.
Đồng chí Sơn nói về
thực tế của chiến trường miền trung. Giặc Pháp lấn ra Củng Sơn, Đèo Cả với manh
tâm chiếm tỉnh Phú Yên. Cách đây 4 hôm chúng đã tấn công An Khê. Phía ta, tương
quan lực lượng yếu hơn chúng về vũ khí và kỹ thuật chiến đấu rất nhiều. Ta chỉ
với tinh thần yêu nước dũng cảm chưa đủ, phải học cách đánh giặc cho có hiệu
quả. Vì lý do đó trường Trung học lục quân ra đời mặc dù chỉ cách mặt trận 100
cây số.
Trong buổi lễ này,
Nguyễn Sơn đã đả phá luận điệu của bọn phản động gán cho trường Lục Quân này là
trường cộng sản, cộng vợ, cộng con, cộng của cải.
Ông nói:
- Còn có người ngộ
nhận bị bọn phản động lừa bịp cố tình chia rẽ mặt trận đoàn kết dân tộc. Chúng
cho đây là trường Hồng quân của cộng sản “có lẽ vì tôi là người của Hồng Quân từ
bên Tầu về đây”. Nhưng trường này toàn là người của mặt trận Việt minh yêu nước.
Trước mắt bọn Pháp
đang lăm le hòng chiếm lại ba nước Đông Dương. Ta cần phải xây dựng đào tạo một
đội ngũ chỉ huy quân sự có trình độ gồm những thanh niên yêu nước có học vấn, có
sức khỏe. Trong số học viên có mặt hôm nay đâu chỉ là Việt Minh và Cộng Sản mà
gồm đủ các thành phần trong xã hội kể cả con em phú hào và quan lại (Trong số
học viên có hai thầy phán2 trên ba mươi tuổi. Có cả dòng Tôn thất nhà Nguyễn và
các thành phần dân tộc ít người như dân tộc Mường, Mán, Êđê, Bana, Chăm và Hoa
Kiều.)
Về phần các huấn
luyện viên Nhật, chúng ta không nên coi họ giống như quân Phát Xít. Đây là các
đồng chí tiến bộ chúng ta gọi là người “Việt Nam mới”, họ tình nguyện cùng chúng
ta chống Pháp, tranh đấu cho lẽ phải cho hạnh phúc của nhân loại. Còn các huấn
luyện viên người Pháp, người Đức cũng vậy: Hồ Chí Long, Hồ Chí Dân đều là những
người tự nguyện mang họ của Bác Hồ hoặc cháu Bác Hồ với ý chí noi theo Bác cùng
đi làm cách mạng. Chúng ta phải tôn trọng và hoan nghênh thiện chí của những
người “Việt Nam mới” này3
Tôi mong rằng tất cả
chúng ta, giảng viên, sinh viên và tất cả các cơ quan, ban ngành, các đoàn thể
trong các tỉnh miền Nam góp sức lại để cùng diệt giặc bằng cách làm tốt công
việc của mình.
Giọng ông oang oang
hùng hồn đã gây trong sinh viên, ấn tượng và tin tưởng ở vị hiệu trưởng tài ba,
lỗi lạc của mình.
Đồng chí Lê Văn Kiện,
sinh viên đại đội 1 trước khi đi học là đại đội trưởng đã từng chiến đấu ở Phú
Yên, Khánh Hoà4. Đồng chí thay mặt các sinh viên toàn trường lên phát biểu đại ý
hoan nghênh chủ trương lập trường của Trung ương cùng sự nỗ lực xây dựng nhà
trường và yểm trợ mọi mặt của chính quyền địa phương và đoàn thể. Ông hứa hẹn
các sinh viên sẽ cố gắng học tập trao dồi đạo đức để xứng đáng là sĩ quan quân
đội Việt Nam và không phụ lòng sự ưu ái giúp đỡ của quân dân chính đảng cũng như
thầy Hiệu trưởng Nguyễn Sơn.
Trước khi bế mạc, ông
Nguyễn Sơn đã mời các sĩ quan Nhật lên tập trung trước cột cờ đứng hàng ngang
cùng ông và các sinh viên tưởng niệm sĩ quan Ikawa đã hy sinh tại An Khê vì tổ
quốc Việt Nam và cũng vì hoà bình thế giới.
Tất cả sinh viên: 480
người theo chương trình huấn luyện 6 tháng bắt đầu học từ 01/6 đến 01/12/1946
thì mãn khoá. Lúc đầu trường lục quân thuộc Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam
quản lý cho đến tháng 12 Ủy ban này giải thể theo quyết định của trung ương sau
tháng 12 chuyển thành Ủy ban kháng chiến trung bộ. Trường đã được Chủ tịch Ủy
ban nhân dân Quảng Ngãi Trần Toại giúp đỡ trường mọi việc trong xây cất trường
kể cả huy động các bà mẹ, các chị chiến sĩ lo nấu ăn, cải thiện đời sống sinh
viên. Ngoài ra trường còn có bộ phận dịch thuật, thông ngôn, ấn loát tài liệu
học tập phổ biến các đại đội toàn trường. Mỗi học sinh được cấp một mũ sắt mũ
cối, mũ ca lô, 2 bộ đồ vải xám (Sita do hãng Phú Phong dệt), 1 đôi giầy da. Mỗi
chủ nhật sinh viên được nghỉ để xả hơi và tham quan thị xã Quảng Ngãi.
Ông luôn lái xe vào
các mặt trận miền Nam . Khi trở về theo thường lệ bất cứ ở nơi nào đồng chí
Nguyễn Sơn cũng dậy sớm đôn đốc các đơn vị chạy đều với ba lô (quần áo, sách
vở). Khi ông dẫn đầu đại đội này, qua ngày khác ông lại dẫn đầu đại đội khác.
Các sinh viên phải đeo ba lô vác súng trường, đạn dược chạy từ trường đến núi
Bút hoặc núi Thiên Ấn khoảng 4-5 cây số và trở về. Khi vào thành phố cách trường
một cây số sinh viên bắt đầu hát bài: “Dân Nam ơi nhớ ơn Bác Hồ”, “Đoàn giải
phóng quân”, “Lục quân Việt Nam”, “Quyết chiến”, “Cảm tử quân”, “Cương quyết ra
đi”, “Xếp bút nghiên”...
Anh em sinh viên tập
luyện rất nhịp nhàng, hùng dũng lại đẹp trai, hát hay nên có một số cô gái Quảng
rất khâm phục và cảm tình. Khi đoàn sinh viên đi tập về ngang thị xã, các thiếu
nữ, thiếu nhi đã ùa ra cửa trầm trồ khen ngợi. “Các anh diễn hành khéo
quá”.
_____________________________________
1. Lịch sử Bộ Tổng
tham mưu trong kháng chiến chống Pháp 1945-1954 (BTTM
1991)
2. Thầy phán là
chức vụ cao hơn Thầy ký trong tổ chức chính quyền Pháp (Sécrétaire
résidence)
3. Sau này Hồ Đệ
và Trần Đình Mai đánh giá chủ trương đại đoàn kết của tướng Nguyễn Sơn ví như
tỉnh Quảng Ngãi là cái nôi, Nguyễn Sơn là bà đỡ cho người “Việt Nam
mới”.
4. Đại đội
trưởng Lê Văn Kiện có gởi 2 cán bộ trung đội đi thi vào trường lục quân nhưng
đều bị trượt (rớt).
Ngoài sự tập luyện
gian khổ với các giáo sư Nhật hết lòng dạy dưới nắng gắt hoặc mưa sa. Thao
trường là những nơi đồng ruộng, sông rạch, núi Ân, núi Búi, Ba La, Thu Xà, Vạn
Tượng. Sinh viên vẫn cố gắng với tâm niệm sẽ được đem sở học của mình thi thố
tại chiến trường. Họ đại đa số là trí thức, có rất nhiều tài. Đại đội 1 với
tiếng đàn Hạ uy di réo rắt của Hà Thúc Cần, câu ca Văn Thọ. Thọ là sinh viên
trong thành nội Quảng Ngãi. Anh là con bà Ưng Đoá, dòng dõi nhà vua. Trong các
cuộc biểu diễn văn nghệ tại rạp chiếu bóng (Cinéma) anh giới thiệu các tiết mục
rất hấp dẫn và có duyên (Sau này anh ra ngoài miền Trung làm Trung đoàn phó một
đơn vị)
- Đại đội 2 có Papa
Kỳ1 với những câu vọng cổ mùi mẫn và số bài thơ hùng hồn của Tống Sĩ Uyên -
Riêng đại đội 3 nổi bật là tờ bích báo Búa do Nguyễn Tố (Thiết Vũ) cùng Ngụy
Trường Sanh, Trần Đình Mai nằm gần nhau và Cát Tường là ban biên tập mạnh nhất
trường với chủ trương “Búa từ ban huấn luyện, xuống sinh viên, đến nhà bếp v.v…
Nó cũng biểu hiện được phong cách thẳng thắn, hiên ngang của thầy Sơn hiệu
trưởng. Tố giỏi về tiếng Pháp. Anh thường được mời lên phiên dịch những bài về
mác xít do cháu Bác Hồ người Đức là Hồ Chí Dân giảng dạy. Ngoài ra còn có Nguyễn
Văn Tuấn trong nhóm Hoàng Mai Lưu (Nam Bộ) là sinh viên số 230 học tú tài một,
giỏi guitare đã phối âm nhiều bài với 3 bè như 'Tiếng gọi sinh viên” và “Mau về
Nam” của Lưu Hữu Phước. Sinh viên Cát Tường (một thời nổi tiếng chủ hiệu may Le
Mur ở Hà Nội) đã vẽ vài nét là xong Bác Hồ. Sinh viên Quốc Tài đã sáng tác bài
Sinh viên lục quân hành khúc. Hai người này luôn cùng đi chơi với nhau và hay bị
phạt vì về trễ, nên anh em gọi là Cát Tài.
Nội dung bài hát:
Sinh viên lục quân hành khúc:
Cùng nhau sinh viên
ta mau tiến lên, kìa...
Chim hót trên cành
đem bao phút vui mừng
Lục quân ta mong
tương lai sáng trong hồng
Chung sức ta cùng bền
chí bước lên đường
Còn đâu thu qua với
ngày tàn qua.
Nào cùng bước! cùng
nhau vang hát
Rền khắp phương trời
Nam
Ngày mai Lục Quân
bước
Theo Bác Hồ xây đời
sáng trong
Bài hát này chỉ phổ
biến một số người trong trung đội 2 đại đội 3.
Một số anh em sinh
viên khác cũng có những sáng tác thơ về tâm tình giữa sinh viên cũng như về
thầy.
Đây là bài thơ của
Trần Đình Mai - Trung đội 1 - Đại đội 3:
Cờ khởi nghĩa thúc
hùng binh
Hồn thiêng sông núi
chúng mình nối tay
Cẩm Thành2 hội tụ từ
đây
Lục Quân khai giảng,
cờ bay rợp trời
Tướng Nguyễn Sơn râu
hùm, hàm én
Dậy cầm quân diệt
giặc hiên ngang
Bút Sơn, Thiên Ấn kỳ
quan
Chạy đều rèn luyện
thân mình vì dân
Trong kháng chiến
không nài gian khổ
Học tại đây, vui
chuyện mày, tao
Sống cho đáng mặt anh
hào
Sinh viên luôn nhớ
công lao của thầy.
Một bài khác có tên
“Vị tướng lĩnh”:
Một ngày mộ Xuân
Vị tướng lĩnh áo bạc
phong trần
Đối với nụ cười khô,
lạnh
Của những ngày xưa
Mấy mươi năm bôn tẩu
giang hồ.
Có đêm vui thân mật
Người kể chuyện tâm
tình
Ngoài muôn dặm chén
nồng cũng lạt
Nước mất còn vui gì
tuổi xanh
Lần lữa tháng năm cằn
mái tóc
Mộng vàng dệt mãi vẫn
chưa thành
Đêm đêm nặng trĩu sầu
chinh khách
Nằm vọng quê nhà qua
bức tranh
Bâng khuâng biết đền
bao giờ nhỉ
Có thể đem về vạn
chiến binh.
…
Dương Viết Nuôi - Đại
đội 1 (sau này là Thiếu tướng) có bài:
Ta đã ra đi khắp mọi
miền
Ngôi sao trên mũ, dạ
trung kiên
Chiến trường vẫy gọi
cùng hăng bước
Gác chuyện riêng tư,
lỡ tình duyên
Thương những chàng
trai đã một lần
Xông pha chiến trận
chẳng tiếc thân
Nắm xương gửi lại
ngoài tiền tuyến
Nhiệm vụ vinh quang
quyết hoàn thành
Cùng nhau gặp gỡ
trong luyện tập
Ba hướng về đây kết
tình thương
Miền Trung Quảng Ngãi
ngày khai giảng
Cố học, mai sau lập
chiến công
Sinh viên Tống Sĩ
Uyên (sau là Đại tá, thương binh) có những câu thơ:
“Đời lính trẻ chỉ
quen mùi thuốc súng,
Góp công lao xây dựng
cho trường
Thắm tình “cá nước”
thân thương
Lục Quân ghi tạc cội
nguồn từ đây”
… 3
_____________________________________
1. Papa Kỳ là
chiến sĩ từ mặt trận Đất Đỏ tại Bà Rịa bị vỡ. Ông đi theo cánh quân của Trung
đoàn trưởng Hiền trôi dạt ra miền Trung cùng với Nhàn (Hoàng Thành) Tuyết Minh
và Tuấn...
2. Cẩm Thành là
tên thành Quảng Ngãi năm 1946 đã bị dân quân phá.
3. Xem phụ
trang.
17
Các huấn luyện viên
người Nhật dạy rất chăm chỉ, nghiêm túc. Sau khi hết giờ tập đại đội trở về
trường nếu hàng ngũ học viên không ngay thẳng hoặc hát không to, thì bị huấn
luyện viên phạt. Khi tới trường, huấn luyện viên hô: Mục tiêu sân bay... chạy
đều... có nghĩa là chạy thẳng lên sân bay cách ba cây số rồi mới trở về trường
cũng có nghĩa là bị phạt phải chạy thêm sáu cây số.
Giữa trưa nắng chang
chang của mùa hè có người chạy tới trường mệt quá không ăn được cơm. Nhưng tới
giờ học cũng vẫn phải cố gắng lên lớp học. Toàn đại đội chịu phạt huấn luyện
viên chạy theo cùng chịu phạt chung với sinh viên. Có thể nói quân phong, quân
kỷ, các sinh viên Lục quân thi hành rất nghiêm chỉnh.
Các huấn luyện viên
người Nhật tuy nghiêm nhưng đôi khi cũng kể vài chuyện để sinh viên thư giãn.
Huấn luyện viên Minh Ngọc nói: Khi ông học trường Võ bị Hoàng gia Nhật Bản,
trong giờ tập bắn sinh viên thấy vài thiếu nữ xuất hiện gần bia ngắm, họ vội hô
mục tiêu xuất hiện: nhắm bắn... Các sinh viên mình cũng đều cười ồ lên vì cùng
là học trò cả, bên Nhật hay bên ta cũng thế. Ta cũng hô mục tiêu áo hồng... nhắm
bắn... ấy là “nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”.
Thiếu tướng Hồ Đệ
(sinh viên Đại đội 3) nhớ lại: Tập kiếm phải hét to với tiếng “Sát” quan trọng
là đôi tay phải vận lực thật cứng, chém thẳng tới trước đúng theo bí truyền của
võ sĩ đạo. Vì vậy các sinh viên đã luyện cổ tay bằng khúc tre ngắn. Lúc nào rảnh
rang họ cũng tập. Kể cả khi chờ đợi ăn cơm anh nào anh nấy cũng nắn bóp khúc
tre. Cảnh này làm cho các chị em nhà bếp tò mò.
Các chị nói:
- Các anh chỉ cho bọn
em tập bóp với!
Các sinh viên đều
cười ồ. Lúc ấy các chị mới hiểu mình đã nói hớ. Con gái xứ Quảng không ngán ai,
họ mặc quần soọc ngắn, mang dao găm bên lưng, cắt tóc “cua” 1 như đàn ông lúc
này lại phải một phen thẹn thò trước các chàng sinh viên quỷ quái...
Mỗi tuần đều có hai
lần lên giảng đường tại rạp chiếu bóng Quảng Ngãi về các môn học Mác - Lênin2,
quân sự, chiến lược chiến thuật, triết lý, xã hội học và cũng có hôm nói rộng về
tôn giáo và chiến sự v. v...
Chúng tôi không ngờ
thầy Sơn đã mời được các đức cha bên Tin lành, Thiên chúa giáo, Phật giáo, các
giáo sĩ trong đạo Cao đài cùng đến dự buổi nói chuyện về tôn giáo của thầy. Buổi
nói này đều được mở rộng chung cho cả đồng bào đều được nghe. Chúng tôi không
nhớ kỹ sự trình bày chi tiết của thầy nhưng chỉ thấy các vị tôn giáo khả kính
kia thỉnh thoảng lại phá lên cười hoặc thích thú vỗ tay. Sự trình bày của thầy
quả là giản dị nhưng thâm thúy. Lối diễn tả duyên dáng hóm hỉnh, cách trình bày
dẫn chứng sáng sủa mạch lạc lôi cuốn được cả những vị chân tu có tiếng là nghiêm
nghị cũng phải bật cười.
Nhận xét về thuyết
trình với một vấn đề cụ thể nào ông Nguyễn Sơn là một nhà hùng biện hơn hẳn các
thuyết trình viên khác. Để tạo cho học viên có được sự chăm chú ông chen vào
những mẩu chuyện lấy từ trong cuộc chiến đấu trường kỳ chống quân Nhật và quân
Tưởng trên 20 năm tại Trung Quốc. Ông kể lại có lần ông chỉ huy một đại đội,
được tin quân Tưởng thất trận đang rút lui. Ông đã kéo quân đuổi theo và tước
khí giới một sư đoàn quân Tưởng Giới Thạch - ông diễn tả hùng hồn y như đang lâm
trận. Ông chạy chỗ này hô: “Giơ tay lên, bỏ súng xuống, tiến thẳng về phía
trước” - Ông chạy qua bụi mía hô to: “Ai chống cự bắn chết liền”. Trong đêm
trăng sương mờ bọn lính quốc dân đảng không biết Hồng quân có bao nhiêu người vì
đại đội ông giăng hàng hai bên cùng hô - Chúng bỏ súng và đi luôn về phía trước
cứ thế hết đại đội này đến đại đội khác đều bỏ súng. Đêm ấy ông phải huy động
dân chúng đem hơn 10 xe bò mới chở hết súng đạn.
Giọng ông sang sảng
hợp với khổ người cứng rắn giống pho tượng đồng đen - Khi ông tả những cảnh dã
man của bọn Pháp lê dương chém giết hoặc hãm hiếp dân lành. Ông đã làm các sinh
viên sởn ốc và sục sôi căm thù.
Ông là người nghiện
thuốc lá, nhưng khi nói chuyện cả ba bốn tiếng đồng hồ ông không cần bản thảo,
không cần hút thuốc và không cần uống nước. Cứ thế thao thao bất tuyệt rất lưu
loát, hùng hồn.
Chúng tôi học lý
thuyết thường thường vào buổi chiều 4 tiếng và cứ 2 tiếng lại nghỉ xả hơi 15
phút - Một lần tôi đã chứng kiến ông nói tại sân vận động Quảng Ngãi trước 10
nghìn khán giả suốt hơn 4 tiếng đồng hồ. Ly nước để trước mặt vẫn không vơi tí
nào. Người nói hấp dẫn, người nghe say mê. Sân vận động tuy rộng nhưng im phăng
phắc. Có thể khoa nói của ông được hình dung như thác lũ tuôn trào như dầu sôi
lửa bỏng làm cho người nghe phải phấn khởi, phải sục sôi lửa hận và tức khắc cầm
súng, cầm gươm lao về phía trước tiêu diệt quân xâm lăng dã man tàn bạo.
Hôm ấy ông nói về
tình hình đất nước, ông vạch mặt bọn phản động mà trên chủ trương đoàn kết: Bác
Hồ buộc phải nhường cho chúng những Bộ trong nội các của ta. Cách nói của ông
xem ra đơn giản nôm na, ví von nhưng lại rất hấp dẫn người nghe. Bọn phản động
Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, “đã được đàng chân lân đàng đầu” ông coi họ
là “ngu như bò”. Trong các cuộc nói chuyện với công chúng hoặc sinh viên ông
thường nói “ngu như bò” để chỉ bọn phản động. Những kẻ kêu gào đòi lật đổ Chính
phủ Hồ Chí Mình, chúng cho là chính phủ cộng sản thì quả đúng la “ngu như bò”
bởi vì trong chính phủ có vua Bảo Đại là cố vấn, Nguyễn Hải Thần là Phó chủ tịch
nước, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh đều là Bộ trưởng. Chính bọn chúng đã vả
vào miệng chúng. Còn những vị như Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại,
Bùi Kỷ, Phan Anh, Linh mục Phạm Bá Trực... nếu các ông này là cộng sản thì lừa
bịp được ai kể cả trẻ con. Luận điệu xuyên tạc này giống như người nằm ngửa nhổ
nước bọt lên nhưng bao nhiêu nước bọt lại rơi xuống mặt, như thế có phải là
chúng “ngu như bò không?”. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ mới thành
lập. Tiền trong ngân khố do chế độ cũ để lại chỉ còn hai ngàn bạc rách không
tiêu được. Ta lại để tang hai triệu đồng bào chết đói vì bọn phát xít Nhật dùng
lúa để chạy máy nên các kho lúa đều hết cả. Chúng ta lại còn diệt giặc dốt, giặc
đói và diệt giặc ngoại xâm. Vậy thì làm gì ta có “sản” để mà “cộng” quả thật
chúng “ngu như bò” và hơn cả bò nữa. Với khoa nói của ông rất nôm na, giản dị
nhưng trong sáng, các tầng lớp nào cũng hiểu được. Những ví dụ lý thú đã gây
nhiều ấn tượng cho người nghe.
______________________________________
1. Cua (tiếng Pháp
là court) có nghĩa là cắt tóc ngắn cỡ 3 phân.
2. Vì tình hình
trong nước & thế giới lúc đó, Bác Hồ tạm thời tuyên bố giải tán Đảng cộng
sản Việt Nam - Đảng được nghi trang là Hội nghiên cứu Mác xít. Về dạy Mác xít
tại trường có: Nguyễn Sơn, Đào Văn Trường, Nguyễn Chính Giao, Hà Huy Giáp, Lê
Duẩn v.v...
Nguyễn Sơn 17 tuổi là
một trong số người ngoại quốc học trường Võ bị Hoàng Phố1 đầu tiên của nước
Trung Hoa. Trong thời kỳ tham gia Bát lộ quân (tức là Hồng Quân) ông là giáo sư
giảng dạy về chính trị, về chiến lược chiến thuật, về công tác tổ chức vận động
quần chúng thành từng đoàn thể để đi theo phục vụ cách mạng - Qua kinh nghiệm
giảng dạy tại đại học kháng Nhật phân hiệu 2 trường đảng cục 2 trung ương và một
số trường khác do trung ương đảng tổ chức, ông rất mong muốn tại Việt Nam được
thành lập trường đào tạo cho cán bộ có đầy đủ trình độ, kinh nghiệm để chỉ huy
và tổ chức quần chúng thành một hậu phương vững chắc chống xâm lăng.
Trong thời gian luyện
tập cũng có những lúc gây cho anh em nhiều ấn tượng. Sau khi được nghỉ 5 phút
trên đỉnh núi Thiên Ấn, chúng tôi thấy một chiếc xe hòm đen2 leo lên đồi. Xe này
do ông Nguyễn Sơn lái vòng quanh núi và dần dần tiến vào chỗ tập. “Thầy hiệu
trưởng đã đến”. Đại đội trưởng Đào Văn Trường tập họp các sinh viên để chào
thầy, “Nghiêm” chào tư lệnh “Chào”, Nguyễn Sơn khoát tay và bảo anh em cứ tiếp
tục học. Sau 10 phút quan sát ông cho tập hợp để giảng về sự phối hợp của bộ
binh với các loại vũ khí nặng.
Thường thường ông hay
đến chỗ tập của các đại đội khi ở núi Thiên Ấn, hay núi Bút, khi sông Trà hay Ba
La, Thu Xà để góp ý cho sinh viên thu thập rõ ràng về bài đang học. Trần Đình
Mai nói với tôi: Xưa kia chỉ có tên công sứ Pháp đi xe Limousin lên núi ngoạn
cảnh. Nay tướng Nguyễn Sơn lái xe jeep lên núi này để dạy ta đánh Pháp. Sự kiện
đó không những riêng anh mà các sinh viên khác đều lấy đó làm niềm tự hào được
tướng Nguyễn Sơn làm thầy.
Có một lần, phòng
Thông tin Quảng Ngãi tổ chức đêm văn nghệ để chào mừng ngày khai giảng trường Sĩ
quan Quảng Ngãi. Ban tổ chức có mời các giáo sư và sinh viên tham dự các tiết
mục có đơn ca song ca, vũ khúc và kịch - Cô Duyên Hường, một ca sĩ cũng là một
hoa khôi của tỉnh và cũng là chị ruột tôi đã lên hát bài: “Thiên Thai” - Một
tuần sau, cũng tại rạp này, ông Nguyễn Sơn nói:
- Chúng ta ở cách mặt
trận hơn 100 cây số. Mọi người đang chuẩn bị tinh thần để chiến đấu từ bên trong
địch đổ ra và dưới biển Thu Xà cách thị xã 10 cây địch có thể đổ bộ tấn công ta.
Ta phải xếp bài Thiên Thai lại một bên và sau khi chiến thắng quân xâm lược
chúng ta giở ra hát cũng không muộn - Chuyện đó đến bây giờ các sinh viên Lục
quân vẫn còn nhớ - Hơn nữa anh Trường đại đội trưởng đại đội 3 của trường lại là
người nhớ dai nhất vì anh đã lại nhà tôi đánh đàn Hạ uy Di cho chị tôi nghe. Nếu
nhà trường kéo dài thêm 6 tháng nữa, anh Trường có thể là anh rể của tôi vì
những ngày nghỉ anh thường đến nhà tôi chơi đàn.
Một lần khác tại sân
vận động Quảng Ngãi có cuộc đấu võ Ăng Lê (boxe) 3. Họ đấu hăng đến nỗi sứt
miệng chảy máu mũi. Ông Nguyễn Sơn leo lên đài và bắt buộc các võ sĩ ngừng tay
không được đánh “Hiện giờ không phải lúc chúng ta gây thù hận giữa nhau. Lúc này
nên tập trung hết sức lực đi vào hàng ngũ Vệ quốc đoàn để đánh giặc ngoại xâm.
Tạm thời các anh em hãy dẹp lối chơi này qua một bên để đầu quân bảo vệ Tổ quốc
đang cần đến sức lực các anh để giữ nước”. Nói xong ông yêu cầu Ban tổ chức dẹp
liền cuộc đấu này.
______________________________________
1. Trường này do
Tôn Trung Sơn mở. Ông là vị lãnh đạo Quốc dân đảng thục hiện cuộc cách mạng tân
dân chủ tại Trung Quốc.
2. Xe hòm đen:
Loại xe du lịch của Pháp tên Traction quinze
3. Ăng lê: tiếng
Pháp là Anglais: người Anh. Xưa kia ta thưòng gọi là đánh bốc (tiếng Pháp là
boxe)
19
Khi đợt 1 thi xong.
Tôi qua bên Văn phòng Ủy ban kháng chiến miền Nam tại phía bên trái trước mặt
trường. Tôi vào văn phòng bất ngờ gặp ông Nguyễn Sơn. Ông hỏi:
- Đồng chí Tài đi đâu
đấy!
- Thưa Chủ tịch tôi
xin cấp giấy phép dùng súng lục.
- Đánh sẵn chưa? Ông
hỏi.
- Dạ có và có dán ảnh
với nội dung được dùng súng tại khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam
- Đưa tôi ký.
Chủ tịch liếc sơ và
ký liền.
Tôi cám ơn và nói:
- Đồng chí Chủ tịch
có thể tiếp tôi trong 15 phút về vấn đề tình báo được không?
- Được, chiều 2 giờ
đồng chí đến gặp tôi.
Đúng hẹn tôi đến và
trình bày về tổ chức tình báo không biết ta có để ý chưa chẳng hạn - Guépiou của
Nga, Scoland Yard của Mỹ, Zestapo của Đức, Intelligent service của Anh, 2 e
bureau của Pháp. Ông giơ tay ngắt ngang.
- Tốt! Hiện giờ tôi
và đồng chí Thanh Sơn đang nghĩ đến việc đó nhưng chưa có người huấn luyện.
Tôi nói liền:
- Chủ tịch yên chí!
Tôi có người quen ở Sài Gòn làm trong sở nghiên cứu mật thám, anh ấy là bạn với
anh tôi, hồi năm 1938, 1939, khi cha tôi là chủ bưu điện ở Phước Long, tỉnh Rạch
Giá (Kiên Giang). Tôi học ở Long Mỹ và anh tôi học ở Collège Bassac - Cần Thơ.
Sau anh lên Sài Gòn học và quen anh Đức. Hiện nay anh ấy đang ở trong bộ đội Bà
Rịa thất trận trôi dạt ra ngoài này, Chủ tịch cần, tôi giới thiệu - Tôi tin anh
ấy điều khiển lớp tốt.
- Bon! Sava , merci!1
Nói xong ông vỗ vai tôi.
- Cho anh ta gặp tôi
vào 9 giờ 30 sáng mai.
Tôi trở về rất hân
hoan và đi gặp Đức để cho biết cuộc hẹn này. Sau đó Đức đã đến đúng hẹn.
Cách hai tháng sau
ông Thanh Sơn đã lập phòng Tình báo Điệp báo miền Nam Việt Nam và anh Đức người
tôi giới thiệu là thầy huấn luyện cho khoá đầu tiên cho các học viên ở tỉnh
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Phan Rang về học tại Phong
Niên thuộc tỉnh Phú Yên trong thời gian 6 tháng vào đầu tháng 3 năm 1947. Sau đó
rút lại còn bốn tháng vì tình hình chiến sự căng thẳng.
Ông Thanh Sơn đã cho
người ra trường Võ bị Sơn Tây rút Phạm Ngọc Thảo mới học có 2 tháng ở Võ bị về.
Sau đó là sinh viên Nguyễn Thống cũng ở trường Võ bị này được chuyển vào Nam Bộ
năm 1948 làm phó khoa Tình báo Quân khu 9. Phòng Tình báo2, Điệp báo miền Nam
Việt Nam được thành lập vào tháng 10, Phạm Ngọc Thảo làm Phó phòng3, Nguyễn Duy
Khâm làm Trưởng phòng, anh Chi làm Chánh văn phòng.
Khi rời Tư lệnh Bộ,
tôi gặp cô Nội vợ ông Nguyễn Sơn ở chung với một cô trong căn nhà gần Bộ Tư
lệnh.
Trong dịp này Thiếu
tướng Lê Thiết Hùng đại diện Bộ Tổng tham mưu đi thanh tra các trường quân chính
tại miền trung. Ông có ghé thăm trường lục quân đang học giai đoạn đầu. Nhà
trường được tin đã chuẩn bị thật chu đáo về mọi mặt.
Hiệu trưởng Nguyễn
Sơn đã đón tiếp Thiếu tướng với nghi thức long trọng cùng các đại đội ngay hàng
thẳng lối. Sau khi Thiếu tướng được hướng dẫn đi thăm trang trại kể cả nhà bếp
và giếng nước, Thiếu tướng khen nhà trường tổ chức có quy củ, ngăn nắp tuy nhiên
ông nhấn mạnh quân đội đi lên chính quy phải đầu tư nhiều hơn nữa. Nguyễn Sơn
hoan nghênh sự đóng góp của Thiếu tướng đồng thời ông “phản pháo”. Ông vuốt râu
và chỉ vào những trang trại che lá trong hoàn cảnh thiếu thốn, ông nói:
- Thiếu tướng ạ! (vì
hai ông đều là bạn cùng học một trường Võ bị Hoàng Phố) đây là trường ở rất gần
mặt trận nên cách huấn luyện dựa vào nhu cầu thực tế của chiến trường. Trường
đóng ở một tình nghèo nên gặp rất nhiều khó khăn. Đây là một trường kháng chiến,
các sinh viên vừa học vừa chuẩn bị luôn luôn sẵn sàng để chiến đấu khi địch tấn
công. Vừa qua quân Pháp đã chiếm An Khê, nhà trường đã mở cuộc mít tinh và đã có
đa số sinh viên tình nguyện ra mặt trận.
Trường Lục Quân bước
qua giai đoạn đầu, Nhà trường đã mở kỳ thi sát hạch trình độ quân sự, chính trị
của các sinh viên sau hai tháng học tập. Số sinh viên bị loại khoảng gần 50
người với một số lý do, sức khoẻ kém, học tập kém và vô kỷ luật. Sau khi thông
báo kết quả thầy hiệu trưởng quyết định cho sinh viên tham gia cuộc luyện tập dã
ngoại trong một tháng. Các sinh viên được đi thâm nhập các đơn vị từ Thanh Hoá
vào tới Khánh Hoà. Đây là chuyến công tác vào thực tế chiến trường để sinh viên
tham gia huấn luyện và sâu sát với đời sống bộ đội.
Tại mặt trận Đèo Cả,
Củng Sơn đã có 2 sinh viên bị thương khi lâm trận. Một chuyến đi đầy bổ ích cho
số sinh viên non trẻ mới bước khỏi ngưỡng cửa trường học phổ thông trung học
được tập dượt để làm quen với không khí mặt trận.
Phòng Nam bộ đã kịp
thời lập Đài tiếng nói Nam Bộ do các đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn, Huỳnh Văn
Tiểng, Cao Hồng Lĩnh phụ trách đóng tại đình Thọ Lộc huyện Sơn Tịnh gần sông Trà
Khúc - Đài đã loan nhiều tin chiến thắng của quân khu 5 quân khu 6, các hoạt
động chống Pháp bằng mưu trí tại đồng bằng Sông Cửu Long và tố cáo tội ác của
giặc tại miền Nam. Đài có nhiều chương trình phát thanh, ngâm thơ rất sinh động.
Bọn Pháp cố tìm địa điểm này để phá hoại nhưng chúng không tìm ra được nơi đài
hoạt động.
_______________________________________
1. Thế là tốt đấy!
Cám ơn! Hồi ấy ai cũng sợ nói tiếng Pháp vì chính quyền quy là thân Pháp. Họ cho
là Việt gian. Nhưng ông Sơn biết ai là người có học thức, đào tạo trường Tây,
ông hay nói vài câu tiếng Pháp... cho vui với người đối
thoại.
2. Nhân viên Tình
báo phải là người có học thức để nghiên cứu các tài liệu tình báo các nước và
các chủ trương của quân Pháp.
3. Phạm
Ngọc Thảo là người công giáo, dòng Roma đậu tú tài làm kỹ sư công chính. Sau khi
sinh viên Tài học xong lớp tình báo vào tháng 5/1947 Tài đã được phòng tình báo
phân công làm phụ tá cho đồng clú Thảo với nhiệm vụ mở các đường bộ và thủy đưa
cán bộ Trung ương, tài liệu và vàng để mua vũ khí ở Thái Lan đem viện trợ Nam
bộ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét