Hiển thị các bài đăng có nhãn NHÂN VẬT VÀ SỰ KIỆN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn NHÂN VẬT VÀ SỰ KIỆN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 29 tháng 5, 2013

Tạ Đình Đề và những chuyện như huyền thoại

VietnamDefence - Tạ Đình Đề là người ngang tàng ngay thẳng, không ngại nguy hiểm và dám bảo vệ quan điểm khi sự việc anh cho là đúng. Chính vì tính ngang tàng, thẳng thắn đó, mà trên đường công danh, anh gặp biết bao điều trắc trở. Nhiều người đã được thấy lần anh to tiếng tranh luận với Khu trưởng Hoàng Sâm...
Ông Tạ Đình Đề
Có một người không có cấp bậc, chức vụ, không hề giữ trọng trách trong quân đội, trong chính quyền mà đã có nhiều huyền thoại. Trong kháng chiến chống Pháp từ Liên khu 3, Liên khu 4, Bình Trị Thiên, Việt Bắc... các chiến sĩ quân đội, nhân dân đều biết tên ông. Tên tuổi của ông vang mãi tới Nam Bộ xa xôi. Đặc biệt ở miệt Cống Thần, chợ Đại (Hà Nam), Hà Nội... Bà con nhắc đến ông với thái độ khâm phục, kính nể, trân trọng - người đó là ông Tạ Đình Đề.
Còn quân Pháp trong thời tạm chiếm Hà Nội nơm nớp tưởng chừng như lúc nào ông cũng có mặt giám sát hành động của chúng. Chính bọn chúng thêu dệt nên những huyền thoại “thần xuất, quỷ một” của ông trong nội thành Hà Nội thời tạm chiếm.
Người viết bài này là người cùng thời với ông, được gặp ông nhiều lần. Bạn bè, đồng đội cung cấp tư liệu và yêu cầu viết về ông. Song, khó quá, ông là người kín đáo ít muốn nói về mình. Người viết chỉ ghi lại những điều bè bạn đồng đội của ông kể lại, cùng những lần tiếp xúc ngắn ngủi với ông trong những ngày học Lục quân ở Trung Quốc (1951-1953), trong những lần họp cựu chiến binh Trung đoàn 52 Tây Tiến.
Dưới đây chỉ là một vài câu chuyện trong nhiều huyền thoại mà bè bạn, đồng đội kể về ông khi ông còn sống, kể cả chục năm, sau khi ông giã từ cõi nhân thế này.      
Người chiến sĩ Tây Tiến
Sau ngày 23/9/1945 quân Pháp đánh chiếm Nam Bộ, Chính phủ ta tổ chức lại các lực lượng quân sự thành lập các chiến khu. Chiến khu 2 gồm 8 tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.
Cuối năm 1945, đầu 1946 quân Pháp từ Côn Minh, Vân Nam (Trung Quốc) tràn xuống Bắc Lào chiếm Lai Châu, Điện Biên Phủ làm bàn đạp đánh Sơn La, Hòa Bình. Bộ Tư lệnh Khu 2 đã điều động bộ đội lên đối phó. Có bộ phận đã đặt chân sang đất Lào ngăn chặn quân địch. Bộ đội Tây Tiến 1 hình thành trong tình huống đó.
Tạ Đình Đề có mặt trong đội quân này và là Phó ban Tình báo Khu 2.
Sau tết Đinh Hợi 1947, mặt trận Tây Tiến được thành lập.
Bộ Tư lệnh mặt trận phải đọ sức ngay với quân Pháp. Tháng 3/1947, quân Pháp đánh thông đường số 6, tiến công vùng Mai Châu. Từ hướng Suối Rút tràn lên, từ hướng Mộc Châu kéo xuống, phối hợp với quân nhảy dù, định xóa sổ cơ quan chỉ huy mặt trận. Tư lệnh mặt trận quyết định chuyển Sở chỉ huy về Mường Bi, chuyển quân y xá về Lạc Sơn và tổ chức chiến đấu ở khu vực Bãi Sang, dốc Đẹt.
Ngày đó, dốc Đẹt là con đường rừng dốc, độc đạo, hiểm trở. Có anh em nói đây là con đường “bách nhân khứ, nhất nhân hồi!” (trăm người tới, chỉ một người về!). Dốc Đẹt đã đi vào huyền thoại với cuộc chiến đấu của đoàn quân Tây Tiến với quân Pháp trên giải đất núi rừng Tây Bắc, chỉ với hai tay súng của Khu trưởng Hoàng Sâm và Tạ Đình Đề. Sau đó, một mình Tạ Đình Đề như con sư tử trên đỉnh dốc chiến đấu, buộc quân địch co cụm về Chiềng Sại!
Sau trận dốc Đẹt, Trung đoàn 52 Tây Tiến được hình thành, đảm đương nhiệm vụ hoạt động trên địa bàn Tây Bắc. Bộ chỉ huy mặt trận Tây Tiến được giải thể.
Tạ Đình Đề được Tư lệnh Liên khu 3 điều động về Liên khu, làm Phó ban Tình báo Liên khu (Kim Hùng làm trưởng ban), kiêm Đội trưởng Đội Biệt động Liên khu 3.
Tạ Đình Đề - Đội trưởng đội Biệt động Liên khu 3
Đội Biệt động Liên khu 3 lúc đó có người gọi tên là “Đội Biệt động thành Hoàng Diệu”, “Đội trừ gian, diệt ác thành Hoàng Diệu”. Đội được chia thành ba tiểu tổ: Tiểu tổ 1 do Nguyễn Phương chỉ huy (Nguyễn Phương bị địch bắt đày ra Côn Đảo rồi Phú Quốc và được trao trả năm 1954). Tiểu tổ 2 do Hồ Du Tử (Lê Phan) chỉ huy (anh mới mất cách đây không lâu). Tiểu tổ 3 do Trần Văn Đức chỉ huy (anh đã mất ở Sài Gòn năm 1982).
Đây là giai đoạn tên tuổi Tạ Đình Đề nổi danh trên các ngả đường kháng chiến, tiếng đồn từ Nam ra Bắc, từ Hà Nội đến các thành phố, từ đồng bằng đến khắp rừng núi Tây Bắc, Việt Bắc...
Bản sao lý lịch của Tạ Đình Đề được lưu trữ ở Tổng cục Đường sắt:
Đồng chí: Tạ Đình Đề  (bí danh Lâm Giang)
Sinh ngày: 8/8/1917
Quê quán: Thôn Đại Định, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
Tham gia cách mạng: 1935
Vào Đảng: Tháng 6/1946, chính thức tháng 9/1946.
Gia đình nghèo, nên 16 tuổi Tạ Đình Đề đã lang bạt sang làm công nhân Sở Hỏa xa Vân Nam tại ga Côn Minh (Trung Quốc). Trong những ngày đó, anh tham gia Hội Ái hữu cứu quốc sau đổi thành Việt Nam Giải phóng cứu quốc do Mặt trận Việt Minh tổ chức.
Năm 1941, anh được tổ chức cử đi học ở Liễu Châu, một phân hiệu chuyên ngành của Trường Quân sự Hoàng Phố. Phân hiệu Liễu Châu là nơi chuyên đào tạo những nhân viên hoạt động trong lòng địch. Ta thường gọi là trường đào tạo gián điệp.
Học viên học ở Liễu Châu bao gồm các khoa mục: sử dụng các loại vũ khí, chất nổ, lái  các loại xe kể cả xe tăng, máy bay..., sử dụng các phương tiện thông tin, điện đài, phi ngựa, bắn súng, luyện khí công, luyện võ...
Tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố với tấm bằng xuất sắc, anh tham gia các hoạt động vũ trang và được tổ chức phân công hoạt động tình báo cùng phái bộ Mỹ trong phe Đồng minh chống phát xít Nhật. (Lý lịch trích ngang).
Đội Biệt động Liên khu 3 được  hình thành, hoạt động rất nhanh, rất hiệu quả.
Gọi là Đội Biệt động Liên khu 3, nhưng địa bàn chủ yếu của đội lúc này là nội thành Hà Nội. Hoạt động nội thành Hà Nội lúc ấy có nhiều lực lượng: điệp ngầm của lực lượng Công an, lực lượng Địch vận Trung đoàn 66 do đồng chí Hoàng Giáp và Phúc Đồng Mạc chỉ huy. Lực lượng Địch vận Trung đoàn 48 do Đinh Hùng, Trịnh Vũ chỉ huy.
Ngoài ra  lực lượng hoạt động nội thành của cơ quan Dân vận, Công đoàn... Các lực lượng vũ trang tuy hoạt động độc lập, nhưng vẫn có sự quan hệ chặt chẽ, yểm trợ cho nhau khi cần thiết.
Tạ Đình Đề là người ngang tàng ngay thẳng, không ngại nguy hiểm và dám bảo vệ quan điểm khi sự việc anh cho là đúng. Chính vì tính ngang tàng, thẳng thắn đó, mà trên đường công danh, anh gặp biết bao điều trắc trở. Nhiều người đã được thấy lần anh to tiếng tranh luận với Khu trưởng Hoàng Sâm.
Khu trưởng cũng là trang hảo hán, phi ngựa, bắn súng cả hai tay, múa đao thiện nghệ... Có lần trùm phỉ Lý Xíu kéo quân lên Pắc Bó đòi gặp ông Trần (bí danh của Hoàng Sâm) và Lê (Lê Quảng Ba). Hắn cho mời hai ông đến uống rượu, thi bắn súng, ném lựu đạn.
Ông Trần mới chỉ trổ tài bắn mục tiêu cố định, di động hai tay bằng hai khẩu Pạc Khoọc, Lý Xíu đã phục lăn. Đến lúc uống rượu, ông Trần biểu diễn tiết mục kỳ lạ có một không hai – uống rượu bằng mũi. Lý Xíu kinh ngạc, khi thấy ông Trần rót cốc rượu vào mũi không rớt ra ngoài một giọt.
Chính vì lần gặp mặt ngoạn mục đó, mà bọn phỉ Vòng A Sáng, Chín Thẩu mời ông Trần tới dự tiệc, nhậu với óc khỉ sống và đề nghị ông kết nghĩa huynh đệ.  Những hành động anh hùng, kiếm khách của ông Trần  đã góp phần ổn định vùng biên cương của Tổ quốc trong những ngày đầu cách mạng.
Khu trưởng là người điềm đạm, lịch lãm, thương yêu, quý trọng cấp dưới, ít khi nóng giận. Nhưng khi ông nóng lên thì "trời cũng bé". Là người cùng học ở Trường Hoàng Phố, nên Tạ Đình Đề cũng được Khu trưởng nể vì, yêu mến. Lần nóng giận, to tiếng của Tạ Đình Đề cùng Khu trưởng, làm mọi người chung quanh lắc đầu lè lưỡi. Nhưng, ngay chiều hôm đó, người ta thấy Khu trưởng ôm vai Tạ Đình Đề thủ thỉ:
- Cậu nói đúng, mình suy nghĩ chưa chín lắm!
Dọc  đường từ Cầu Dậm, Chợ Bến, Chi Nê, Nho Quan, Cống Thần, chợ Đại đến Cầu Bố, Rừng Thông..., những đồn công an nhũng nhiễu bà con, ăn chặn chị em buôn chuyến mang hàng từ vùng địch ra, Tạ Đình Đề đều có mặt. Anh vào đồn công an trao đổi với anh em bằng những lời lẽ chân tình, thuyết phục: Kháng chiến thiếu thốn, thuốc men, đường sữa, thực phẩm, hàng hóa, vải vóc... từ vùng địch đem ra hậu phương là có lợi cho kháng chiến.
Tiếng tăm của Tạ Đình Đề càng nổi trội trong hàng ngũ anh em công an dọc đường kháng chiến. Tạ Đình Đề đã góp công không nhỏ làm lành mạnh đội ngũ công an. Chính những chốt công an đó đã thành công trong công tác bảo mật, phòng gian, nhiều lần làm thất bại hành động phản quốc của những tên gián điệp, chỉ điểm, làm việc cho Pháp phá hoại hậu phương kháng chiến.
“Giữa đường gặp chuyện bất bình chẳng tha”
Tuyến đường Diêm Điền, Nga Sơn, Rừng Thông, Cầu Bố có tên đại gia buôn lậu khét tiếng, hoành hành dữ dội. Hôm đó, ở một cửa hàng ăn gần Cầu Bố có một vị khách người nhỏ nhắn, mặc chiếc áo bông xanh bộ đội phát cho cấp đại đội trở lên bước vào.
Người khách kéo ghế ngồi trong góc. Ông gọi ly cà phê, rút điếu thuốc châm lửa hút, rồi ném bao Cô-táp lên mặt bàn. Trước mặt ông khách là một người khách cao to như con gấu ngựa, ôm một cô gái ngồi trên đùi, thức ăn ngồn ngộn trên bàn.
Đây là hình ảnh hiếm gặp trong những năm tháng chống Pháp. Điếu thuốc lá nhiều lần lóe sáng trên môi ông khách. Và, nhiều lần ông khách tỏ vẻ khó chịu, nhấp nhổm trên ghế. Cho đến lúc người khách kia gọi chủ quán quát mắng, hạch sách thì ông khách nhỏ nhắn không chịu nổi. Ông đứng bật dậy.
Người khách cũng vùng dậy, khẩu Walther lăm lăm trong tay.
Trước mặt hắn là một người nhỏ nhắn đôi mắt chứa đầy những ánh lửa, tấm áo bông phanh ra. Tay ông khách đặt lên hai khẩu Côn ngựa bay dắt cạp quần.
- Mày đã nghe tên Tạ Đình Đề chưa?
Khẩu Van-te rơi phịch xuống đất. Người khách quỳ xuống chân ông khách, lắp bắp:
- ...Xin anh tha tội cho em!...
- Trong khi bà con đang gian khổ kháng chiến, các chiến sĩ hy sinh ngoài mặt trận, mà mày nỡ ngồi đây đú đởn, ăn uống, trai gái. Tao có thể thay mặt nhân dân xử tử mày. Nhưng thôi, tao tha cho cái mạng của mày!
Người khách cao to định vồ lấy khẩu súng trước mặt thì bàn chân của ông khách đã chặn lấy. Ông khách thong thả nhặt khẩu súng, rút băng đạn lẳng vèo xuống ao cạnh đó. Ông quát rất to:
- Cút ngay!
Một cú đá, người khách cao to bật ra cửa.
Cả vùng Cầu Bố, Rừng Thông ầm ĩ chuyện Tạ Đình Đề đá một phát, tên buôn lậu bắn qua đường, nằm không nhúc nhích. Từ đó, người dân vùng Cầu Bố, Rừng Thông không còn thấy mặt tên buôn lậu khét tiếng.
Một lần, Tạ Đình Đề  họp khá lâu ở Việt Bắc trở về. Anh  mặc quần áo chỉnh tề vào trong thành như một chính khách, đàng hoàng ngồi ở hiệu Bô-đê-ga giữa thanh thiên bạch nhật.
Có tên cảnh sát nhiều lần giáp mặt Tạ Đình Đề. Hắn đứng như trời trồng, khi nhận ra Tạ Đình Đề. Tên cảnh sát  quay trở ra, chạy như ma đuổi. Tạ Đình Đề lâm vào thế bất lợi. Anh kiểm tra lại hai khẩu Côn ngựa bay dắt trong bụng. Tạ Đình Đề vẫn ung dung ngồi ăn nghe ngóng, thăm dò động tĩnh. Tiếng ồn ào đầu phố dội vào, một lúc rồi im ắng...
Hà Nội giải phóng, Tạ Đình Đề gặp  tên cảnh sát dã chiến ở ven hồ Hoàn Kiếm. Vừa lạ, vừa cảnh giác, anh tóm tay tên cảnh sát ấn xuống chiếc ghế đá ven hồ.
- Lạy anh Đề! Em biết anh rồi! Lần  trông thấy anh ở cửa hàng Bô-đê-ga, hoảng quá em chạy ra đầu phố thì thấy thằng Gioóc chỉ huy đồn cảnh sát  Hàng Trống đang huy động lực lượng để bắt nhân viên Đội Biệt động Hà Nội.  Em rỉ tai nó:  "Ông Đề đấy! Chúng mày động vào ông là toi mạng!".
Nghe tên ông Đề, bọn cảnh sát khiếp vía, quay lui có trật tự. Đứng núp bên hè  bên kia đường, em còn thấy anh thọc hai tay vào túi quần, huýt sáo vang đi về phía đường Paul - Bert. Em thấy các anh hoạt động trong nội thành Hà Nội mà như ở chỗ không người thế này thì nhất định các anh sẽ chiến thắng. Em tìm cơ sở nội thành, xin được tham gia hoạt động.
Gần đây, tôi lại được nghe anh Hoàng Giáp, người chỉ huy cơ quan địch vận Trung đoàn 66 hoạt động nội thành kể:
Năm 1980, anh vào TP HCM thăm bà con, tình cờ gặp Tạ Đình Đề. Hai anh gặp lại các chiến hữu cũ Nguyễn Trần Hồ, Anh Đệ... các anh tổ chức buổi gặp mặt ở quán phở trên đường Lý Chính Thắng. Tạ Đình Đề vào Sài Gòn lần này là tìm cơ sở tổ chức chi nhánh phía Nam cho Nhà máy Dụng  cụ  cao su Đường sắt.
Hai vị Tạ Đình Đề, Hoàng Giáp cùng ngồi trên một chiếc xích-lô từ chợ Tân Định đến nơi hẹn. Bước chân xuống xe thì anh đạp xích-lô khoanh hai tay đứng trước mặt Tạ Đình Đề.
- Thưa chú! Chú có phải chú Tạ Đình Đề ngày xưa hoạt động nội thành Hà Nội không ạ!
Tạ Đình Đề lấy làm lạ hỏi:
- Tại sao cậu lại biết tên tôi?
- Cháu nghe hai chú ngồi trên xe nói chuyện dọc đường, nên  cháu biết chú là Tạ Đình Đề, người mà cháu ngưỡng mộ mấy chục năm nay. Hôm nay được gặp chú, quả là may mắn cho cháu. Thưa hai chú, cháu là người miền Bắc bị bắt đi lính. Hà Nội những năm 47, 48, 49, 50 tiếng tăm Tạ Đình Đề nổi như sấm. Bọn Pháp lúc đó vừa sợ, vừa kính phục, khi nghe thấy tên chú.
Năm 1973, cháu rời bỏ binh nghiệp, trở về đạp xích-lô kiếm sống. Nhà cháu ở hẻm 231 đường Võ Văn Tần, số nhà 5. Cần chi, xin các chú cứ gọi, cháu xin phục vụ tận tình.
Trước khi bước lên xe. Anh ta còn cúi đầu xá mấy xá.
Mỗi lần gặp nhau, chúng tôi muốn biết sự thực về những chuyện người ta đồn thổi về anh. Anh cười đôn hậu. Chúng tôi hỏi anh về chuyện bắn súng hai tay như một. Nghe nói, anh có thể bắn cụt điếu thuốc lá trên môi người đang hút và bắn tan cái cốc đặt trên đầu người cách xa 50mét! Chuyện giết nhiều tên mật thám, Việt gian trong thành Hà Nội!...
Kỷ niệm tại Trường Lục Quân
Cuối năm 1950, đầu năm 1951, tôi và một số anh em được đơn vị cử đi học Lục quân. Một chặng đường hơn 1.000km từ Nghệ An, qua Thanh Hóa, Hòa Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, vượt cầu Thanh Thủy sang Trung Quốc, băng qua Thập vạn đại sơn lên tận Côn Minh thủ phủ tỉnh Vân Nam học tập. Ngày nghỉ, đêm đi để giữ bí mật, đồng thời tránh máy bay địch. Ròng rã hơn 3 tháng chúng tôi mới tới địa điểm.
Trường Lục quân chia làm hai phân khoa. Phân khoa 1 đào tạo chỉ huy cấp trung đội, đại đội bộ binh, thông tin, pháo binh, công binh; Phân khoa 2 bổ túc cán bộ đại đội. Hiệu trưởng nhà trường là Thiếu tướng Lê Thiết Hùng, Chính ủy là Thiếu tướng Trần Tử Bình.
Tạ Đình Đề học ở Phân khoa 2. Anh học khóa 6 và học thêm khóa 7. Không rõ vì sao trong khi anh đang làm tốt nhiệm vụ chỉ huy Đội Biệt động Liên khu 3 lại được cử đi học liền hai khóa bổ túc?
Tạ Đình Đề đối với những người lính Khu 3 chúng tôi là một thần tượng. Nghe tiếng anh, chúng tôi chỉ muốn được gặp anh, được trò chuyện cùng anh. Tôi hình dung anh là một hiệp khách trong tiểu thuyết Trung Quốc, cao to, đôi lông mày xếch, mặt hung dữ, tiếng nói như sấm vang, phi ngựa, múa đao, hai tay hai súng, bắn gục kẻ thù xa hàng trăm mét nhanh như chớp!
Huân chương Độc lập hạng 3 của Chủ tịch nước truy tặng ông Tạ Đình Đề
Nhưng không, gặp anh chúng tôi thấy anh nhỏ nhắn, với nước da màu đồng, trông hiền từ như người nông dân quê tôi sau một ngày cày sâu, cuốc bẫm. Chỉ có đôi mắt anh thật sắc và con người anh hoạt bát, nhanh nhẹn. Anh cũng như chúng tôi vác khẩu Trung chính thất cửu dài nghêu, cùng chiếc nón sơn vàng, có chữ Bát Nhất đỏ chói.
Chúng tôi chỉ được gặp nhau trong những ngày kỷ niệm hoặc họp toàn trường, trên sân vận động gần Hiệu bộ. Những ngày chủ nhật cũng không được gặp mặt nhau, vì phải tăng gia cho đủ chỉ tiêu nạp cho nhà bếp.
Mỗi khi gặp nhau, bọn lính trẻ chúng tôi ngồi quây lấy anh. Gặp chúng tôi anh rất vui. Hầu như những người lính Khu 3 chúng tôi có mặt ở đây, làm anh nhớ tới những chiến sĩ trong Đội Biệt động Liên khu 3 do anh chỉ huy, đang tung hoành ngang dọc trong nội thành Hà Nội.
Anh nói với chúng tôi - Các cậu là những chỉ huy các đơn vị Tổng phản công. Học nhanh lên anh em ta sẽ trở về giải phóng Hà Nội. Đây là nguyện ước của tất cả mọi người. Những bài hát "Tiến về Hà Nội" của Văn Cao, “Ai về thủ đô tôi gửi vài lời..." của Huy Du, thường đọng trên môi mỗi người dân kháng chiến.
Chúng tôi mường tượng, giải phóng thủ đô là đuổi Tây ra khỏi đất nước, là hoàn thành thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước.
Mỗi lần gặp nhau, chúng tôi muốn biết sự thực về những chuyện người ta đồn thổi về anh. Anh cười đôn hậu. Các cậu đừng nghe người ta đồn! Chuyện bịa đấy! Chúng tôi hỏi anh về chuyện bắn súng hai tay như một. Nghe nói, anh có thể bắn cụt điếu thuốc lá trên môi người đang hút và bắn tan cái cốc đặt trên đầu người cách xa 50mét! Chuyện giết nhiều tên mật thám, Việt gian trong thành Hà Nội!...
Anh giải thích: Cách mạng là thuyết phục, là giáo dục, cải tạo con người. Ngoài những trận đánh cùng bộ đội, mình chưa hề bắn ai, giết ai trong nội thành Hà Nội. Các chiến sĩ biệt động giết địch thì có. Đôi khi lấy danh nghĩa Tạ Đình Đề viết thư cảnh cáo những tên ác ôn, tay sai của giặc làm thiệt hại cho kháng chiến.
Những lá thư cảnh cáo đó thường được gài vào khe cửa, dán lên tường nhà những tên ác ôn, với chữ ký: Ông Đề. Việc đó, có tác dụng làm chùn tay những tên ác ôn. Nhiều tên tự giác thú tội và tình nguyện làm việc cho kháng chiến.
Còn chuyện bắn súng. Hồi học ở Trường Quân sự Quế Lâm, Trung Quốc, sau nhà ở là bãi tập bắn. Nơi đó, có đủ các loại súng Pạc-khoọc, Brao-ninh, Mô-de... kể cả trung liên, đại liên... có thể bắn thoải mái bất kể lúc nào, ban ngày, ban đêm... với mọi tư thế nằm, ngồi, bắn sau lưng, bắn trong lúc hành tiến...
Ban đêm đốt nén hương bắn trúng điểm hồng. Nghe tiếng động, vẩy súng trúng mục tiêu sau lưng. Phi ngựa bắn trúng mục tiêu gần trăm mét... Vì vậy, mà bắn giỏi, thế thôi. Tôi cũng như các cậu, cũng là con người bằng xương bằng thịt, bố mẹ đẻ ra, có gì là ghê gớm lắm đâu!
Tôi nghỉ hưu năm 1991 sinh hoạt trong Ban liên lạc Cựu chiến binh Tây Tiến. Lúc này, tôi mới được gặp anh trong những lần sinh hoạt cựu chiến binh hằng năm. Và, cũng lúc này, tôi mới được biết anh rời bộ đội trở về với nghề cũ làm việc tại Tổng cục Đường sắt từ tháng 10/1954. Có nghĩa là ngay sau những ngày giải phóng thủ đô, anh đã rời quân ngũ, nơi mà anh hằng gắn bó, yêu thương.
Về Tổng cục Đường sắt, anh trải qua các chức vụ: Chủ nhiệm Tổng kho Biên giới Lạng Sơn, Trưởng đoạn Đầu máy Hà Nội, Trưởng ban Thể dục - Thể thao, kiêm Giám đốc Nhà máy Dụng cụ cao su Đường sắt - nhiều người thường gọi là Xưởng sản xuất dụng cụ thể thao Tổng cục Đường sắt. Anh nghỉ hưu tháng 2/1991 với mức lương cán sự 3!!!
Tôi được nghe anh Hoàng Sinh, thư ký của Khu trưởng Hoàng Sâm kể:
- Hồi ở Liên khu 3, thấy chúng tôi lau mấy khẩu Brao-ninh, Van-te... mới được cấp phát khá thành thạo. Liên khu trưởng vui lắm. Ít lâu sau, chừng muốn thử súng mới, lại đúng dịp xạ thủ nổi tiếng Tạ Đình Đề có mặt ở Bộ tư lệnh Liên khu, báo cáo tình hình Biệt động đội thành phố Hà Nội, anh Sâm gọi xạ thủ Tạ Đình Đề ra thi bắn.
Chúng tôi được cử làm trọng tài chứng kiến cuộc thi bắn không hẹn trước này. Mục tiêu là chùm sung rừng cách xa 20m. Mỗi người bắn 3 viên. Kết quả xạ thủ Tạ Đình Đề thua điểm.
Tôi vẫn khâm phục Tạ Đình Đề về tài bắn súng. Hầu như trong tôi, anh là xạ thủ bắn súng ngắn duy nhất mà tôi tôn thờ. Tôi hỏi anh chuyện thi bắn với Khu trưởng Hoàng Sâm. Anh chỉ cười tủm tỉm.
Đồng đội, bạn bè vẫn nhớ về anh

Mỗi lần gặp nhau, chúng tôi muốn biết sự thực về những chuyện người ta đồn thổi về anh. Anh cười đôn hậu. Chúng tôi hỏi anh về chuyện bắn súng hai tay như một. Nghe nói, anh có thể bắn cụt điếu thuốc lá trên môi người đang hút và bắn tan cái cốc đặt trên đầu người cách xa 50mét! Chuyện giết nhiều tên mật thám, Việt gian trong thành Hà Nội!...
Được trả tự do ngay tại tòa án
Tháng 8/1985, Tạ Đình Đề lại bị bắt lần thứ hai, ngày 3/9/1987, Tòa án nhân dân Hà Nội mở phiên tòa xét xử Tạ Đình Đề với 34 tội danh. Mấy ngày tòa xử, là mấy cơn "địa chấn" dữ dội ở Tòa án Hà Nội. Người từ Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Hà kéo lên, người từ các công xưởng, phố xá ùn ùn kéo tới... đứng tràn cả ra đường Lý Thường Kiệt.
Ông Tạ Đình Đề (phải)
với Thượng tướng, GS Hoàng Minh Thảo
Phiên tòa xử Tạ Đình Đề lần này cũng như lần trước. Tòa không luận được tội trạng của Tạ Đình Đề. Tội tập hợp những phần tử xấu lưu manh, trộm cắp thì hàng trăm công nhân con thương binh, liệt sĩ, những tù nhân đã được cải tạo mãn hạn tù, những chiến sĩ bộ đội hoàn thành nghĩa vụ quân sự bị thất nghiệp... được anh dung nạp, đều là những người tốt.
Nhiều anh em công nhân vừa làm, vừa học trở thành bác sĩ, kỹ sư, giám đốc, trở thành nhạc sĩ, như Phan Lạc Hoa, Lưu Quang Vũ. Không hề tìm thấy dấu vết một người trong số đó thoái hóa, biến chất. Việc làm của Giám đốc đều vì công việc, vì nhà máy, vì mọi người. Tòa không đủ chứng cứ kết tội.
Các tội vi phạm khác, đều bị luật sư tình nguyện bảo vệ Tạ Đình Đề, dùng luật bác bỏ. Điều lạ, luật sư bảo vệ cho Tạ Đình Đề là luật sư không chuyên.
Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải Dương Bạch Liên trong công văn gửi Tòa án cũng khẳng định: "...Có nhiều việc liên quan đến Bộ, đến Tổng cục Đường sắt chịu trách nhiệm, Giám đốc xưởng Dụng cụ cao su Tổng cục Đường sắt không tự ý làm...”.
Hội đồng xét xử tuyên bố Tạ Đình Đề không phạm tội. Tạ Đình Đề được trả tự do ngay tại tòa. Tòa kiến nghị Tổng cục Đường sắt phục hồi quyền lợi mọi mặt cho bị cáo!
Lời tuyên bố của tòa được truyền qua loa phóng thanh. Tiếng của Chánh án chưa dứt thì tiếng vỗ tay, hoan hô vỡ òa như sấm. Người ta ào vào công kênh Tạ Đình Đề lên vai, rồi tặng anh những bó hoa. Chính những chiến sĩ công an vừa khóa tay Tạ Đình Đề, lại là người dẫn đầu mở lối cho anh ra với bà con, bè bạn!
Anh được đồng đội ùa ra đón, Tạ Đình Đề không hiểu mình khóc hay cười.
Trong lúc Tạ Đình Đề vướng vòng tai ương thì vợ anh, chị Đặng Thị Thọ, người phụ nữ phúc hậu trằn lưng gánh vác việc gia đình, xã hội. Sống trong thời kỳ sổ gạo, tem phiếu... tiêu chuẩn của anh, của chị và con anh bị cắt hết, gia đình sống rất chật vật, thiếu thốn.
Chị cắn răng, bán căn nhà số 2 phố Hàng Ngang của cha ông để lại nuôi dạy con cái, tiếp tế cho chồng! Nhưng chị đã vượt qua tất cả khó khăn để đứng vững trong cuộc sống và luôn luôn tin tưởng vào sự vô tội của anh...
Khi hay tin, tôi được Ban Liên lạc Bộ đội Tây Tiến phân công viết về anh. Nhiều anh em gọi tôi tới cung cấp tài liệu về Tạ Đình Đề. Cũng có người hỏi: Chuyện Tạ Đình Đề đã rõ, đã được tổ chức minh chứng, công khai. Sao bây giờ mới viết?
Tôi nói, Tạ Đình Đề có nhiều điều bí ẩn về cuộc đời, về công việc anh làm. Ngày trước có thể tổ chức chưa hiểu hết về anh và còn một số điều "ràng buộc" khác viết khó được đăng lắm!
Lời kết
Một ngày đầu thu năm 1998, Tạ Đình Đề về cõi vĩnh hằng, đem đi biết bao chuyện như huyền thoại của cuộc đời anh. Thể theo nguyện vọng của bè bạn, đồng đội, anh em và của gia đình, thi hài anh được quàn tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng. Nơi đó, không gian rộng rãi hơn, trang trọng hơn.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo (Thứ ba từ phải sang) cùng các bạn chiến đấu trong buổi lễ truy tặng Huân chương Độc lập hạng 3
cho đ/c Tạ Đình Đề.
Bạn bè, đồng đội, học trò, bà con Hà Nội đến đưa tiễn anh khá đông. Những chiến sĩ Biệt động Hà Nội râu tóc bạc phơ, chống gậy đến nhìn anh lần cuối. Các chiến sĩ Liên khu 3: Trung đoàn 52 Tây Tiến, Trung đoàn 66 Chủ lực của Liên khu, Trung đoàn 48 Thăng Long... đều cử đại diện đến đưa tiễn anh. Người ta còn thấy các vị tướng từng công tác, chiến đấu cùng anh: Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Trung tướng Nguyễn Hòa..
Chỉ tiếc Lưu Quang Vũ, Phan Lạc Hoa, nhiều anh em được anh cưu mang trong lúc khó khăn, trong lúc bệnh tật hiểm nghèo không có mặt tiễn anh.
Ban tổ chức tang lễ tiễn đưa anh hôm đó là Tổng cục Đường sắt. Song, người đọc điếu văn lại là Thiếu tướng Văn Phác. Bài điếu văn của Thiếu tướng Văn Phác, nguyên Chủ nhiệm Chính trị Bộ đội Tây Tiến, nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hóa, nguyên Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Hà Nội tiễn Tạ Đình Đề về nơi an nghỉ cuối cùng khá dài, xúc động. Tôi chỉ nhớ đoạn cuối của bài điếu:
“...Anh Tạ Đình Đề ơi! Xin anh hãy yên nghỉ cùng với những chuyện như huyền thoại đẹp về anh...".
Có lẽ không có lời nào để bạn bè, đồng đội, bà con Liên khu 3 nhớ về anh hay hơn thế!
Và, sau 9 năm anh mất, căn cứ vào thành tích tham gia kháng chiến chống Pháp và xây dựng đất nước của anh, ngày 11/5/2007 Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký Quyết định truy tặng Tạ Đình Đề Huân chương Độc Lập hạng Ba
  • Nguồn: ANTG, 04.03.2008 và 10.03.2008.

Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2013

Trại Davis Sài Gòn – Ngày ấy, bây giờ…

Lai lịch một cái tên

LTS: Trại Davis là trụ sở của Ban Liên hợp Quân sự 4 bên Trung ương trong giai đoạn 60 ngày và sau đó là trụ sở Ban Liên hợp quân sự 2 bên Trung ương, đồng thời là trụ sở, nơi đóng quân của hai phái đoàn quân sự ta từ ngày 28-1-1973 đến ngày 30-4-1975. Cái tên Trại Davis gắn liền với Hiệp định Paris, với Ngày toàn thắng 30-4.
Nhân kỷ niệm 36 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Hànộimới xin giới thiệu với bạn đọc loạt bài viết và một số tư liệu về quá trình đấu tranh gian khổ, hy sinh thầm lặng, nhưng cũng vô cùng hào hùng của các chiến sỹ giải phóng suốt 823 ngày trong hang ổ của kẻ thù.
Trại Davis (Davis Camp) Sài Gòn trước năm 1973. Tiền cảnh là Nhà tưởng niệm lính Mỹ Davis.
Ngày 27-1-1973, sau gần 5 năm đàm phán, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết, đánh dấu một thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện một phần Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đánh cho Mỹ cút. Theo khoản d, Điều 16, Chương VI của Hiệp định Paris, 4 bên gồm Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa sẽ cử ngay đại diện để thành lập Ban Liên hợp Quân sự 4 bên. Theo Điều 17, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ cử ngay đại diện để thành lập Ban Liên hợp Quân sự 2 bên. Ban Liên hợp Quân sự có nhiệm vụ bảo đảm sự phối hợp hành động của các bên nhằm thực hiện các điều khoản về quân sự mà hiệp định đã quy định (về ngừng bắn, rút quân Mỹ và chư hầu, hủy bỏ căn cứ quân sự của Mỹ và chư hầu, về trao trả nhân viên quân sự, nhân viên dân sự và tìm kiếm người mất tích…).
Trại Davis nguyên là một trại lính của quân đội Mỹ, nằm gần sát phía Tây nam sân bay Tân Sơn Nhất, nay thuộc phường 4, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh. Ban đầu, đây là nơi đóng quân của Tổ Viễn thám số 3 (3rd Radio Research-RR) Lục quân Mỹ. 3rd RR có nhiệm vụ giúp Nha An ninh quân đội Sài Gòn dò tìm, xác định chính xác vị trí các đài phát sóng truyền tin của quân Giải phóng, từ đó lần tìm vị trí đóng quân của ta, chỉ điểm cho máy bay, pháo binh địch bắn phá hoặc đưa quân đến càn quét tiêu diệt. Ngày 22-12-1961, thành viên của Tổ Viễn thám số 3 là Hạ sỹ quân báo James Thomas Davis, người gốc Caucase, sinh năm 1936 tại Livingston, tiểu bang Tennessee, cùng quân ngụy đi càn, bị phục kích chết tại Đức Hòa, Hậu Nghĩa (nay là Long An). Ngày 10-1-1962, đồng đội của J.T.Davis lấy tên anh ta đặt cho doanh trại nơi họ đóng quân, gọi là Trạm Davis (Davis Station), đồng thời lập cho Davis một cái nhà tưởng niệm (miếu thờ) nhỏ kiểu Công giáo trong doanh trại. Năm 1966, Nhóm Viễn thám 509 (509th Radio Research Group-RRG) đến thay Tổ Viễn thám 3, Trạm Davis được “nâng cấp”, gọi là Trại Davis (Davis Camp). Cuối năm 1972 Nhóm Viễn thám 509 rút về Mỹ, Trại Davis bị bỏ hoang cho đến ngày 28-1-1973, khi trở thành trụ sở của Ban Liên hợp Quân sự và là nơi hai đoàn đại biểu quân sự ta đóng quân, ngay giữa sào huyệt địch.
Nhiều tài liệu cho rằng Trại Davis Sài Gòn được đặt theo tên người lính Mỹ đầu tiên chết trận tại miền Nam Việt Nam. Cứ theo logic ấy mà suy thì James Thomas Davis có cái “vinh dự” là quân nhân Mỹ đầu tiên bỏ mạng trên chiến trường xứ nhiệt đới này, nhưng không phải như vậy. Sự thật thì người lính Mỹ đầu tiên chết tại miền Nam Việt Nam là Trung sỹ Không quân Richard B. Fitzgibbon, sinh năm 1920, bị tai nạn chết ngày 6-8-1956. R.B Fitzgibbon cũng không phải là lính Mỹ đầu tiên chết trận tại Việt Nam. Do vậy, trên bức tường đá đen khắc 58.261 cái tên tại Khu tưởng niệm lính Mỹ chết tại Việt Nam (Vietnam Veterans Memorial) ở thủ đô Washington, đứng đầu danh sách là Thiếu tá Bael Buis và Trung sỹ Chester Ovman. Hai quân nhân này bị đặc công ta tiêu diệt ngày 7-7-1959 trong trận tập kích vào trụ sở của Phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ tại Biên Hòa đóng tại Biệt thự Nhà Xanh.
Davis Camp Sài Gòn là một trại lính dã chiến nằm trong khuôn viên hình năm cạnh lệch nhau, các cạnh dài khoảng 100 và 200m. Một bên là hào bảo vệ sâu 3m giáp đường băng, hai mặt khác là khu gia binh và một cơ sở bỏ hoang. Cổng Trại Davis mở ra đường Lê Văn Lộc, đối diện trại lính dù ngụy. Các nhà trong trại làm bằng gỗ thông cưa xẻ mang từ Mỹ sang, xây theo kiểu nhà sàn, quy cách thống nhất, mái lợp phibroximăng, tất cả hợp thành ba dãy nhà hình chữ U và một dãy nhà chéo, ở giữa có vài nhà trệt. Nội thất, đồ dùng giường tủ bàn ghế hoàn toàn bằng sắt. Với cái nắng nóng của Sài Gòn, nhiệt độ trong phòng có lúc lên đến hơn 40 độ C, cộng thêm tiếng máy bay cứ 5 phút lại một chuyến lên xuống suốt ngày đêm ngay sát doanh trại, sống ở đó giữa vòng vây kẻ thù suốt 2 năm, 3 tháng, 3 ngày, cán bộ chiến sỹ hai đoàn đại biểu quân sự ta đã lập một kỳ tích về ý chí kiên cường, hơn thế, đã góp phần đặc biệt xuất sắc, phối hợp với quân dân cả nước buộc quân Mỹ và chư hầu rút khỏi nước ta, đánh sụp đổ quân ngụy ngay trong sào huyệt của chúng.
Năng Lực

Mũi tên cắm giữa tim thù

(HNM) – Có thể nói trong lịch sử chiến tranh thế giới cũng như của dân tộc ta, chưa từng có trường hợp nào mà một bên đối địch lại hợp pháp cắm được một bộ phận lực lượng của mình công khai, hiên ngang ngay tại trung tâm đầu não của đối phương, được thế giới công nhận và dư luận quốc tế quan tâm theo dõi.
Hang hùm ổ rắn
CBCS Đoàn B và các sĩ quan Mỹ trước cổng Trại Davis. Ảnh: Q.K
Trưa 29-1-1973, máy bay chở Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa (VNDCCH – Đoàn A) do Thiếu tướng Lê Quang Hòa, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam làm Trưởng đoàn và các bộ phận tiền trạm hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn. Đây là lần đầu tiên một lực lượng quân ta công khai đặt chân trên đất Sài Gòn trong tư thế khiến địch hoang mang, lúng túng. Đại diện chính quyền Sài Gòn yêu cầu Đoàn ta phải làm thủ tục xin “visa” nhập cảnh mới cho xuống máy bay. Ta không chịu, vì đi từ miền Bắc vào miền Nam là trong cùng một nước, Việt Nam Cộng hòa (chính quyền Sài Gòn) không thể yêu sách như vậy. Hơn một ngày ngồi trên máy bay, cuối cùng địch phải chịu thua, cho xe bus đưa Đoàn ta về Trại Davis.
Tại Trại Davis nằm sâu trong sân bay Tân Sơn Nhất, chính quyền Sài Gòn cho rào kín nhiều tầng dây thép gai, cô lập hai phái đoàn ta với bên ngoài. Xung quanh trại, đối phương dựng 13 tháp canh lúc nào cũng thấp thoáng bóng lính, suốt ngày đêm chĩa súng vào trại. Trong nhà ở của cán bộ chiến sĩ đoàn ta, địch cài máy nghe trộm. Dựa vào ưu thế kỹ thuật, địch phá sóng, gây nhiễu, đánh cắp bí mật thông tin của ta. Sĩ quan, nhân viên trong phái đoàn địch hầu hết là nhân viên tình báo, phản gián, tâm lý chiến, an ninh quân đội, CIA…
Sau ngày giải phóng Sài Gòn, qua lời khai của nhiều sĩ quan an ninh, tình báo ngụy và tài liệu thu được, ta biết rằng tất cả những hoạt động chống phá hai đoàn ta đều nằm trong một kế hoạch tình báo hỗn hợp do 5 cơ quan đầu sỏ của địch cùng thực hiện. Đó là Phủ đặc ủy Trung ương tình báo, Tổng nha Cảnh sát, Phòng 2 Bộ Tổng tham mưu, Cục An ninh quân đội ngụy và Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA). Đối phương đã chuẩn bị kế hoạch này từ trước khi Hiệp định Paris được ký kết. Trong kế hoạch có cả việc tổ chức đầu độc, mua chuộc, chiêu hồi, bắt cóc, thậm chí xóa sổ hoàn toàn cả hai phái đoàn ta trong trường hợp đặc biệt. Có thể nói “quan điểm” xuyên suốt của địch là lòng hận thù cách mạng. Đỉnh cao của lòng hận thù đó là chỉ thị ngày 28-4-1975 của Cao Văn Viên, Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn mà ta thu được tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu địch. Bản chỉ thị gồm 4 nội dung: Bắn pháo và cối vào Trại Davis; Cho xe tăng và bộ binh tràn ngập; Ném bom; Rải chất độc hóa học với điều kiện gió không thổi về phía thành phố. Chỉ thị của tướng Viên ghi rõ là nếu phát hiện có tiếng súng từ Trại Davis bắn ra thì thi hành ngay, không cần báo cáo xin chỉ thị.
Sáng ngời chính nghĩa
Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Quân ủy Miền (B2), theo Hiệp định Paris, ta thành lập hai đoàn đại biểu quân sự gồm các tướng lĩnh, sĩ quan, cán bộ, chiến sĩ ưu tú của các lực lượng quân đội, công an, ngoại giao, an ninh Trung ương Cục miền Nam, thông tấn, báo chí và một số ban, ngành tham gia mặt trận đấu tranh ngoại giao quân sự thi hành Hiệp định Paris. Quân số mỗi đoàn có 825 người, gồm 275 sĩ quan, 550 nhân viên và cảnh vệ.
“Đối thủ” của ta là Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Hoa Kỳ do Thiếu tướng Gilbert Woodward làm trưởng đoàn; Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam Cộng hòa do Trung tướng Ngô Du (sau này là Trung tướng Dư Quốc Đống) làm trưởng đoàn. Đến thời kỳ hai bên, Đoàn ta do Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn lãnh đạo, đoàn địch do Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp làm trưởng đoàn.
Nhắc lại những ngày đấu tranh trong sào huyệt địch, Đại tá Nguyễn Văn Khả (tức Vũ Nam Bình), nguyên Trưởng ban Bảo vệ an ninh đoàn B cho biết, nhiều nhà báo quốc tế, các sĩ quan Đoàn Hungary và Ba Lan trong Ủy ban quốc tế Kiểm soát và giám sát việc thi hành Hiệp định Paris ở Việt Nam (ICCS) đã phải thốt lên: Chỉ có mỗi đạo quân giải phóng này chịu đựng được như thế. Ông mỉm cười nói thêm: “Chúng tôi không chỉ vượt qua khó khăn mà còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”.
Trong thư gửi đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Thứ nhất BCH TƯ Đảng Lê Duẩn đánh giá: “Đối với ta, điều quan trọng của Hiệp định Paris không phải ở chỗ thừa nhận hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, tiến tới thành lập chính phủ ba thành phần mà mấu chốt ở chỗ quân Mỹ phải ra, còn quân ta thì ở lại”. (Thư vào Nam – NXB Sự thật – Hà Nội 1986, tr.372, 373).
Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Di Niên đánh giá: “Nếu như Hội nghị Paris về Việt Nam là thắng lợi của cuộc đấu tranh ngoại giao kéo dài, đầy khó khăn và phức tạp thì cuộc đấu tranh buộc đối phương phải tuân thủ các điều khoản của Hiệp định Paris là cuộc đấu trí, đấu lý hết sức cam go và quyết liệt”.
Kiên quyết, tỉnh táo, khôn khéo và sáng tạo, mặc dù địch luôn tìm cách dây dưa, cố tình trì hoãn việc thi hành hiệp định, hai đoàn ta đã bằng mọi cách buộc Mỹ phải rút quân đúng, đủ số lượng cả về người và vũ khí, trang bị, đúng thời gian từng đợt theo quy định dưới sự giám sát chặt chẽ của ta và ICCS. Ngày 29-3-1973, đúng thời hạn 60 ngày, người lính Mỹ cuối cùng, kể cả nhân viên quân sự Hoa Kỳ trong Ban Liên hợp quân sự 4 bên và 159 lính thủy đánh bộ canh gác Đại sứ quán của họ đã phải rút khỏi miền Nam sau 18 năm 8 tháng có mặt với vai trò đạo quân xâm lược. Cũng trong giai đoạn 60 ngày, hai đoàn ta đã đấu tranh quyết liệt, buộc địch phải thực hiện việc trao trả nhân viên quân sự và nhân viên dân sự của các bên bị bắt. Mặt trận này cũng rất quyết liệt, hai đoàn đã đấu tranh giành giật với địch từng người của ta. Trên lĩnh vực đấu tranh buộc địch chấm dứt chiến sự, buộc địch ngừng bắn, hai đoàn ta đã vạch trần kế hoạch phá hoại hiệp định đã được chuẩn bị trước của địch. Trong tổng số 390 cuộc điều tra, ICCS đã kết luận 5 vụ quân ngụy vi phạm hiệp định, không có bất cứ kết luận vi phạm nào đối với ta, kể cả những vụ địch làm rùm beng vu cáo ta. Cũng trong những ngày chiến đấu giữa lòng địch, hai phái đoàn ta đã tranh thủ được giới báo chí Sài Gòn và quốc tế, tạo dư luận hỗ trợ chiến trường.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định: “Đây là một hàn thử biểu báo thời tiết chính trị, quân sự lúc này đặt ngay trong lòng địch” (Tổng Hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng).
Sau này, nguyên Đại tá, Trưởng phòng Tình báo quân đội ngụy Nguyễn Văn Học khai: “Chúng tôi đã gặp một đối thủ quá cứng rắn. Tất cả những lần tiếp xúc thông thường thì không sao, nhưng khi đụng vào những nội dung cần thiết thì đều bị đánh bật ra, khiến những sĩ quan có hạng như chúng tôi cũng phải lắc đầu”.
Từ tháng 10-1974, thực tế không còn hoạt động nào của Ban Liên hợp quân sự hai bên do tình hình phức tạp, địch ngày càng lộ mặt phá hoại hiệp định. Thế nhưng Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vẫn hiên ngang trụ vững giữa sào huyệt kẻ thù. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, những người chiến sĩ cách mạng kiên cường tại Trại Davis đã bám trụ, phối hợp với quân chủ lực tổ chức sẵn sàng chiến đấu. Trong những ngày hấp hối, chính quyền Sài Gòn đã nhiều lần cử người đến xin gặp phái đoàn ta, mong được liên hệ với Bộ chỉ huy để “bàn giao chính quyền”. 9h30 ngày 30-4-1975, chiến sĩ Phạm Văn Lãi, 22 tuổi, đã được lệnh cắm cờ giải phóng trên đỉnh tháp nước Trại Davis. Đây là một trong những lá cờ giải phóng đầu tiên tung bay trên bầu trời Sài Gòn trong ngày toàn thắng.
Năng Lực

Lịch sử không lãng quên


(HNM) – Bây giờ, những người lính cách mạng tại Trại Davis cách nay gần 40 năm đã ở vào tuổi 60, 70, có người đã ngoại 80 như Thiếu tướng Trưởng đoàn Hoàng Anh Tuấn, Đại tá Vũ Nam Bình…
Trăm công nghìn việc của thời kỳ sau chiến tranh, xây dựng lại đất nước, của cuộc mưu sinh thời bao cấp cuốn họ đi. Không ai trong số họ có dịp trở lại căn trại mang cái tên Mỹ đã gắn bó với họ suốt 823 ngày đêm hào hùng. Cũng rất ít người trong số họ biết được số phận của căn cứ Trại Davis…
Sau ngày Sài Gòn giải phóng, Trại Davis được giao cho Ủy ban Quân quản thành phố quản lý, sau đó thuộc quyền quản lý của Quân chủng Phòng không – Không quân.
Tháng 4-2003, thể theo nguyện vọng của anh em, Ban Liên lạc Cựu chiến binh Ban Liên hợp Quân sự Trại Davis được thành lập, hằng năm cứ đến ngày 30-4 lại tụ họp ở hai đầu đất nước, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, thăm hỏi nhau đời sống, gia đình, con cái, công việc… nhưng ai cũng đau đáu mong có một ngày về thăm chiến trường xưa. Trại Davis, nơi họ đã thân quen từng ngọn cây, góc nhà, từng con hào chiến đấu họ đào trong những ngày tháng Tư 1975 sôi động, nơi đồng đội họ ngã xuống, nơi họ cống hiến tuổi xuân đẹp nhất của đời người vì lý tưởng Độc lập – Tự do, vì mục tiêu đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Bây giờ Trại Davis ra sao?
Cổng Trại Davis thời Hiệp định Paris năm 1973.
Năm 1994, nhà báo Trần Duy Hinh, phóng viên Trại Davis năm xưa đi làm phim “Mùa Xuân toàn thắng” nhân kỷ niệm 20 năm thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Anh mang giấy giới thiệu của Tổng cục Chính trị đến gặp lãnh đạo đơn vị quản lý sân bay Tân Sơn Nhất, trong đó có Trại Davis. Chỉ huy sở đơn vị chỉ cách Trại Davis vài trăm mét, người chỉ huy đơn vị ngơ ngác: “Trại Davis là cái gì, tôi không biết gì cả, nó ở chỗ nào?”.
Tháng 4-2005, kỷ niệm 30 năm Ngày Toàn thắng, Đại tá Đinh Quốc Kỳ cùng nhiều đồng đội một thời Trại Davis có dịp vào sân bay, cùng đi với những người bạn đương chức mới vào được Trại Davis. Cũng trong dịp này, Đại tá Kỳ gặp lại cái bàn gỗ lát mỗi cạnh dài gần 4m, hình vuông, là vật chứng của 125 cuộc họp cấp Trưởng đoàn 4 bên, rồi 2 bên năm nào. Cái bàn ấy hiện ở Văn phòng đơn vị C59B, Cục Hậu cần Cơ quan Bộ Quốc phòng phía Nam. Đại tá Kỳ ngậm ngùi: Gắn liền với cuộc đấu tranh vì hòa bình ở Việt Nam có hai chiếc bàn. Chiếc bàn tròn ở Hội nghị Paris đường kính 8m và chiếc bàn vuông diện tích hơn 10m2 tại Trại Davis. Liệu có ai có ý thức giữ gìn, bảo quản cái bàn vuông không, hay một lúc nào đó nó lại thất lạc?
Kỷ niệm 36 năm Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-1975), 36 năm Ngày kết thúc thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh ngoại giao quân sự của hai đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, sáng 30-4, tại Hà Nội, Ban Liên lạc CCB Ban Liên hợp quân sự “Trại Davis” đã tổ chức giao lưu, gặp mặt truyền thống. Nhân dịp này, Bộ Ngoại giao đã trao tặng Kỷ niệm chương “về thành tích đóng góp to lớn vào việc thi hành Hiệp định Paris tại Việt Nam” cho 34 CCB.
Khánh Thu
Ngày 31-3-2010, Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Nghệ sỹ Ưu tú Trần Duy Hinh cùng đồng đội Trại Davis năm xưa vào thăm “trận địa” cũ. Anh kể lại: Vượt qua vọng gác khá nghiêm ngặt của đoàn Không quân quản lý sân bay, chúng tôi vào sát sân bay, phải vất vả lắm mới nhận ra con hào bảo vệ, còn tất cả đã thành bình địa, chia lô. Hỏi mấy người đang cắt cỏ gần đấy xem đây có phải đất của Trại Davis không, họ ngơ ngác, cuối cùng có người reo lên: “Còn cái miếu Davis kia kìa… các chú đến mà xem”. Cuối cùng, nhờ cái miếu thờ viên hạ sỹ quân báo Mỹ năm xưa, cái miếu còn nguyên mái hình mui rùa, mà anh em mình mới tin rằng đây là Trại Davis, họ đứng lặng dưới cái nắng xiên khoai để tưởng tượng đâu là dãy nhà A, nhà B, đâu là nhà chỉ huy, phòng họp, sân chơi bóng rổ, sân đậu ô tô… Những người làm cho Trại Davis trở thành một cứ điểm quân sự huyền thoại độc nhất vô nhị trên thế giới còn đây, nhưng Trại Davis đâu rồi?
Một PV Báo Hànộimới năm 2010 đã mầy mò vào được đến Trại Davis, khi về anh có viết một bài về hiện trạng di tích này. Anh cho biết khu vực Trại Davis đã được chia lô, cho thuê làm chỗ đá bóng, chơi tennis, bi-a… Cái miếu thờ hạ sỹ Davis nằm giữa sân tennis.
Cũng từ sau ngày giải phóng, nhất là từ đầu những năm 2000 đến nay, các cựu chiến binh Trại Davis cùng nhiều cơ quan chức năng đã bắt đầu hành trình đề nghị công nhận địa điểm Trại Davis là Di tích lịch sử – cách mạng và đề nghị phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho hai đoàn đại biểu quân sự ta trong thời kỳ đấu tranh thi hành Hiệp định Paris. Năm 2003, Bộ Quốc phòng có công văn gửi UBND TP Hồ Chí Minh khẳng định: “Trại Davis là chứng cứ lịch sử, ở đó đã chứng kiến quá trình đấu tranh kiên cường của cán bộ, chiến sỹ ta, thể hiện ý chí Việt Nam, tính độc đáo về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng và hoạt động ngoại giao quân sự của ta trong quá trình đấu tranh buộc địch thi hành Hiệp định Paris”. Được biết, đến nay đã có nhiều tổ chức, cá nhân có uy tín hết sức ủng hộ việc công nhận này.
Hy vọng một ngày không xa, ước nguyện của những cựu chiến binh Trại Davis và cũng là đòi hỏi chính đáng của lịch sử sẽ được đáp ứng.
Năng Lực
About these ads


About these ads

Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc tt

Vào truyện...

1
Nắng chiều đỏ rực làm nổi bật dãy núi xanh thẫm bao bọc chung quanh đồi An Khê… Từ phía tây nam có bóng ngựa đang phi từ xa xuống thung lũng. Bụi đất cuồn cuộn ở phía sau lưng. Nguyễn Sơn từ trên lầu đi xuống, với một sĩ quan Nhật. Trong lúc đó hết giờ làm việc ba chúng tôi ngồi chơi trên ghế xi măng đặt hai bên cửa toà lầu. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe những loạt súng văng vẳng từ rừng xa vọng về. Ông Sơn tay cầm ống nhòm vừa ra giữa sân thì người phi ngựa đã dừng trước mặt ông cách ba thước. Người cưỡi ngựa đứng nghiêm và giơ tay chào:
- Tôi , Nam Long1, trung đoàn trưởng trung đoàn tiền tuyến xin báo cáo: Trung đoàn đã nhận được tin từ mặt trận cho biết, địch đã lọt vào vòng phục kích của ta tại Bô Keo, quân ta đã tiêu diệt 2 xe tăng địch. Trước hỏa lực trây đơ2 và “Ép em” 3 của ta bắn dữ dội, địch đã quay xe chạy thoát. Ta lấy được 4 khẩu súng máy liên thanh gắn trên xe4, 2 súng lục, 2 thông sông5, 4 tên chết, 2 tên chạy thoát vào rừng. Hết!!
- Lực lượng chúng bao nhiêu? - Tướng Nguyễn Sơn hỏi.
- Khoảng hơn Trung đội, 2 xe tăng bị cháy, 2 xe “đốt” chở lính quay đầu chạy. - Trung đoàn trưởng Nam Long trả lời.
Với giọng sang sảng, tướng Nguyễn Sơn nói tiếp:
- Phải cảnh giác đề phòng, không phải chúng chạy luôn đâu. Chúng sẽ quay trở lại với lực lượng lớn hơn. Đồng chí hãy tổ chức ngay mạng lưới trinh sát cách mặt trận 2 cây số để nắm địch tình đồng thời tổ chức thông tin về chỉ huy sở. Tăng cường thêm chướng ngại vật đốn một số cây cho đổ ngang đường. Đồng chí thông báo khẩn cấp vào 12 giờ trưa mai, các cán bộ đại đội về họp tại đây! Đồng chí rõ chưa?
- Rõ! Tuân lệnh!
Lúc ấy hơn 5 giờ rưỡi. Chúng tôi, nhìn cảnh núi rừng lần đầu tiên mới được thấy. Khi mục kích những việc xảy ra trước mặt chúng tôi ngắm ông Long, thân hình vạm vỡ, hơi lùn. Ông đội mũ nỉ to vành, bên mũ cắm một lông ngỗng dài. Trên vai ông có một hàng đạn nhỏ dài kéo xuống thắt lưng xệ bên phải với bao da đựng cây côn đui6. Vòng dây dù cột liền với súng được luồn qua cầu vai tạo thành một kiểu trang trí đẹp mắt. Trông ông Long giống những chàng trai “cô bồi” 7 Chicagô trong phim găng-tơ8 thường chiếu tại các rạp chiếu bóng lúc bấy giờ.
Khi ông Long đi khuất vào cánh rừng. Nguyễn Sơn còn nói với sĩ quan Nhật này vài câu sau đó cùng đi thẳng đến mép rừng.
Ánh chiều mờ dần và tối hẳn. Chúng tôi bước vào nhà thì mâm cơm đã dọn sẵn ở nhà sau. Chiều nay thầy Tố đi công tác nên còn lại 3 chúng tôi bên mâm cơm.
Hồi sáng, thầy Tố có dặn chúng tôi đừng gọi bằng “thầy” nữa vì đi làm cách mạng, đi kháng chiến ở chung với đồng đội chúng ta chỉ xưng hô là đồng chí mà thôi.
Chúng tôi ngạc nhiên sao lại có 2 lính Nhật trong quân đội cách mạng. Sau những lần gặp ông Sơn ở dưới thung lũng sau nhà lầu, ông đã kể: khi tôi được Bác Hồ giao trọng trách chỉ huy kháng chiến tại miền Nam , tôi đã ở Huế hai ngày trước khi nhận nhiệm vụ. Tôi cũng đã thấy vũ khí của quân đội ta rất nghèo nàn. Một phân đội chỉ có một số súng Nga, một số súng Nhật, một số súng Pháp, thậm chí có người chỉ có lựu đạn và mã tấu. Hiện giờ tôi biết nguồn súng của Nhật rất dồi dào. Để họ giao cho quân đội đồng minh nhưng thực tế là quân ô hợp của tướng Lư Hán dưới quyền Tưởng Giới Thạch là Thống chế quân đội quốc dân đảng thì thật rất uổng. Do đó tôi đàng hoàng xin gặp vị tướng Nhật chỉ huy miền trung tại Huế. Vị tướng này thấy tôi mặc quần tây đen, áo sơ mi cộc tay, da mặt đen sạm nhưng cử chỉ đĩnh đạc. Tôi tự xưng là người chỉ huy các lực lượng yêu nước từ Trung Bộ vào đến Nam Bộ. Tôi kêu gọi các sĩ quan Nhật ủng hộ tôi chống thực dân Pháp. Lúc đầu hai bên nói tiếng Trung Quốc nhưng có đoạn khó họ lại phải bút đàm với tôi. Sĩ quan nói chuyện với tôi là Ykawa Tham mưu trưởng quân đội Nhật Bản ở Việt Nam . Ông này đang trực tiếp phụ trách quân Nhật tại Miền Trung. Ykawa có vẻ trầm ngâm nghĩ ngợi. Sau đó tôi bảo bọn họ: Các ông thấy đây là việc làm tốt đẹp cho nhân dân Việt Nam thì các ông đi theo chúng tôi. Tôi nói với giọng tự nhiên và chân thành. Các sĩ quan đã tiễn đưa tôi ra tận cổng...
Trở vào bàn, Ykawa ngồi suy tư... Ông nhìn từng chiếc lá vàng rơi ngoài sân lúc cuối đông. Ông đã chứng kiến bọn lính Tàu khi tiếp nhận vũ khí từ tay quân đội Nhật tại Thái Nguyên. Bọn này đã hoảng sợ bỏ chạy khi nghe vị chỉ huy Nhật hô nghiêm và giao súng. Hình ảnh ấy đã làm ông cảm thấy nhục nhã khi phải giao súng cho bọn ô hợp này. Ông suy nghĩ tại sao ta không theo Việt Minh và giao khí giới cho họ vì họ cũng là bộ phận của đồng minh thắng trận, hơn nữa mình lại được tiếng tham dự cuộc kháng chiến chống Pháp của họ. Đây cũng là ý tưởng cao đẹp...
Cả tuần bàn bạc, sau đó họ nhất định kéo một số sĩ quan vào Phú Phong thuộc tỉnh Bình Định.
Ông Sơn nhận được tin liền mời hai người là Ykawa (tên Việt Nam là Nhất Cử) và Minh Ngọc được đi thẳng lên An Khê gặp ông. Còn các sĩ quan khác vẫn ở lại Phú Phong nghỉ ngơi. Họ lên ở với ông 4 ngày trên nhà lầu là trụ sở của ông Sơn. Sau đó Nguyễn Sơn phái Ykawa cùng theo phái đoàn đồng chí Lê Văn Hiến đi thanh tra mặt trận Buôn Ma Thuột và Pleiku.
Do cảm nhận sự chân thành và bộc lộ lòng yêu nước tha thiết của Nguyễn Sơn, Ykawa đã ra lệnh cho số sĩ quan Nhật theo cách mạng. Họ đã đi mở các kho vũ khí từ Huế vào tới Phú Yên, đèo Cả giao súng cho quân đội ta đủ trang bị gần một trung đoàn.
_________________________________________
1. Nam Long, sau này là Trung tướng.
2. Tiếng Pháp Trây đơ (treige deux) súng liên thanh nặng 13 ly 2
3. “Ép em” tiếng Pháp là Fusil Miltrailleur (liên thanh nhẹ)
4. 2 liên thanh gắn trên xe là Fusil jumelé có nghĩa là 2 súng máy gắn liền nhau.
5. Thông sông: liên thanh nhẹ. Tiếng Anh là thompson
6. Côn đui tiếng Pháp Colt.douze (súng lục với 12 viên đạn)
7. Cô bồi tiếng Anh: Cowboy: là kẻ chăn ngựa.
8. Găng-tơ tiếng Anh: Ganster: là kẻ cướp.


2
Sáng hôm sau, thầy Tố trở về Văn phòng lúc 9 giờ sáng. Thầy nhận được lệnh tham dự buổi họp của Uỷ ban đồng thời coi sóc việc chuẩn bị cơm chiều và đồ giải khát cho cuộc họp trên 30 cán bộ từ mặt trận về.
Trước 1 giờ trưa cán bộ các cấp đã tập trung đông đảo trên lầu. Thầy giao cho anh Quảng ghi chép, theo dõi hội nghị còn thầy lo đôn đốc “hoả đầu quân” 1 phục vụ cơm chiều.
Đồng chí Nguyễn Sơn lên tiếng: Nhân danh người phụ trách các đơn vị miền Nam Việt Nam tôi xin chào các đồng chí chỉ huy đơn vị. Khi tới Quảng Ngãi tôi cũng đã tìm hiểu một phần nào về tình hình diễn biến tại miền Nam Việt Nam . Tôi phải lập tức lên gặp các đồng chí để cùng đề ra kế hoạch đối phó gấp rút với địch. Như các đồng chí đã biết, đất nước ta dài nhưng khoảng giữa lại rất mỏng manh. Địch có thể uy hiếp ta từ vùng cao nguyên xuống 4 tỉnh miền trung (Quảng Nam , Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên). Kể cả chúng đổ bộ mặt biển.
Tỉnh Buôn Ma Thuột là điểm chiến lược giữa ta và địch vì nó tiếp giáp nước Lào, nước Thái Lan (vùng ba biên giới).
Trước ngày toàn quốc kháng chiến (19/12). Ngày 14/10/1945, quân Pháp đổ bộ lên Hòn Cau đánh chiếm thị xã Nha Trang tháng 11/1945, 1 vạn quân của sư đoàn Thiết giáp số 2, Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 (5c RIC) 2 và chiến hạm Richclieu phối hợp máy bay, xe tăng tấn công các tỉnh Nam Trung Bộ.
Ngày 18/11/1945, cánh quân cơ giới lên Bù Đốp theo đường 14 tiến chiếm Buôn Ma Thuột. Phía ta, đơn vị giải phóng quân từ Khánh Hoà lên phối hợp với quân địa phương bảo vệ Buôn Ma Thuột.
Ngày 30/11/1945, Pháp chia 2 mũi tập kích vào thị xã Buôn Ma Thuột. Một đại đội ta bị tập kích đã tan rã chung với một phái đoàn đi kiểm tra mặt trận.
Do sự chống trả quyết liệt của số đơn vị ta nên quân Pháp tạm thời rút lui.
Ngày 2/12/1945, ta đã tăng cường thêm đơn vị của Thu Sơn và Nguyễn Đôn bảo vệ đường 14 về Buôn Ma Thuột.
Ngày 5/12/1945, binh đoàn bộ binh cơ giới Pháp có pháo binh, cơ giới yểm trợ đã tấn công vào Buôn Ma Thuột. Ta đánh mìn nổ cầu Sêrêpôk nhưng vẫn không ngăn cản được sự tấn công của địch. Mất Buôn Ma Thuột ta phải rút ra ngoài chờ chi viện của cánh quân ba biên giới (lúc đó ta đã mất phòng tuyến CADA và phòng tuyến Phượng Hoàng3.
Trước tình hình trên chứng tỏ quân dân Buôn Ma Thuột không chống cự nổi lực lượng mạnh mẽ của địch. Qua hoạt động trên ta có nặng về chiến đấu chính quy. Chưa nắm được tương quan lực lượng giữa ta và địch để đối phó với mọi tình huống. Một phần cũng vì quân đội ta chưa được huấn luyện tốt: kinh nghiệm chiến đấu còn ít.
Sau thắng lợi của trận Bô Keo tôi mong các đồng chí chỉ huy đơn vị uyển chuyển vận dụng du kích chiến để tránh mũi nhọn của địch, nên đánh vào lưng và đuôi địch. Không nên háo thắng mà phải vận động đánh vào chỗ yếu của địch. Địch tập trung thì ta phân tán vì ta không đủ lực lượng gấp ba địch nên phải phối hợp với dân quân thực hiện đánh tỉa và gài lựu đạn tiêu hao địch.
Yêu cầu của chiến trường Buôn Ma Thuột là bằng mọi cách không cho địch nống ra chiếm các vùng phụ cận. Huy động du kích bắn tỉa để chúng không thực hiện xây lô cốt chung quanh thị xã. Chúng ta khống chế được Buôn Ma Thuột thì vùng đồng bằng mới mong được an toàn.
Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam sẽ cố gắng mở lớp đào tạo một số sĩ quan để cung cấp cho các mặt trận Tây Nguyên và đồng bằng. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến, phía địch mạnh, ta yếu ta phải dùng trí hơn là dùng sức, vì vậy lực lượng vũ trang tuyên truyền cùng địch vận phải cố hoạt động để làm yếu địch và xây dựng cơ sở quần chúng là rất cần thiết.
Bộ chỉ huy miền Nam sẽ dời về đồng bằng vì An Khê là vị trí tuyến đầu để tạm thời giải quyết những diễn biến về quân sự, chính trị trước mắt tại quân khu 5 và quân khu 15.
Trước khi chấm dứt cuộc họp, đồng chí Nguyễn Sơn nhấn mạnh: củng cố tinh thần quân đội quyết dành độc lập tự do, phải tổ chức sâu rộng các đoàn thể người Kinh, người Thượng cùng sát cánh với quân đội để chống Pháp đến cùng. Chúng ta phải chống tư tưởng sợ địch cũng như khinh địch. Đánh giá đúng giữa địch và ta để tập trung lực lượng hoặc phân tán lực lượng đánh du kích. Các đồng chí về kê khai các cấp chỉ huy cấp trung, đại đội có thành tích chiến đấu hoặc có trình độ học lực ngang trung học (lớp 9) để sau này Ủy ban sẽ mở trường huấn luyện quân sự chính quy cho các cấp.
Trước mắt, ta phải tập luyện binh sĩ bắn giỏi, học tập cách gài lựu đạn, đặt mìn phá xe cơ giới, sử dụng mìn định hướng, nếu thiếu mìn thì bó 2 quả lựu đạn làm một gói để chống. Lấy khúc cây cột lại để vào dưới xích xe địch khi xe tăng chúng tấn công. Ta cho nổ, xích đứt, xe tăng sẽ dừng lại. Phải xây dựng hầm chông, bãi chông v v… Tìm những chiến sĩ xuất sắc để tăng cường các đội bắn tỉa làm tiêu hao và làm hoang mang tinh thần địch.
________________________________________
1. Hoả đầu quân: là cán bộ cấp dưỡng bây giờ.
2. RIC tiếng Pháp Régiment Infanterie Colonial.
3. Trích lịch sử đảng bộ và nhân dân thị xã Buôn Ma Thuột xuất bản 7/1992.
    - Ngày 20/12/1945 ta phản công chiếm thị xã Buôn Ma Thuột hướng Bắc từ đường 14 vào do Lê Thanh chỉ huy Đại đội Nghệ An. Hướng Đông đánh theo đường 12, đánh đồn có Đại đội Bắc Sơn, 2 trung đội Nghệ An, trung đội Thuận Hoá do đ/c Nam Long chỉ huy. Hướng Nam do lực lượng tỉnh đảm nhiệm. Ta pháo kích và tấn công dữ dội. Pháp phải co cụm tại khu vực Bungalow. Ta tiêu diệt 400 địch. Sau đó dịch phản công mạnh mẽ, ta bỏ thị xã và rút về cây số 19 (Hà Đông) để củng cố lực lượng, xây dựng phòng tuyến. Ngày 21/1/1946 địch tập trung toàn lực tấn công phòng tuyến CADA. Phòng tuyến ta vỡ ngày 25/1/1946 phòng tuyến Môxắk, Phượng Hoàng cũng bị vỡ luôn.


3
Buổi họp một số cán bộ tiếp giáp khu 15 được kết thúc. Đồng chí Tố mời tôi và Huệ cùng ăn chung bữa cơm này.
Đêm đó tôi trằn trọc không ngủ được, tôi lại nghĩ đến thầy Tố. Thầy xuất thân là thầy ký làm việc tại Tòa sứ Quảng Ngãi. Tôi không biết thầy có tham gia công tác bí mật thời tiền khởi nghĩa trong hàng ngũ công chức không? Hồi đó tôi làm trinh sát trong thành nội Quảng Ngãi đôi khi có đưa thơ cho thầy Trọng và thầy Tố. Cha tôi làm Giám đốc bưu điện tỉnh1.
Khi dân chúng đang sục sôi đứng lên diệt phát xít Nhật, Quảng Ngãi là tỉnh có cao trào cách mạng mạnh mẽ so với các tỉnh miền Trung. Vài năm trước đây bọn thực dân Pháp đã xâu dây kẽm vào tay hàng chục người chúng nghi là chính trị phạm2. Chúng đánh cho họ chạy xuống nước và chết tại sông Trà Khúc. Ở Ba La, Vạn Tường tại bãi cát này chúng đã chặt đầu hoặc chôn sống nhiều chiến sĩ. Dân chúng khi đi ngang qua vùng bãi cát này còn nghe dưới lớp cát có tiếng kêu “ri - ri” 3 của người chưa chết.
Khắp thôn xóm trong huyện, nhiều nông dân đã bị chết trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 đến Nam kỳ khởi nghĩa năm 1940. Các nhà tù Gi Lăng, Ba Tơ đều chật ních những chính trị phạm. Dân chúng Quãng Ngãi nơm nớp lo sợ và nhiều người đã căm thù trước hành động dã man của bọn chúng. Họ đã tìm đường lên núi theo cách mạng.
Ngọn cờ đỏ sao vàng đã phất cao tại tỉnh Quảng Ngãi. Những chủ sở làm cho Tây đều bị bắt giam hoặc bị xử tử. Các tên mật thám và cảnh sát ác ôn bị hành quyết. Riêng cha tôi, ông đã chống lại thằng Phó công sứ Dubois, ông đã lên án nó tại Toà sứ Trung kỳ về tội nó đánh đập ức hiếp dân. Một tháng sau nó đã bị khiển trách và bị đổi đi nơi khác. Chuyện đó đa số người trong tỉnh đều biết sự ngay thẳng, không khuất phục của cha tôi mà người ta tại thị xã thường gọi là “ông chủ dây thép cứng đầu”. Vì thế cha tôi không bị tù và còn được xem là nhân sĩ yêu nước trong tỉnh. Tôi cũng được tổ chức giao cho việc theo dõi những hành động, số quân và di chuyển của bọn Nhật đóng tại nhà dây thép (bưu điện).
Cách mạng tháng 8 tỉnh Quảng Ngãi thành công, tôi được phụ trách đội Thiếu niên xung phong của thị xã. Đội này thường đi tuyên truyền tham gia diễn hành và ca hát4.
Trong không khí hăng say cách mạng tôi không còn tâm trí để tiếp tục học tập. Tôi nghiêng về dạy cho đội các bài hát cách mạng, hoặc tập quân sự, tập diễn hành.
Trong giấc ngủ, tôi nghe tiếng trống, tiếng kèn, tiếng hô 1, 2, 1 của các chiến sĩ từ chiến khu ra, cùng các chị em du kích Ba Tơ mặc đồ soóc xanh5, đầu húi cua đi đều trông rất nhịp nhàng, oai dũng với tiếng hát hùng hồn.
Tại thị xã luôn tưng bừng, nhộn nhịp.
Độc lập rồi! Tự do rồi!
Ta đã đuổi Pháp, đuổi Nhật thoát ách nô lệ ngoại bang! Còn gì sung sướng cho bằng! Đi khắp nơi đâu đâu cũng nghe tiếng hát, tiếng trống, tiếng sáo vang lừng...
Đài phát thanh6 vang vang loan tin khắp phố phường: Bọn thực dân Pháp đã núp sau bọn đồng minh Anh, Ấn chúng tiến vào Sài Gòn và bắt đầu cuộc lấn chiếm đến các tỉnh miền đông, miền tây. Các mặt trận được quân dân ta dựng lên như mặt trận Cầu Bông, Thị Nghè, Cây Mai, Bà Điểm, Bình Điền, Bình Chánh v.v... đều lần lượt tan vỡ. Chúng đi đến đâu nhà cửa bị đốt, con trai bị bắn, con gái bị hãm hiếp. Biết bao cảnh tang thương trong khói lửa.
Nghe lời Bác Hồ kêu gọi, toàn dân đứng lên diệt thù. Ai có gươm dùng gươm, ai có súng cầm súng quyết tiến ra mặt trận. Tại bắc bộ, trung bộ phát động phong trào Nam Tiến. Các đoàn học sinh, sinh viên nhập ngũ nườm nượp tiến vào nam diệt giặc xâm lược.
Rồi Tiếp Phòng Quân cũng vậy7, tôi đã lác mắt trước bước chân các chiến sĩ mặc bộ ka ki và đội ca lô vàng, giầy cao cổ đen. Hết đoàn này lại đoàn khác nhộn nhịp đi qua thị xã Quảng Ngãi làm tôi đứng xem không biết chán. Tôi lại liên tưởng tới tại rạp Cinêma8 các cán bộ uỷ ban nhân dân tỉnh hô hào tòng quân. Trong đầu óc tôi đã nẩy ra sự quyết tâm “phải đi giết giặc”. Lòng tôi luôn nôn nao, chân tôi không ngừng bước khi đến trụ sở thị xã, hoặc đến ban âm nhạc tỉnh đoàn để học hát. Lúc ấy tôi lại khâm phục thầy Thiều nghiện hút á phiện, thân thể gầy còm vẫn dạy cho đoàn hát và thổi sáo suốt ngày không biết mệt. Tôi lại nhớ bài Quân Tiền phong từ trung ương gửi vào không đánh dấu nên thầy và chúng tôi đã hát: Quân Tiền phong “theo cơ đồ sáo vang” thay vì phải hát “cờ đỏ sao vàng”...
Ngoài giờ học ở trường, tôi lăn vào huấn luyện cho các em những buổi tối. Đội Thiếu niên xung phong chỉ có gần 40 người. Tất cả đều đồng phục, quần xanh cụt, áo trắng cụt, đầu đội mũ calô9. Đội tôi được đánh giá là đội hạng nhất trong toàn thị xã về hát và diễn hành. Các em phần đông là con công chức nên đầy vẻ khôi ngô, tuấn tú dễ thương.
________________________________________
1. Giám đốc Bưu điện: (Receveur des Postes Télegraphe et Téléphpne)
2. Chính trị phạm: Những người yêu nước hoặc những cán bộ cách mạng hô hào tổ chức dân chúng đứng lên đánh đổ thực dân Pháp đang cai trị nước ta. Họ bị chính quyền Pháp bắt bỏ tù.
3. Bọn thực dân Pháp bắt đồng bào tình nghi là hoạt động cách mạng, chúng chôn sống dưới cát nên đồng bào đi qua chỗ chôn vẫn còn nghe tiếng ri ri.
4. Trong đội thiếu niên xung phong có em Trương Quang Lục, sau này là Nhạc sĩ nổi tiếng và một số em thành đạt là kỹ sư, bác sĩ...
5. Soóc: tiếng Anh là Short là quần cụt hay quần đùi.
6. Đài phát thanh Tiếng nói Nam Bộ thuộc phòng Nam bộ do Nhạc sĩ Huỳnh Văn Tiểng trong nhóm Hoàng Mai Lưu (Hoàng là Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước). Đài này do đ/c Tiểng phụ tránh cùng với đ/c Cao Hồng Lĩnh...
7. Tiếp Phòng Quân là một lực lượng quân đội Việt Nam được đóng chung với quân Pháp có nhiệm vụ cùng quân Pháp giải quyết những việc đụng chạm giữa nhau trước ngày toàn quốc kháng chiến.
8. Ci nê ma: tiếng Pháp Cinema là rạp chiếu bóng.
9. Calô: Tiếng Pháp là calot loại mũ vải đầu trước và sau hơi nhọn.

4
Chiều hôm đó. Quảng, bạn học trong đội hướng đạo sinh lại gặp tôi tại sân bóng rổ nằm trong chu vi nhà dây thép1. Quảng bảo:
- Mày đi bộ đội không? Trưa mai đi liền.
Tôi ngừng tung bóng và hỏi.
- Đi chứ, nhưng bằng cách nào?
- Không lo, thầy Tố2 bảo trưa mai sẽ có ô tô chở chúng mình lúc 12 giờ
- Được! Tao sẽ đúng hẹn đến nhà mày và cùng đi với mày.
Tối hôm đó tôi nhét vào túi xách 2 bộ đồ và áo lạnh, phu la3 1 cuốn sổ và vài đồ linh tinh.
Ba tôi hỏi:
- Con xếp quần áo đi đâu?
- Con chuẩn bị đi cắm trại ở núi Thiên Ấn 2 ngày.
Đêm hôm đó tôi trằn trọc không ngủ được. Những bước chân du kích Ba Tơ, những hình bóng trẻ, khoẻ của nữ dân quân, những tiếng súng lách cách lên đạn đã dấy lên sự sôi sục trong huyết quản làm tôi nôn nao như muốn thét lên. Chợt tôi vừng thức dậy viết lên giấy vài lời: “Kính chúc bố mẹ mạnh khoẻ, con tòng quân vào nam đánh giặc, nếu thuận tiện con sẽ gửi thư. Con rất yêu quý bố mẹ nhưng nếu đánh đuổi bọn giặc Pháp giành lấy Độc lập, Tự do lại càng quý hơn. Kính mong bố mẹ hiểu cho nỗi lòng của con khi đất nước còn bị đe doạ bởi quân thù”.
Tôi đặt tờ giấy lên giường và đè chân bình mực lên trên.
Sáu giờ sáng, tôi gửi ba lô ở nhà bạn Quảng và lại trụ sở Thiếu niên xung phong để từ giã các em. Có một số các em khóc: “Anh đi rồi ai dạy quân sự và dạy hát cho bọn em”? Tôi trả lời:
- Phòng tuyên truyền thị xã sẽ cử người phụ trách, các em đừng lo. Nếu gặp khó khăn hãy liên lạc với giáo sư Hồ Văn Điềm4 sẽ được hướng dẫn công tác.
Tình cảm giữa các em và tôi rất thắm thiết. Tôi đã lo cho các em từng li từng tý về học tập lẫn giải trí và giải khát khi biểu tình.
Tôi phải kết thúc và giải tán nhanh các em để chuẩn bị lên đường. Nếu còn kéo dài tôi sợ sẽ ra đi không nổi.
Chiều hôm đó ba chúng tôi ra đi ô tô đến tỉnh Bình Định.
Trong thành cổ ở đấy đang bị các dân quân đập phá - Cơm chiều vừa xong chúng tôi lại lên ô tô cùng với một số chiến sĩ ở trạm lên bổ sung mặt trận An Khê. Xe qua Phú Phong nơi có nhà máy dệt lớn nhất miền Trung. Nửa đêm xe đã đến An Khê. Chúng tôi được bố trí một góc trong căn lầu. Anh Nguyễn Tố tiếp đón chúng tôi niềm nở. Anh phân công liền:
- Huệ phụ trách kế toán tài chính có nhiệm vụ giữ và xuất tiền, Quảng lo văn phòng nhận và thảo công văn, Tài phụ trách quân khí nhận vũ khí hư hỏng và cung cấp vũ khí đạn dược cho các đơn vị - Ưu tiên đơn vị đang bám gần địch.
Tôi ngạc nhiên:
- Thưa anh! Phòng quân nhu của mình chỉ có ba người!
- Mới đầu thành lập, tạm thời có bấy nhiêu sau này theo yêu cầu công tác sẽ phát triển thêm người (thầy Tố đã nói đúng, chúng tôi từ 4 người, 2 tháng sau đã phát triển gần năm chục chiến sĩ)
Dưới lầu là phòng quân nhu chúng tôi, trên lầu là văn phòng Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam với một người thư ký cùng ông Sơn và hai người Nhật.
__________________________________
1. Dây thép: Là nhà bưu điện bây giờ.
2. Thầy Tố: trước cách mạng là Thư ký toà bố (Sécrétaire de Résidence)
3. Phu La tiếng Pháp: Foulard là khăn quàng cổ.
4. GS Hồ Văn Điềm dạy trường Cẩm Bàng phụ trách tổ chức tráng sinh hướng đạo tại Quảng Ngãi. Sau này ông là Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu 5.
 
 
5
Càng đến ngày giáp tết, gió rừng càng lạnh buốt. Mỗi đêm ông Sơn thường trằn trọc có khi 2, 3 giờ sáng mới chợp mắt. Trong đầu óc ông đầy ắp những kế hoạch, những phương án cho các đơn vị các nơi nhận lệnh để thực hiện. Ông ngồi dậy khoác chiếc áo dạ từ Trung Quốc mang về. Nó là trang phục chính quy của Hồng quân Trung Hoa nhưng khi về nước ông ít dùng đến và áo này chỉ để khoác vào những đêm giá lạnh.
Hơn 20 năm chiến đấu ở Hải ngoại. Lúc gặp lại người thân trong gia đình đã làm ông xúc động. Ông nhớ lại những phút hàn huyên giữa mọi người trong gia tộc. Ông hỏi anh Bảo con bác hai:
- Nhà mình có ai nghiện thuốc phiện không nhỉ?
- Không ạ!
- Có ai làm việc cho bọn dưới kia không?
(Ông chỉ vào trụ sở bọn phản động quốc dân đảng1 ở cuối phố Quán Thánh).
- Không ạ!
Ông vui mừng hiện ra mặt vì bọn này dựa vào Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch đã lập ra một đảng gọi là Quốc dân đảng để quấy rối và muốn cướp chính quyền nhà nước ta.
Ông lại hỏi thăm các chú, các bác, các bà chị dâu, em dâu. Ông vỗ ngực oang oang:
- Thế là gia đình ta toàn là những công dân tốt, các bác các anh chị tôi họ Vũ nhưng không giống tên Vũ Hồng Khanh phản loạn. Nào chúng ta vỗ tay mừng cho cuộc hội ngộ gia đình quí báu này. Tất cả vỗ tay vang lên...
Ở một đêm khác ông lại nhớ đến Kiếm Qua người vợ tiến bộ, kiên cường, khí phách. Một sinh viên có tầm hiểu biết sâu sắc về văn học cổ đại trung quốc, một phụ nữ có đầu óc tân tiến, một người vợ tâm đầu ý hợp, ông thường mơ thấy trong giấc ngủ.
Cây rừng vẫn rải lá xào xạc. Núi rừng vẫn mờ sương, gió vẫn thổi lùa từ dưới nhà lên lầu tạo một không khí lạnh lẽo. Đấy là những đêm cô đơn cuối năm của ông tại núi đồi An Khê.
Giữa đêm 30 Tết mịt mùng của núi rừng tôi nghĩ đến Ủy ban kháng chiến miền Nam lúc đầu lèo tèo vài ba người như chúng tôi quả thật đầy rẫy khó khăn. Nguyễn Sơn đã dám mời những người Nhật kể cả thầy ký toà sứ “Tố” của chúng tôi. Sau này ông Sơn lại lôi kéo một số trí thức làm cho Pháp cho Nhật vào tham gia kháng chiến chống bọn thực dân xâm lược Pháp. Ông quả là có đầu óc khoa học trong việc sử dụng người. Cách tiếp cận của ông như đá nam châm có sức hút mạnh mẽ thuyết phục mọi người đi làm theo cách mạng.
Như Bác Hồ nói: “Cây cong, thợ khéo vẫn sử dụng được” huống chi ông lại tìm ra những người tài giỏi đi theo ông làm cách mạng.
_______________________________________
  1. Đảng quốc dân Đảng là một tổ chức phản động đứng đầu là Cường Đế và các phụ tá là Võ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam...

6
Tối hôm qua thầy Tố đã giới thiệu sơ khởi với chúng tôi và có những điểm tôi còn nhớ rõ - đồng chí Chủ tịch Nguyễn Sơn nguyên là Sư đoàn Trưởng của Bát lộ quân thuộc Tư lệnh Nhiếp Vĩnh Trăn chỉ huy. Ông là người sinh tại thôn Kiêu Kỵ thuộc huyện Gia Lâm. Sống trong gia đình địa chủ, cha ông làm thầu khoán xây cất nhà cửa ở Hà Nội và vùng ngoại ô. Mỗi tuần ông cụ trở về làng, ông mang theo một bị đựng đầy bạc giấy. Ông Sơn được học trường Bưởi1 năm 1939. Nhân dịp nghỉ hè, ông đã qua Pháp cùng với cha ông trong thời gian nửa tháng. Bên bờ sông Seine ông đã làm quen người thợ chụp ảnh. Đó chính là Bác Hồ. Bác đã chỉ cho ông những nơi danh lam thắng cảnh của kinh đô Balê2 hoa lệ. Nào là viện bảo tàng Mỹ thuật Louvre, nào là tháp Eiffel, xóm Monmarte có người Việt Nam và số hoạ sĩ các nước tụ tập hành nghề v.v... Thấy ông thông minh, từ nước nhà qua chơi, Bác đã dần dần gieo cho ông đầu óc ghét thực dân Pháp nên cuộc đời ông đã có chuyển biến, “Phải cứu vãn người Việt Nam nghèo khổ dưới ách nô lệ của bọn thực dân Pháp”.
Tên thật của ông là Vũ Nguyên Bác nhưng khi ông bắt đầu hoạt động cách mạng trong đội quân du kích Trung Hoa thì ông lấy tên là Hồng Thủy.
Buổi đầu Bác Hồ đặt cho các đồng chí hoạt động tại Quảng Châu lấy dòng họ Lý để bảo đảm bí mật. Tên ông là Lý Anh Tự, tên đồng chí Trần Phú là Lý Quý, tên đồng chí Phạm Văn Đồng là Lý Tống và một học sinh là Lý Tự Trọng, tên Bác Hồ là Lý Thụy. Năm 17 tuổi tại đây ông được đi học trường Hoàng Phố.
Việc Nguyễn Sơn hoạt động cách mạng tại Trung Hoa đã gặp rất nhiều khó khăn. Lúc đầu Tôn Trung Sơn là vị lãnh tụ Đảng Tân Dân chủ, Tưởng Giới Thạch chỉ huy quân sự. Bên Cộng sản có Bác Cổ (Tần Bang Hiến) Lý Duy Đức: Trưởng ban Tổ chức, Trương Văn Thiên - Trưởng ban Tuyên truyền, Chu Đức - Chủ tịch Hội đồng quân sự, Tổng tư lệnh Hồng quân, Chu Ân Lai - Chính uỷ, Lưu Bá Thừa - Tổng tham mưu trưởng, Vương Gia Tường - Tổng cục chính trị, cố vấn quân sự Lý Đức (là người Đức tên là Otto Braun), Mao Trạch Đông rất có công trong xây dựng căn cứ địa nhưng bị cô lập và không được phân công trong hàng lãnh đạo. Tôn Trung Sơn chủ trương Quốc - Cộng kết liên để diệt phát xít Nhật nên có một số cán bộ Hồng quân hoạt động chung trong hàng ngũ Quốc dân Đảng.
Năm 1934, Tưởng Giới Thạch với ác tâm đã chủ trương “yên trong mới dẹp ngoài”. Vì chúng cho là lực lượng quân đội Nhật ít ỏi ở vài tỉnh nên chúng trở mặt chống lại Hồng quân và mở cuộc tàn sát đẫm máu.
Nguyễn Sơn tức giận trước sự phản bội với hành động dã man tàn bạo của bọn chúng đối với các đồng chí mình, ông rời bỏ hàng ngũ bọn chúng. Ông tổ chức dân chúng chống lại. Cuộc khởi nghĩa Quảng Châu do Hồng quân tổ chức bắt đầu. Khi quân ông tấn công vào thị xã ông thấy trên tường viết chữ Cộng sản là Hồng Thủy.
Ông tức tối bèn lấy tên mình là Hồng Thủy3 với ý nghĩa nước lũ sẽ cuốn hết bọn Tưởng ra ngoài biển Đông.
Mùa thu 1934, quân Tưởng tiếp tục tấn công Hồng quân. Khu Xô Viết bị thu hẹp. Hội nghị Tuân Nghĩa chấm dứt chủ trương mạo hiểm chính qui của Ottoman, đã làm lực lượng Hồng quân hao mòn phân nửa. Mao Trạch Đông đã phê phán gay gắt lối “phòng ngự tiêu cực”. Sau đó hội nghị bầu Mao Trạch Đông làm ủy viên thường trực bộ chính trị vì chủ trương đúng đắn của ông4. Chu Đức, Chu Ân Lai chỉ huy quân sự. Mao thực hiện vạn lý trường chinh tiến lên Thiểm Tây thành lập căn cứ địa. Nguyễn Sơn đã nằm trong cánh quân của Trương Quốc Đào.
Đào ỷ y trong tay nắm số quân lớn nên chống lại chủ trương Mao. Y muốn tách ra nhưng bị phát hiện. Lúc ấy ông Sơn đã tranh đấu quyết liệt với Đào và bị Đào quy là gián điệp quốc tế. Ông bị Đào khai trừ ra khỏi đảng và suýt bị thiệt mạng, nếu không có các tướng Trần Canh, Lưu Bá Thừa can thiệp. Ba lần ông bị khai trừ đảng nhưng sau đấy đều được cấp trên xét và lại được phục hồi đảng tịch cả 3 lần.
Nguyễn Sơn đã ba lần vượt qua núi tuyết5 theo sự phân công của cấp trên. Có lần thua trận trước lực lượng địch mạnh gấp mười lần. Các binh sĩ thuộc đơn vị ông đều bị hy sinh hết chỉ còn lại một mình ông thoát chết. Ông sống lang thang đói rách. Ông phải chăn cừu thuê để có cơm ăn và lần lần đi về căn cứ địa.
Anh Tố nói tiếp.
- Nguyễn Sơn rất nghiêm khắc với những việc sai trái ông quyết đoán mau, nhưng ông lại sống rất hài hoà với đồng đội, đồng bào. Ông có con mắt tinh đời hễ giao công việc cho người nào ông biết chắc người ấy sẽ làm được - Sau này các đồng chí sẽ biết thành tích của ông. Tạm thời, chúng ta được biết lai lịch của thủ trưởng Nguyễn Sơn là như thế. Tôi mong các đồng chí phải làm việc chăm chỉ, nghiêm túc và vượt mọi khó khăn trong buổi ban đầu.
_______________________________________
1. Trường Bưởi là trường trung học công lập. Hồi ấy thường gọi là Lycée Protectorat (trường bảo hộ của Nam triều)
2. Balê (tiếng Pháp: Paris )
3. Hồng thủy có nghĩa là cơn lũ lớn tàn phá nhà cửa và các sinh vật. Bọn quốc dân đảng đặt tên cho những người cộng sản là hồng thủy, là thú dữ cộng vợ, cộng chồng.
4. Xem phụ trang nói về sự sai lầm của cấp lãnh đạo Hồng quân.
5. Núi tuyết (Miêu Sơn), cao hiểm trở khi hành quân lên đỉnh không được ngồi nghỉ. Nếu ngồi xuống sẽ không thể đứng lên được vì người đóng thành băng


7
Chúng tôi đã ăn khoanh bánh tét1 gọi là đón xuân tại An Khê. Tiếng súng từ xa dội lại thay tiếng pháo. Khí trời lành lạnh gió thổi vào nhà rát mặt. May là tôi đã đem chiếc áo bludông bằng nỉ nên cũng chống lại sự lạnh lẽo phần nào2.
Mỗi buổi sáng lúc 5 giờ Nguyễn Sơn đã chạy ra giữa sân hô “tập họp”: Dáng ông mờ đen lẫn trong sương mù. Đám văn phòng chúng tôi và một số sĩ quan Nhật vội vã chạy ra xếp thành hàng. Ông thổi một hơi còi dài lập tức đơn vị cảnh vệ cũng đã chạy đến xếp hàng ba sau chúng tôi với đầy đủ súng lớn nhỏ.
“Chạy đều… chạy!” Nguyễn Sơn hô to. Ông chạy trước và dẫn anh em chạy sau - Lâu lâu ông lại lách qua một bên đôn đốc đội hình phải ngay hàng - Nhóm quân nhu chúng tôi đều mang ba lô chạy theo nhóm văn phòng và cần vụ3. Ông vẫn băng mình qua suối, có khi leo lên ngọn đồi - hoặc nhảy qua dòng suối nhỏ - Tôi tính nhẩm cuộc chạy vòng vo cũng khoảng 4 cây số.
Chạy một hồi lâu mới thấy ánh sáng ban mai hừng lên một màu hồng trên dãy núi. Sương mù dần tan. Lúc đầu chúng tôi còn thấy lạnh nhưng khi chấm dút cuộc chạy chúng tôi lại thấy nóng toàn thân.
Huệ nói: Chưa quen chạy! Mệt quá!
Khi giải tán, ba chúng tôi ngồi nghỉ tại ghế đá dài đặt trước lầu ủy ban, Nguyễn Sơn lại gần chúng tôi, ông hỏi:
- Chạy có mệt lắm không?
- Thưa mệt ạ!
Ông liếc nhìn chúng tôi, người thì mặc quần dài trắng, áo vàng, người quần cụt áo xanh. Mặt ai cũng trắng trẻo đúng vẻ thư sinh. Anh em mới vào bộ đội nên chưa nhận được quân phục.
Ông cười và nói tiếp:
- Mấy cậu học sinh tiểu tư sản này chưa quen với sinh hoạt quân đội! Cố gắng lên! Bây giờ các cậu đã là chiến sĩ mà đã là quân đội phải luôn tập tành để tạo ra sức khoẻ phục vụ đất nước, luôn luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Các cậu phải luôn chuẩn bị tinh thần khắc phục khó khăn gian khổ - Thế đã hiểu rõ chưa!
Ba chúng tôi đồng thanh hô:
- Rõ!
- Các đồng chí đi xuống suối tắm đi.
Nói xong ông quay lại đi lên lầu. Ở dưới nhà, sau khi tắm và ăn cháo chúng tôi quây quần trên bàn và chuẩn bị sổ sách cho chuyên môn của mình. Giữa lúc này đồng chí Tố đi xuống đơn vị đã về.
Lúc 5 giờ chiều hôm ấy khi ánh nắng đã bắt đầu hạ xuống và sáng lên ở đỉnh núi xung quanh. Tôi lững thững xuống đèo, men theo đường mòn tôi gặp một đoạn suối xa chỗ chúng tôi tắm. Tôi thấy ông Sơn đang ngồi trên tảng đá tay cầm ống điếu, miệng phả từng chùm khói thuốc. Thấy ông trầm ngâm tôi chào và nói:
- Trông Chủ tịch giống nhạc sĩ Mozart và cảnh trước mặt giống trong phim Symphonie Pastoral.
Thấy tôi nói pha tiếng Pháp ông khoái chí:
- Đồng chí học lớp mấy?
- Tôi lên quatrième anneé4, vừa mới học xong vở kịch của Sếc-Pia5 thì đi kháng chiến.
Ông nói:
- Ở Hà nội tôi cũng học đến thế - Đồng chí ngồi xuống đây nói chuyện chơi!
Tôi nói:
- Đây cảnh đẹp thật! Hoa trắng hoa đỏ chen nhau mọc trùm lên những mảng đá xám, giống như tranh vẽ.
- Đồng chí quan sát đúng đấy! Ông nói tiếp:
- Cảnh này giống thôn Thạch Từ vùng Ngũ Hành Sơn tỉnh Sơn Tây bên Trung Quốc. Lúc ấy tôi đã có vợ tên là Trần Kiếm Qua. Vợ tôi phụ trách mẫu giáo phân khu Tấn Sát Ký bên Trung Quốc. Chúng tôi vì công tác nên ở xa cách nhau khoảng 5 cây số thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau và cảnh này đã làm tôi nhớ đến nước bạn. Ông ngừng lại một phút, rồi nói tiếp:
- Lúc ấy Tưởng Giới Thạch trở mặt không liên minh với Hồng Quân để đánh phát xít Nhật. Chúng quyết tâm tiêu diệt Cộng sản trước. Chúng huy động một triệu quân để đánh vào căn cứ Hồng Quân hòng tiêu diệt toàn bộ - Ta chỉ có hai chục vạn quân nên buộc phải rút lui - Vợ tôi đang có thai phải di tản theo Bát lộ quân. Hành quân biết bao vất vả. Vợ tôi sinh con dọc đường thiếu sữa phải nhờ đồng bào nuôi. Tôi đặt tên con tôi là Phong Ba, nhưng 6 tháng sau nó đã chết vì sưng phổi - Tiếc rằng suốt thời gian rút lui tôi không có mặt ở bên vợ tôi vì tôi bị phân công ở đơn vị khác cách xa đơn vị vợ tôi.
Ông rít một hơi thuốc dài và từ từ nhả làn khói ra trước mắt. Ông nhìn đăm đăm ra suối. Tôi biết ông buồn vì mất con, tôi hỏi luôn.
- Thế Chủ tịch còn cậu nào nữa không?
- Có! Sau đấy vợ tôi sinh 2 cháu trai tên Hàn Phong và Tiểu Việt - Khi tôi về Việt Nam cháu lớn mới 1 tuổi, cháu nhỏ đang trong bụng mẹ.
Tôi hỏi tiếp:
- Đây là người vợ đầu tiên?
- Không! Đây là người vợ thứ 2, vì người vợ đầu tiên là cô Diệm ở Hà Nội đã chết6 và tôi ở với cô chỉ 1 năm, cô đã có được 1 đứa con gái. Khi nhận được tin Bác Hồ cho người đưa tôi đi Trung Quốc học tôi mừng quá, tôi phải kiếm cách dứt tình với vợ để ra đi.
Ông lại nhả thêm một làn khói dầy đặc.
Trong buổi hoàng hôn, sương đêm dần trắng xoá núi đồi. Khí trời lạnh lẽo ập đến. Ông đứng lên nói:
- Chúng ta về đi, đồng chí chuẩn bị mai hành quân dời địa điểm - Tôi đáp:
- Tôi nghe rõ!
Tôi bước từng bước sau lưng Tư lệnh. Tôi ngạc nhiên sao ông lại dễ dàng thổ lộ tâm tình của ông. Phải chăng ông cũng là nhà trí thức nên dễ cảm thông với tôi cũng là trí thức.
Hôm sau khi chấm dứt cuộc chạy buổi sáng chúng tôi ăn cháo xong thì ô tô lớn đã đậu trước cửa văn phòng - Anh Tố huy động anh em ra xe. Đi dọc đường xe ghé Phú Phong rước thêm 5 người thuộc bộ phận tiếp tân và y tế cùng bốn người sĩ quan Nhật Bản đồng lên xe chạy thẳng về Bồng Sơn. Gần đến nơi tôi nhìn dọc đường những hàng dừa cao đầy quả, bóng tàn cây dừa làm rợp mát dọc đường. Khi xe ngừng trước toà lầu có lô cốt chúng tôi xuống xe và biết đây là đồn của bọn lính Pháp trước kia đã đóng quân. Chúng bỏ lại khi thất trận trước sự tấn công của quân đội phát xít Nhật.
______________________________________
1. Bánh tét: lại bánh nếp miền Trung gói tròn và dài khoảng gần 2 tấc.
2. Bludông (tiếng Pháp Blouson là áo khoác)
3. Cần vụ: Nấu bếp, quản lý gạo nước. Hồi đó còn có danh từ “hoả đầu quân”.
4. Quatrième ammé (năm thứ tư thành chung chương trình Pháp) tương đương lớp 10 bây giờ.
5. Secpia tiếng Anh: Shakesper là một văn sĩ nổi tiếng của Anh.
6. Thực ra là sau 5 năm ông đi thì cô lấy chồng khác





8
Bồng Sơn là một huyện nhỏ thuộc tỉnh Bình Định - Nhà dân chúng đều bám theo dọc quốc lộ 1 rải rác đến Tam Quan. Một vùng có tiềm năng kinh tế, sản xuất dầu dừa và dây dừa, thảm dừa đủ cỡ cung cấp cho những nhà đánh cá ven biển kể cả kẹo dừa, kẹo lạc1. Bộ đội cảnh vệ thường lấy đường làm sân tập dọc theo quốc lộ 1 - ngã ra Bắc đi Quảng Ngãi, ngã vào Nam đi Phú Yên, Tuy Hòa.
Mỗi buổi sáng như thường lệ, Chủ tịch Sơn mặc thường phục quần dài đen, áo “Puy ô vơ” 2 xanh lá cây chạy dẫn đầu. Nối theo là bộ phận tư lệnh bộ rồi đến cảnh vệ. Hôm ấy tôi đang đau chân nhưng vẫn cố khập khiễng chạy. Máu đọng nên đau nhức. Nguyễn Sơn vừa chạy vừa quan sát và đôn đốc đội hình cho ngay thẳng, cự ly đúng tầm 1 cánh tay. Ông đã thấy tôi chạy khập khiễng.
Đến giờ làm việc ông gọi tôi lên lầu. Ông bắt cởi băng chân cho ông xem. Ông thấy vết sâu bằng đồng xu có cạnh có mủ xanh như sâu quảng - Tôi nói:
- Vết thương lúc đầu chỉ bằng đồng trinh nhưng sau lở lói, có mủ và rộng ra bằng đồng xu có lẽ do tắm nước suối An Khê độc quá.
Ông Sơn quay sang thư ký và bảo:
- Viết giấy giới thiệu cho đồng chí Tài đi bệnh xá để rửa thuốc cho mau khỏi.
Thế là tôi được đi rửa vết thương trong thời gian một tuần lễ.
Vừa đi vừa suy nghĩ: Nguyễn Sơn vị Tư lệnh đã ưu ái chăm sóc cấp dưới và coi như anh em. Lúc này ông đã 38 tuổi.
Bộ phận “Quân khí” (sau đổi tên là quân giới) của tôi đã may mắn được 2 người Nhật tiếp tay để sửa súng hóc đạn, hoặc sửa nòng và sửa cò súng. Trong công việc hàng ngày họ đã đáp ứng được những nhu cầu về súng hỏng và tiếp tế một số đạn dược cho các đơn vị. Công việc điều hoà làm tôi rất phấn khởi. Tôi lại được dịp trao dồi tiếng Nhật. Tôi còn nhớ khi Nhật chiếm Đông Dương chúng đã bắt buộc các trường trung học phải học chữ Nhật (Katakana và loại chữ Hiromenzi). Cũng nhờ ba tên lính Nhật canh gác nhà dây thép. Họ ăn ở luôn tại đấy nên tôi nói được tiếng Nhật tàm tạm.
Tại Bồng Sơn tôi lại được tăng cường thêm 2 đội viên tên là Hào và Thọ. Nhờ họ nên việc chuyển tải vũ khí càng dễ dàng nhanh chóng.
Một lần nữa, khi tôi đang làm báo cáo các vũ khí hỏng của một số đơn vị. Tôi thấy một chiến sĩ quần rách ở đầu gối. Anh đưa giấy cho tôi xin chữ ký để được cấp lộ phí nghỉ phép về Hà Nội. Trong giấy đề tên Báu. Anh này mặt trắng xanh, ốm yếu. Tôi giật mình chợt nhớ nửa năm trước khi tôi tham dự buổi họp Truyền bá Quốc Ngữ tại Hàng Da ở Hà Nội có anh Báu đã hát bài Thanh niên trước đông đảo anh em.
Tôi chợt hỏi:
- Hình như lúc trước anh có hát bài Thanh Niên tại buổi họp Hội Truyền Bá Quốc Ngữ3. Anh đáp “Đúng ạ!” và anh cao hứng hát luôn:
“Này thanh niên ơi! Dắt nhau lên đường cùng vang hát. Sánh vai cùng đi. Này thanh niên ơi! Ngắm trông phương trời đừng lui bước và chớ phân ly... Ta trông xem trời nam xinh tươi, kìa hoa sau đêm còn vương sương rơi” Đắm đuối cười, nhắn nhủ lời...
Anh hát luôn 6 câu. Tôi giơ tay ra dấu ngừng và nói:
- Bây giờ trưởng phòng ngày mai mới về, nhưng tôi ký xuất không biết có được không?
Anh cầm giấy có chữ ký của tôi và anh lĩnh được tiền. Anh lại bắt tay tôi lắc mạnh và luôn miệng nói “Cám ơn đồng chí! Cám ơn đồng chí!”
Trưa hôm ấy Huệ vẫy tôi lại, anh cằn nhằn:
- Ký xuất lĩnh tiền chỉ có chữ ký thầy Tố và chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam , ngoài ra các chữ ký khác đều không có giá trị.
Tôi nói vuốt ve:
- Huệ cảm thông. Mình đâu muốn sai nguyên tắc nhưng thấy thương anh ấy “cà lơ, thất thểu” quần áo rách xơ xác ở mặt trận về. Anh ấy cũng là trí thức quen từ mấy tháng trước ở Hà Nội. Anh được trở về nhà nghỉ phép mười ngày. Vả lại anh Tố vắng mặt...
Câu chuyện lại đến tai ông Sơn, ông gọi tôi lên gác - Khi bước lên cầu thang tôi đã có linh cảm như mình đã phạm tội nào đó.
Tôi đứng nghiêm chào trước mặt ông. Ông nhìn sâu vào mắt tôi. Mắt ông sáng lên. Tôi hồi hộp - ông nói từng tiếng một:
- Đồng chí Tài! Nguyên tắc là nguyên tắc! Phải tuyệt đối tuân thủ! Không phải quyền hành mình mà ký phiếu xuất là sai. Tôi đã nghe đồng chí kia hát và đã hiểu nội dung đồng chí muốn giúp đỡ đồng đội! Cũng tốt! Nhưng lần sau không nên tái phạm.
- Xin cám ơn Chủ tịch, tôi xin ghi nhớ.
Tôi xuống lầu. Cậu Trung, cần vụ rỉ tai tôi:
- Mai, chủ tịch đi vào Nam . Tôi phải lo 2 gói cơm nắm, muối vừng giao cận vệ theo ông.___________________________________
1. Tiếng nam bộ: kẹo đậu phộng.
2. Puy ô vơ (tiếng Anh) áo thụng (Pull’ over)
3. Hội truyền bá quốc ngữ là một tổ chức của những người yêu nước có cán bộ Việt Minh lèo lái.