Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

Sự thật về đài phát thanh "Mặt trận gươm thiêng ái quốc"

Trong cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, bên cạnh đội quân viễn chinh mà có lúc lên đến hơn nửa triệu người, cùng những loại máy bay, tàu chiến, vũ khí tối tân, người Mỹ còn tiến hành một cuộc chiến tranh bí mật khác, gọi là "chiến tranh tâm lý".
Để phục vụ cho "chiến tranh tâm lý", Mỹ đã dựng lên nhiều đài phát thanh và một trong những đài này là đài "Mặt trận gươm thiêng ái quốc".

Cuối năm 1962, William Colby, trùm CIA tại miền Nam Việt Nam trở về Washington để nhận nhiệm vụ chỉ huy Nha Kế hoạch CIA khu vực Đông Nam Á. Trong một buổi họp với các quan chức chóp bu CIA sau đó, Tổng thống Kennedy ra lệnh cho Colby: "Một mặt, nghiên cứu và phân tích sự thất bại về các hoạt động bí mật của CIA tại miền Bắc". Mặt khác, Kennedy yêu cầu Colby: "Gấp rút tạo ra những bất ổn về tâm lý ở miền Bắc như Cộng sản đã làm ở miền Nam Việt Nam".
Theo nhận định của Colby, chính quyền miền Bắc đặt ưu tiên hàng đầu về các vấn đề nội an, gián điệp và phá hoại. Vì vậy, Colby chủ trương "cần làm cho xã hội của họ rối loạn bằng chiến tranh tâm lý" mà trọng tâm là lĩnh vực tuyên truyền với các phương tiện như phát thanh, truyền đơn, báo chí, túi quà tặng..., và những kỹ thuật khác, chẳng hạn như dựng ra những mặt trận hay những tổ chức đối kháng không có thật.
Kế hoạch OP39
Để thực hiện cuộc "chiến tranh tâm lý", Colby chọn Herb Weisshart, một sĩ quan CIA dày dạn kinh nghiệm, trước đây từng chỉ đạo các hoạt động bí mật ở một số quốc gia trong vùng Đông Bắc Á rồi sau đó, về phụ tá cho Colby ở Sài Gòn làm người trực tiếp chỉ huy - và đặt tên cho nó là "Kế hoạch OP39".
Theo Colby, mục tiêu của cuộc chiến tranh tâm lý này, là làm thế nào để buộc "Bắc Việt phải quay về bảo vệ hậu phương hơn là dồn mọi nỗ lực cho chiến trường miền Nam".
Một trong những nhiệm vụ phức tạp nhất của kế hoạch OP39 là tìm cách tạo cho người dân miền Bắc tin rằng có một tổ chức chống Cộng độc lập đã hình thành và đang hoạt động ngay tại miền Bắc. Tổ chức này không theo Mỹ, không theo Liên Xô, không theo Trung Quốc và cũng không theo Việt Nam Cộng hòa.
Để đặt cho nó một cái tên khả dĩ có thể chứng minh được sự "trung lập" của nó, Weisshart tìm đọc lịch sử Việt Nam, phỏng vấn nhiều người Việt và qua đó, ông ta biết chuyện "trả lại kiếm thần" của Vua Lê Lợi. Từ câu chuyện cổ sử ấy, một tổ chức mang tên "Mặt trận gươm thiêng ái quốc" (MTGTAQ), ra đời, bộ chỉ huy đầu não đặt tại số 7 đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1, Tp HCM). Đây cũng là nơi đặt trụ sở của Đài phát thanh mang tên “Mẹ Việt Nam”, được coi như đỡ đầu cho Đài phát thanh MTGTAQ.
Đường Hồng Thập Tự, nơi đặt Đài phát thanh Mặt trận gươm thiêng ái quốc (ảnh chụp trước năm 1975).
Bước tiếp theo, Weisshart tung những toán "Biệt hải" (biệt kích biển) gồm toàn người Bắc di cư hoặc người miền Trung, sử dụng thuyền gỗ để tránh bị radar Bắc Việt phát hiện, xâm nhập vùng biển các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, bắt cóc ngư phủ miền Bắc, bịt mắt họ rồi đưa về căn cứ Do Do ở Cù lao Chàm, Đà Nẵng - mà CIA đặt cho nó mật danh là "Đảo thiên đường".
Thiếu tá Roger Mc Elroy - là thành viên của kế hoạch OP39 và cũng là một trong số rất ít người Mỹ đã từng xâm nhập vùng biển Bắc Bộ, kể lại: "Những chiếc tàu ấy được đóng với kích thước, hình dáng như tàu của ngư dân miền Bắc nhưng trang bị động cơ cực mạnh. Trong chuyến xâm nhập, tôi mặc quần áo bà ba đen ngụy trang, đội lưới che mặt và không đem theo bất cứ loại giấy tờ tùy thân hay vật dụng gì có thể chứng tỏ tôi là người Mỹ".
Khi vào đến vùng biển miền Bắc Việt Nam, Elroy không được lên trên boong tàu mà phải ở dưới hầm. Nhiệm vụ của ông ta là liên lạc với lực lượng Hải quân Mỹ đang có mặt ngoài khơi vịnh Bắc Bộ để ứng cứu khi cần thiết.
Trên “đảo thiên đường”, một ngôi làng nhỏ được xây dựng không khác gì một làng chài ở miền Bắc. Dân trong làng - kể cả phụ nữ, trẻ con cũng đều là người Bắc di cư vào Nam năm 1954, và đã được huấn luyện đóng kịch rất bài bản. Nếu có khác thì chỉ khác trong làng không treo cờ miền Bắc, không treo cờ miền Nam mà treo cờ MTGTAQ! Trong suốt 3 tuần ở "đảo thiên đường", những ngư phủ bị bắt cóc được cho ăn uống đầy đủ, săn sóc sức khỏe chu đáo đồng thời được nghe những tin tức thất thiệt về tình hình miền Bắc, cũng như sự ra đời của MTGTAQ.
Sau đó, với lý do bảo đảm an toàn cho bản thân họ, "Biệt hải" lại bịt mắt họ, đưa họ trở về vùng biển nơi họ đã bị bắt với một túi quà gồm 1 radio đã cài sẵn băng tần Đài phát thanh MTGTAQ, quần áo, xà phòng, bật lửa, đá lửa, bánh kẹo, pin, cùng với một chiếc phao bằng ruột xe…, tất cả đều không có nhãn mác xuất xứ, rồi để họ tự tìm cách vào bờ. Ngoại trừ chiếc radio, còn thì tất cả đều được làm giống y như hàng hóa miền Bắc để họ có thể sử dụng thường ngày mà không bị người khác chú ý.
Sau tháng 4/1975, một biệt hải tên Linh di tản ra nước ngoài, kể lại: "Chúng tôi phải làm mọi cách để ngư phủ miền Bắc tin rằng họ vẫn đang ở miền Bắc, nhưng là ở trong một làng tự do của MTGTAQ. Tất cả mọi cố vấn Mỹ đều không được phép xuất hiện tại khu vực này. Hàng ngày, chúng tôi ăn, ngủ cùng họ và khéo léo khai thác thông tin tình báo từ họ. Như tôi chẳng hạn, vốn là dân Hải Phòng di cư, tôi kể cho họ nghe một số kỷ niệm về thành phố cảng, về những con người mà tôi quen biết. Sau đó, tôi khéo léo hỏi họ về quê hương bản quán, gia đình, bà con họ hàng, bạn bè… Bằng cách này, chúng tôi thu thập được tên tuổi, chức vụ của một số cán bộ cấp xã, cấp huyện, thậm chí cấp tỉnh nơi họ sống".
Theo báo cáo của CIA, năm 1963, có 353 ngư phủ Bắc Việt được đưa về tuyên truyền tại “đảo thiên đường”. Từ năm 1964 đến 1968, con số này là 1.003 người. Weisshart tin rằng những ngư phủ ấy sẽ đem chuyện MTGTAQ kể lại cho gia đình, cho bạn bè họ và sớm muộn gì nó cũng sẽ đến tai Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam. Và như vậy, Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam sẽ tốn nhiều nhân lực, thời gian, công sức để truy tìm cái không có thật.
Trùm CIA Colby động viên tinh thần một nhóm biệt hải tại Đảo Thiên đường - Cù Lao Chàm trước khi xâm nhập miền Bắc.
Tháng 12/1961, dưới sự dàn dựng của Colby và Weisshart, "đại hội" MTGTAQ được tổ chức. Trong "đại hội" này, một nhân vật "ma" là Lê Hưng Quốc được bầu làm chủ tịch. Bản tuyên ngôn của "mặt trận" nêu rõ tính "trung lập": "Chống sự can thiệp của tất cả các lực lượng nước ngoài vào nội tình Việt Nam. Yêu cầu mọi lực lượng vũ trang, cố vấn và các tổ chức nước ngoài khác phải rút khỏi hai miền Nam, Bắc".
Bên cạnh đó, "mặt trận" còn huênh hoang rằng: "Đã phát triển mạnh mẽ ở cả hai lĩnh vực chính trị lẫn quân sự. Đã thành lập nhiều tổ mặt trận ở miền Bắc với 10.000 đảng viên, trong đó 1.600  đã được vũ trang. Các cán bộ quân sự nòng cốt khi đến sinh hoạt với các tổ trên toàn miền Bắc đều có chứng minh thư mặt trận, do Ủy viên thường vụ Lê Hùng Cường ký tên, đóng dấu.
Tiến thêm một bước, tháng 4/1965, Đài phát thanh MTGTAQ, tự nhận là đặt tại vùng núi tỉnh Hà Tĩnh, phát sóng buổi đầu tiên trên hai dải tần số trung bình và sóng ngắn. Thực tế thì nó được phát đi từ số 7 đường Hồng Thập Tự, hoặc ở Quán Tre, Hóc Môn, Cát Lở, Vũng Tàu hoặc Thanh Lam, Huế rồi được một tàu kỹ thuật của CIA thường xuyên túc trực ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, trong vùng biển quốc tế thu lại, khuếch đại tín hiệu rồi phát chuyển tiếp về miền Bắc.
Trong chương trình phát thanh này và tất cả những chương trình về sau, ngoài việc xuyên tạc tình hình miền Bắc, gây mất lòng tin giữa nhân dân và chính quyền, đả kích Liên Xô, Trung Quốc, Đài MTGTAQ còn đưa ra những chiến thắng giả tạo, do các "tổ công tác của mặt trận" thực hiện, chẳng hạn như đã ám sát cán bộ này, đốt cháy đoàn xe quân sự kia.
Đặc biệt hơn, Weisshart đề nghị MACV (Bộ tư lệnh quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam) và Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa, ra lệnh cho tất cả các đơn vị tìm mọi cách thu thập giấy tờ cá nhân của bộ đội miền Bắc rồi sau đó, cho phát thanh trong chuyên mục được đặt tên là "sinh Bắc, tử Nam" nhằm mục đích làm cho thân nhân của những người được nêu tên trên sóng phát thanh, tin rằng con em mình đã chết.
Song song với những việc ấy, Weisshart thuê một số phi công Đài Loan, đã từng cộng tác với CIA trong thập niên 50,  dùng máy bay không số hiệu, ban đêm lén lút xâm nhập vùng trời miền Bắc để rải truyền đơn. Nội dung của những tờ truyền đơn này là: "Đã có một khu giải phóng nằm dưới vĩ tuyến 19 - nghĩa là thuộc phạm vi các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình".
Để chứng tỏ MTGTAQ là một tổ chức có thật, thỉnh thoảng Weisshart ra lệnh cho những toán "Biệt hải", ăn mặc quần áo của "Mặt trận", lén lút  xâm nhập vào các làng xóm ven biển miền Bắc để  tuyên truyền và tặng quà.
Mục tiêu riêng biệt
Bên cạnh Đài phát thanh MTGTAQ, kế hoạch OP39 còn sử dụng một số phương tiện truyền thông khác, phục vụ cho những mục tiêu riêng biệt. Chẳng hạn như để gây hoang mang cho người dân miền Bắc, CIA đã dùng "kỹ thuật đánh lừa" - gọi là snuggling. Nó được Colby và Weisshart thực hiện bằng cách cho dựng lên một đài phát thanh mà tần số của nó trùng với tần số phát sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam - và cũng mang tên là… Đài tiếng nói Việt Nam nhưng công suất mạnh hơn!
Trong các chương trình phát thanh của cái đài "dỏm" này, tin tức được bóp méo rất khéo léo, thí dụ như trong chuyên mục nông nghiệp phát vào đêm 11/4/1966, nó đã đưa tin: "Vụ đông xuân năm nay, toàn miền Bắc có 124 nghìn hécta lúa bị sâu bệnh, dẫn đến sản lượng lương thực bị tổn thất nghiêm trọng".
Theo Weisshart, những tin tức đại loại như vậy sẽ gây lo lắng cho người dân trong một xã hội mà lương thực được phân phát theo tem phiếu, cũng như tạo ra tâm lý hoang mang cho bộ đội miền Bắc ở chiến trường miền Nam. Lâu dài, sự lo lắng sẽ dẫn đến bức xúc, phẫn nộ, tạo tiền đề cho việc hình thành và lôi kéo người dân tham gia vào những tổ chức đối kháng sau này.
Không chỉ có Đài MTGTAQ, Đài tiếng nói Việt Nam "dỏm", Weisshart còn lập ra Đài Cờ đỏ, mệnh danh là tiếng nói của một nhóm chống đối trong  Đảng Cộng sản Việt Nam. Đài này không chỉ trích Liên Xô nhưng "tố" Trung Quốc kịch liệt nhằm gây chia rẽ nội bộ. Ăng ten phát sóng của nó đặt ở Quán Tre, Hóc Môn (nay là quận 12) và cũng được tàu kỹ thuật của CIA ở hải phận quốc tế thu lại, khuếch đại rồi phát chuyển tiếp ra miền Bắc.
Đội ngũ biên tập viên, phát thanh viên của nó hầu hết là những kẻ chiêu hồi, còn phụ trách kỹ thuật là những chuyên viên người Philippines. Chưa hết, vẫn từ miền Nam, Weisshart lập Đài phát thanh Sao đỏ nhằm chia rẽ cán bộ cách mạng miền Nam với miền Bắc.

Như đã nói trong bài trước, để người dân miền Bắc, bộ đội và dân sống trong vùng giải phóng tin rằng "có một tổ chức chống đối đang hoạt động ngay tại miền Bắc", những người cầm đầu kế hoạch OP39 đã cử những toán "biệt hải" lén lút xâm nhập ra miền Bắc để bắt cóc ngư dân, đưa về “đảo thiên đường”, tuyên truyền. Tuy nhiên, không phải ngư dân nào cũng tin vào điều này.

Vẫn "biệt hải" tên Linh, kể: "Có những ngư phủ dày dạn kinh nghiệm nên dù mắt họ bị bịt kín, nhốt dưới hầm tàu nhưng chỉ cần nghe tiếng tàu cưỡi sóng và thời gian tàu chạy, họ cũng biết bị đưa về phía Nam". Khi đến “đảo thiên đường”, ban đêm nhìn sao trên trời, họ lại càng không tin đó là "làng tự do MTGTAQ ở miền Bắc".
Không thuyết phục được họ, CIA ra lệnh tra tấn họ để khai thác rồi cuối cùng chuyển họ ra nhà tù đảo Phú Quốc như tù binh chiến tranh bởi lẽ ngoài nghề đánh cá, ở địa phương họ còn tham gia dân quân tự vệ!
"Biệt hải" Nguyễn Thà kể lại một chuyến xâm nhập miền Bắc như sau: "Trung thu năm 1967, chúng tôi được lệnh bí mật vào Thanh Hóa để làm nhiệm vụ tâm lý chiến, là phát cho người dân ở cửa biển Tĩnh Gia những gói quà của MTGTAQ, gồm vải vóc, áo quần, bánh kẹo và radio, đã được gói sẵn trong bọc nilon không thấm nước...
Đến ngày xuất phát, chúng tôi được chiến đỉnh PTF đưa từ Đà Nẵng ra vùng biển Thanh Hóa rồi dùng xuồng cao su chèo vào bờ. Trước đây đã có nhiều toán xâm nhập khi vừa vào đến bờ là bị bắt ngay tại chỗ nên chúng tôi dù không ai nói ra, nhưng tất cả đều nơm nớp lo sợ cho số phận của mình.
Mặc dù trên sa bàn cũng như trên bản đồ không ảnh, cách địa điểm chúng tôi đổ bộ khoảng 500m là một làng đánh cá. Nhưng khi chạm đất, xung quanh chỉ toàn rừng dương. Có lẽ những cơn sóng lớn đã đẩy chúng tôi đi lạc. Tìm kiếm một lúc nhưng không kết quả, toán trưởng Kha ra lệnh bỏ lại tất cả những gói quà xuống bờ cát rồi lên xuồng cao su tháo lui. Trên xuồng, Kha dặn anh em chúng tôi khi về báo cáo, thì đều phải nói "đã tiếp xúc với gần 30 người dân, phát quà. Dân rất hoan nghênh và tin tưởng MTGTAQ".
Một nhóm "biệt hải" ở Cù lao Chàm (quần áo bà ba đen) được chiêu đãi trước khi xâm nhập miền Bắc.
Với những thông tin thu thập được - kể cả thông tin "ma", đại loại như thông tin do nhóm "biệt hải" Nguyễn Thà báo cáo, cộng với những tin tức lấy từ tù binh hoặc những kẻ chiêu hồi, Weisshart chuyển sang bộ phận biên tập Đài MTGTAQ để xử lý. Vì thế, chẳng lấy làm lạ khi trong nhiều bản tin, Đài MTGTAQ nêu vanh vách họ tên của một số bí thư, chủ tịch xã, huyện, tỉnh ở Hà Tĩnh, Quảng Bình hay Sơn La, Hải Phòng...
Hàng đêm, tầm khoảng 22h, một giọng nữ lại rền rĩ trên Đài MTGTAQ với âm sắc thê lương: "Mẹ Việt Nam rất đau buồn khi thấy những đứa con của mẹ sinh ra ở miền Bắc và phải chết ở miền Nam", rồi sau đó là họ tên, ngày tháng năm sinh, quê quán của từng "người chết". Tuy nhiên, lắm khi cái trò tâm lý chiến này lại… phản chủ! Trong một cuộc hành quân ở phía bắc Củ Chi, lính Mỹ nhặt được một cuốn sổ tay bị bom đánh tan nát, chỉ còn lại một phần trang đầu với dòng chữ viết tên Nguyễn Công Lộc, Hải Hậu, Nam Định.
Thế là mấy hôm sau, trong mục "sinh Bắc tử Nam" của Đài MTGTAQ, cái tên Nguyễn Công Lộc cùng địa danh quê quán được xướng lên, nêu rõ Lộc "hy sinh tại mặt trận Củ Chi vì bom B52" trong lúc sự thật thì anh Lộc này, có người bạn thân đi bộ đội nên ngày bạn lên đường, anh đã tặng bạn cuốn sổ tay ghi tên mình như một vật kỷ niệm!
Chưa hết, trong những chuyến xâm nhập, nếu xảy ra đụng độ và nếu "biệt hải" bắt được tù binh thì họ sẽ bị đưa ra tòa án "Gươm thiêng ái quốc", bị khép vào tội "chống lại quê hương" và lãnh án tử hình. Tuy nhiên, do "chính sách khoan hồng" của MTGTAQ, tù binh được đưa đến Cù lao Chàm rồi được tuyên truyền, nhồi sọ. Trước khi trả về làng cũ, tù binh bị bắt buộc phải viết giấy thú tội rồi sau đó, những lời "thú tội" ấy được phát liên tục trên Đài MTGTAQ.
Trường hợp tù binh bị khuất phục, họ sẽ được đào tạo, huấn luyện kỹ năng gián điệp để làm việc cho "mặt trận". Khi trở về quê quán, họ sẽ hoạt động ngầm, tuyên truyền cho "mặt trận". Trong tay OP39, MTGTAQ không chỉ là chiến tranh tâm lý, mà thật sự là công cụ phá hoại, chống lại chế độ miền Bắc bằng việc xúi giục dân chúng miền Bắc vũ trang lật đổ chính quyền.
Chiến dịch "Đậu phụng" và chiến dịch "Những mảnh xà phòng"
Sau khi lập xong các đài phát sóng, vấn đề còn lại của kế hoạch OP39 là làm thế nào để người dân miền Bắc nghe được những bản tin, những bài bình luận của Đài MTGTAQ, Đài Tiếng nói Việt Nam "dỏm", Đài Cờ Đỏ, Đài Sao Đỏ, Đài Mẹ Việt Nam… Theo tài liệu của CIA đã giải mật, thì vấn đề này được giải quyết bằng "Chiến dịch những hột đậu phụng" (Peanuts Operation).
Trong hai năm 1966-1967, đã có khoảng 30 nghìn chiếc radio tí hon với tần số cài đặt sẵn, làm từ Nhật Bản nhưng không ghi xuất xứ, được thả xuống miền Bắc và những vùng giải phóng ở miền Nam bằng dù, hoặc cho vào túi nilon trong suốt, không thấm nước để người nhặt có thể thấy rõ chiếc radio rồi thả theo đường biển kèm với những món quà như pin, bút, sách, nến (đèn cầy), bật lửa, đá lửa, truyền đơn, để thủy triều đưa vào bờ.
Tàu kỹ thuật của CIA (bên trái) đang được tiếp nhiên liệu ở ngoài khơi vịnh Bắc bộ.
Giữa năm 1968, đại tá Bill Rydell - người chỉ huy kế hoạch OP39 nhận ra rằng vấn đề pin dùng cho radio là vấn đề sinh tử trong cuộc chiến tranh tâm lý. Trong một cuộc họp, ông ta nêu câu hỏi: "Nếu một người dân miền Bắc nhặt được túi quà rồi cất giấu để sử dụng. Sau một thời gian, pin hết, liệu ông ta có bị nghi ngờ khi đi mua pin hay không trong lúc An ninh Bắc Việt Nam đều biết túi quà có radio cài sẵn băng tần Đài MTGTAQ?".
Để giải quyết vấn đề này, Bill Rydell đặt hàng một công ty Nhật Bản, sản xuất cho OP39 loại radio chạy bằng dây cót. Cứ mỗi lần lên dây cót, điện năng sẽ được sản sinh ra, đảm bảo cho radio hoạt động trong nửa giờ. Tuy nhiên, khi loại  radio "dây cót" chưa kịp hoàn thành thì đầu tháng 11/1968, Tổng thống Lyndon Johnson ra lệnh chấm dứt kế hoạch OP39. Dù vậy, trong năm 1968 cũng đã có 10 nghìn chiếc radio dùng pin được thả xuống miền Bắc.
Song song với những việc này, nhiều bức thư giả mạo được gửi từ Paris, Hongkong, Tokyo, Bangkok... về địa chỉ của một số cán bộ cao cấp, trung cấp ở Hà Nội. Những bức thư ấy viết bằng loại mật mã đơn giản mà theo Weisshart, thì Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam sẽ dễ dàng bẻ khóa. Nội dung của nó cho thấy người nhận thư từ lâu đã là điệp viên ngầm của CIA, và CIA ra lệnh cho họ phải thực hiện nhiệm vụ XYZ nào đó.
Cũng trong chiến dịch này, những kẻ chiêu hồi được lệnh viết thư cho thân nhân ở miền Bắc, đề cao đời sống miền Nam, đề nghị gia đình tìm kiếm những "túi quà tâm lý chiến" và cất giấu kỹ lưỡng, bất cứ lúc nào thuận tiện thì lấy ra nghe Đài MTGTAQ, Đài Mẹ Việt Nam… Những lá thư ấy, thông qua một số điệp viên CIA cài cắm trong các tổ chức từ thiện phi chính phủ, hoặc một số cơ quan ngoại giao phương Tây, mang vào Hà Nội rồi điệp viên tìm cách mua phong bì, tem thư miền Bắc, gửi đến địa chỉ người nhận.
Những kẻ cầm đầu OP39 tin rằng người nhận thư sẽ bị Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam đặt vào vòng nghi vấn, và việc điều tra, xác minh phải mất một thời gian dài. Dĩ nhiên, khi đã bị nghi vấn thì người ấy sẽ không còn được giữ chức vụ cũ. Như thế, mầm mống bất mãn sẽ có cơ hội để phát triển.
Riêng chương trình "Những mảnh xà phòng" (Soap Chips), OP39 giao cho một số kẻ chiêu hồi, ngụy tạo những bức thư gửi về gia đình, sau đó lính biệt kích sẽ đặt nó vào túi áo, túi quần hoặc balô của những bộ đội tử trận. Nội dung thư kể lể cảnh sống cơ cực, thiếu thốn, bệnh tật, những cái chết của đồng đội trên đường từ Bắc vào Nam vì bom B52.
Bên cạnh đó, thư cũng không quên đề cao sức mạnh không quân, pháo binh, xe tăng, bộ binh quân đội Việt Nam Cộng hòa cùng sự bi quan về tương lai mờ mịt, không biết đến ngày nào mới chiến thắng. Theo Weisshart, những người thu dọn tử thi sẽ phải lục tìm giấy tờ để tìm hiểu họ tên, nhân thân người chết và chắc chắn họ sẽ đọc những bức  thư này. Nó sẽ gây ra những tác động không nhỏ về tâm lý.
Không chỉ tiến hành chiến tranh tâm lý, OP39 còn có chương trình “Anh trai cả” (Eldest Son). Thiếu tá David Thelm, thành viên của OP39, cho biết: "Thông qua những kẻ lái súng, CIA đặt mua từ một nước khác đạn B40, B41 và đạn súng cối 82 ly do Trung Quốc chế tạo rồi đem về tháo ra, nhồi vào bên trong chất nổ tức thì. Những loại đạn này, máy bay của CIA bí mật thả xuống vùng biên giới giữa Việt Nam, Campuchia, Lào để khi bộ đội thu được, đem ra sử dụng, nó sẽ nổ ngay trong nòng súng, giết chết người bắn và những người đứng xung quanh ngay lập tức.
Thất bại thảm hại
Trong suốt 7 năm (từ 1961 đến 1968), CIA đã đầu tư rất nhiều công sức và tiền bạc cho cuộc chiến tranh tâm lý. Tuy nhiên kết quả chỉ là những thất bại thảm hại. Tất cả những người dân miền Bắc, bộ đội hoặc dân ở vùng giải phóng miền Nam khi nhặt được những túi quà tâm lý chiến, đều tự giác đem nộp cho đơn vị, cho chính quyền. Trong một bản phúc trình vào tháng 2/1968 của nhóm MACV do Thiếu tướng AR. Brownfield Jr. chủ tọa, cho biết "Chương trình OP39 không rõ ràng và dàn trải quá rộng". Ba viên sĩ quan liên tiếp chỉ huy OP39 là Clyde Russell, Don Balckburn và Jack Singlaub cũng thú nhận rằng kế hoạch OP39 không đem lại kết quả mong muốn.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại, theo đại tá Bill Rydell, người cuối cùng chỉ huy OP 394, thì sự đánh giá không chính xác kết quả của những cuộc hành quân tâm lý chiến phát xuất từ bộ phận "sưu tầm và phân tích". Họ đã không tìm ra các điểm yếu về tâm lý của đối phương, cũng như không lường hết tinh thần cảnh giác của nhân dân miền Bắc. Tháng 6/1967, tờ tạp chí “Học tập” và báo Nhân Dân xuất bản tại Hà Nội đã cho đăng bài viết, công khai tố cáo MTGTAQ chỉ là  một tổ chức ma nên người dân miền Bắc lại càng thờ ơ với những chương trình phát thanh của đài này.
Đầu tháng 11/1968, Tổng thống Lyndon Johnson ra lệnh chấm dứt Kế hoạch OP39 vì "không thu được kết quả gì". Trại Do Do ở Cù lao Chàm - “đảo thiên đường” giải tán. Đài MTGTAQ và Đài Mẹ Việt Nam được giao cho Bộ Thông tin, Dân vận, Chiêu hồi của chính quyền Sài Gòn, do Vũ Quang Ninh làm giám đốc, và nó tiếp tục hoạt động cho đến gần cuối tháng 4/1975. Còn Đài Cờ Đỏ, Sao Đỏ thì… tắt tiếng vì không còn tiền của Mỹ để hoạt động.
Theo lời khai của một số nhân viên làm việc ở Đài Mẹ Việt Nam và căn cứ vào trang thiết bị còn lại sau ngày Sài Gòn giải phóng, thì các đài Gươm thiêng ái quốc, Cờ Đỏ, Sao Đỏ, Đài Tiếng nói Việt Nam "dỏm"…, chỉ có một cơ sở kỹ thuật chung là Đài Mẹ Việt Nam mà thôi…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét