Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc tt

Tác giả: Hà Anh
Nhà xuất bản: Thanh Hoá
LỜI CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP NGUYÊN TỔNG TƯ LỆNH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VỀ TƯỚNG NGUYỄN SƠN

Anh Nguyễn Sơn lúc 16 tuổi đã tham gia phong trào Thanh niên cách mạng đồng minh hội và được vinh hạnh học tập tại trường Võ bị Hoàng Phố nổi tiếng của Trung Quốc. Khi anh về nước thì quân Pháp đã xâm lược miền Nam nước ta. Trong cuộc họp, Bác Hồ, anh Trường Chinh và tôi yêu cầu anh Nguyễn Sơn vào Nam phụ trách Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam (nơi diễn ra chiến sự ác liệt giữa ta và địch). Đây là một chức vụ cực kỳ quan trọng thể hiện lòng tin của Đảng và Chính phủ đối với anh.
Anh Nguyễn Sơn là tướng lĩnh có công với quân đội ta. Đặc biệt anh đã từng tham gia cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài ở Trung Quốc. Anh là vị tướng nước ngoài duy nhất của Hồng Quân Trung Hoa. Các đồng chí láng giềng khi nhắc đến anh đều có một tình cảm tôn trọng và sâu nặng. Năm 1993, tôi sang thăm Trung Quốc đã gặp vợ con anh Sơn, tôi rất vui và yên lòng khi thấy những đứa con bên đó cũng như những đứa con bên này đều đã thực hiện được những điều mà cha anh mong đợi, cần cù phấn đấu, học tập và công tác với tinh thần lạc quan.
Tướng Nguyễn Sơn là một chiến sĩ cộng sản của Trung Quốc và Việt Nam , là người có khí phách dũng cảm, cũng là một vị tướng tài không chỉ ở lĩnh vực quân sự mà còn ở các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. Anh luôn rất coi trọng đào tạo cán bộ. Trong phong trào luyện quân tại Quân khu 4 anh đã rất thành công khi đưa ra một hình thức huấn luyện “Đại hội Tập” được Bộ quốc phòng áp dụng trong toàn quân và nhân dân.
Có thể nói Cách mạng tháng Tám vừa mới thành công, cách mạng Trung Hoa còn chưa giành được thắng lợi, Đảng và nhân dân ta đã phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, độc lập tự chủ, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chính quyền non trẻ trong điều kiện bị bao vây đầy khó khăn phức tạp. Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và Đảng toàn dân đoàn kết xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, xây dựng từ dân quân đến sư đoàn chủ lực đầu tiên. Chúng ta đã nêu cao tinh thần tự lực tự cường, đã đứng vững và lớn mạnh, đặt nền móng vững chãi cho việc tiếp thu và sử dụng có hiệu quả sự viện trợ hết lòng của các nước anh em, đặc biệt là Trung Quốc.
Năm 1949 có một tài liệu của Pháp công bố, Pháp đã buộc phải thừa nhận: “Dùng lực lượng quân sự không thể thắng nổi Việt Minh”.
Anh Sơn về nước giữa những ngày khó khăn đó. Trong các cuộc thảo luận anh đã đưa nhiều ý kiến sâu sắc về bồi dưỡng cán bộ tác chiến, xây dựng bộ đội chủ lực, đặc biệt là xây dựng lực lượng dân quân. Anh phát biểu sôi nổi đã thu hút được sự chú ý của mọi người. Trong quan hệ bạn bè anh tôn trọng đồng chí, đồng đội. Anh thường tâm sự với mọi người thâu đêm, suối sáng làm cho ai cũng có cảm giác thoải mái và quyến rũ.
Sau khi công hiến hết mình cho miền Nam, mùa hè năm 1950 anh đã nhận công tác của Bác Hồ để đi Bắc Kinh. Trong thời gian kháng Mỹ viện Triều anh đã mang bệnh nặng. Mặc dù đã được nhà nước Trung Quốc hết lòng cứu chữa thậm chí gửi sổ y bạ đi hội chẩn ở Liên Xô nhưng bệnh tình anh không thể qua nổi. Đảng đã đón anh về nước để chữa bệnh theo yêu cầu của anh. Anh đã từ trần trong niềm thương tiếc vô hạn của người thân, bạn bè, chiến sỹ trên mảnh đất quê hương mình.
Mặc dù mất sớm nhưng anh đã để lại hình ảnh của một người cộng sản suốt đời cung cúc tận tuỵ cho sự nghiệp cách mạng nước ta và nước bạn. Hình ảnh một đồng chí - một người bạn chiến đấu thân thiết hết sức chân thành vẫn sáng chói. Anh mãi mãi được ghi nhớ trong trang sử cách mạng Việt Nam và khắc sâu trong mỗi trái tim chúng ta.
Hà Nội, tháng 06 năm 2000
Đại tướng Võ Nguyễn Giáp ký
Trích lời đề tựa của Đại Tướng đã viết cho cuốn “Nguyễn Sơn vị tướng huyền thoại” của Minh Quang - tháng 6/2000. Nhà xuất bản trẻ - 161B Lý Chiến Thắng TPHCM

LỜI TÁC GIẢ VÀ BẠN BÈ
cùng là sinh viên thuộc trường Võ bị I Nguyễn Sơn
(Trường Lục Quân Trung học Quảng Ngãi 1946)

Tướng Nguyễn Sơn sinh năm 1908 tên thật là Vũ Nguyên Bắc quê tại thôn Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội (nơi đây có nghề sơn mài dát vàng). Sau 23 năm chiến đấu trong quân đội Hồng quân Trung Hoa, ông đã tham gia nhiều trận đánh chống quân Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Năm 28 tuổi ông đã là Sư đoàn trưởng lại là dân biểu Quốc hội qua 2 nhiệm kỳ. Khi quân Pháp có dã tâm chiếm Nam Bộ để thôn tính Việt Nam lần thứ 2 ông được Mao chủ tịch chấp thuận về nước nhà tham gia chống ngoại xâm.
Đầu tháng 1/1946 Bác Hồ phong Nguyễn Sơn là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam . Ông đến Quảng Ngãi rồi lập tức lên đóng đại bản doanh tại An Khê.
Tôi cũng là người đầu tiên lên mặt trận An Khê phụ trách về quân giới tại mặt trận An Khê. Tôi lại có may mắn được gặp gỡ và nói chuyện với ông tại bờ suối An Khê. Ông cũng là trí thức tiểu tư sản, tôi cũng thế nên hai người dễ thông cảm nhau. Ông đã cho tôi biết về hoàn cảnh gia đình của ông ở Việt Nam và bên Trung Quốc.
Sau khi chỉ đạo các lực lượng chiến đấu tại An Khê phần đất gần quân khu 15. Ông lập giới tuyến phòng ngự chống địch bung ra từ Buôn Ma Thuột, ông dời đại bản doanh về Bồng Sơn. Ông dành thời gian vào mặt trận Khánh Hoà, Phan Rang để ổn định chiến trường quân khu 6. Khi trở về ông lại dời đại bản doanh về Quảng Ngãi và xúc tiến việc thành lập trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi với nhận xét quân đội ta lúc ấy rất non kém và thiếu nhiều cán bộ có năng lực chỉ huy trong chiến đấu nên vì thế phải có trường đào tạo cấp tốc. Tôi cũng đã đăng ký và thi đậu vào học trường này, có thể nói tôi có nửa năm làm việc dưới quyền Tướng Nguyễn Sơn cộng với thời gian học trường lục quân là một năm.
Rất nhiều sách nói về Nguyễn Sơn đúng cũng có, sai cũng có. Ở đây tôi xin được tổng hợp cuộc đời và sự nghiệp của ông qua con mắt nhận xét của một sinh viên là học trò của ông cùng với sự tham khảo của các bạn đồng học, chúng tôi nhận thấy trình độ có hạn chưa nói lên được tất cả những điểm ưu việt qua 30 chục năm chinh chiến đã rèn luyện ông thành con người thép với ý chí tấn công quyết chiến quyết thắng, không lùi bước trước kẻ địch, ông lại còn muốn lời văn, câu thơ, khúc nhạc, tiếng ca phải vang lên theo những bước chiến sĩ tiến lên tiêu diệt quân thù. Ông là nhà hùng biện, nhà thơ, nhà văn, soạn giả kiêm kịch sĩ nổi tiếng của ban kịch đầu tiên nước Cộng hoà nhân dân Trung Quốc. Do lối sống hài hoà nhiều khi hài hước dí dỏm đã thuyết phục một số lớn văn nghệ sĩ, số học giả có tiếng trong nước, những người thuộc chế độ cũ kể cả những sĩ quan phát xít và ngoại quốc cùng theo ông làm cách mạng.
Học trò của Thầy thành đạt rất nhiều, cán bộ tại các trường Võ bị I, Võ bị II, Trường quân chính đại đội, các lớp Trung đoàn, trường Thiếu sinh quân và trường Văn học kể ra có trên 5000 học viên trong vòng năm năm khi thầy hoạt động tại Việt Nam . Riêng các sinh viên trường Võ bị I khi nhập học có 480 sinh viên, đợt đầu loại 50 sinh viên do trình độ kém, sức khoẻ kém, hoặc thiếu kỷ luật. Đợt cuối 430 sinh viên được phân công hoạt động về các đơn vị ở ba miền đất nước.
Sau 30 năm kháng chiến thành công các sinh viên Võ bị I họp mặt chỉ còn 120 người (bảo vệ Thủ đô 40 sinh viên hy sinh). Trên 300 sinh viên đã được phủ quốc kỳ trên thân xác họ tại các chiến dịch Đông Xuân, Biên giới, Thượng Lào, Khe Sanh, Quảng Trị, Khánh Hoà, Đồng Tháp Mười, Trường Sơn, Điện Biên Phủ v.v...
Trong vinh quang cũng có những đau xót. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến gian khổ chống Pháp, chống Mỹ sự hy sinh tính mạng của cải là đương nhiên. Đa số sinh viên chúng tôi nằm trong thành phần địa chủ, tiểu tư sản, trí thức nên qua những đợt chỉnh phong, chỉnh đảng, cải cách ruộng đất một số cũng bị lao đao dao động nhưng cuối cùng đều khắc phục khó khăn noi gương thầy đeo đuổi kháng chiến đến ngày thành công.
Số sinh viên thành đạt có thể kể ra: Trung tướng Phan Quang Tiệp và trên 20 Thiếu tướng như Hồ Đệ, Lê Văn Kiện, Hồ Quang Hóa, Vũ Hắc Thông, Tống Trần Thuật, Lê Trung Ngôn, Dương Bá Nuôi, Y Block,... và trên 50 chục Đại tá. Ngoài ra, có 3 Đại sứ: Nguyễn Khắc Huỳnh, Tô Anh, Vũ Hắc Bồng, Nhà văn dã sử nổi tiếng Thái Vũ, hoạ sĩ Vũ Anh, v. v...
Về phía trường Thiếu sinh quân và các lớp văn hoá khác đều cũng có những người đã thành đạt làm: Bộ trưởng, Ủy viên Trung ương, Tiến sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư... chúng tôi mong rằng các bạn ở thế hệ sau tìm hiểu và noi gương chiến đấu của Thầy về mọi lĩnh vực.
Tôi nghĩ không những Thầy đã củng cố các Quân khu 4, 5, 6, 15 trở nên vững mạnh mà theo tôi công lớn nhất của Thầy lại là thực hiện nhiệm vụ do Bác Hồ giao cho khi qua Trung Quốc liên lạc mật thiết với các lãnh tụ để nhận được sự yểm trợ tối đa về vũ khí, về hóa chất... kể cả công lao của đoàn Cố vấn Trung Quốc sang giúp đỡ Việt Nam tận tình. Đây cũng là bằng chứng hùng hồn đánh bật những luận điệu cho là thầy Sơn qua Trung Quốc vì bất mãn địa vị.
Trong lần kỷ niệm 50 năm ngày thành lập trường Lục quân trung học Quảng Ngãi, thiếu tướng Lê Văn Kiện, Tư lệnh Tăng, Thiết Giáp là sinh viên Đại đội 1 đã đại diện cho toàn trường làm 2 câu đối mô tả tình quân dân cá nước. Ông trân trọng tặng Bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi Đỗ Minh Toại để tỏ sự biết ơn Tỉnh ủy, Ủy ban, Mặt trận Tổ quốc cùng các đoàn thể và nhân dân đã giúp mọi phương diện cho trường Lục quân.
“Quảng Ngãi dựng xây công đức lớn
Lục quân nhớ mãi cội nguồn xưa”.
Đồng chí Toại đã cho khắc hai câu thơ lên bia kỷ niệm của nhà trường. Khi tướng Nguyễn Sơn qua Trung Quốc đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chúc ông “Mã đáo công thành” trong công cuộc kháng Mỹ viện Triều. Quả thật ông đã đem chuông đi đánh xứ người như đại tướng mong muốn. Khi rời Liên khu tư bao nhiêu văn nghệ sĩ và đồng bào tiễn đưa ông. Họ đã khóc trong niềm thương nhớ kính mến. Phải chăng đấy là “triệu bất tường”.
Sau cái chết còn son trẻ của ông, bà Trần Kiếm Qua và bà Lê Hằng Huân đã gặp nhiều cực khổ trong vấn đề nuôi con khôn lớn thành tài. Khi đại tá Chúc, sĩ quan dưới quyền ông, đã đến thăm gia đình bà, ông đã phải khóc vì thấy những đứa con bé tí chập chững đã sớm mất cha. Theo di chúc của ông, bà Huân đã trao số tiền chính phủ Trung Quốc trao tặng Nguyễn Sơn tặng lại nhà nước Việt Nam .
Đấy gia đình Tướng Nguyễn Sơn đã thừa hưởng cung cách con người của Nguyễn Sơn là thế, là thẳng thắn, kiên cường, không vụ lợi, không khuất phục, không dua nịnh, cương quyết, tự lực, dũng cảm vượt qua các trở ngại của cuộc sống, tranh đấu cho hoà bình, cho tự do và công bằng, bác ái của nhân loại như ông. Ngay như các cán bộ văn nghệ dưới quyền cũng noi theo ông không khuất phục trước cường quyền, không bị lôi cuốn trước sự sai trái, sống trong sạch đúng lương tâm con người.
Giờ đây tượng Thầy đã có chỗ trong hội khoa học lịch sử Việt Nam . Tại núi Hồng Lĩnh nhân dân đã lập đền thờ thầy quanh năm khói hương nghi ngút. Chính phủ 2 nước Trung - Việt nhất là Chủ tịch Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Chu Đức... và các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta như: Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Võ Văn Kiệt, Nông Đức Mạnh khi viếng thăm Trung Quốc đã ưu ái chú ý đến gia đình hai bên. Các vị đã thăm viếng và tạo điều kiện để các vợ con Thầy được sum họp trong tình hữu nghị Trung - Việt bền vững. Vong hồn thầy chắc đã hài lòng vì mong ước về gia đình của thầy đã đạt được. Các con cháu Thầy ở Trung Quốc như: Hàn Phong đã trưởng thành là một học giả có tiếng vang được báo chí Trung Quốc khen ngợi. Tiểu Việt cũng là một Tổng giám đốc của Công ty liên doanh với Việt Nam . Tại nước nhà các con như: Thanh Hà, Nguyễn Cương đều là Trung tá và cũng là Giám đốc công ty liên doanh Hồng Đạt hoạt động giữa 2 nước Trung Việt và Châu Á. Cô Mai Lâm sống theo gương bố năm xưa cũng xông vào chiến trường miền Nam với tiếng hát của mình thúc dục miền Nam chiến thắng. Các cháu Vũ Tuấn là giáo sư, Vũ Kỳ Lân là nhà văn, Vũ Ký, cục trưởng trong Bộ Ngoại giao Việt Nam. Nói chung con cháu của thầy đều là những người thành đạt trong cuộc sống tự lập, họ tự đi lên bằng hai chân họ. Họ đang dắt tay nhau, hiên ngang đi trên hai con đường thênh thang có tên Nguyễn Sơn tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây chỉ là những mẩu chuyện nhỏ gợi nhớ đầy tình cảm thương mến đối với Thầy, nó chưa có thể là tác phẩm diễn tả đúng mức cuộc sống oai hùng của Thầy tại hai nước. Vì trình độ có hạn, tôi không đủ lời để nhận xét đánh giá và phê phán thầy tôi: một vị tướng có trình độ rất cao, chỉ có cấp trên của ông mới đánh giá đúng. Tôi mong những bạn là học trò của Thầy, những vị là bạn của ông, những nhà Khoa học, Nhà Văn hóa Nghệ thuật sẽ góp nhiều ý hay, tư liệu chính xác để tác phẩm viết về cuộc đời và sự nghiệp tướng Nguyễn Sơn khi tái bản được hoàn chỉnh hơn.
Xin trân trọng cám ơn quí vị, quí bạn.
Hà Anh (Nguyễn Quốc Tài)
Sinh viên số 229 - Trung đội 2 - Đại đội 3
Trường Võ bị I (Lục quân Trung học Quảng Ngãi)

Ý KIẾN CỦA BAN ĐẠI DIỆN TOÀN QUỐC,
BAN ĐẠI DIỆN PHÍA BẮC, PHÍA NAM CỦA TRUỜNG VÕ BỊ I
 (LỤC QUÂN TRUNG HỌC QUẢNG NGÃI) CÙNG MỘT SỐ SINH VIÊN

1- Thiếu tướng Hồ Đệ nguyên phụ trách Tiểu đoàn pháo binh 954/E34 chiến đấu tại chiến trường Điện Biên Phủ sau là Tham mưu trưởng Quân đoàn III. Ông là sinh viên Đại đội 3 làm Đại diện ban liên lạc toàn quốc của trường.
… Thầy Sơn đã để lại cho sinh viên chúng ta một kho kinh điển về quân sự, chính trị, văn hoá. Từ phép luyện quân, nuôi quân đến cầm quân... thầy trao cho chúng ta những căn bản về phát triển quân đội và văn hóa nghệ thuật. Những tư tưởng đi trước đã làm Quân khu 4 nổi tiếng một thời về mọi mặt.
Thầy để lại cho chúng ta một gương sáng về chiến sĩ quốc tế phục vụ vô tư cho nhân loại: cương quyết, kiên trì chiến đấu dũng cảm bất kỳ nơi nào có bọn đế quốc xâm lăng. Tuy nhiên, thầy rất mềm dẻo đối xử với mọi tầng lớp dân chúng và cán bộ các cấp. Thời gian dài tuy chiến đấu tại nước ngoài thầy vẫn luôn nghĩ phải làm gì cho tổ quốc của thầy. Quả đúng là tư tưởng của vô sản quốc tế. Sự cống hiến của thầy rất to lớn với hai dân tộc. Thầy là tượng trưng sự thắt chặt bền chắc tình hữu nghị giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam . Chúng tôi sung sướng được là học trò của thầy và cũng ngậm ngùi tiếc thương khi sức thầy còn có thể làm được nhiều nữa...
2- Đại tá Trần Đình Mai nguyên Vụ trưởng vụ I Tổng cục Mỏ địa chất (sinh viên đại đội 3).
… Thiếu tướng Nguyễn Sơn vị tướng đa tài huyền thoại như gần đây nhiều sách đã viết. Cũng như hàng trăm đồng môn khác chúng tôi thật vinh hạnh có được một người thầy, một biểu tượng tài năng ngời sáng: Trí, Dũng quả đoán, tình huynh đệ chan hoà, bình dị hiếm có. Thầy mất đi đã để lại vốn quý về quân sự, chính trị văn hoá nghệ thuật và chúng ta cũng mất đi một nhân tài hết lòng vì quốc tế vô sản và vì sự tồn vong của đất nước Việt Nam .
Sinh viên Hà Anh thuộc Đại đội 3 đã có may mắn sống bên thầy từ khi thầy nhận chức chủ tịch Uỷ ban kháng chiến miền Nam Việt Nam trong một năm. Với hai năm sưu tầm, anh đã đi từ nam ra bắc hay miền trung và cao nguyên, những nơi có dấu vết tướng Nguyễn Sơn đã hoạt động để lượm nhặt những tư liệu về một người thầy và cũng là một vị tướng lỗi lạc, oai hùng. Có những chuyện anh đã làm chúng ta xúc động khi tưởng nhớ tới thầy và các bạn đồng môn đã hy sinh làm rạng rỡ trường Lục quân trung học Quảng Ngãi nay là Võ bị I.
3- Thiếu tướng Võ Hắc Thông đại diện Ban liên lạc trường Lục quân trung học (nhóm A miền Bắc) là sinh viên Đại đội II của nhà trường. Ông đã phụ trách tổng kết chiến tranh của Cục Dân quân Bộ quốc phòng:
… Tôi là một trong số mười sinh viên được nhà trường chọn để đi theo thầy Sơn ra miền Bắc lập trường Võ bị II. Sau hôm khai giảng với trên 300 sinh viên, tối hôm ấy thầy Sơn triệu tập những sinh viên có giấy giới thiệu về sinh hoạt Đảng đều được mời đến họp tại văn phòng của thầy. Riêng nhóm sinh viên trường Võ bị Trần Quốc Tuấn thì chưa ai là đảng viên cả.
Ngồi trên chiếc chiếu dưới ngọn đèn dầu, thầy Sơn nhắc lại cương lĩnh của Đảng và năm bước công tác. Việc này chứng tỏ thầy rất chú trọng việc tổ chức và phát triển Đảng trong nhà trường. Một chuyện gây ấn tượng cho chúng tôi là thầy đã kể những sự gian khổ mà thầy đã trải qua trong cuộc vạn lý trường chinh để tiến lên phía Bắc lập căn cứ địa. Suốt dọc đường chống máy bay địch truy kích, chống đói, rét, bệnh tật với tinh thần sắt đá chiến đấu cho giai cấp vô sản, thầy đã chiến thắng trong chiến đấu góp phần quan trọng cho công cuộc thành công của cách mạng nước bạn. Những hình ảnh ấy đã động viên chúng tôi khi về công tác tại vòng đai thủ đô trong buổi đầu gặp nhiều khó khăn gian khổ nhưng chúng tôi đã vượt qua được. Có thể nói công tác tổ chức Đảng đối với thầy rất quan trọng. Trong khóa đó các sinh viên chúng tôi đã cố gắng tuyên truyền vận động và hai tháng sau chúng tôi đã phát triển được trên 50 chục đảng viên...
… Bằng việc làm trong những hành động cụ thể, bằng lý luận chuyên sâu, bằng lời nói có sức thuyết phục lòng người, bằng kho kinh nghiệm tích lũy nhiều năm trong sách vở và thực tế tại các chiến trường, với nguồn vốn dồi dào và nhiều khía cạnh phong phú trên mọi lĩnh vực với cuộc sống đầy sóng gió, trắc trở, oan trái trong cách mạng và đời thường đã hun đúc nên một vị tướng vừa kiên nghị, cứng rắn, vừa mềm dẻo đầy tình đồng chí, đồng đội, tình người đã cảm hoá cán bộ, chiến sĩ, nhân dân trong cuộc kháng chiến trường kỳ.
Một vị tướng văn võ song toàn mà sinh viên Hà Anh mô tả như là một thiên tài. Tôi cho là không quá đáng và đây có thể là bài học cho những thế hệ sau này noi theo.
4- Thiếu tướng Hồ Quang Hóa sinh viên Đại đội II trong Ban đại diện trường LQTH (nhóm C tại phía Nam ). Ông cũng là sĩ quan đã lấy khẩu cung đầu tiên của tù binh là Thiếu tướng Đe Castrie tư lệnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của Pháp.
… Nguyễn Sơn là một vị tướng khẳng khái dũng mãnh, oai phong nhưng rất chan hoà với cán bộ dưới quyền và dân chúng. Giới Văn nghệ sĩ rất thích ông vì lòng rộng rãi thương yêu giúp đỡ họ. Ông cũng là người sâu sắc, luôn có tư tưởng đúng đắn trong các môn thi ca, kịch nghệ, văn chương. Tôi đã đọc bản thảo của Hà Anh cũng là học trò thầy Sơn đã được sống gần thầy từ mặt trận An Khê, Hà Anh đã có một phần nào hiểu biết hơn các bạn khác. Việc người ta đồn thầy nhiều vợ, theo tôi thầy không phải là người đèo bồng, nhăng nhít. Các vợ đến với thầy đều có khoảng cách hợp lý, cho phép thầy có vợ nữa.
Thầy là người rất thương vợ, thương con không kể cả bên Tàu hay bên ta. Thầy chỉ có 5 năm để chỉ huy quân đội phía Nam trong hoàn cảnh khốc liệt với hai bàn tay trắng thầy đã tạo một đội ngũ cán bộ tin cẩn có trình độ dũng cảm quyết theo thầy ra sức chiến đấu xây dựng quân đội.
Năm năm đầy trí tuệ và mồ hôi thầy đã làm cho các quân khu 4, 5, 6, 15 từ yếu ớt trở nên vững mạnh. Thầy chú tâm dốc toàn lực đào tạo lực lượng dân quân các quân khu để có trình độ tự chiến đấu mặt đối mặt với quân thù. Thầy đã tạo một hậu bị quân với hậu cần dồi dào tiếp ứng cho các đơn vị trực chiến tại quân khu 4 về quân trang, quân lương, quân dụng, vũ khí...
Như Hà Anh nhận xét: du kích chiến là phương pháp tối ưu của các nước yếu chống đế quốc xâm lược cho nên thầy Sơn chú trọng rất nhiều về đào luyện dân quân. Cuộc đời thầy đầy lửa và ánh sáng để các sĩ quan noi theo trên đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chúng ta phải coi đây là “tinh thần Nguyễn Sơn”. Tinh thần sắt đá khắc phục mọi gian khổ khó khăn quyết vươn lên tới đích công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Còn nữa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét