Kỳ 1 - Cuộc tranh chấp phức tạp
QĐND - Thứ Sáu, 12/08/2011, 20:59 (GMT+7)
Tranh
chấp chủ quyền trên hai quần đảo Paracels và Spratlys (Hoàng Sa
và Trường Sa theo tên gọi Việt Nam, Tây Sa và Nam Sa theo tên
gọi Trung Quốc) nằm giữa biển Đông đã tồn tại từ trăm năm nay. Đó là
những tranh chấp lâu đời nhất giữa nhiều nước cùng yêu sách chủ
quyền trên các đảo, một cuộc tranh chấp kéo dài cho đến tận ngày hôm nay
mà chưa đạt được bất kỳ một giải pháp pháp lý bền vững nào.
Nó
còn phức tạp hơn với nghĩa là tranh chấp lúc thì bùng lên gay gắt, lúc
lại lắng xuống với những thay đổi phức tạp từ phía các bên có can dự
trực tiếp vào cuộc tranh chấp. Lúc đầu, cuộc tranh chấp chỉ liên quan
trực tiếp đến các đảo. Do vị trí địa lý, các đảo này cho phép quốc
gia ven biển chiếm hữu chúng không chỉ quyền kiểm soát thông thương
hàng hóa trong biển Đông mà còn quyền sử dụng chúng như các căn cứ hải
quân ban đầu nhằm mục đích quốc phòng.
Cuộc
đua tranh có quy mô và sắc thái khác từ sự phát triển nhanh chóng gần
đây của Luật Biển quốc tế và khả năng phát hiện được những mỏ dầu
có thể khai thác được nằm dưới đáy biển của hai quần đảo. Công ước của
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 có hiệu lực từ năm 1994
cho phép các quốc gia ven biển có quyền mở rộng lãnh hải 12 hải lý,
vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa.
Sự
phát triển của luật biển quốc tế đem lại nhiều lợi ích cho quốc gia ven
biển như khả năng khai thác các tài nguyên thiên nhiên từ biển: dầu mỏ,
nguồn lợi thủy sản, khoáng sản, nhưng cũng làm nảy sinh vấn đề phân
định vùng biển và thềm lục địa giữa các quốc gia có vùng biển chồng lấn.
Giải quyết vấn đề phân định biển luôn gắn liền với vấn đề tranh chấp
lãnh thổ, đảo.
Theo
quy định của UNCLOS 1982, các đảo, đá hoặc có thể có vùng lãnh
hải 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục
địa hoặc chỉ có vùng lãnh hải 12 hải lý, căn cứ vào một số điều kiện
nhất định.
![]() |
|
Đảo Trường Sa Lớn - Ảnh: Đỗ Hùng
|
Trên
thực tế, tranh chấp phức tạp thêm chính là do nguyện vọng của các
quốc gia ven biển muốn cho một số đảo, đá, bãi ngầm ngoài khơi không có
người ở này được hưởng quy chế pháp lý đầy đủ của một đảo. Đúng là
luật biển quốc tế mới cho phép các quốc gia ven biển được yêu sách một
vùng thềm lục địa và một vùng đặc quyền về kinh tế rộng hai trăm hải
lý xung quanh các đảo nổi thường xuyên khi thủy triều lên. Nhưng
thực tế vẫn có các đảo không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho
một đời sống kinh tế riêng có thể đòi hỏi cùng một quy chế
như trên ([1]). Luật biển hiện đại đó làm tăng thêm giá trị địa
chiến lược của hai quần đảo và các bên tranh chấp chính là về
vai trò địa chiến lược mới đó của hai quần đảo.
Các
tranh chấp trên biển Đông, ngoài ý nghĩa về chủ quyền lãnh thổ, lợi
ích chiến lược còn là quyền sở hữu và khai thác tài nguyên, đặc
biệt là tài nguyên dầu mỏ. Tranh chấp chủ quyền các đảo và vùng biển
không dễ dàng được giải quyết vì liên quan không chỉ yếu tố
luật pháp mà còn cả về lịch sử, ý chí dân tộc và kinh tế.
Mục
tiêu của cuộc tranh chấp dai dẳng giờ đây không chỉ là các đảo chính mà
chính là các vùng biển rộng lớn bao quanh chúng nhằm kiểm soát được
toàn bộ hoặc chỉ một phần biển này. Hoàng Sa, Trường Sa do CHXHCN Việt
Nam xác lập chủ quyền; CHND Trung Hoa, lãnh thổ Đài Loan cùng yêu cầu
tương tự. Riêng Trường Sa, Philippines chỉ vào cuộc từ năm 1956,
Malaysia từ năm 1979 và Brunei yêu sách một phần nhỏ từ năm 1993.
TS Nguyễn Hồng Thao (Theo báo Thanh Niên)
Kỳ 2: Sức ép và phản ứng
QĐND - Thứ Sáu, 12/08/2011, 20:59 (GMT+7)
Trong
các thập kỷ gần đây, trong quan hệ với Việt Nam, Trung Quốc đã
hai lần sử dụng vũ lực để giành quyền chiếm hữu các đảo này, ngày
19-1-1974 tại Hoàng Sa và ngày 14-3-1988 tại Trường Sa.
Sau
các biến cố trên, mặc dù hai nước đã bình thường hóa quan hệ năm
1991, song tình trạng căng thẳng trên biển vẫn tồn tại ([1]). Việc
thông qua Luật về lãnh hải của CHND Trung Hoa ngày 25-2-1992, trong đó
khẳng định lại yêu sách của TQ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, lại làm dấy lên một làn sóng lo ngại mới tại Đông Nam Á
([2]) về những toan tính sâu xa của TQ.
Tháng 2.1995 đến lượt quan hệ Trung Quốc - Philippines
trở nên căng thẳng. Philippines đã tố cáo Trung Quốc xâm chiếm
bằng quân sự một đảo đá nhỏ mà Philippines tuyên bố chủ quyền trong quần
đảo Trường Sa. Bộ trưởng Quốc phòng Philippines đã đưa ra
những tấm ảnh cho thấy các cấu kiện hình đa giác đã được dựng trên
những cột thép đảo đá Vành Khăn, mà theo Philippines, đó là các công
trình nhà ở lâu dài. Tàu chiến của Trung Quốc cũng được quan sát thấy
tập trung xung quanh đảo đá này. Philippines đã phản ứng bằng cách
tăng cường thêm lực lượng quân sự tại Trường Sa.
Ngày 15.5.1996, Trung Quốc gia nhập UNCLOS 1982 và cam kết giải quyết các tranh chấp “phù hợp với luật pháp quốc tế đã được công nhận”.
Tuy nhiên, cùng ngày, Trung Quốc công bố sắc lệnh mở rộng lãnh
hải, trong đó áp dụng việc vạch đường cơ sở cho quốc gia quần đảo vào
khu vực quần đảo Hoàng Sa. Hành động này của Trung Quốc là “bất
hợp pháp - đó là điều mà nhiều học giả đều nói tới” và là chủ đề chất
vấn tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF).
![]() |
|
Cơ sở của Trung Quốc tại đá Vành Khăn mà họ chiếm đóng trái phép ở quần đảo Trường Sa - Ảnh: AFP
|
Đóng góp của Indonesia (trong vai trò đồng chủ trì với Canada) và các nước ASEAN, TQ tại Hội thảo “Kiềm chế các xung đột tiềm tàng tại biển Đông”
từ năm 1993, các sáng kiến về Bộ quy tắc ứng xử giữa Việt Nam -
Philippines, Trung Quốc- Philippines, nỗ lực của các bên liên
quan trực tiếp đã đưa đến việc ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các
bên trong biển Đông năm 2002 (DOC), một bước ngoặt mới đi đến một giải
pháp cho biển Đông.
Tuy
nhiên cơn khát dầu lửa và các nguồn tài nguyên biển lại tiếp tục làm
dấy lên làn sóng lo ngại mới về hành động lấn chiếm trên biển
Đông. Trong năm 2007-2009, Trung Quốc đưa ra chiến lược “biển xanh”, triển khai căn cứ tàu ngầm nguyên tử ở Hải Nam,
xúc tiến chương trình đóng tàu sân bay, nâng cấp đơn vị hành chính Tam
Á, mở tour du lịch ra đảo Phú Lâm (Hoàng Sa). Tháng 11.2008, Tập đoàn
dầu khí quốc gia Trung Quốc CNOOC thông qua kế hoạch đầu tư 200 tỉ NDT
(29 tỉ USD) cho thăm dò và khai thác dầu khí ở biển Đông.
Trung
Quốc cũng tăng cường sức ép lên các công ty dầu khí nước
ngoài (British Petroleum (BP), Conoco Phillips, Exxon Mobil, và Oil
& National Gas Company (ONGC) đang làm việc trên thềm lục địa
VN, tiếp tục duy trì yêu sách đường “lưỡi bò” đứt khúc 9 đoạn và chủ
trương “chủ quyền thuộc ta, gác tranh chấp cùng khai thác”.
Tháng 5-2009, tình hình thêm nóng bỏng với việc Việt Nam
tự trình và cùng Malaysia trình hồ sơ chung ranh giới thềm lục địa
ngoài 200 hải lý và phản đối của Trung Quốc. Phái đoàn đại diện
của Trung Quốc tại LHQ lần đầu tiên chính thức khẳng định yêu sách của
nước này với tất cả vùng nước và các đảo trong phạm vi “đường yêu sách lưỡi bò”.
Việt Nam và Malaysia cho rằng hồ sơ ranh giới thềm lục địa của mình
được tính từ đường cơ sở đất liền nên không ảnh hưởng đến quyền lợi
của các nước nào khác.
Tầm
quan trọng chính trị, chiến lược và kinh tế của hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa đòi hỏi phải có được một giải pháp tổng thể. Nhưng trước
hết tranh chấp ở đây phải được coi là tranh chấp pháp lý, trong đó cần
dựa trên danh nghĩa pháp lý nào để xác định chủ quyền trên các
quần đảo này?
Câu
hỏi được đặt ra là: đây có phải là tranh chấp có liên quan đến
quyền thụ đắc lãnh thổ được coi là vô chủ (res nullius) hoặc là tranh
chấp một vùng lãnh thổ trên đó chủ quyền quốc gia đã được xác định,
nhưng với thời gian và sự phát triển của các sự kiện, lãnh thổ đó trở
thành lãnh thổ từ bỏ (terre derelictio)?
Do
việc chiếm cứ các đảo khác nhau tại các giai đoạn khác nhau và do có
quá nhiều các danh nghĩa khác nhau được đưa ra trên cùng một vùng lãnh
thổ. Đã có khá nhiều tác phẩm trong và ngoài nước viết về tranh chấp
chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chúng tôi sẽ cố gắng nghiên cứu sâu các luận thuyết của mỗi bên tranh chấp dưới ánh sáng của thuyết luật theo thời điểm (Intertemporel).
Luật theo thời điểm do M.Hubert đưa ra lần đầu tiên trong vụ đảo Palmas bao gồm hai nguyên tắc cơ bản:
1)
Một sự kiện pháp lý phải được đánh giá dưới ánh sáng của luật mà nó
là đương thời chứ không phải dưới ánh sáng của luật có hiệu lực vào
thời điểm mà tranh chấp nảy sinh hoặc được giải quyết;
2) Một luật lệ không thể duy trì trong một hệ thống pháp luật trừ phi nó phù hợp với các yêu cầu trong hệ thống đó.
TS Nguyễn Hồng Thao (Theo báo Thanh Niên)
Kỳ 3:
Trước
hết Trung Quốc (TQ) yêu sách chủ quyền trên các quần đảo trên cơ
sở quyền phát hiện và sự quản lý. Lập luận của TQ bao gồm: 1. Người TQ
đã phát hiện ra các đảo này sớm nhất và đã đặt tên cho chúng. 2. Ngư
dân TQ đã khai thác các đảo này từ hàng nghìn năm nay. Điều đó
chứng minh chủ quyền của TQ. 3. Sự quy thuộc các đảo này vào TQ
được củng cố bằng các phát hiện khảo cổ học. 4. TQ đã thực hiện các
hành động cai quản trên các đảo này từ lâu đời. Chúng ta sẽ xem
xét lập luận của TQ trong hai tiểu giai đoạn sau: thiết lập một danh
nghĩa ban đầu và việc củng cố danh nghĩa đó.
“Từ thời Hán Vũ đế trước công lịch hai thế kỷ, nhân dân TQ đã bắt đầu đi lại trên biển Nam.
Trải qua thực tiễn hàng hải lâu dài nhân dân TQ đã lần
lượt phát hiện các quần đảo Tây Sa (Paracels) và Nam Sa
(Spratlys)” - Sách trắng của Bộ Ngoại giao TQ ngày 30.1.1980:
“Chủ quyền không thể tranh cãi của TQ trên các đảo Tây Sa và Nam
Sa” đã khẳng định như vậy. Để chứng minh danh nghĩa lịch sử của họ,
phía TQ đã dựa trên những cuốn sách chính như sau:
-
Nam châu dị vật chí của Dương Phù và Phù Nam truyện của Khang Thái, đều
viết vào thời Tam Quốc (220-265); Vũ kinh tổng yếu của Tăng Công
Lượng (998-1078) và Đinh Độ (990-1053) thời Tống biên soạn; Mong Liang
Lu được soạn dưới thời nhà Tống (960 - 1127); Đảo di chí lược do Vương
Đại Uyên soạn dưới thời nhà Nguyên (1206 - 1368); Đông Tây dương khảo
của Trương Nhiếp viết dưới thời nhà Minh (1368 - 1644); “Trịnh Hòa hàng
hải đồ” trong Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi biên soạn đầu thế kỷ XVII;
Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ đầu nhà Thanh; Hải Quốc văn
kiến lục của Trần Luân Quýnh năm 1730; Dương phòng tập yếu của
Nghiêm Như Dục viết, Trương Bằng Phi khắc năm 1828; Quỳnh Châu phủ chí
giữa thế kỷ XIX; Quảng Đông đồ thuyết (1862-1875); Canh lộ bạ do ngư
dân các đời kể lại.
![]() |
|
Theo
bản đồ do triều đình nhà Thanh ấn hành năm 1894 thì đến cuối thế kỷ XIX
"lãnh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết” - trong ảnh:
Đại Thanh nhất thống toàn đồ (đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên
trái là Giao Chỉ (VN), đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan) - Ảnh:
biengioilanhtho.gov.vn
|
Các
sách kể trên hoàn toàn không phải là các chính sử được viết
bởi các cơ quan chính thức của nhà nước. Phần lớn chúng là
những ghi chép về các chuyến đi, các chuyên khảo và các sách hàng hải
thể hiện những nhận biết địa lý của người xưa liên quan không chỉ
tới lãnh thổ TQ mà còn tới lãnh thổ của các nước khác.
Ví
dụ, Hải Quốc văn kiến lục, đúng như tên sách, phần lớn nói về
các miền mà người TQ gọi là “man di” nhiều hơn là TQ.
Sách
Tống sử phần Ngoại quốc chép chuyện Chiêm Thành: “Năm Thiên Hy
thứ hai (1016) vua Chiêm Thành là Thi Mặc Bài Ma Diệp sai sứ là La Bi
Đế Gia chở đồ cống sang... La Bi Đế Gia nói rằng người nước tôi trên
đường sang Quảng Châu, nếu bị thuyền dạt ra Thạch Đường thì cả năm
cũng không tới nơi được”. Cứ theo đó mà suy thì từ Chiêm Thành
đến Quảng Châu có vùng được gọi là Thạch Đường nhưng không có
nghĩa Thạch Đường thuộc Quảng Châu và vì sách này chép về các
vùng nước người TQ coi là “man di” thì nó không thể được coi là
thuộc TQ.
Sách
Dư địa chí, quyển 4 phần Cương vực chép: “Phía ngoại vi của
Quỳnh Châu là biển lớn tiếp với các châu Ô, châu Lý, Tô Cách Lương,
phía Nam đến Chiêm Thành, phía Tây đến Chân Lạp, Giao Chỉ, phía
Đông đến Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường... Người địa
phương đi thuyền đều không biết rõ đâu là vị trí thực của chúng”. Trong
tất cả các sách kể trên, liệt kê một đống lẫn lộn các tên Cửu Nhũ
Loa Châu, Thạch Đường, Thiên Lý Vạn Đường, Trường Sa, Thiên Lý
Trường Sa và Vạn Lý Trường Sa nhưng không có tên Tây Sa và Nam
Sa. Bản thân người TQ cũng không định rõ được vị trí của chúng.
Điều đó, không nghi ngờ gì đã dẫn tới những cuộc tranh cãi bất
tận giữa các nhà dịch thuật và các học giả về việc thống nhất các
tên gọi trên. Mặc dù Hung dan Chiu và Choon Ho Park cho rằng Vạn Lý
Thạch Sành chỉ Spratlys, M.S Samuels lại bảo vệ tên đó dùng để chỉ đá
ngầm mà ngày nay có tên gọi là Trung Sa (Macclesfield Bank).
Phù Nam truyện chép: “Trong Trướng Hải có các bãi san hô, dưới bãi là đá tảng san hô mọc trên đó”.
Nam
Châu di vật chí ghi lại: “Kỳ đầu Trướng Hải nước nông có nhiều từ
thạch, thuyền lớn nằm ngoài biên cương, đóng đai sắt, đi lại dựa
trên la bàn”.
Xuất
phát từ những ghi chép đó, người TQ cho rằng Trướng Hải là biển
Nam Trung Hoa bao gồm tất cả các đảo của biển Nam Hải. Tuy nhiên, chúng
ta có thể có một vài nhận xét:
-
Các đoạn văn trích trên không cho thấy rõ vị trí chính xác của
Trướng Hải. Chúng cũng không xác định rõ các thạch sành nói
trên chính là Tây Sa và Nam Sa. Các sách trên, đúng như tên gọi,
đều là miêu tả các lãnh thổ “man di”, nước ngoài, không phải lãnh thổ
TQ.
-
Nam Châu dị vật chí được soạn thời Tam Quốc (220-265) lại nói tới
việc sử dụng la bàn trong hàng hải, thế nhưng dụng cụ hàng hải này
dường như chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ thứ X.
-
Cụm từ “nằm ngoài biên cương” cho thấy các đảo đá này không
thuộc lãnh thổ TQ. Giả định này còn được khẳng định bởi các tài
liệu chính thức khác của TQ mô tả và phân định lãnh thổ của “Thiên
triều” kết thúc ở điểm cực Nam của đảo Hải Nam như: Quỳnh Châu phủ
chí (1731), Hoàng Triều di tông tâm lĩnh (1894), Đại Thanh di
đồ (1905)... hay các sách, bản đồ cổ khác của người TQ đều xác
định rõ điểm mút phía Nam của lãnh thổ TQ nằm ở Nhai Châu, thuộc
phủ Quỳnh Châu tỉnh Quảng Đông tại vĩ độ 18013’ Nam. Điều đó còn được
khẳng định bởi sách Địa lý Giáo khoa thư, Thương Vụ ấn Thư Quán,
Thượng Hải (TQ) năm 1906 xuất bản: “Phía Nam bắt đầu là vĩ độ 18013’
Nam lấy bờ biển Châu Nhai đảo Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam)
làm điểm mút”. Chúng ta không thấy trong các tác phẩm này một ghi chép
nào về các quần đảo nằm ngoài điểm cực Nam đó.
TS Nguyễn Hồng Thao - (Theo Báo Thanh Niên )
Kỳ 4: “Bằng chứng khảo cổ” mập mờ và thiếu chính xác của Trung Quốc
QĐND - Thứ Ba, 16/08/2011, 22:45 (GMT+7)
Để
củng cố lý lẽ về chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, người TQ sử dụng cả
các luận cứ về khảo cổ. Người TQ cho là đã tìm thấy vết tích tiền cổ và
vật dụng cổ có từ thời Vương Mãng (năm thứ ba trước Công nguyên cho đến
năm 23 sau Công nguyên) trên các quần đảo.
Chang The-Kuang và S.Yeh viết rằng các đảo này có chứa “các
tàn tích của khu dân cư, các vật dùng sành sứ, các dao sắt, các nồi
gang và các vật dụng hằng ngày khác có niên đại từ thời Đường, Tống”.
Báo cáo sơ bộ của chuyến khảo cổ học thứ hai trên quần đảo Tây Sa của
tỉnh Quảng Đông ghi rằng “qua hai cuộc khảo sát, các nhà khảo cổ học đã
khảo sát hầu hết các đảo, đá, bãi ngầm, các vũng của quần đảo Tây Sa và
hầu như ở đâu họ cũng tìm thấy các đồ vật cổ và các lịch sử của quần đảo
Tây Sa, bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta từ ngàn đời
nay”.
Vấn
đề đặt ra ở đây là trong luật quốc tế không tồn tại một quy tắc nào cho
phép tự quy thuộc chủ quyền cho một quốc gia trên một vùng đất mà tại
đó các cổ vật thuộc nền văn minh của nước đó được tìm thấy. Các cổ vật
này có thể thuộc các ngư dân TQ đi lại và bị đắm thuyền trong vùng biển
này, cũng như có thể thuộc các ngư dân Philippines, Malaysia hoặc của
các tàu thuyền Ả Rập, Bồ Đào Nha, Hà Lan bị trôi dạt mắc nạn vào đây.
Không có gì chứng minh được rằng các ngư dân TQ là những người duy nhất
có các hoạt động định cư thường xuyên trên các đảo không có nước ngọt này.
Trong
khi đó, năm 2001, trong khuôn khổ dự án 10 năm điều tra cơ bản khảo cổ
học Trường Sa - Tây Nguyên - Nam Bộ, các nhà khoa học Việt Nam đã khai
quật và phát hiện nhiều di tích khảo cổ có giá trị trên quần đảo Trường
Sa. Trên chứng chỉ khảo cổ học, các nhà sử học đã xác định được các cư
dân người Việt sinh sống ở Trường Sa là rất sớm, chí ít cũng phải từ
thời nhà Trần và liên tục định cư, sinh sống ở đây
trong các giai đoạn thời kỳ sau. Qua các hiện vật thu được, dựa trên căn
cứ sử học và văn hóa học, rất rõ ràng để nhận ra có một sợi dây liên
kết chặt chẽ giữa cư dân trên đảo với cư dân đất liền từ thuở sơ khai
đến nay. Có thể những cư dân đầu tiên Trường Sa là kết quả của các cuộc
di dân, tìm đất mới thời cổ xưa. Hoặc là các ngư dân Việt đi biển ghé
vào và ở lại lâu dài, khai phá đất đai, tạo lập cuộc sống mới.
![]() |
|
Một
trang trong cuốn Hải ngoại kỷ sự (1695) của Thích Đại Sán, một nhà sư
Trung Quốc đời Khang Hy, thuật lại chuyến du hành tới xứ Đàng Trong,
thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Đại Việt -
Ảnh: biengioilanhtho.gov.vn
|
Chủ quyền quốc gia đã được luật quốc tế định nghĩa về mặt pháp lý. Trương Hồng Tăng và các tác giả TQ khác lập luận rằng: “Dưới
thời nhà Tống, nhiều sách vở đã ghi nhận rằng những ngư dân TQ thường
tới đây bắt cá và thu lượm san hô (…). Theo Chư phiên chí (ghi chép về
các nước chư hầu) của Zhao Rushi (Triệu Nhữ Quát) sống dưới thời nhà
Tống cách đây 700 - 800 năm, người TQ đã biết rằng các quần đảo Tây Sa
và Nam Sa là những vùng nguy hiểm cho hàng hải (…). Vào thế kỷ trước,
chỉ có người TQ đã sống và khai thác một cách liên tục các quần đảo Tây
Sa và Nam Sa (…)”.
Sau
khi đã nghiên cứu sâu sắc các tài liệu TQ, ông Heinzig, một luật gia
Đức đã rút ra kết luận chỉ bắt đầu từ thời nhà Tống (960) người TQ mới
có thể tiếp cận với quần đảo Paracels (Hoàng Sa). Còn về việc hiện diện
của người TQ trong khu vực Spratlys (Trường Sa) không có gì ghi nhận
trước 1867, thời điểm một tàu nghiên cứu Anh gặp những ngư dân TQ tới từ
đảo Hải Nam. Theo Heinzig, chỉ từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ
nhất người TQ mới bắt đầu gọi quần đảo Spratlys là “Đoàn Sa Trung Đảo”. ([1])
Sự
tiếp xúc riêng rẽ của những cư dân TQ cá thể đối với Paracels liệu có
đủ để thiết lập chủ quyền TQ tại đó không theo luật quốc tế? Các tác giả
TQ khẳng định rằng TQ phát hiện ra Tây Sa và Nam Sa cách nay 2.100 năm,
vào thời Hán Vũ Đế. Đối với họ, theo luật quốc tế và tập quán quốc tế
thời kỳ đó: “Chủ quyền thuộc về người phát hiện” (Who discovers the
territory, holds its sovereignty), đó là ngư dân TQ, và vì vậy TQ phải
có chủ quyền trên đó".
So
sánh với các tiêu chuẩn thụ đắc lãnh thổ, các ghi chép mà TQ viện dẫn
không đủ chứng minh rằng quyền phát hiện đã được xác lập. Một đảo hoặc
một quần đảo có thể là đối tượng nhận biết từ lâu đời của các nhà hàng
hải, các ngư dân, các nhà địa lý… nhưng chúng vẫn chỉ được coi là lãnh
thổ vô chủ
res
nullius một khi quốc gia của họ chưa tiến hành một hành động nhà nước
nào tại đó. Phan Thạch Anh cố chứng minh rằng vào thế kỷ XV, XVI chỉ cần
quyền phát hiện là đủ để tạo nên quyền sở hữu đất vô chủ. Sở dĩ ông ta
lập luận như vậy là để chứng minh rằng các hoạt động của tư nhân TQ là
đủ để tạo ra quyền phát hiện ([2]). Thế nhưng các hoạt động tư nhân của
các ngư dân TQ không thể mang lại hiệu lực pháp lý của “quyền phát hiện”
và nó không thể được đánh đồng với quyền chiếm hữu.
Các
bằng chứng của quyền phát hiện các đảo này như đã nêu trên rất mập mờ
và thiếu chính xác. Chúng ta có thể đồng ý rằng các hoạt động của ngư
dân có thể kéo theo sự chú ý và ý định của nhà nước trên lãnh thổ vô
chủ. Tuy nhiên, yếu tố ý chí này không đủ khi còn thiếu yếu tố vật chất
của các hoạt động nhà nước trên thực địa. Người TQ sẽ chứng minh như thế
nào đòi hỏi này của luật quốc tế vào thời kỳ đó?
TS Nguyễn Hồng Thao – Nguồn Báo Thanh Niên
_________
[1] Theo Nguyễn Quang Ngọc, Sđd, tr 41. Trước khi Lý Chuẩn ra Hoàng Sa năm 1909, bản đồ TQ vẫn thể hiện đảo Hải Nam
là cực nam lãnh thổ TQ. Năm 1928 trường Đại học Trung Sơn tổ chức điều
tra quần đảo Tây Sa, được coi là mốc đánh dấu sự hiểu biết của người TQ
về quần đảo Tây Sa. Tuy nhiên, cho đến năm 1934, bản đồ TQ vẫn chưa vượt
quá quần đảo Tây Sa và đảo Triton, cực nam của quần đảo, ở sát phía
dưới vĩ tuyến 16 được gọi là đảo cực nam với lời giải thích đảo là cột
mốc đánh dấu lãnh thổ cực nam của TQ. Trong khoảng năm 1935-1936 địa
danh Nam Sa và Đoàn Sa xuất hiện trên bản đồ TQ. Nam Sa được đặt tên cho
bãi ngầm Maccelesfield Bank còn Đoàn Sa để chỉ Spratleys. Từ năm 1939
tên Nam Sa mới được dùng để chỉ Trường Sa của Việt Nam, tên Đoàn Sa mất
đi, còn Maccelesfield Bank được đặt tên là Trung Sa.
[2] Phan Thạch Anh, The ptropolitics of the Nansha islands-China’s indisputable legal case, Beijing, December 19955
Kỳ 5: Độ chênh của lịch sử trong Sách trắng Trung Quốc
Để
hiểu rõ câu chuyện, có thể tham khảo Sách trắng của Bộ Ngoại giao nước
CHND Trung Hoa năm 1980 và Sách trắng của Bộ Ngoại giao CHXHCN VN năm
1979, 1981 và 1988. Nhằm chứng minh sự quản lý của Trung Quốc (TQ) trên
các đảo tranh chấp này từ hàng nghìn năm, Bộ Ngoại giao TQ chỉ đưa ra
được ba sự kiện sau:
-
Sự kiện thứ nhất: Từ thời nhà Tống (960 - 1127) Hải quân TQ đã đi tuần
tra đến vùng biển quần đảo Tây Sa. Sự khẳng định này dựa trên cơ sở đoạn
văn trích từ Vũ Kinh tổng yếu có lời tựa của vua Nhân Tông đời Bắc
Tống. Đoạn trích trong văn kiện chính thức của TQ như sau: “Triều đình
Bắc Tống lệnh cho Vương Sư đi phòng giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển
ở Quảng Nam (tức Quảng Đông ngày nay) và “đóng tàu chiến đao ngư”.
Tác phẩm trên còn khẳng định: “Từ Đồn Môn Sơn, dùng gió Đông hướng Tây Nam
7 ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu. Cửu Nhũ Loa Châu là quần đảo Tây Sa
ngày nay. Điều đó chứng tỏ quần đảo Tây Sa đã thuộc phạm vi cai quản của
đời Bắc Tống”.
Theo
Sách trắng 1981 của VN thì đoạn trích từ Vũ Kinh tổng yếu này là sự kết
hợp ba đoạn riêng rẽ khác nhau trong một đoạn sau lời tựa:
“Lệnh
cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở hai cửa
biển phía Đông và phía Tây rộng 280 trượng đến Đồn Môn Sơn 200 lý đóng
tàu chiến đao ngư. Từ Đồn Môn Sơn dùng gió Đông đi về hướng Tây Nam
bảy ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu, đi ba ngày nữa đến Bất Lao Sơn
(thuộc địa giới nước Hoàn Châu), ([1]) đi 300 hải lý nữa về phía Nam đến
lăng Sơn Đông. Phía Tây Nam nơi đó là các nước Đại Thực Phật, Sư Tử,
Thiên Trúc không thể tính được hành trình”.
![]() |
|
Theo
Nguyên sử (bộ sử chính thức của nhà Nguyên - TQ), “lãnh thổ TQ” dưới
thời Nguyên phía Nam chỉ tới đảo Hải Nam, phía Bắc không quá sa mạc
Gobi - Nguồn: gis.chinhphu
|
Rõ
ràng trong đoạn trích kể trên của Vũ Kinh tổng yếu, có đoạn văn Bắc
Tống “lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển
ở Quảng Nam (Quảng Đông ngày nay)”, “đóng tàu chiến đao ngư”, có đoạn
mô tả vị trí địa lý của đồn binh nhắc trên, đoạn khác tả lộ trình đi từ
cảng Quảng Nam tới tận Ấn Độ Dương. Đó là hành trình khảo sát địa lý,
đúng hơn là tuần tra lãnh thổ TQ. Không có gì trong đoạn trích trên cho
phép khẳng định rằng Cửu Nhũ Loa Châu chính là quần đảo Tây Sa. Đối với
chúng ta, đó không thể là bằng chứng đầy đủ chứng minh rằng ngay từ thời
nhà Tống, quần đảo Hoàng Sa đã thuộc quyền quản lý của TQ và “Hải quân
TQ đã đi tuần tới các đảo Tây Sa”.
-
Sự kiện thứ hai: Việc đo thiên văn trong biển Nam Hải vào đầu đời
Nguyên đã khẳng định rằng các đảo là một bộ phận của lãnh thổ TQ.
Sách trắng của Bộ Ngoại giao TQ 1980 viết:
“Năm
thứ nhất đời Nguyên tiến hành đo đạc thiên văn 27 nơi trong nước, nhà
Nguyên năm thứ 16 (Công nguyên năm 1279) Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đích
thân sai Đồng Trí Thái, Sử viện sử Quách Thụ Kinh, nhà thiên văn nổi
tiếng đến biển Nam tiến hành đo đạc. Theo Nguyên Sử, điểm thiên văn Nam
Hải nằm ở phía Nam Châu Nhai (thuộc đảo Hải Nam) và kết quả đo đạc cho
thấy Nam Hải ở vĩ tuyến Bắc 15 độ. Điểm thiên văn Nam Hải chính là ở
quần đảo Tây Sa ngày nay. Điều đó nói rõ quần đảo Tây Sa thời Nguyên đã
là nằm trong biên thùy TQ”.
Thực ra, Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn được ghi chép như sau:
“Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi. Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc”.
Khái
niệm “bốn biển”, theo ngôn từ TQ, chỉ rằng các lãnh thổ này nằm ngoài
lãnh thổ quốc gia. Trên thực tế, dưới đầu đề “đo đạc bốn biển”, Nguyên
Sử chép rõ tên 27 nơi đo đạc thiên văn trong đó có những địa danh hoàn
toàn không thuộc cương vực TQ như Cao Ly (Triều Tiên), Thiết Lặc
(Siberia). Chính Nguyên Sử cũng nói rõ “lãnh thổ TQ” dưới thời Nguyên
phía Nam chỉ tới đảo Hải Nam, phía Bắc không quá sa mạc Gobi.
Các
quan trắc thiên văn trên có phần tiến hành trên lãnh thổ TQ, có phần
nằm ngoài cương vực TQ. Do đó, nó không thể tạo ra bằng chứng xác đáng
cho chủ quyền TQ. Ngay cả khi điểm quan sát thiên văn “Nam Hải” nằm trên
các đảo Tây Sa, thì việc quan sát thiên văn đó… cũng không đủ để thể
hiện ý chí của “Chính phủ đó thực hiện chủ quyền trên các đảo đá nhỏ
này”. Hơn nữa một hành động nghiên cứu khoa học không thể tạo nên một
danh nghĩa chủ quyền.
TS Nguyễn Hồng Thao – Nguồn Báo Thanh Niên
Tin liên quan
- Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 13: Đặt dấu mốc 1909: Quá muộn!
- Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 11: Chiếm hữu đúng luật
- Những thông điệp về bài ca dựng nước và giữ nước (05/08/2011 21:48)
- Không có cái gọi là “đường lưỡi bò” trong sử Trung Quốc (04/08/2011 17:29)
- Cơ sở pháp lý quốc tế về sự thiết lập chủ quyền lãnh thổ tại các hải đảo (02/08/2011 21:36)
- Bài 2: Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa qua bản đồ cổ Tây phương (02/08/2011 14:50)
- Bài 1: Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ cổ nước ngoài (02/08/2011 14:50)
- Chiến lược mở rộng tranh chấp ở Biển Đông của Trung Quốc (11/06/2011 21:01)
- “Đường đứt khúc 9 đoạn” – Một yêu sách phi lý (Phần cuối) (11/06/2011 00:33)
-














Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét