Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc (23-26) tt


20
Quảng Ngãi cũng là trung tâm nhận các thương binh trên các chiến trường từ miền Nam ra dưỡng bệnh và dưỡng thương. Các chiến sĩ từ miền Bắc vào được nghỉ ngơi trước khi được phân phối ra mặt trận - Tỉnh Quảng Ngãi cũng là trung tâm văn hoá, văn nghệ miền trung để các chiến sĩ về nghỉ được giải trí trước khi đi nhận công tác. Tại rạp chiếu bóng đều có trình diễn văn nghệ dịp cuối tuần.
Trường Quân chính Đại đội đã mãn khoá vào tháng 7 do tình hình chiến trường miền Nam căng thẳng. Căn cứ vào tình hình chiến sự phía nam trung bộ, Nguyễn Sơn đã đề nghị được rút ngắn thời gian luyện tập của trường lục quân. Bác Hồ và Quân ủy Trung ương đã chấp thuận. Ngày 20/11/1946 trường Lục quân trung học cũng bế mạc.
Buổi lễ diễn long trọng và chứa chan tình cảm giữa thầy trò, quân dân. Sau khi tuyên bố kết quả học tập của các sinh viên, thầy Nguyễn Sơn căn dặn: sinh viên phải cố gắng khắc phục mọi trở ngại luôn học tập trong chiến đấu để làm rạng danh trường.
Các sinh viên phải hiểu vị trí mình trong hoàn cảnh lực lượng ta còn non yếu hơn địch rất nhiều, phải cùng đồng đội, đồng bào nuôi lấy lòng căm thù giặc và bọn Việt gian bán nước. Phải khắc phục mọi khó khăn, gian khổ sáng tạo trong chiến thuật, quyết đoán mau và dốc toàn lực diệt quân thù.
Cuối cùng đồng chí Lê Văn Kiện đại diện cho sinh viên toàn trường đã cảm ơn thầy Nguyễn Sơn cùng toàn thể Ban Giám hiệu và các huấn luyện viên ngoại quốc đã giảng dạy. Đồng chí Kiện không quên cám ơn đồng chí Bí thư, đồng chí Chủ tịch cùng các ban ngành, đoàn thể, nhất là các mẹ, chị chiến sĩ đã giúp đỡ về hậu cần cho trường trong khi tỉnh nhà phần đông ăn cơm sắn, khoai để nhường cơm sẻ áo cho sinh viên. Đồng chí đánh giá: chúng tôi xem đây là một mối tình đẹp nhất giữa địa phương và tiền tuyến, giữa quân và dân như cá với nước.
Sau lễ bế mạc, chúng tôi ra trường sớm hơn một tháng để kịp thời trường tung cán bộ về các địa phương. Tuy nhiên nhà trường cũng cho các sinh viên nghỉ 10 ngày phép để chuẩn bị hành trang, sau này lên đường ra mặt trận với sự phân công của nhà trường.
Riêng phần tôi, nhờ dịp này tôi đã được về thăm mẹ ở Gia Lâm sau 10 năm xa cách. Khi tôi lên 5 tuổi mẹ tôi đã đi tu nhưng năm sau bà được ông chánh tổng Gia Quất huyện Gia Lâm rước về làm vợ. Dịp này tôi đã gặp bà ở một căn nhà lá riêng biệt trong đất nhà ông Chánh tổng. Bà được sống độc lập nhưng vì ham buôn bán, gánh gạo nhiều quá nên bị cụp xương sống làm cho bà gù lưng. Bà vẫn còn mạnh khỏe khi tôi trở về trường. Đó là điều làm tôi rất mừng và yên chí vào tiểu đoàn Ba Dương thực hiện “Nam Tiến”.
Thế mà hơn 30 năm sau khi hoà bình lặp lại tôi mới gặp mẹ tôi, như thế cũng là điều may mắn hơn một bạn sinh viên trường này sau hiệp định Giơnevơ1 đáng lẽ được về nhà gặp mẹ nhưng vì có lệnh đi học Trung Quốc gấp trong 3 năm. Đến khi trở về nhà thì mẹ đã mất rồi...
Việc nghỉ phép 10 ngày riêng đối với tôi thật quý. Đây cũng là một quyết định rất tình cảm và khoa học của thầy Sơn đã dành cho các sinh viên được sum họp với gia đình trước giờ xuất phát và chuẩn bị từ tinh thần đến vật chất thật dứt khoát, gọn nhẹ trước khi trở về trường nhận nhiệm vụ phục vụ mặt trận tại 3 miền trung, nam, bắc. Họ đã rũ bỏ hết những vấn vương trong lòng trước khi ra đi với tinh thần sung mãn được vinh dự hiến thân cho Tổ quốc. 
21
Nhận được quyết định số 214 ngày 20 tháng 11 năm 1946 ông Nguyễn Sơn đã bàn giao với Thiếu tướng Lê Thiết Hùng sẽ thay ông làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam và ông sẽ về trung ương làm Tham mưu trưởng. Đi theo ông có 17 người gồm 1 cần vụ, 1 y tá, 1 thư ký và 2 bảo vệ với 10 sinh viên lục quân Quảng Ngãi, bà Nội vì mang thai 4 tháng nên ông để ở lại khi nào yên sẽ ra Bắc sau.
Ông cho biết trước đường đi ra Bắc rất gian nan phải xuyên rừng vượt núi. Ông ra lệnh mỗi người phải chuẩn bị một ruột tượng 5kg gạo - Và lương khô cùng đồ gia vị muối vừng (muối tiêu) muối đậu. Mỗi người được cấp 1 võng, 1 tấm ny lông che mưa và để đắp, 1 hộp mùng tròn dùng khi đứng gác, hộp này trồng vào đầu để tránh muỗi, một khăn mặt, một đôi giầy da và hai đôi tất, 30 viên thuốc cảm, ỉa chảy và kiết, một gói nhỏ bông băng với lọ thuốc đỏ - Ông giao la bàn cho thư ký quản lý.
Các đồng chí Nguyễn Chánh, Phạm Kiệt, Hoàng Quốc Việt đã tổ chức một bữa cơm tiễn đưa ông Nguyễn Sơn và đoàn đi về trung ương có mặt cả cô Nội. Trong bữa ăn ông nhắc nhở các vị chỉ huy nên chú ý vùng biên giới Trung Lào, địch có thể xâm nhập bất cứ lúc nào kể cả các cửa biển Mỹ Khê, Thu Xà, Sa Huỳnh - nhất là Sa Huỳnh nên có những phòng tuyến chống địch đổ bộ - Nơi đây là đường huyết mạch, núi lại sát biển nếu địch chiếm được chúng sẽ uy hiếp vùng Đức Phổ, Mộ Đức làm trở ngại cho hoạt động quân sự của ta.
Hiện lại tỉnh Buôn Ma Thuột đã thành lập 3 đại đội độc lập, 3 đội vũ trang tuyên truyền và 3 ban xung phong công tác gồm:
- Đại đội độc lập 29 phụ trách Cheo Leo và tả ngạn sông Ba.
- Đại đội độc lập 79 hoạt động ở M’Drak
- Đại đội độc lập 49 hoạt động ở Buôn Hồ2
Phải liên lạc với 2 ban xung phong công tác ở bản Đôn và một ban hoạt động ở phía Tây đường 14 (từ Buôn Ma Thuột đến Buôn Trắp) để chỉ đạo chiến đấu.
Tình hình lúc này thuận lợi cho ta vì các cán bộ, đảng viên các cấp, bộ đội du kích, bắt đầu bám vào dân, bám đất, vào cơ sở cách mạng. Tuy nhiên các đồng chí phải theo sát tình hình để tìm cách tạo cho địa phương những thuận lợi trong chiến đấu và xây dựng. Đây cũng chứng tỏ về mặt chiến lược khi ông mới bước chân vào miền Nam ông đã lên liền An Khê để chỉ đạo việc bố phòng mạn sườn của Trung bộ là Buôn Ma Thuột, Pleiku, Kontum chống lại dã tâm lấn chiếm của thực dân Pháp.
Mãi 8 giờ tối mới chia tay. Theo thường lệ, sau buồi cơm chiều ông nghỉ chừng 15 phút và sau đó là giờ đọc sách của ông tối thiểu cũng phải mất 2 giờ. Đây xem như kỷ luật ông đã áp dụng suốt thời gian ở nước bạn.
Đặc biệt tối nay, ông bỏ việc đọc sách, và lái xe đưa cô Nội đi vào Sa Huỳnh vì biển Mỹ Khê cô Nội đã đến tắm biển ở đó rồi.
Trước khi đi ra bắc ông cũng có chuyện cần bàn với cô
_______________________________________
1. Hiệp định đình chiến tại Genève (Thụy Sĩ) giữa Pháp và Việt Nam ký kết vào tháng 7/1954.
2. Trích cuốn Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc tập 2 năm 1992.







22
Biển Sa Huỳnh nằm hai bên ngọn núi nhỏ gần bờ. Ánh trăng bàng bạc khắp trời - Hai người leo ngồi trên tảng đá phẳng lì. Cô Nội ngả người vào vai ông - Ông lại nhớ phảng phất mùi hoa bưởi khi mới gặp nhau - Cô Nội nói:
- Về đây nhiều khi em nhớ Huế nhất là ngày đầu tiên gặp nhau chúng mình rong chơi cả ngày quên ăn...
- Em lãng mạn còn hơn anh! Chỉ khi nào em cười anh mới thấy đấy là Nội của Huế năm xưa, và những lúc...
Cô Nội cướp lời:
- Những lúc mình cãi nhau, là anh không nhớ phải không? Nói rồi cô véo vào đùi ông. Ông suýt xoa nói nhỏ: Đừng thế!
Ông xoay mặt cô hôn cô và bảo:
- Bao giờ anh cũng yêu quý em kể cả hòn máu đang nhúc nhích trong bụng em! Em cũng biết thời giờ đối với anh rất quý vì thế có khi em buồn vì thời gian gần bên em ít ỏi và anh lại là người tham công tiếc việc anh phải luôn xuống chỉ đạo tại các tỉnh, huyện và những điểm anh cảm thấy còn yếu kém. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến cán bộ, chiến sĩ phải được chăm sóc cũng như ta trồng cây. Giống cây tốt đã đành nhưng nếu ta không bón phân và luôn tưới nước thì cây, cũng không thể nẩy mầm ra hoa kết quả mau chóng được.
Hai người tâm sự với nhau một hồi lâu. Trăng vừa ló trên ngọn núi trước mặt. Họ đã thỏa thuận ông Sơn đi ra bắc và sau khi sinh đẻ xong vài tháng cô Nội sẽ ra sau.
Hai vợ chồng lên xe ra về khi trăng lên khỏi đỉnh núi. Biển vẫn im lìm dưới bầu trời xanh lơ - Không ngọn gió, không tiếng sóng dạt dào. Không một bóng người - Ánh sáng mờ mờ của biển và trời nhập nhòa. Cảnh biển lùi dần phía sau xe...
6 giờ sáng ngày 02 tháng 01 năm 1947. Đoàn được một xe ô tô lớn chở ra Tam Kỳ. Tại đây bắt đầu cuộc đi bộ xuyên rừng vì đường sá đã bị phá hủy. Các địa phương triệt để “Tiêu thổ kháng chiến” 1 vườn không, nhà trống, đường quốc lộ đào thành những hố ngang dọc để đề phòng quân Pháp không thể dùng đường để đi ruồng bố, dùng nhà để ở dễ dàng.
Đoàn đã phải vất vả khi qua các khu vườn hoang, dân chúng di tản xa thành thị tất nhiên đoàn phải tự chuẩn bị nấu nướng để giải quyết bữa ăn dọc đường. Qua ba ngày đi trong núi rừng, đoàn đã lên được đỉnh đèo Hải Vân.
Ngồi trên tảng đá Nguyễn Sơn thấy mây bay là là dưới chân như những dải bông gòn - Khí lạnh núi rừng làm tê buốt mặt. Sau khi ăn cơm nóng sốt anh em phải tìm những cành khô nhóm lửa sưởi tay. Lúc anh em vào ngủ trong lều vải Nguyễn Sơn vẫn ngồi trầm ngâm bên bếp lửa sắp tàn. Ông nhìn màn đêm mờ mờ dưới trăng đã gợi ông nhớ đến Ngũ Hành Sơn, đến thôn Đông Dã nhà của người vợ trẻ Trần Kiếm Qua, cái tên do ông đặt và nàng đã vui lòng chấp nhận. Kiếm Qua có nghĩa là gươm, giáo hợp với bản chất cứng rắn của nàng thay vì tên Ngọc Anh. Nàng là người năng động, quả cảm, cứng rắn, nói là phải làm cho được. Mọi việc quyết định mau lẹ, tính tình như đàn ông. Nàng đã dám cắt tóc ngắn trong khi phụ nữ Trung Hoa lúc ấy để tóc dài và thắt bím của thời phong kiến. Ông đã cưới nàng bất chấp luật lệ của Hồng Quân vì sự kiện này ông đã bị kỷ luật “khai trừ khỏi đảng”.
____________________________________
Tiêu thổ kháng chiến là tất cả đường sá, cầu cống, nhà gạch kiên cố, thành quách đều phá để quân địch khi tiến chiếm không có chỗ ở, không vườn rau để ăn...

Trăng vẫn mờ mờ thấp thoáng sau những làn mây đang lững lờ trôi trên khắp núi đồi. Ông nhớ lần lượt hồi mới gặp Kiếm Qua, nàng đã chấp thuận cùng ông sinh cùng một ngày (1/10) Ông nhớ ông nắm tay nàng, ông lắc lắc và nói:
- Em hãy ghi nhớ không cần biết năm nào tháng nào ta chết, hãy cứ quyết định chúng ta sinh ra cùng tháng cùng ngày. Ngày ấy là ngày 1/10 và ta tôn thờ chủ nghĩa cộng sản mãi mãi. Ông nhớ cả bữa tiệc cưới chỉ có ông nội của Kiếm Qua đứng chủ hôn. Ông đã hứa trước ông nội và anh em: “Thưa ông nội! Xin ông cứ yên tâm, cháu và Ngọc Anh trên trời như đôi chim liền cánh, dưới đất như hai cành lý liền cành sẽ theo cách mạng cho đến chết, cháu nguyện cùng kết bạn với Ngọc Anh suối đời”. Nói xong ông uống hết chén rượu đầy không còn sót một giọt. Cảnh tượng đêm động phòng ông nhớ rõ như in.
Khi vừa tiến vào “phòng hoa chúc” 1, tửu hứng của Hồng Thủy vẫn còn. Ông bỗng nổi hứng vừa đi lại vừa cao giọng ngâm bài thơ đã làm rung động Hoa Hạ của thi sĩ Vương Bột đầu đời Đường. Bài thơ “Đằng Vương Các” bất hủ. Khi ông đang say sưa ngâm đến câu: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi; Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” là 2 câu thơ hay tuyệt trần, Kiếm Qua nhịn không được, cười rũ ra:
- “Anh vừa làm rể của Trung Hoa, lại vừa muốn làm “thiếu niên tài tử” của Trung Quốc nữa cơ đấy!”
Hồng Thủy dừng lại hỏi Kiếm Qua:
- “Kiếm Qua, em có biết Vương Bột là nhân sĩ đất nào không?”
- “Tất nhiên là em biết! Ông ta là người Hà Tân, Sơn Tây, là “thiếu niên tài tử” của quê em. Ông được coi là người đứng đầu “Tứ kiệt” thời đầu nhà Đường”.
- “Thế em có biết ông ta chết chôn ở đâu không?”
Cô lắc đầu im tịt.
Ông từ từ thong thả đáp:
- “Vương Bột chết chôn ở Việt Nam ”.
Cô nghĩ rằng có lẽ trong khi vui mừng ngày cưới, Hồng Thủy lại da diết nhớ về Việt Nam chăng, nên cô không dám hỏi.
Hồng Thủy bỗng nhiên cười phá lên “Người Sơn Tây và Việt Nam có duyên với nhau đấy!”
Bấy giờ Kiếm Qua mới rõ là Hồng Thủy chúc mừng hai người thành đôi thành lứa.
Về vấn đề Vương Bột cha là Vương Phúc Kỳ, một huyện lệnh của quận Giao Chỉ thời đó (nay là Việt Nam ). “Đằng Vương Các tự” là tác phẩm của Vương Bột sáng tác tại Nam Dương, Sơn Tây.
Trên đường về nam, sang Giao Chỉ thăm người thân vào mùa thu năm 676 (sau công nguyên). Vương Bột cùng gia đình cả thảy 7 người đi thuyền vượt biển gần tới bờ thì biển nổi bão lớn, thuyền chìm. Tất cả đều chết hết. Theo truyền thuyết thì sau khi thuyền chìm, chỉ duy nhất xác Vương Bột nổi lên và trôi dạt vào bờ bắc sông Lam (ở Trung Bộ Việt Nam ). Thời ấy Vương Phúc Kỳ làm quan được lòng dân, nên dân chúng tổ chức chôn cất Vương Bột tử tế. Người dân địa phương thường đồn đại: cứ nửa đêm ở hai ven sông lại vang lên tiếng Vương Bột ngâm hai câu thơ tuyệt cú:
“Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”.
Tạm dịch:
Ráng chiều theo cánh chim cô đơn
Nước mùa thu lẫn trời một sắc.
Dân chúng bèn lập đền thờ Vương Bột để cầu cho vong hồn của một thiếu niên từ miền Bắc Trung Quốc đến đây gặp nạn tại Việt Nam . Ít lâu sau người cha của Vương Bột là Vương Phúc Kỳ tạ thế. Dân chúng địa phương cũng đem chôn ông cạnh mộ của con, và thành kính thờ. Trải hơn một nghìn năm đã trôi qua, hương khói của đền vẫn luôn nghi ngút cho đến bây giờ.
“A! Anh còn là một nhà Trung Quốc học”. Kiếm Qua mỉm cười khen ông.
- Em còn nhớ 2 câu thơ khác của Vương Bột cũng đã được lưu truyền thiên cổ không?”
“Hải nội tồn tri kỷ
Thiên nhai nhược tỉ lân”
Tạm dịch:
“Bốn bể còn tri âm
Chân trời xa mà gần”
Kiếm Qua và Hồng Thủy thực sự hợp ý nhau. Khi ấy hai trái tim của hai người đã hoà cùng nhịp đập. Người này mới mở miệng người kia lại đáp liền.
Đây cũng thể hiện tính hiếu học của ông đã nghiên cứu về cả văn chương cổ đại Trung Quốc.
________________________________________
1.      Phòng hoa chúc có nghĩa là phòng ngủ của đôi tân hôn.
                                                                               24
Một hôm, bí thư Đặc ủy Tấn Đông Bắc, Vương Dật Quần, mời Kiếm Qua lên phòng làm việc của ông. Ông mặc một chiếc áo bông dài, hai tay đút vào hai ống tay áo, đi đi lại lại, mặt có vẻ đăm chiêu. Kiếm Qua nghi ngại không hiểu ra sao. Ông ngừng lại và hỏi thẳng:
“Nghe nói cô và Hồng Thủy kết hôn rồi, có phải không?”
Kiếm Qua gật đầu, cảm thấy có điểu bí ẩn.
“Cô có biết Bát lộ quân có một điều quy định, không cho phép quan binh kết hôn trong thời gian kháng Nhật không?”
Cô lắc đầu “Không biết ạ”
Lúc đó mặt cô đỏ bừng lên. Bản tính cô rất bướng, thế mà lúc ấy vì chuyện kết hôn bị phê bình, thật chẳng biết làm thế nào cho phải.
Thấy thái độ phản ứng của cô, Vương Dật Quần dịu giọng hơn:
“Việc này không trách cô được, điều này do Bát lộ quân quy định. Cô cũng lớn tuổi rồi, ở huyện Ngũ Đài, người tuổi như cô thì đã có con bồng, con mang”
Vương Dật Quần không phê bình cô nữa, song trong lòng cô rất không yên. Điều quy định chỉ áp dụng với người trong Bát lộ quân, thế nhưng “sai lầm” đó đều do hai người gây nên. Nghĩ lại cô vô cùng lo lắng cho Hồng Thủy. Vì việc lấy vợ này, Hồng Thủy bị phê bình, song ông không nói nửa lời cho cô hay. Hồng Thủy là người tính tình quả cảm, chỉ cần thấy đúng là ông dám làm và cũng dám chịu. Trời có sập, thì một mình chịu, quyết không để ai bị liên luỵ, và nét mặt vẫn bình thản như không có gì xẩy ra.
Cô hiểu rõ tính cách của Hồng Thủy. Việc ông Vương gọi cô lên nói, cô cũng không kể lại. Cô nghĩ Hồng Thủy đã chịu đả kích quá nhiều, lẽ nào cô lại gây thêm nỗi đau lòng cho ông! Hồng Thủy đã ba mươi tuổi rồi, thời gian ở trong Bát lộ quân đâu có ngắn. Hàng ngày anh vẫn vui vẻ, nói nói, cười cười, không lúc nào thấy anh lộ vẻ buồn rầu. Một người chịu nhiều đả kích như thế, nếu không có ý chí cách mạng kiên cường thì sao còn luôn giữ được niềm lạc quan.
Việc Hồng Thủy và cô lấy nhau, nghe nói trong Bát lộ quân thời đó là việc xảy ra đầu tiên và vang dội khắp nơi. Một số cán bộ lớn tuổi đều cười:
- Hồng Thủy đã có vợ, chúng ta lớp lớn tuổi chắc có thể được cấp trên lưu ý và thay đổi chính sách đối với cán bộ lớn tuổi chưa vợ chăng!
Tin Hồng Thủy cưới vợ và bị khai trừ khỏi Đảng đã được truyền về Diên An, đến tai Mao Chủ tịch và Chu Tổng tư lệnh. Hai người cảm khái nói: “Đây là lòng quân rồi! Con đường cách mạng Trung Quốc quá dài. Rất nhiều chú bé ngày nào vào bộ đội, súng đeo dài lê thê gần quét đất, tham gia chống bao vây dũng cảm, xông pha trận mạc, đánh rồi lại tiếp tục đánh nữa, luôn hăng hái trung thành với cách mạng. Nay đã quá tuổi. Yêu cầu lấy vợ ngày càng bức thiết. Địa bàn của khu giải phóng có hạn con gái vốn dĩ đã thiếu, nay lại về đóng thêm bao nhiêu quân, tỷ lệ nam nữ chênh lệch rất lớn. Tại Diên An tỷ lệ đó đã đạt tới mười tám nam trên một nữ. Tranh dành với đàn bà con gái địa phương, thì làm sao còn được lòng dân! Chúng ta phải nghĩ ra một giải pháp hợp lý để hạn chế việc bộ đội kết hôn, chứ không nên cấm hẳn.
Cấp lãnh đạo quân đội bàn đi tính lại rồi ra một quy định gọi là “28 + 7 + đoàn” (Đoàn: trung đoàn), tức là người đã đủ hai mươi tám tuổi, có bẩy tuổi quân, là cán bộ cấp trung đoàn, phù hợp với điều kiện trên thì được phép kết hôn.
Tuy có quy định nghiêm như vậy, song số lượng nữ đồng chí quá ít. Vì vậy bộ đội chiến đấu có thêm một nhiệm vụ nữa: mỗi khi đến một nơi nào, hết sức thu nạp nữ thanh niên tham gia quân đội, làm cán bộ hậu cần.
Khi nói đến chuyện này, các đồng chí lớn tuổi đã dự đoán đúng và hả hê nói với nhau:
“Phải cảm ơn Hồng Thủy đã nã phát súng đầu tiên tạo điều kiện cho chúng ta lấy vợ”.
Sự việc cô và Hồng Thủy kết hôn đã làm Mao Chủ tịch và Chu Tổng tư lệnh phải thay đổi chính sách hợp lý khoa học đối với các cán bộ trong quân đội.
25
Trăng le lói trên dải Trường Sơn. Đêm này ông lại liên tưởng đến người vợ đầu tiên đã có một cháu gái mới vài tháng. Bà tên Hoàng Thị Diệm người Hà Nội, học lớp 5 sau bỏ học bán hàng xén1, là người xinh đẹp thùy mị của đường Quán Thánh. Lúc bấy giờ khi quen nhau ông mới 16 kém bà 4 tuổi. Mỗi lần đi học ngang qua quán, ông đều tìm một lý do để mua hàng của bà. Có lần ông mua gói thuốc lào, ông để lá thư tỏ tình trong gói thuốc và trả lại bảo là thuốc hỏng. Bà giở gói thuốc và biết là thư của ông. Nội dung muốn nói gì, bà nhìn ông và cười. Sau đó bố ông đã sắm lễ vật xin cưới bà Diệm cho con mình.
Trong vòng 1 năm giữa 2 bà thông gia có chuyện bất đồng. Chiều theo ý mẹ, vợ ông ôm bé Võ Thanh Các về bên ngoại. Sẵn dịp đồng chí Thụ đón ông qua Trung Hoa gặp Bác Hồ để tham gia cách mạng, ông giả vờ gây gổ đập tan cửa kính, chửi bới om sòm cho láng giềng biết để tối hôm đó ông, cùng đ/c Thụ và một người nữa đi tàu hỏa lên Bắc Giang. Bắt đầu từ đây ba người phải đi bộ qua Trung Quốc đến Quảng Châu.
Thuở ấy nếu thực dân Pháp biết nhà nào có người làm cách mạng, là chúng đầy đọa gia đình người ấy khổ sở điêu đứng - Vì tránh tình trạng liên luỵ đến gia đình bên vợ, ông đã tạo một màn kịch giả trước khi đi để tránh con mắt soi mói của mật thám Pháp. Ông cố hét to cho hàng xóm nghe để lấy cớ trước khi ông đi bọn mật thám không chú ý. Đoàn ông đi trong 3 ngày bằng đường bộ lên đến biên giới vì khi đó đường tàu hỏa bị phá nên phải băng núi rừng về Quảng Châu rất vất vả vì phải luồn tránh những đồn của Quốc dân đảng.
Tại đây ông đã gặp lại Bác Hồ lần thứ 2. Ông ở với Bác một tuần, sau đó ông được vào học trường Hoàng Phố2. Khi ra trường Bác giữ ông lại bên Bác để làm sĩ quan liên lạc với các cán bộ cao cấp của Hồng Quân.
______________________________________
1. Hàng xén: hàng tạp hoá.
2. Trường sĩ quan đầu tiên của Quốc dân đảng - Lê Thiết Hùng trong đội ngũ quân Tưởng cũng học trong này.
26
Trên đỉnh Hải Vân, ánh trăng khi mờ khi tỏ. Gió lạnh từng đợt lùa vào lều vải. Ông bỏ thêm củi cho to ngọn lửa để xua đuổi khí lạnh đang bao vây quanh người. Xa xa dưới dãy núi chỉ thấy một dải trắng xám mờ mờ. Trời lẫn lộn với biển và thỉnh thoảng có đám mây từ từ bay qua dưới chân ông. Ông lại nhớ Kiếm Qua sau thời gian động phòng 2 người đều không có mái nhà để ở và cả hai đều ở cách nhau 4, 5 cây số. Lúc đó ông từ Cục chính trị được điều về tại báo Kháng Địch nên ít gặp Kiếm Qua. Tờ báo này đã ra được 20 lần và viết chữ ngược lên đá litho1 để in báo. Khi ông ra thêm 1 số thì tòa báo bị máy bay Nhật đánh phá sập trụ sở. Ông được Ủy ban huyện cấp cho 1 máy in với số chữ chì. Những máy móc này rất lạ đối với ông nhưng ông quyết mấy mò cùng anh em xếp chữ tranh thủ ra báo lần thứ 22 - Sức làm việc của ông suốt ngày đêm đã cuốn hút các nhân viên cán bộ, nhà in và toà soạn cùng làm như ông. Từ đấy ông viết truyện ngắn, xã luận và thơ. Thời gian ông phụ trách đã ra được 5 lần báo thì ông được chuyển công tác.
Tư lệnh Bát lộ quân đã công nhận tờ báo của biên khu do ông làm chủ nhiệm đã tạo nội dung tốt và trình bày phong phú hơn trước. Song song trong thời gian này ông cũng đã thành lập Ban kịch nói với 5 người và 1 nữ là vợ ông. Sau lần ấy vợ ông đã lôi kéo bạn bè trong hội phụ nữ được thêm 4 người làm ca sĩ trong Ban kịch2.
Năm 1939 do sự phát triển của Bát lộ quân yêu cầu phải thành lập thêm trường huấn luyện đông của giặc Nhật. Sau đó Sư đoàn Hạ Long lại thắng 1 trận lớn tại Trần Gia Trang gần nhà trường. 
 cấp bách, Hồng Thủy được điều về làm Phân hiệu phó phân hiệu 2 trường đại học kháng Nhật do La Thụy Khanh phụ trách. Đây là trường đại học đầu tiên tại khu căn cứ địa. Các giáo viên đều có trình độ tú tài trở lên, Hồng Thủy phụ trách chủ nhiệm khoa chính trị.
Thu đông 1939 Bát lộ quân đánh 3 trận lớn tại Trấn Đông Bắc đập tan chiến dịch vây quét mùa đông của giặc Nhật. Sau đó Sư đoàn Hạ Long lại thắng 1 trận lớn tại Trần Gia Trang gần nhà trường.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét