Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2013

Hoàng Sa - Trường Sa

Kỳ 1 - Cuộc tranh chấp phức tạp
QĐND - Thứ Sáu, 12/08/2011, 20:59 (GMT+7)
Tranh  chấp  chủ  quyền  trên  hai  quần  đảo Paracels và Spratlys  (Hoàng Sa và Trường Sa  theo tên  gọi Việt Nam, Tây  Sa  và Nam  Sa  theo  tên  gọi Trung Quốc) nằm giữa biển Đông đã  tồn  tại từ  trăm năm nay. Đó  là những  tranh chấp  lâu đời nhất giữa nhiều nước cùng  yêu  sách  chủ quyền trên các đảo, một cuộc tranh chấp kéo dài cho đến tận ngày hôm nay mà chưa đạt được bất kỳ một giải pháp pháp lý bền vững  nào.
Nó còn phức tạp hơn với nghĩa là tranh chấp lúc thì bùng lên gay gắt, lúc lại lắng xuống với những thay đổi phức tạp từ phía các bên có can dự trực tiếp vào cuộc tranh chấp. Lúc đầu, cuộc tranh chấp chỉ  liên quan trực tiếp đến các đảo. Do vị  trí địa  lý, các đảo này cho phép quốc  gia  ven  biển chiếm hữu  chúng không chỉ quyền kiểm soát thông thương hàng hóa trong  biển Đông mà  còn quyền sử dụng chúng như các căn cứ hải quân ban đầu nhằm mục đích quốc phòng.
Cuộc đua tranh có quy mô và sắc thái khác từ sự phát triển  nhanh chóng  gần đây của Luật  Biển quốc tế  và khả năng phát  hiện  được những mỏ dầu có thể khai thác được nằm dưới đáy biển của hai quần đảo. Công ước của Liên Hiệp Quốc về  Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 có hiệu lực từ năm 1994 cho phép  các quốc gia ven biển có quyền mở  rộng lãnh hải 12 hải  lý, vùng đặc quyền kinh  tế 200 hải  lý và thềm lục địa.
Sự phát triển của luật biển quốc tế đem lại nhiều lợi ích cho quốc gia ven biển như khả năng khai thác các tài nguyên thiên nhiên từ  biển: dầu mỏ, nguồn lợi  thủy sản, khoáng sản, nhưng cũng làm nảy sinh vấn đề phân định vùng biển và thềm lục địa giữa các quốc gia có vùng biển chồng lấn. Giải quyết vấn đề phân định biển luôn gắn  liền  với vấn đề tranh chấp lãnh thổ, đảo.
Theo quy định của UNCLOS 1982,  các đảo, đá  hoặc có  thể  có  vùng  lãnh  hải  12  hải  lý,  vùng  đặc  quyền kinh  tế 200 hải  lý và  thềm  lục địa hoặc chỉ có vùng lãnh hải 12 hải  lý, căn cứ vào một số điều kiện nhất định. 
Đảo Trường Sa Lớn - Ảnh: Đỗ Hùng 


Trên  thực  tế,  tranh  chấp  phức tạp  thêm chính  là do nguyện vọng của các quốc gia ven biển muốn cho một số đảo, đá, bãi ngầm ngoài khơi không có người ở này được hưởng quy chế pháp  lý đầy đủ  của một đảo. Đúng là luật biển quốc tế mới cho phép các quốc gia ven biển được yêu sách một vùng thềm lục địa và một vùng đặc quyền về kinh tế rộng hai  trăm hải  lý xung quanh các đảo nổi thường xuyên  khi  thủy  triều  lên.  Nhưng  thực tế vẫn có các đảo không thích hợp cho con người đến ở hoặc  cho một  đời  sống  kinh  tế  riêng  có  thể  đòi  hỏi cùng một  quy  chế  như  trên ([1]).  Luật  biển  hiện  đại  đó làm tăng thêm giá trị địa chiến lược của hai quần đảo và  các  bên  tranh  chấp  chính  là  về  vai  trò  địa  chiến lược mới đó của hai quần đảo.
Các  tranh chấp  trên biển Đông, ngoài ý nghĩa về chủ quyền lãnh thổ, lợi ích chiến lược còn  là  quyền sở hữu và khai thác tài  nguyên,  đặc biệt  là  tài  nguyên dầu mỏ. Tranh chấp chủ quyền các đảo và vùng biển không dễ dàng được  giải  quyết  vì  liên  quan  không  chỉ  yếu  tố  luật pháp mà còn cả về lịch sử, ý chí dân tộc và kinh tế.
Mục tiêu của cuộc tranh chấp dai dẳng giờ đây không chỉ là các đảo chính mà chính là các vùng biển rộng lớn bao quanh chúng nhằm kiểm soát được toàn bộ hoặc chỉ một phần biển này. Hoàng Sa, Trường Sa do CHXHCN Việt Nam xác lập chủ quyền; CHND Trung Hoa, lãnh thổ Đài Loan cùng yêu cầu tương tự. Riêng Trường Sa, Philippines chỉ  vào cuộc từ năm 1956, Malaysia từ năm 1979 và Brunei yêu sách một phần nhỏ từ năm 1993. 
TS Nguyễn Hồng Thao (Theo báo Thanh Niên)

Kỳ 2: Sức ép và phản ứng
QĐND - Thứ Sáu, 12/08/2011, 20:59 (GMT+7)
Trong  các thập  kỷ  gần  đây,  trong  quan  hệ  với Việt Nam, Trung Quốc đã hai lần sử dụng vũ lực để giành quyền chiếm hữu các đảo này, ngày 19-1-1974 tại Hoàng Sa và  ngày 14-3-1988  tại Trường Sa. 
Sau  các  biến  cố  trên, mặc  dù hai nước đã  bình thường hóa quan hệ năm 1991, song  tình  trạng căng thẳng  trên biển vẫn tồn tại ([1]). Việc thông qua Luật về lãnh hải của CHND Trung Hoa ngày 25-2-1992,  trong đó khẳng định lại yêu sách của TQ  đối  với  hai  quần  đảo Hoàng  Sa  và Trường Sa, lại  làm dấy  lên một  làn sóng  lo ngại mới tại Đông  Nam  Á ([2])  về  những  toan  tính  sâu  xa  của TQ. 
Tháng 2.1995 đến lượt quan hệ Trung Quốc - Philippines  trở  nên  căng  thẳng. Philippines  đã  tố  cáo Trung Quốc xâm chiếm bằng quân sự một đảo đá nhỏ mà Philippines tuyên bố chủ quyền trong quần đảo Trường Sa. Bộ  trưởng Quốc  phòng  Philippines đã  đưa  ra những tấm ảnh cho thấy các cấu kiện hình đa giác đã được dựng trên những cột thép đảo đá Vành Khăn, mà theo Philippines, đó là các công trình nhà ở lâu dài. Tàu chiến của Trung Quốc cũng được quan  sát  thấy tập  trung xung quanh đảo đá này. Philippines đã phản ứng  bằng cách  tăng  cường  thêm  lực  lượng  quân  sự  tại Trường Sa.
Ngày 15.5.1996, Trung Quốc gia nhập UNCLOS 1982 và cam kết giải quyết các tranh chấp “phù hợp với  luật pháp quốc tế  đã  được  công  nhận”. Tuy  nhiên, cùng  ngày, Trung Quốc công  bố  sắc  lệnh  mở  rộng lãnh hải, trong đó áp dụng việc vạch đường cơ sở cho quốc gia quần đảo vào khu vực quần đảo Hoàng Sa. Hành  động  này  của Trung Quốc  là “bất  hợp  pháp  - đó là điều mà nhiều học giả đều nói tới” và là chủ đề chất vấn  tại Diễn  đàn  khu  vực ASEAN  (ARF).  
Cơ sở của Trung Quốc tại đá Vành Khăn mà họ chiếm đóng trái phép ở quần đảo Trường Sa - Ảnh: AFP 

Đóng  góp  của  Indonesia  (trong  vai  trò  đồng chủ  trì  với  Canada)  và  các  nước  ASEAN, TQ tại Hội thảo “Kiềm chế các xung đột tiềm  tàng tại biển Đông” từ năm 1993, các sáng kiến về Bộ quy tắc ứng xử giữa Việt Nam - Philippines, Trung Quốc- Philippines,  nỗ  lực  của  các  bên  liên  quan  trực  tiếp  đã đưa đến việc ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trong biển Đông năm 2002 (DOC), một bước ngoặt mới đi đến một giải pháp cho biển Đông.
Tuy nhiên cơn khát dầu lửa và các nguồn tài nguyên biển lại tiếp tục làm  dấy  lên  làn  sóng  lo  ngại mới  về  hành động  lấn chiếm  trên  biển  Đông.  Trong  năm  2007-2009, Trung Quốc đưa ra chiến lược “biển xanh”, triển khai căn cứ tàu  ngầm nguyên tử ở Hải Nam, xúc tiến chương trình đóng tàu sân bay, nâng cấp đơn vị hành chính Tam Á, mở tour du lịch ra đảo Phú Lâm (Hoàng Sa). Tháng 11.2008, Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc CNOOC thông qua kế hoạch đầu tư 200 tỉ NDT  (29  tỉ USD)  cho  thăm  dò  và  khai  thác  dầu khí ở biển Đông.
Trung Quốc cũng  tăng cường sức ép  lên  các  công  ty  dầu  khí  nước  ngoài  (British Petroleum (BP), Conoco Phillips, Exxon Mobil, và Oil & National  Gas  Company  (ONGC)  đang  làm việc trên thềm lục địa VN, tiếp tục duy trì yêu sách đường “lưỡi bò” đứt khúc 9 đoạn và chủ trương “chủ quyền thuộc ta, gác tranh chấp cùng khai thác”. 
Tháng 5-2009, tình hình thêm nóng bỏng với việc Việt Nam tự trình và cùng Malaysia trình hồ sơ chung ranh giới thềm lục địa ngoài 200  hải  lý  và phản  đối  của  Trung Quốc. Phái  đoàn  đại  diện của Trung Quốc tại LHQ lần đầu tiên chính thức khẳng định yêu sách của nước này với tất cả vùng nước và các đảo trong phạm vi “đường yêu sách lưỡi  bò”. Việt Nam và Malaysia cho  rằng  hồ sơ ranh  giới  thềm lục địa của mình được tính từ đường cơ sở đất  liền nên không ảnh hưởng đến quyền lợi của các nước nào khác.
Tầm quan trọng chính trị,  chiến lược và kinh tế của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đòi hỏi phải có được một giải pháp tổng thể. Nhưng trước hết tranh chấp ở đây phải được coi là tranh chấp pháp lý, trong đó cần dựa trên danh nghĩa pháp lý nào để  xác  định  chủ  quyền  trên  các  quần  đảo  này?
Câu hỏi được đặt  ra  là: đây có phải  là  tranh chấp có  liên quan đến quyền thụ đắc lãnh  thổ được coi  là vô chủ (res  nullius) hoặc là tranh chấp một  vùng lãnh thổ trên đó chủ quyền quốc gia đã được xác định, nhưng với thời gian và sự  phát triển của các sự kiện, lãnh thổ đó trở thành lãnh thổ từ bỏ (terre derelictio)?
Do việc chiếm cứ các đảo  khác nhau tại các giai đoạn khác  nhau và do có quá nhiều các  danh nghĩa khác nhau được đưa ra trên cùng một vùng lãnh thổ. Đã có khá nhiều tác phẩm trong và ngoài nước viết về tranh chấp  chủ  quyền  trên  hai  quần  đảo  Hoàng  Sa  và Trường Sa.
Chúng tôi sẽ cố gắng nghiên  cứu sâu các luận thuyết của mỗi bên tranh chấp dưới ánh sáng của thuyết luật theo thời điểm (Intertemporel).
Luật theo thời điểm do M.Hubert đưa ra lần đầu tiên trong vụ đảo Palmas bao gồm  hai nguyên tắc cơ bản: 
1) Một sự kiện pháp lý phải  được đánh  giá  dưới  ánh sáng  của luật mà nó là đương thời  chứ không phải dưới ánh sáng của luật có hiệu lực vào thời điểm mà tranh chấp nảy sinh hoặc được giải quyết;
2) Một luật lệ không thể duy trì trong một hệ thống pháp luật trừ phi nó phù hợp với các yêu cầu trong  hệ  thống  đó. 
TS Nguyễn Hồng Thao (Theo báo Thanh Niên)

Kỳ 3: 
 
Trước  hết  Trung Quốc (TQ)  yêu  sách  chủ  quyền  trên các quần đảo  trên cơ sở quyền phát hiện và  sự quản lý. Lập luận của TQ bao gồm: 1. Người TQ đã phát hiện ra các đảo này sớm nhất và đã đặt tên cho chúng. 2. Ngư dân TQ đã khai thác các đảo này từ  hàng  nghìn  năm  nay. Điều đó chứng  minh  chủ quyền của TQ. 3. Sự  quy  thuộc  các  đảo  này  vào  TQ được củng cố bằng các phát hiện khảo cổ học. 4. TQ đã  thực  hiện  các  hành  động  cai quản trên các đảo này từ lâu đời. Chúng  ta  sẽ  xem  xét  lập  luận  của  TQ trong hai tiểu giai đoạn sau: thiết lập một danh nghĩa ban đầu và việc củng cố danh nghĩa đó.
“Từ  thời Hán Vũ  đế  trước  công  lịch  hai  thế  kỷ, nhân dân TQ đã bắt đầu đi lại trên biển Nam. Trải  qua  thực  tiễn  hàng  hải  lâu  dài  nhân  dân TQ  đã  lần  lượt  phát  hiện  các  quần  đảo  Tây  Sa (Paracels)  và Nam  Sa (Spratlys)” - Sách  trắng  của Bộ  Ngoại  giao  TQ  ngày 30.1.1980:  “Chủ  quyền  không  thể  tranh  cãi  của  TQ trên các đảo Tây Sa và Nam Sa” đã khẳng định như vậy. Để chứng minh danh nghĩa  lịch  sử của họ, phía TQ đã dựa trên những cuốn sách chính như sau:
- Nam châu dị vật chí của Dương Phù và Phù Nam truyện của Khang Thái, đều viết vào thời Tam Quốc (220-265); Vũ  kinh  tổng  yếu của Tăng Công  Lượng  (998-1078) và Đinh Độ (990-1053) thời Tống biên soạn; Mong Liang Lu được soạn dưới thời nhà Tống (960 - 1127); Đảo di chí  lược do Vương Đại Uyên soạn dưới thời nhà Nguyên (1206 - 1368); Đông Tây  dương  khảo của Trương Nhiếp  viết dưới thời nhà Minh (1368 - 1644); “Trịnh Hòa hàng hải đồ” trong  Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi biên soạn đầu thế kỷ XVII; Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ đầu nhà Thanh; Hải  Quốc  văn  kiến  lục  của  Trần  Luân  Quýnh năm 1730; Dương  phòng  tập  yếu của  Nghiêm  Như  Dục viết, Trương Bằng Phi khắc năm 1828; Quỳnh Châu phủ chí giữa thế kỷ XIX; Quảng Đông đồ thuyết (1862-1875); Canh lộ bạ do ngư dân các đời kể lại.
Theo bản đồ do triều đình nhà Thanh ấn hành năm 1894 thì đến cuối thế kỷ XIX "lãnh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết” -  trong ảnh: Đại Thanh nhất thống toàn đồ (đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ (VN), đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan) - Ảnh: biengioilanhtho.gov.vn
Các  sách  kể  trên  hoàn  toàn  không  phải  là  các chính  sử  được  viết  bởi  các  cơ  quan  chính  thức  của nhà nước. Phần  lớn chúng  là những ghi chép về các chuyến đi, các chuyên khảo và các sách hàng hải thể hiện những nhận biết địa  lý của người xưa  liên quan không chỉ  tới  lãnh  thổ TQ mà  còn  tới  lãnh thổ của các nước khác.
Ví dụ, Hải Quốc văn kiến lục, đúng  như  tên  sách,  phần  lớn  nói  về  các  miền  mà người TQ gọi  là “man di” nhiều hơn  là TQ.
Sách Tống  sử phần Ngoại  quốc  chép  chuyện Chiêm  Thành: “Năm  Thiên  Hy thứ  hai  (1016)  vua Chiêm Thành là Thi Mặc Bài Ma Diệp sai sứ là La Bi Đế Gia chở đồ cống sang... La Bi Đế Gia nói  rằng người nước  tôi  trên đường sang Quảng Châu, nếu bị thuyền  dạt  ra Thạch Đường thì cả năm cũng không tới nơi được”.  Cứ  theo  đó  mà  suy  thì  từ  Chiêm Thành  đến Quảng Châu có vùng được  gọi là Thạch Đường  nhưng  không  có  nghĩa  Thạch  Đường  thuộc Quảng Châu và vì sách  này  chép  về  các  vùng  nước người  TQ coi  là “man  di”  thì  nó  không  thể được coi là thuộc  TQ.
Sách Dư  địa  chí, quyển  4  phần Cương vực  chép: “Phía  ngoại  vi  của Quỳnh Châu là biển lớn tiếp với các châu Ô, châu Lý, Tô Cách  Lương,  phía Nam  đến Chiêm  Thành,  phía Tây  đến Chân Lạp, Giao Chỉ,  phía Đông  đến Thiên Lý  Trường  Sa,  Vạn  Lý  Thạch  Đường... Người  địa phương đi thuyền đều không biết rõ đâu là vị trí thực của chúng”. Trong tất cả các sách kể trên, liệt kê một đống  lẫn  lộn  các  tên  Cửu  Nhũ  Loa  Châu,  Thạch Đường, Thiên Lý Vạn Đường, Trường Sa, Thiên Lý Trường  Sa  và Vạn  Lý  Trường  Sa  nhưng  không  có tên Tây Sa và Nam Sa. Bản  thân người TQ cũng  không định  rõ được  vị  trí  của  chúng. Điều đó, không  nghi  ngờ  gì  đã  dẫn  tới  những  cuộc  tranh  cãi bất tận giữa các nhà dịch thuật và các học giả về việc thống  nhất  các  tên  gọi  trên. Mặc dù Hung dan Chiu và Choon Ho Park cho  rằng Vạn Lý Thạch Sành chỉ Spratlys, M.S Samuels  lại bảo vệ tên đó dùng để chỉ đá  ngầm  mà  ngày  nay  có  tên  gọi  là  Trung  Sa (Macclesfield Bank).
Phù Nam truyện chép: “Trong Trướng Hải có các bãi san hô, dưới bãi là đá tảng san hô mọc trên đó”.
Nam Châu di vật chí ghi lại: “Kỳ đầu Trướng Hải nước nông có nhiều từ thạch,  thuyền  lớn  nằm  ngoài biên cương, đóng đai sắt, đi lại dựa trên la bàn”.
Xuất phát  từ  những  ghi  chép  đó,  người TQ cho rằng Trướng Hải  là biển Nam Trung Hoa bao gồm tất cả các đảo của biển Nam Hải. Tuy nhiên, chúng ta có thể có một vài nhận xét:
- Các đoạn văn trích trên không cho thấy rõ vị trí chính  xác  của  Trướng  Hải.  Chúng  cũng  không  xác định  rõ  các  thạch  sành  nói  trên  chính  là  Tây  Sa  và Nam Sa. Các sách trên, đúng như tên gọi, đều là miêu tả các  lãnh  thổ “man di”, nước ngoài, không phải  lãnh thổ TQ.
- Nam  Châu dị  vật chí được  soạn  thời Tam Quốc (220-265)  lại nói  tới việc  sử dụng  la bàn  trong hàng hải,  thế nhưng dụng cụ hàng hải này dường như chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ thứ X.
- Cụm  từ  “nằm  ngoài  biên  cương” cho  thấy  các đảo  đá  này  không  thuộc  lãnh  thổ  TQ. Giả định này còn được khẳng định bởi các  tài  liệu chính thức khác  của TQ mô  tả  và phân định  lãnh thổ của “Thiên triều” kết thúc ở điểm cực Nam của đảo Hải Nam  như: Quỳnh Châu  phủ  chí  (1731), Hoàng Triều  di  tông  tâm  lĩnh (1894),  Đại  Thanh  di  đồ (1905)... hay  các  sách,  bản  đồ  cổ  khác  của  người TQ đều xác định rõ điểm mút phía Nam của lãnh  thổ  TQ  nằm ở Nhai Châu,  thuộc  phủ Quỳnh Châu tỉnh Quảng Đông tại vĩ độ 18013’ Nam. Điều đó  còn được khẳng định bởi  sách Địa  lý  Giáo  khoa  thư,  Thương Vụ ấn Thư Quán, Thượng Hải (TQ) năm 1906 xuất bản: “Phía Nam bắt đầu là  vĩ  độ  18013’  Nam  lấy  bờ  biển  Châu  Nhai  đảo Quỳnh  Châu  (tức  đảo  Hải  Nam)  làm  điểm  mút”. Chúng ta không thấy trong các tác phẩm này một ghi chép nào về các quần đảo nằm ngoài điểm cực Nam đó.
TS Nguyễn Hồng Thao - (Theo Báo Thanh Niên )
 
Kỳ 4: “Bằng chứng khảo cổ” mập mờ và thiếu chính xác của Trung Quốc
QĐND - Thứ Ba, 16/08/2011, 22:45 (GMT+7)
Để củng cố lý lẽ về chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, người TQ sử dụng cả các luận cứ về khảo cổ. Người TQ cho là đã tìm thấy vết tích tiền cổ và vật dụng cổ có từ thời Vương Mãng (năm thứ ba trước Công nguyên cho đến năm 23 sau Công nguyên) trên các quần đảo.
Chang The-Kuang và S.Yeh viết rằng các đảo này có chứa “các tàn tích của khu dân cư, các vật dùng sành sứ, các dao sắt, các nồi gang và các vật dụng hằng ngày khác có niên đại từ thời Đường, Tống”. Báo cáo sơ bộ của chuyến khảo cổ học thứ hai trên quần đảo Tây Sa của tỉnh Quảng Đông ghi rằng “qua hai cuộc khảo sát, các nhà khảo cổ học đã khảo sát hầu hết các đảo, đá, bãi ngầm, các vũng của quần đảo Tây Sa và hầu như ở đâu họ cũng tìm thấy các đồ vật cổ và các lịch sử của quần đảo Tây Sa, bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta từ ngàn đời nay”.
Vấn đề đặt ra ở đây là trong luật quốc tế không tồn tại một quy tắc nào cho phép tự quy thuộc chủ quyền cho một quốc gia trên một vùng đất mà tại đó các cổ vật thuộc nền văn minh của nước đó được tìm thấy. Các cổ vật này có thể thuộc các ngư dân TQ đi lại và bị đắm thuyền trong vùng biển này, cũng như có thể thuộc các ngư dân Philippines, Malaysia hoặc của các tàu thuyền Ả Rập, Bồ Đào Nha, Hà Lan bị trôi dạt mắc nạn vào đây. Không có gì chứng minh được rằng các ngư dân TQ là những người duy nhất có các hoạt động định cư thường xuyên trên các đảo không có nước ngọt này.
Trong khi đó, năm 2001, trong khuôn khổ dự án 10 năm điều tra cơ bản khảo cổ học Trường Sa - Tây Nguyên - Nam Bộ, các nhà khoa học Việt Nam đã khai quật và phát hiện nhiều di tích khảo cổ có giá trị trên quần đảo Trường Sa. Trên chứng chỉ khảo cổ học, các nhà sử học đã xác định được các cư dân người Việt sinh sống ở Trường Sa là rất sớm, chí ít cũng phải từ thời nhà Trần và liên tục định cư, sinh sống ở đây trong các giai đoạn thời kỳ sau. Qua các hiện vật thu được, dựa trên căn cứ sử học và văn hóa học, rất rõ ràng để nhận ra có một sợi dây liên kết chặt chẽ giữa cư dân trên đảo với cư dân đất liền từ thuở sơ khai đến nay. Có thể những cư dân đầu tiên Trường Sa là kết quả của các cuộc di dân, tìm đất mới thời cổ xưa. Hoặc là các ngư dân Việt đi biển ghé vào và ở lại lâu dài, khai phá đất đai, tạo lập cuộc sống mới.
Một trang trong cuốn Hải ngoại kỷ sự (1695) của Thích Đại Sán, một nhà sư Trung Quốc đời Khang Hy, thuật lại chuyến du hành tới xứ Đàng Trong, thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Đại Việt - Ảnh: biengioilanhtho.gov.vn
Chủ quyền quốc gia đã được luật quốc tế định nghĩa về mặt pháp lý. Trương Hồng Tăng và các tác giả TQ khác lập luận rằng: “Dưới thời nhà Tống, nhiều sách vở đã ghi nhận rằng những ngư dân TQ thường tới đây bắt cá và thu lượm san hô (…). Theo Chư phiên chí (ghi chép về các nước chư hầu) của Zhao Rushi (Triệu Nhữ Quát) sống dưới thời nhà Tống cách đây 700 - 800 năm, người TQ đã biết rằng các quần đảo Tây Sa và Nam Sa là những vùng nguy hiểm cho hàng hải (…). Vào thế kỷ trước, chỉ có người TQ đã sống và khai thác một cách liên tục các quần đảo Tây Sa và Nam Sa (…)”.
Sau khi đã nghiên cứu sâu sắc các tài liệu TQ, ông Heinzig, một luật gia Đức đã rút ra kết luận chỉ bắt đầu từ thời nhà Tống (960) người TQ mới có thể tiếp cận với quần đảo Paracels (Hoàng Sa). Còn về việc hiện diện của người TQ trong khu vực Spratlys (Trường Sa) không có gì ghi nhận trước 1867, thời điểm một tàu nghiên cứu Anh gặp những ngư dân TQ tới từ đảo Hải Nam. Theo Heinzig, chỉ từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất người TQ mới bắt đầu gọi quần đảo Spratlys là “Đoàn Sa Trung Đảo”. ([1])
Sự tiếp xúc riêng rẽ của những cư dân TQ cá thể đối với Paracels liệu có đủ để thiết lập chủ quyền TQ tại đó không theo luật quốc tế? Các tác giả TQ khẳng định rằng TQ phát hiện ra Tây Sa và Nam Sa cách nay 2.100 năm, vào thời Hán Vũ Đế. Đối với họ, theo luật quốc tế và tập quán quốc tế thời kỳ đó: “Chủ quyền thuộc về người phát hiện” (Who discovers the territory, holds its sovereignty), đó là ngư dân TQ, và vì vậy TQ phải có chủ quyền trên đó".
So sánh với các tiêu chuẩn thụ đắc lãnh thổ, các ghi chép mà TQ viện dẫn không đủ chứng minh rằng quyền phát hiện đã được xác lập. Một đảo hoặc một quần đảo có thể là đối tượng nhận biết từ lâu đời của các nhà hàng hải, các ngư dân, các nhà địa lý… nhưng chúng vẫn chỉ được coi là lãnh thổ vô chủ
res nullius một khi quốc gia của họ chưa tiến hành một hành động nhà nước nào tại đó. Phan Thạch Anh cố chứng minh rằng vào thế kỷ XV, XVI chỉ cần quyền phát hiện là đủ để tạo nên quyền sở hữu đất vô chủ. Sở dĩ ông ta lập luận như vậy là để chứng minh rằng các hoạt động của tư nhân TQ là đủ để tạo ra quyền phát hiện ([2]). Thế nhưng các hoạt động tư nhân của các ngư dân TQ không thể mang lại hiệu lực pháp lý của “quyền phát hiện” và nó không thể được đánh đồng với quyền chiếm hữu.
Các bằng chứng của quyền phát hiện các đảo này như đã nêu trên rất mập mờ và thiếu chính xác. Chúng ta có thể đồng ý rằng các hoạt động của ngư dân có thể kéo theo sự chú ý và ý định của nhà nước trên lãnh thổ vô chủ. Tuy nhiên, yếu tố ý chí này không đủ khi còn thiếu yếu tố vật chất của các hoạt động nhà nước trên thực địa. Người TQ sẽ chứng minh như thế nào đòi hỏi này của luật quốc tế vào thời kỳ đó?
TS Nguyễn Hồng Thao – Nguồn Báo Thanh Niên
_________
[1] Theo Nguyễn Quang Ngọc, Sđd, tr 41. Trước khi Lý Chuẩn ra Hoàng Sa năm 1909, bản đồ TQ vẫn thể hiện đảo Hải Nam là cực nam lãnh thổ TQ. Năm 1928 trường Đại học Trung Sơn tổ chức điều tra quần đảo Tây Sa, được coi là mốc đánh dấu sự hiểu biết của người TQ về quần đảo Tây Sa. Tuy nhiên, cho đến năm 1934, bản đồ TQ vẫn chưa vượt quá quần đảo Tây Sa và đảo Triton, cực nam của quần đảo, ở sát phía dưới vĩ tuyến 16 được gọi là đảo cực nam với lời giải thích đảo là cột mốc đánh dấu lãnh thổ cực nam của TQ. Trong khoảng năm 1935-1936 địa danh Nam Sa và Đoàn Sa xuất hiện trên bản đồ TQ. Nam Sa được đặt tên cho bãi ngầm Maccelesfield Bank còn Đoàn Sa để chỉ Spratleys. Từ năm 1939 tên Nam Sa mới được dùng để chỉ Trường Sa của Việt Nam, tên Đoàn Sa mất đi, còn Maccelesfield Bank được đặt tên là Trung Sa.
[2] Phan Thạch Anh, The ptropolitics of the Nansha islands-China’s indisputable legal case, Beijing, December 19955 

Kỳ 5: Độ chênh của lịch sử trong Sách trắng Trung Quốc

Để hiểu rõ câu chuyện, có thể tham khảo Sách trắng của Bộ Ngoại giao nước CHND Trung Hoa năm 1980 và Sách trắng của Bộ Ngoại giao CHXHCN VN năm 1979, 1981 và 1988. Nhằm chứng minh sự quản lý của Trung Quốc (TQ) trên các đảo tranh chấp này từ hàng nghìn năm, Bộ Ngoại giao TQ chỉ đưa ra được ba sự kiện sau:
- Sự kiện thứ nhất: Từ thời nhà Tống (960 - 1127) Hải quân TQ đã đi tuần tra đến vùng biển quần đảo Tây Sa. Sự khẳng định này dựa trên cơ sở đoạn văn trích từ Vũ Kinh tổng yếu có lời tựa của vua Nhân Tông đời Bắc Tống. Đoạn trích trong văn kiện chính thức của TQ như sau: “Triều đình Bắc Tống lệnh cho Vương Sư đi phòng giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở Quảng Nam (tức Quảng Đông ngày nay) và “đóng tàu chiến đao ngư”.
Tác phẩm trên còn khẳng định: “Từ Đồn Môn Sơn, dùng gió Đông hướng Tây Nam 7 ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu. Cửu Nhũ Loa Châu là quần đảo Tây Sa ngày nay. Điều đó chứng tỏ quần đảo Tây Sa đã thuộc phạm vi cai quản của đời Bắc Tống”.
Theo Sách trắng 1981 của VN thì đoạn trích từ Vũ Kinh tổng yếu này là sự kết hợp ba đoạn riêng rẽ khác nhau trong một đoạn sau lời tựa:
“Lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở hai cửa biển phía Đông và phía Tây rộng 280 trượng đến Đồn Môn Sơn 200 lý đóng tàu chiến đao ngư. Từ Đồn Môn Sơn dùng gió Đông đi về hướng Tây Nam bảy ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu, đi ba ngày nữa đến Bất Lao Sơn (thuộc địa giới nước Hoàn Châu), ([1]) đi 300 hải lý nữa về phía Nam đến lăng Sơn Đông. Phía Tây Nam nơi đó là các nước Đại Thực Phật, Sư Tử, Thiên Trúc không thể tính được hành trình”.
Theo Nguyên sử (bộ sử chính thức của nhà Nguyên - TQ), “lãnh thổ TQ” dưới thời Nguyên phía Nam chỉ tới đảo Hải Nam, phía Bắc không quá sa mạc Gobi - Nguồn: gis.chinhphu
Rõ ràng trong đoạn trích kể trên của Vũ Kinh tổng yếu, có đoạn văn Bắc Tống “lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở Quảng Nam (Quảng Đông ngày nay)”, “đóng tàu chiến đao ngư”, có đoạn mô tả vị trí địa lý của đồn binh nhắc trên, đoạn khác tả lộ trình đi từ cảng Quảng Nam tới tận Ấn Độ Dương. Đó là hành trình khảo sát địa lý, đúng hơn là tuần tra lãnh thổ TQ. Không có gì trong đoạn trích trên cho phép khẳng định rằng Cửu Nhũ Loa Châu chính là quần đảo Tây Sa. Đối với chúng ta, đó không thể là bằng chứng đầy đủ chứng minh rằng ngay từ thời nhà Tống, quần đảo Hoàng Sa đã thuộc quyền quản lý của TQ và “Hải quân TQ đã đi tuần tới các đảo Tây Sa”.
- Sự kiện thứ hai: Việc đo thiên văn trong biển Nam Hải vào đầu đời Nguyên đã khẳng định rằng các đảo là một bộ phận của lãnh thổ TQ.
Sách trắng của Bộ Ngoại giao TQ 1980 viết:
“Năm thứ nhất đời Nguyên tiến hành đo đạc thiên văn 27 nơi trong nước, nhà Nguyên năm thứ 16 (Công nguyên năm 1279) Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đích thân sai Đồng Trí Thái, Sử viện sử Quách Thụ Kinh, nhà thiên văn nổi tiếng đến biển Nam tiến hành đo đạc. Theo Nguyên Sử, điểm thiên văn Nam Hải nằm ở phía Nam Châu Nhai (thuộc đảo Hải Nam) và kết quả đo đạc cho thấy Nam Hải ở vĩ tuyến Bắc 15 độ. Điểm thiên văn Nam Hải chính là ở quần đảo Tây Sa ngày nay. Điều đó nói rõ quần đảo Tây Sa thời Nguyên đã là nằm trong biên thùy TQ”.
Thực ra, Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn được ghi chép như sau:
“Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi. Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc”.
Khái niệm “bốn biển”, theo ngôn từ TQ, chỉ rằng các lãnh thổ này nằm ngoài lãnh thổ quốc gia. Trên thực tế, dưới đầu đề “đo đạc bốn biển”, Nguyên Sử chép rõ tên 27 nơi đo đạc thiên văn trong đó có những địa danh hoàn toàn không thuộc cương vực TQ như Cao Ly (Triều Tiên), Thiết Lặc (Siberia). Chính Nguyên Sử cũng nói rõ “lãnh thổ TQ” dưới thời Nguyên phía Nam chỉ tới đảo Hải Nam, phía Bắc không quá sa mạc Gobi.
Các quan trắc thiên văn trên có phần tiến hành trên lãnh thổ TQ, có phần nằm ngoài cương vực TQ. Do đó, nó không thể tạo ra bằng chứng xác đáng cho chủ quyền TQ. Ngay cả khi điểm quan sát thiên văn “Nam Hải” nằm trên các đảo Tây Sa, thì việc quan sát thiên văn đó… cũng không đủ để thể hiện ý chí của “Chính phủ đó thực hiện chủ quyền trên các đảo đá nhỏ này”. Hơn nữa một hành động nghiên cứu khoa học không thể tạo nên một danh nghĩa chủ quyền.  
TS Nguyễn Hồng Thao – Nguồn Báo Thanh Niên
Tin liên quan

Trại Davis Sài Gòn – Ngày ấy, bây giờ…

Lai lịch một cái tên

LTS: Trại Davis là trụ sở của Ban Liên hợp Quân sự 4 bên Trung ương trong giai đoạn 60 ngày và sau đó là trụ sở Ban Liên hợp quân sự 2 bên Trung ương, đồng thời là trụ sở, nơi đóng quân của hai phái đoàn quân sự ta từ ngày 28-1-1973 đến ngày 30-4-1975. Cái tên Trại Davis gắn liền với Hiệp định Paris, với Ngày toàn thắng 30-4.
Nhân kỷ niệm 36 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Hànộimới xin giới thiệu với bạn đọc loạt bài viết và một số tư liệu về quá trình đấu tranh gian khổ, hy sinh thầm lặng, nhưng cũng vô cùng hào hùng của các chiến sỹ giải phóng suốt 823 ngày trong hang ổ của kẻ thù.
Trại Davis (Davis Camp) Sài Gòn trước năm 1973. Tiền cảnh là Nhà tưởng niệm lính Mỹ Davis.
Ngày 27-1-1973, sau gần 5 năm đàm phán, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết, đánh dấu một thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện một phần Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đánh cho Mỹ cút. Theo khoản d, Điều 16, Chương VI của Hiệp định Paris, 4 bên gồm Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa sẽ cử ngay đại diện để thành lập Ban Liên hợp Quân sự 4 bên. Theo Điều 17, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ cử ngay đại diện để thành lập Ban Liên hợp Quân sự 2 bên. Ban Liên hợp Quân sự có nhiệm vụ bảo đảm sự phối hợp hành động của các bên nhằm thực hiện các điều khoản về quân sự mà hiệp định đã quy định (về ngừng bắn, rút quân Mỹ và chư hầu, hủy bỏ căn cứ quân sự của Mỹ và chư hầu, về trao trả nhân viên quân sự, nhân viên dân sự và tìm kiếm người mất tích…).
Trại Davis nguyên là một trại lính của quân đội Mỹ, nằm gần sát phía Tây nam sân bay Tân Sơn Nhất, nay thuộc phường 4, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh. Ban đầu, đây là nơi đóng quân của Tổ Viễn thám số 3 (3rd Radio Research-RR) Lục quân Mỹ. 3rd RR có nhiệm vụ giúp Nha An ninh quân đội Sài Gòn dò tìm, xác định chính xác vị trí các đài phát sóng truyền tin của quân Giải phóng, từ đó lần tìm vị trí đóng quân của ta, chỉ điểm cho máy bay, pháo binh địch bắn phá hoặc đưa quân đến càn quét tiêu diệt. Ngày 22-12-1961, thành viên của Tổ Viễn thám số 3 là Hạ sỹ quân báo James Thomas Davis, người gốc Caucase, sinh năm 1936 tại Livingston, tiểu bang Tennessee, cùng quân ngụy đi càn, bị phục kích chết tại Đức Hòa, Hậu Nghĩa (nay là Long An). Ngày 10-1-1962, đồng đội của J.T.Davis lấy tên anh ta đặt cho doanh trại nơi họ đóng quân, gọi là Trạm Davis (Davis Station), đồng thời lập cho Davis một cái nhà tưởng niệm (miếu thờ) nhỏ kiểu Công giáo trong doanh trại. Năm 1966, Nhóm Viễn thám 509 (509th Radio Research Group-RRG) đến thay Tổ Viễn thám 3, Trạm Davis được “nâng cấp”, gọi là Trại Davis (Davis Camp). Cuối năm 1972 Nhóm Viễn thám 509 rút về Mỹ, Trại Davis bị bỏ hoang cho đến ngày 28-1-1973, khi trở thành trụ sở của Ban Liên hợp Quân sự và là nơi hai đoàn đại biểu quân sự ta đóng quân, ngay giữa sào huyệt địch.
Nhiều tài liệu cho rằng Trại Davis Sài Gòn được đặt theo tên người lính Mỹ đầu tiên chết trận tại miền Nam Việt Nam. Cứ theo logic ấy mà suy thì James Thomas Davis có cái “vinh dự” là quân nhân Mỹ đầu tiên bỏ mạng trên chiến trường xứ nhiệt đới này, nhưng không phải như vậy. Sự thật thì người lính Mỹ đầu tiên chết tại miền Nam Việt Nam là Trung sỹ Không quân Richard B. Fitzgibbon, sinh năm 1920, bị tai nạn chết ngày 6-8-1956. R.B Fitzgibbon cũng không phải là lính Mỹ đầu tiên chết trận tại Việt Nam. Do vậy, trên bức tường đá đen khắc 58.261 cái tên tại Khu tưởng niệm lính Mỹ chết tại Việt Nam (Vietnam Veterans Memorial) ở thủ đô Washington, đứng đầu danh sách là Thiếu tá Bael Buis và Trung sỹ Chester Ovman. Hai quân nhân này bị đặc công ta tiêu diệt ngày 7-7-1959 trong trận tập kích vào trụ sở của Phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ tại Biên Hòa đóng tại Biệt thự Nhà Xanh.
Davis Camp Sài Gòn là một trại lính dã chiến nằm trong khuôn viên hình năm cạnh lệch nhau, các cạnh dài khoảng 100 và 200m. Một bên là hào bảo vệ sâu 3m giáp đường băng, hai mặt khác là khu gia binh và một cơ sở bỏ hoang. Cổng Trại Davis mở ra đường Lê Văn Lộc, đối diện trại lính dù ngụy. Các nhà trong trại làm bằng gỗ thông cưa xẻ mang từ Mỹ sang, xây theo kiểu nhà sàn, quy cách thống nhất, mái lợp phibroximăng, tất cả hợp thành ba dãy nhà hình chữ U và một dãy nhà chéo, ở giữa có vài nhà trệt. Nội thất, đồ dùng giường tủ bàn ghế hoàn toàn bằng sắt. Với cái nắng nóng của Sài Gòn, nhiệt độ trong phòng có lúc lên đến hơn 40 độ C, cộng thêm tiếng máy bay cứ 5 phút lại một chuyến lên xuống suốt ngày đêm ngay sát doanh trại, sống ở đó giữa vòng vây kẻ thù suốt 2 năm, 3 tháng, 3 ngày, cán bộ chiến sỹ hai đoàn đại biểu quân sự ta đã lập một kỳ tích về ý chí kiên cường, hơn thế, đã góp phần đặc biệt xuất sắc, phối hợp với quân dân cả nước buộc quân Mỹ và chư hầu rút khỏi nước ta, đánh sụp đổ quân ngụy ngay trong sào huyệt của chúng.
Năng Lực

Mũi tên cắm giữa tim thù

(HNM) – Có thể nói trong lịch sử chiến tranh thế giới cũng như của dân tộc ta, chưa từng có trường hợp nào mà một bên đối địch lại hợp pháp cắm được một bộ phận lực lượng của mình công khai, hiên ngang ngay tại trung tâm đầu não của đối phương, được thế giới công nhận và dư luận quốc tế quan tâm theo dõi.
Hang hùm ổ rắn
CBCS Đoàn B và các sĩ quan Mỹ trước cổng Trại Davis. Ảnh: Q.K
Trưa 29-1-1973, máy bay chở Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa (VNDCCH – Đoàn A) do Thiếu tướng Lê Quang Hòa, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam làm Trưởng đoàn và các bộ phận tiền trạm hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn. Đây là lần đầu tiên một lực lượng quân ta công khai đặt chân trên đất Sài Gòn trong tư thế khiến địch hoang mang, lúng túng. Đại diện chính quyền Sài Gòn yêu cầu Đoàn ta phải làm thủ tục xin “visa” nhập cảnh mới cho xuống máy bay. Ta không chịu, vì đi từ miền Bắc vào miền Nam là trong cùng một nước, Việt Nam Cộng hòa (chính quyền Sài Gòn) không thể yêu sách như vậy. Hơn một ngày ngồi trên máy bay, cuối cùng địch phải chịu thua, cho xe bus đưa Đoàn ta về Trại Davis.
Tại Trại Davis nằm sâu trong sân bay Tân Sơn Nhất, chính quyền Sài Gòn cho rào kín nhiều tầng dây thép gai, cô lập hai phái đoàn ta với bên ngoài. Xung quanh trại, đối phương dựng 13 tháp canh lúc nào cũng thấp thoáng bóng lính, suốt ngày đêm chĩa súng vào trại. Trong nhà ở của cán bộ chiến sĩ đoàn ta, địch cài máy nghe trộm. Dựa vào ưu thế kỹ thuật, địch phá sóng, gây nhiễu, đánh cắp bí mật thông tin của ta. Sĩ quan, nhân viên trong phái đoàn địch hầu hết là nhân viên tình báo, phản gián, tâm lý chiến, an ninh quân đội, CIA…
Sau ngày giải phóng Sài Gòn, qua lời khai của nhiều sĩ quan an ninh, tình báo ngụy và tài liệu thu được, ta biết rằng tất cả những hoạt động chống phá hai đoàn ta đều nằm trong một kế hoạch tình báo hỗn hợp do 5 cơ quan đầu sỏ của địch cùng thực hiện. Đó là Phủ đặc ủy Trung ương tình báo, Tổng nha Cảnh sát, Phòng 2 Bộ Tổng tham mưu, Cục An ninh quân đội ngụy và Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA). Đối phương đã chuẩn bị kế hoạch này từ trước khi Hiệp định Paris được ký kết. Trong kế hoạch có cả việc tổ chức đầu độc, mua chuộc, chiêu hồi, bắt cóc, thậm chí xóa sổ hoàn toàn cả hai phái đoàn ta trong trường hợp đặc biệt. Có thể nói “quan điểm” xuyên suốt của địch là lòng hận thù cách mạng. Đỉnh cao của lòng hận thù đó là chỉ thị ngày 28-4-1975 của Cao Văn Viên, Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn mà ta thu được tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu địch. Bản chỉ thị gồm 4 nội dung: Bắn pháo và cối vào Trại Davis; Cho xe tăng và bộ binh tràn ngập; Ném bom; Rải chất độc hóa học với điều kiện gió không thổi về phía thành phố. Chỉ thị của tướng Viên ghi rõ là nếu phát hiện có tiếng súng từ Trại Davis bắn ra thì thi hành ngay, không cần báo cáo xin chỉ thị.
Sáng ngời chính nghĩa
Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Quân ủy Miền (B2), theo Hiệp định Paris, ta thành lập hai đoàn đại biểu quân sự gồm các tướng lĩnh, sĩ quan, cán bộ, chiến sĩ ưu tú của các lực lượng quân đội, công an, ngoại giao, an ninh Trung ương Cục miền Nam, thông tấn, báo chí và một số ban, ngành tham gia mặt trận đấu tranh ngoại giao quân sự thi hành Hiệp định Paris. Quân số mỗi đoàn có 825 người, gồm 275 sĩ quan, 550 nhân viên và cảnh vệ.
“Đối thủ” của ta là Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Hoa Kỳ do Thiếu tướng Gilbert Woodward làm trưởng đoàn; Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam Cộng hòa do Trung tướng Ngô Du (sau này là Trung tướng Dư Quốc Đống) làm trưởng đoàn. Đến thời kỳ hai bên, Đoàn ta do Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn lãnh đạo, đoàn địch do Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp làm trưởng đoàn.
Nhắc lại những ngày đấu tranh trong sào huyệt địch, Đại tá Nguyễn Văn Khả (tức Vũ Nam Bình), nguyên Trưởng ban Bảo vệ an ninh đoàn B cho biết, nhiều nhà báo quốc tế, các sĩ quan Đoàn Hungary và Ba Lan trong Ủy ban quốc tế Kiểm soát và giám sát việc thi hành Hiệp định Paris ở Việt Nam (ICCS) đã phải thốt lên: Chỉ có mỗi đạo quân giải phóng này chịu đựng được như thế. Ông mỉm cười nói thêm: “Chúng tôi không chỉ vượt qua khó khăn mà còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”.
Trong thư gửi đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Thứ nhất BCH TƯ Đảng Lê Duẩn đánh giá: “Đối với ta, điều quan trọng của Hiệp định Paris không phải ở chỗ thừa nhận hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, tiến tới thành lập chính phủ ba thành phần mà mấu chốt ở chỗ quân Mỹ phải ra, còn quân ta thì ở lại”. (Thư vào Nam – NXB Sự thật – Hà Nội 1986, tr.372, 373).
Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Di Niên đánh giá: “Nếu như Hội nghị Paris về Việt Nam là thắng lợi của cuộc đấu tranh ngoại giao kéo dài, đầy khó khăn và phức tạp thì cuộc đấu tranh buộc đối phương phải tuân thủ các điều khoản của Hiệp định Paris là cuộc đấu trí, đấu lý hết sức cam go và quyết liệt”.
Kiên quyết, tỉnh táo, khôn khéo và sáng tạo, mặc dù địch luôn tìm cách dây dưa, cố tình trì hoãn việc thi hành hiệp định, hai đoàn ta đã bằng mọi cách buộc Mỹ phải rút quân đúng, đủ số lượng cả về người và vũ khí, trang bị, đúng thời gian từng đợt theo quy định dưới sự giám sát chặt chẽ của ta và ICCS. Ngày 29-3-1973, đúng thời hạn 60 ngày, người lính Mỹ cuối cùng, kể cả nhân viên quân sự Hoa Kỳ trong Ban Liên hợp quân sự 4 bên và 159 lính thủy đánh bộ canh gác Đại sứ quán của họ đã phải rút khỏi miền Nam sau 18 năm 8 tháng có mặt với vai trò đạo quân xâm lược. Cũng trong giai đoạn 60 ngày, hai đoàn ta đã đấu tranh quyết liệt, buộc địch phải thực hiện việc trao trả nhân viên quân sự và nhân viên dân sự của các bên bị bắt. Mặt trận này cũng rất quyết liệt, hai đoàn đã đấu tranh giành giật với địch từng người của ta. Trên lĩnh vực đấu tranh buộc địch chấm dứt chiến sự, buộc địch ngừng bắn, hai đoàn ta đã vạch trần kế hoạch phá hoại hiệp định đã được chuẩn bị trước của địch. Trong tổng số 390 cuộc điều tra, ICCS đã kết luận 5 vụ quân ngụy vi phạm hiệp định, không có bất cứ kết luận vi phạm nào đối với ta, kể cả những vụ địch làm rùm beng vu cáo ta. Cũng trong những ngày chiến đấu giữa lòng địch, hai phái đoàn ta đã tranh thủ được giới báo chí Sài Gòn và quốc tế, tạo dư luận hỗ trợ chiến trường.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định: “Đây là một hàn thử biểu báo thời tiết chính trị, quân sự lúc này đặt ngay trong lòng địch” (Tổng Hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng).
Sau này, nguyên Đại tá, Trưởng phòng Tình báo quân đội ngụy Nguyễn Văn Học khai: “Chúng tôi đã gặp một đối thủ quá cứng rắn. Tất cả những lần tiếp xúc thông thường thì không sao, nhưng khi đụng vào những nội dung cần thiết thì đều bị đánh bật ra, khiến những sĩ quan có hạng như chúng tôi cũng phải lắc đầu”.
Từ tháng 10-1974, thực tế không còn hoạt động nào của Ban Liên hợp quân sự hai bên do tình hình phức tạp, địch ngày càng lộ mặt phá hoại hiệp định. Thế nhưng Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vẫn hiên ngang trụ vững giữa sào huyệt kẻ thù. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, những người chiến sĩ cách mạng kiên cường tại Trại Davis đã bám trụ, phối hợp với quân chủ lực tổ chức sẵn sàng chiến đấu. Trong những ngày hấp hối, chính quyền Sài Gòn đã nhiều lần cử người đến xin gặp phái đoàn ta, mong được liên hệ với Bộ chỉ huy để “bàn giao chính quyền”. 9h30 ngày 30-4-1975, chiến sĩ Phạm Văn Lãi, 22 tuổi, đã được lệnh cắm cờ giải phóng trên đỉnh tháp nước Trại Davis. Đây là một trong những lá cờ giải phóng đầu tiên tung bay trên bầu trời Sài Gòn trong ngày toàn thắng.
Năng Lực

Lịch sử không lãng quên


(HNM) – Bây giờ, những người lính cách mạng tại Trại Davis cách nay gần 40 năm đã ở vào tuổi 60, 70, có người đã ngoại 80 như Thiếu tướng Trưởng đoàn Hoàng Anh Tuấn, Đại tá Vũ Nam Bình…
Trăm công nghìn việc của thời kỳ sau chiến tranh, xây dựng lại đất nước, của cuộc mưu sinh thời bao cấp cuốn họ đi. Không ai trong số họ có dịp trở lại căn trại mang cái tên Mỹ đã gắn bó với họ suốt 823 ngày đêm hào hùng. Cũng rất ít người trong số họ biết được số phận của căn cứ Trại Davis…
Sau ngày Sài Gòn giải phóng, Trại Davis được giao cho Ủy ban Quân quản thành phố quản lý, sau đó thuộc quyền quản lý của Quân chủng Phòng không – Không quân.
Tháng 4-2003, thể theo nguyện vọng của anh em, Ban Liên lạc Cựu chiến binh Ban Liên hợp Quân sự Trại Davis được thành lập, hằng năm cứ đến ngày 30-4 lại tụ họp ở hai đầu đất nước, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, thăm hỏi nhau đời sống, gia đình, con cái, công việc… nhưng ai cũng đau đáu mong có một ngày về thăm chiến trường xưa. Trại Davis, nơi họ đã thân quen từng ngọn cây, góc nhà, từng con hào chiến đấu họ đào trong những ngày tháng Tư 1975 sôi động, nơi đồng đội họ ngã xuống, nơi họ cống hiến tuổi xuân đẹp nhất của đời người vì lý tưởng Độc lập – Tự do, vì mục tiêu đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Bây giờ Trại Davis ra sao?
Cổng Trại Davis thời Hiệp định Paris năm 1973.
Năm 1994, nhà báo Trần Duy Hinh, phóng viên Trại Davis năm xưa đi làm phim “Mùa Xuân toàn thắng” nhân kỷ niệm 20 năm thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Anh mang giấy giới thiệu của Tổng cục Chính trị đến gặp lãnh đạo đơn vị quản lý sân bay Tân Sơn Nhất, trong đó có Trại Davis. Chỉ huy sở đơn vị chỉ cách Trại Davis vài trăm mét, người chỉ huy đơn vị ngơ ngác: “Trại Davis là cái gì, tôi không biết gì cả, nó ở chỗ nào?”.
Tháng 4-2005, kỷ niệm 30 năm Ngày Toàn thắng, Đại tá Đinh Quốc Kỳ cùng nhiều đồng đội một thời Trại Davis có dịp vào sân bay, cùng đi với những người bạn đương chức mới vào được Trại Davis. Cũng trong dịp này, Đại tá Kỳ gặp lại cái bàn gỗ lát mỗi cạnh dài gần 4m, hình vuông, là vật chứng của 125 cuộc họp cấp Trưởng đoàn 4 bên, rồi 2 bên năm nào. Cái bàn ấy hiện ở Văn phòng đơn vị C59B, Cục Hậu cần Cơ quan Bộ Quốc phòng phía Nam. Đại tá Kỳ ngậm ngùi: Gắn liền với cuộc đấu tranh vì hòa bình ở Việt Nam có hai chiếc bàn. Chiếc bàn tròn ở Hội nghị Paris đường kính 8m và chiếc bàn vuông diện tích hơn 10m2 tại Trại Davis. Liệu có ai có ý thức giữ gìn, bảo quản cái bàn vuông không, hay một lúc nào đó nó lại thất lạc?
Kỷ niệm 36 năm Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-1975), 36 năm Ngày kết thúc thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh ngoại giao quân sự của hai đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, sáng 30-4, tại Hà Nội, Ban Liên lạc CCB Ban Liên hợp quân sự “Trại Davis” đã tổ chức giao lưu, gặp mặt truyền thống. Nhân dịp này, Bộ Ngoại giao đã trao tặng Kỷ niệm chương “về thành tích đóng góp to lớn vào việc thi hành Hiệp định Paris tại Việt Nam” cho 34 CCB.
Khánh Thu
Ngày 31-3-2010, Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Nghệ sỹ Ưu tú Trần Duy Hinh cùng đồng đội Trại Davis năm xưa vào thăm “trận địa” cũ. Anh kể lại: Vượt qua vọng gác khá nghiêm ngặt của đoàn Không quân quản lý sân bay, chúng tôi vào sát sân bay, phải vất vả lắm mới nhận ra con hào bảo vệ, còn tất cả đã thành bình địa, chia lô. Hỏi mấy người đang cắt cỏ gần đấy xem đây có phải đất của Trại Davis không, họ ngơ ngác, cuối cùng có người reo lên: “Còn cái miếu Davis kia kìa… các chú đến mà xem”. Cuối cùng, nhờ cái miếu thờ viên hạ sỹ quân báo Mỹ năm xưa, cái miếu còn nguyên mái hình mui rùa, mà anh em mình mới tin rằng đây là Trại Davis, họ đứng lặng dưới cái nắng xiên khoai để tưởng tượng đâu là dãy nhà A, nhà B, đâu là nhà chỉ huy, phòng họp, sân chơi bóng rổ, sân đậu ô tô… Những người làm cho Trại Davis trở thành một cứ điểm quân sự huyền thoại độc nhất vô nhị trên thế giới còn đây, nhưng Trại Davis đâu rồi?
Một PV Báo Hànộimới năm 2010 đã mầy mò vào được đến Trại Davis, khi về anh có viết một bài về hiện trạng di tích này. Anh cho biết khu vực Trại Davis đã được chia lô, cho thuê làm chỗ đá bóng, chơi tennis, bi-a… Cái miếu thờ hạ sỹ Davis nằm giữa sân tennis.
Cũng từ sau ngày giải phóng, nhất là từ đầu những năm 2000 đến nay, các cựu chiến binh Trại Davis cùng nhiều cơ quan chức năng đã bắt đầu hành trình đề nghị công nhận địa điểm Trại Davis là Di tích lịch sử – cách mạng và đề nghị phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho hai đoàn đại biểu quân sự ta trong thời kỳ đấu tranh thi hành Hiệp định Paris. Năm 2003, Bộ Quốc phòng có công văn gửi UBND TP Hồ Chí Minh khẳng định: “Trại Davis là chứng cứ lịch sử, ở đó đã chứng kiến quá trình đấu tranh kiên cường của cán bộ, chiến sỹ ta, thể hiện ý chí Việt Nam, tính độc đáo về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng và hoạt động ngoại giao quân sự của ta trong quá trình đấu tranh buộc địch thi hành Hiệp định Paris”. Được biết, đến nay đã có nhiều tổ chức, cá nhân có uy tín hết sức ủng hộ việc công nhận này.
Hy vọng một ngày không xa, ước nguyện của những cựu chiến binh Trại Davis và cũng là đòi hỏi chính đáng của lịch sử sẽ được đáp ứng.
Năng Lực
About these ads


About these ads

Những bí mật trước giờ G


Những bí mật trước giờ G – Kỳ 1

“Hồi ký của một đại tá tình báo”

Từ số này, Thanh Niên giới thiệu cùng bạn đọc một loạt các tư liệu, hồi ức về những sự kiện, diễn biến chưa công bố rộng rãi từ các hồi ký, phát biểu mới nhất của những nhà tình báo cách mạng đã tham gia hoạt động bí mật tại Sài Gòn, đặc biệt trong những ngày tháng tư lịch sử.

Đó là đại tá Nguyễn Văn Tàu (tức Trần Văn Quang), biệt danh Tư Cang, Phó chính ủy Phòng tình báo thuộc Bộ tham mưu B2 – Bộ Quốc phòng, người đã nhiều lần xâm nhập nội thành Sài Gòn với bề dày hoạt động bí mật hơn 20 năm…
Sau 30.4.1975, báo chí trong và ngoài nước cùng các phương tiện truyền thông thường nhắc đến các điệp viên hàng đầu của cách mạng như “ông cố vấn” Vũ Ngọc Nhạ, hoặc “điệp viên hoàn hảo” Phạm Xuân Ẩn, song không nhiều người biết, một “nhân vật thứ ba” từng lăn lộn tại Sài Gòn trong những thời điểm cam go nhất, để hỗ trợ hoạt động tình báo của đồng đội, là đại tá Tư Cang.
Ông bước vào ngành tình báo quân đội từ năm 19 tuổi (1947), từng ra Bắc, trở lại chiến khu Nam, rồi được bí mật tung vào nội thành Sài Gòn với tư cách là Cụm trưởng Cụm tình báo H63. Cụm tình báo này đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1971. Sau đó, ông được điều ra Bắc năm 1973. Đầu năm 1975, theo lệnh Quân ủy Trung ương, và trong tình hình sôi bỏng lúc bấy giờ, đại tá tình báo Trần Văn Quang lại được cấp tốc đưa vào Nam lãnh nhiệm vụ Chính ủy lữ đoàn 316 đặc công biệt động, mở đường tiến về “thủ đô Sài Gòn”.
Chính ở vị trí ấy, nhà tình báo kỳ cựu Trần Văn Quang đã chỉ huy lữ đoàn của mình đánh thọc sâu vào những nơi hiểm yếu, chế ngự các cây cầu, dẫn đường cho quân cơ giới tiến nhanh vào dinh Độc Lập ngày 30.4 lịch sử.

Ông Tư Cang - Ảnh: Giao Hưởng

Ông đã viết hồi ký với tựa Nước mắt ngày gặp mặt. Ông kể, trước giờ tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng và kêu gọi binh lính Sài Gòn buông súng, ông cùng các cộng sự thảo luận về vị trí đặt pháo trong thành phố, trên các cao ốc để bắn vào các mục tiêu kháng cự.
Sáng 30.4, đơn vị của ông đã tiến qua cửa ngõ Sài Gòn, theo đường nhựa ấp Thới Tứ vào tỉnh lộ 15, rẽ trái xuyên qua cánh đồng của xã Tân Xuân, tiến sát hơn vào nội thành. Đi trước đoàn xe của ông có 4 nữ chiến sĩ biệt động đeo băng đỏ trên cánh tay phải, khẩu AK trước ngực dẫn đường trên những chiếc Honda màu đen. Phía sau xe và hai bên có một tiểu đội trinh sát vệ binh cũng ngồi xe máy, người lái xe lận K54 bên hông chở người ngồi sau mang AK báng gấp từng cặp lao tới. Họ dẫn đoàn xe qua khỏi xã Trung Mỹ Tây, đến ngã ba Bầu, rẽ ngã tư Trung Chánh, tiến thẳng về trung tâm Sài Gòn.
Chẳng mấy chốc, xe chở đại tá tình báo Trần Văn Quang đến trước Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, lúc nào cũng có ngót 15 nghìn binh sĩ, nơi trước đó ông đã từng qua lại nhiều lần. Chính ở trung tâm này, anh hùng Nguyễn Văn Sơ cùng trung đoàn của anh “đã chiến đấu đến người cuối cùng” trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968. Bấy giờ, trung tâm huấn luyện này trông bệ rạc trong “cuộc cờ tàn” với từng đoàn lính trẻ Sài Gòn vừa tháo chạy vừa quăng nón, lột giày, cởi quần áo vứt bừa khắp nơi.
Những xe Honda của các nữ biệt động không chạy nhanh được vì phải tránh các núi quần áo, giày mũ, súng đạn ùn kín trên đường. Đến ngã tư Bảy Hiền, đoàn xe lọt vào giữa biển người đang ào ra đường với cờ hoa cầm sẵn trên tay. Trước Bệnh viện Thống Nhất, một phụ nữ đứng giữa đám đông lớn tiếng giải thích chính sách khoan hồng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đối với tù – hàng binh. Ông cho xe ngừng lại vì thấy người phụ nữ quen quen, chưa nhìn rõ mặt thì nữ chiến sĩ biệt động tên Hoa đã gọi to: “Cô Sáu!”.
Ông đã bước đến gần và “cô Sáu” chẳng ai khác hơn là Sáu Thu, thuộc đơn vị tình báo do ông gầy dựng. Sau vài phút nghe Sáu Thu báo cáo vắn tắt tình hình sáng 30.4, ông cho xe phóng về phía lăng Cha Cả. Nửa đường, có mùi khét từ đầu máy xe bốc lên. Tài xế tắt máy nhảy xuống kêu to: “Chết thật, xe jeep này của tay trung úy lấy chiều hôm qua, thùng nước bị bắn chưa kịp hàn lại. Trước khi đi đã châm nước, nhưng giờ nước đã hết sạch nên máy bị nóng. Muốn chạy tiếp phải chờ máy nguội để thêm nước, nửa giờ nữa mới đi tiếp được!”. Công việc quá gấp, làm sao bây giờ?
Đang suy nghĩ thì một nhóm thanh niên chạy đến, reo to: “Chú ơi, xe thiếu gì, các chú muốn loại gì cũng có. Ở cổng sân bay, sĩ quan của ông Thiệu bỏ lại nhiều lắm, có chiếc chưa tắt máy ở đằng kia”. Nghe vậy, tài xế đã nhảy lên Honda của một thanh niên chạy về cổng phi trường và trong chốc lát đã quay lại với một chiếc jeep lùn còn mới, ngay lập tức chở ông về Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn.
Ông kể: “Cơ quan tổng tham mưu của quân đội Sài Gòn đồ sộ thật. Con đường tráng nhựa rộng rãi thẳng tắp dẫn đến một sân rộng. Trên cột cờ cao trước tòa nhà chính, gió chiều đang thổi tung lá cờ Mặt trận giải phóng“. Lá cờ đã được kéo lên khá sớm bởi một cán bộ tình báo bí số K30, trong vai một thượng sĩ làm việc nhiều năm tại Phòng II Bộ Tổng tham mưu. Ông được K30 đưa đến phòng làm việc của tướng Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn và thấy trên bàn “phù hiệu của đại tướng Cao Văn Viên còn trong ngăn kéo, một số giấy tờ của trung tướng Vĩnh Lộc chưa kịp tiêu hủy, cũng như các chứng từ, vũ khí của những người thay thế tướng Viên vẫn vứt bừa bãi quanh đó“.
Quen với nếp làm việc của một nhà tình báo, không bỏ sót một tấm giấy nào, nên đại tá Quang đã “cho gom tất cả, bảo quản kỹ, rồi đóng gói đưa vào Bộ chỉ huy lữ đoàn“. Tiếp đó, ông lên xe phóng đến một ngôi nhà thoáng mát, chung quanh có nhiều cây cảnh xanh mướt. Lúc ấy trời vừa tắt nắng, bên ngoài bắt đầu chập choạng tối, nhưng bên trong ngôi nhà vẫn sáng như ban ngày bởi hệ thống đèn nê-ông. Nền nhà lót toàn thảm đỏ, giữa phòng là chiếc bàn bầu dục to rộng, với những chiếc ghế dựa bọc nhung đỏ. Đây là phòng họp của Trung tâm Máy tính điện tử thuộc Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn, do một đại tá phụ trách, đã bị bắt giữ ở một phòng gần đó.
Nghe vậy, ông ra lệnh bảo vệ kỹ máy móc và đối xử tử tế với viên sĩ quan trên để khi cần đến kỹ thuật chuyên môn thì sử dụng anh ta.
Tiếp đó, ông cho xe phóng nhanh về trung tâm thành phố, đến ngã tư Hiền Vương (nay là Võ Thị Sáu) – Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) để đến dinh riêng của Phó tổng thống Trần Văn Hương. “Chưa có đơn vị cách mạng nào đến đó. Chúng tôi cho xe chạy một vòng quanh cổng phụ, quan sát thấy bên trong dinh còn thấp thoáng nhiều bóng lính đang cầm súng“. Ông cho người đưa loa hướng vào trong kêu gọi: “Tất cả hãy bỏ súng lại trong nhà, lần lượt ra trước sân từng người một. Tất cả sẽ được tha về sum họp gia đình ngay bây giờ“.
Một lát sau, cánh cửa lớn của dinh phó tổng thống từ từ mở rộng, rất đông những người lính tay không vũ khí, vẫy khăn trắng, áo trắng, tỏ dấu hiệu đầu hàng lần lượt bước ra cổng chính. Các trinh sát nhảy xuống xe, chia từng tốp nhỏ tiến vào.
Đến giữa sân, đại tá Quang đưa loa lên hỏi lớn: “Ai là người chỉ huy ở đây, hãy bước ra khỏi hàng lập tức!”. Nghe ông nói giọng Sài Gòn, một số trong đám đông lộ vẻ ngạc nhiên. Họ không hề biết rằng người đứng trước mặt họ chính là Cụm trưởng Cụm tình báo H63 không lạ gì đường đi nước bước ở “nội đô Sài Gòn”…

 

Những bí mật trước giờ G – Kỳ 2

“Đột kích vào Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn”

Cờ giải phóng tung bay tại Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, ngày 30.4.1975 - Ảnh tư liệu Dinh Thống Nhất

Dinh phó tổng thống thường ngày được đông đúc cảnh vệ canh giữ từ ngoài vào trong trông rất uy nghiêm. Song trưa 29.4, dinh lặng lẽ u ám như đang có tang, bởi nguồn tin đại quân cách mạng đang tiến sát Sài Gòn, khiến không ít lính tráng, kể cả sĩ quan cấp úy, đã trốn đi, bỏ mặc những con chim trắng “thuộc loại chim nhập cảng đắt tiền đang ríu rít mổ những bông cỏ và hạt kê còn sót lại“, phải bơ vơ trong lồng.
Dưới thềm đại sảnh của dinh, theo mô tả của hồi ký Nước mắt ngày gặp mặt, còn có con cá sấu to bằng cổ chân đang giương mắt nhìn lên, cô độc. Khi đại tá Tư Cang đến đó, ông kêu gọi số còn lại trong đơn vị cảnh vệ của dinh hãy tập trung ngoài sân, đếm được… 115 người. Ông lệnh các sĩ quan cộng sự của mình chỉ giữ lại viên trung tá chỉ huy trưởng và hai viên thiếu tá chỉ huy phó của đội cảnh vệ, còn bao nhiêu thả cho về với gia đình ngay đêm ấy.
Tuân lệnh ông, sĩ quan Bảy Thanh dùng loa hướng dẫn:
- Các anh hãy sắp hàng dọc, theo cổng chính mà ra.
Theo đó, từng tốp lính Sài Gòn kéo nhau tỏa ra đường Hiền Vương tức đường Võ Thị Sáu ngày nay, để về nhà họ theo nhiều hướng. Nhìn cảnh ấy, Tư Cang không khỏi liên tưởng đến hình ảnh trái ngược mà ông đã bắt gặp ở Bộ Tổng tham mưu cách đó vài tiếng. Đó là hình ảnh phơi phới của các chiến sĩ Z28.
Z28 là đơn vị trực thuộc Lữ đoàn 316 (do Tư Cang làm chính ủy). Đây là đội biệt động nội thành (do Bảy Vĩnh chỉ huy), hoạt động khi ẩn khi hiện với nhiều tay súng như Sáu Ánh, Hiệp, Thông (trong đó có hai trung úy và một thượng sĩ cài trong hàng ngũ binh lính Sài Gòn), lúc nào cũng sẵn sàng nổ súng bảo vệ các điệp viên, hoặc để các tổ tình báo của cách mạng thoát hiểm. Giờ đây, chính họ là những người đầu tiên sắp thực hiện cuộc tấn công chọc thủng Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn sáng 30.4 trước khi đại quân kéo đến. Để làm tròn nhiệm vụ ấy, từ khuya 29, các tay súng của Z28 theo quy ước trước, đã bí mật từng người một tiến về hướng chợ Phú Nhuận và gặp nhau tại nhà ông Sáu thợ mộc. Đến 4 giờ sáng 30.4, họ gồm 14 người có mặt tại địa điểm trên, cởi bỏ quần áo thường dân đang mặc, để thay vào đó những bộ đồ cảnh sát dã chiến nhằm ngụy trang, che mắt đối phương trước khi ra khỏi nhà. 4 lá cờ Mặt trận dân tộc giải phóng may sẵn xếp lại, để gọn trong lồng ngực của 4 người cùng một số vũ khí, đi trước do Bảy Vĩnh dẫn đầu. Ai nấy đều mang theo băng tay cá nhân màu đỏ trong túi áo để làm tín hiệu liên lạc với đơn vị bạn khi cần. Lẽ ra, theo kế hoạch định sẵn, Z28 sẽ được thiết giáp yểm trợ khi đánh vào Bộ Tổng tham mưu. Nhưng họ đợi đến 5 giờ 30, rồi hơn 6 giờ, vẫn chưa bắt liên lạc được với lực lượng yểm trợ. Cuối cùng, họ quyết định xuất phát từ lúc 7 giờ, dàn đội hình hàng dọc rời khỏi nhà ông Sáu thợ mộc ra đường lớn, qua ngã tư nhà thương Cơ Đốc, rẽ trái vào đường Võ Tánh, đến cổng B của Bộ Tổng tham mưu. Vì lệnh phải đánh thẳng vào cổng A, nên Z28 rời cổng B tiếp tục qua khỏi ngã ba Trương Quốc Dung, vừa đi vừa giả bộ cãi vã chửi thề, sừng sộ nhau, y hệt như một đội “cảnh sát dã chiến” thứ thiệt trong giờ hỗn loạn.
Để đến đó, đội hình của Z28 tiến về khu vực Trung tâm tiếp huyết trên đường Võ Di Nguy, vượt qua cái sân rộng áp sát cổng 4. Cổng này lại đang bị 3 xe thiết giáp khác án ngữ. Bảy Vĩnh truyền lệnh: “Cứ 3 người nhảy lên chiếm một xe tăng“. Bỗng một chùm đại bác của đại quân giải phóng “sà xuống kéo theo những tiếng rít kinh hồn. Ầm, ầm!“. Đội Z28 vẫn tiến nhanh hơn về phía trước. Đơn vị lính Sài Gòn đang gác cổng nghe tiếng đại bác sợ xanh mặt “hai tay đang còn bịt tai, chưa kịp chụp lấy súng thì nòng tiểu liên AK của các chiến sĩ Z28 đã dí sát ngực”, nên tất cả đều đưa cao tay, đầu hàng một lượt. Lúc ấy cả 3 xe thiết giáp cũng đã bị Z28 chiếm. Có vài lính Sài Gòn ngỡ là “trò đùa” của các “cảnh sát dã chiến” nên lên tiếng cãi lẫy này nọ. Bảy Vĩnh liền rút lá cờ giải phóng trong ngực ra phất lên. Ba lá cờ khác cũng được các chiến sĩ Z28 rút ra đưa cao trên 3 chiếc xe tăng. Tới đây toàn bộ lính ở khu vực cổng Bộ Tổng tham mưu trố mắt bàng hoàng, hướng mắt về phía Bảy Vĩnh nghe tuyên bố: “Chúng tôi là quân giải phóng. Chúng tôi không giết các anh đâu. Đằng sau chúng tôi đại quân đang tiến vào. Tất cả các anh hãy bỏ súng xuống, cởi quần áo nhà binh ra, chạy mau về với vợ con. Còn 3 anh lái 3 chiếc xe tăng hãy gấp rút lái đưa chúng tôi vào văn phòng Tổng tham mưu trưởng, sau đó chúng tôi cũng sẽ thả cho cả 3 anh ra về”. Nghe vậy, tất cả lính Sài Gòn có mặt ở khu vực cổng số 4 đồng loạt vứt súng xuống đất, cởi bỏ quần áo, chạy ra cổng. Ngược lại, toán xe tăng chở 12 chiến sĩ Z28 ngồi ở trên quay đầu tiến thẳng vào cổng. Đến khoảng sân rộng, cách phòng làm việc của Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn không xa, thấy một xe quân sự gắn sẵn khẩu súng phòng không đang chĩa nòng lên trời và một cụm pháo gồm 4 khẩu 105 ly. Nhưng tất cả đều nằm im, bất động, số lính quanh đó vội ra hàng không sót một người. Chỉ vài phút sau, lá cờ giải phóng từ trên xe tăng được chuyển lên nóc nhà Bộ Tổng tham mưu bay phấp phới.
Lúc bấy giờ đồng hồ chỉ 9 giờ, sáng 30.4.
Theo hồi ký của cụm trưởng tình báo Tư Cang: “Khoảng hơn 11 giờ trưa, có toán xe thiết giáp do anh Tư Tăng, chỉ huy phó của Lữ đoàn 316, và anh Ba Đen, chỉ huy trưởng Z32 đến đấy. Thấy Z28 đã chiếm xong Bộ Tổng tham mưu, xe thiết giáp của các anh thẳng đường tiến về hướng dinh Độc Lập…“. Đứng giữa Sài Gòn đêm 30.4, Tư Cang không khỏi bồi hồi nhớ đến những lần cận kề cái chết bên các đồng đội tình báo của mình. Nhớ đến những “địa chỉ nóng” ở Sài Gòn mà ông đã vẽ bản đồ chi tiết, kèm theo tài liệu mật, cũng như tin tức tình báo liên quan gửi ra chiến khu. Một trong những địa chỉ đó là kho quân cụ của Mỹ và quân đội Sài Gòn thiết lập gần khu vực chùa Việt Nam Quốc tự. Ông lập tức ra xe, lệnh tài xế theo đường Trần Quốc Toản đến địa bàn có kho quân cụ trên và biết từ lúc chập choạng tối các vòi xăng trong kho đã bị mở khóa, xăng chảy tràn lan đe dọa một trận hỏa hoạn bất kỳ. Thình lình một chiếc xe chạy ngược chiều có đề hai chữ to tướng “Cục R” bằng sơn đỏ trên kính chắn gió do một người lạ mặt cầm lái lao về phía ông, đó là ai?

Những bí mật trước giờ G – Kỳ 3

Dấu ấn của ngày “tháo chạy tán loạn”



Tài liệu tình báo đang được trưng bày tại Dinh Thống Nhất dịp 30.4 năm nay - Ảnh: Giao Hưởng
Bảy Vĩnh là người dẫn đầu đội biệt động tinh nhuệ tấn công táo bạo vào Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn mà điệp viên Phạm Xuân Ẩn đã đánh giá cao về lòng gan dạ và tài chỉ huy từ trước.
Bảy Vĩnh với Tư Cang lại là hai người cùng được bí mật đưa vào Nam trong một đội tình báo để xâm nhập vào nội thành Sài Gòn lần thứ hai năm 1961. Khi nghe Bảy Vĩnh tường thuật về trận đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn, thì Tư Cang với cương vị Chính ủy Lữ đoàn 316, Cụm trưởng Cụm tình báo H63, đã nhận định đây là trận đánh ngoạn mục ở hai khía cạnh. Thứ nhất, chỉ với 14 tay súng không có xe tăng yểm trợ (như kế hoạch vạch trước) nhưng vẫn tự tác chiến, chế ngự và đoạt xe tăng của đối phương để tiến chiếm mục tiêu sớm nhất. Thứ hai, đội biệt động ít ỏi quân số này mà đã khống chế được một cơ quan đầu não của bộ chỉ huy quân đội Sài Gòn để cắm ngọn cờ giải phóng lên nóc nhà, chính thức báo tử giờ tàn của Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn (9 giờ sáng 30.4). Chiều ấy, khi hay tin Tư Cang đến, Bảy Vĩnh tự lái chiếc xe du lịch Falcon bóng loáng tịch thu được trước phòng làm việc của đại tướng Cao Văn Viên (Tổng tham mưu trưởng quân lực Việt Nam Cộng hòa) để chạy ra đón Tư Cang trước cổng Bộ Tổng tham mưu. Vừa là bạn, vừa là đồng đội hoạt động tình báo và cùng bên nhau nhiều lần thoát qua cái chết trên đất Sài Gòn, nên khi gặp lại họ không khỏi xúc động đến rơi nước mắt. Đó là những giọt nước mắt đầu tiên mà Tư Cang đã ghi qua hồi ký Nước mắt ngày gặp mặt. Đọc xong, thượng tướng Trần Văn Trà lúc còn sống đã viết lời giới thiệu: “tác giả (Tư Cang) là người chỉ huy một đơn vị đi đầu trong chiến dịch, đã cung cấp một số tư liệu sống, thật cụ thể, cho bức tranh toàn cảnh đồ sộ về cuộc chiến tranh vĩ đại vừa qua”. Những cảnh ngổn ngang của ngày 30.4 trên đường phố Sài Gòn cũng được Tư Cang ghi nhận chân thật: “dọc đường phố, xe con, xe vận tải quân sự của quân đội Sài Gòn bỏ lại nằm rải rác. Người ta đã tháo mất bánh xe dự bị. Các thùng xăng bị chọc thủng để lấy xăng. Là vì của không có chủ, ai muốn lấy gì thì lấy. Tiếng súng cứ nổ rải rác đó đây, đạn lửa đan chéo nhau trên trời. Ai muốn bắn chơi cứ bắn. Súng thì vất bừa bãi trên đường không ai thèm lượm (…). Từ trong các kho vô chủ, tôi thấy nhiều người chạy ra, cõng những bao gạo trên lưng hoặc đội một đống vải dù trên đầu, người thì xách một thùng xăng, người thì lăn một bánh xe. Thật là một cảnh hỗn độn!”.
Nhiều cảnh tương tự bày ra trước mắt Tư Cang trên đường đến kho quân cụ gần chùa Việt Nam Quốc Tự. Tại đó, ông nghe một sĩ quan cộng sự của mình là Bảy Thanh báo cáo: “Nguy hiểm quá anh Tư ơi. Vòi xăng cứ để mở, đồng bào đưa thùng vô, cái nào đầy rồi thì xách chạy. Xăng tràn ra sân. Đạn lửa bắn cùng trời thế này, kho có thể cháy như chơi. Tôi đã khóa lại và cho Dũng đứng gác. Tôi phải quay lại về dinh Trần Văn Hương, điều thêm hai tổ đến đây mới đủ sức bảo vệ”. Tư Cang dựa vào các thông tin tình báo để phân công tiếp: “Các anh hãy đến khu trung tâm Sài Gòn để kiểm tra những địa chỉ đã ghi trong bản đồ trinh sát này, trong đó có một căn nhà lầu của Nguyễn Văn Thiệu để lại, kế bên là những biệt thự của Phạm Kim Ngọc – Bộ trưởng tài chánh, cũng như của nhiều quan chức cao cấp khác trong bộ máy hành chánh của chế độ Sài Gòn. Tất cả lấy dinh phó tổng thống Trần Văn Hương làm địa chỉ liên lạc trong đêm 30.4 này cho đến khi có lệnh mới”. Nói xong ông ra chiếc xe jeep loại mới nhất thời đó vừa tịch thu được từ một trung tá Sài Gòn để tự lái đi.
Đó là chiếc xe mới toanh có đề hai chữ “Cục R” bằng sơn đỏ ở kính chắn gió đã được đề cập ở cuối kỳ 2. Thấy hai chữ “Cục R”, Tư Cang thoáng nghĩ rất nhanh chẳng lẽ đây là xe của Trung ương Cục miền Nam với hai chữ lộ liễu như vậy? Mà thêm nữa, mấy ngày nay vẫn không hề có thông báo, thông tin gì về ám hiệu bằng chữ ấy. Không ngần ngại, Tư Cang rút súng bắn một phát chỉ thiên, lệnh xe kia dừng lại. Các tay súng biệt động đi theo ông thoáng cái đã đến bên xe chĩa thẳng nòng AK vào bên trong, bảo tất cả ngồi yên. Tư Cang quát hỏi: “Thuộc đơn vị nào?”. “Dạ, ở trong cư xá đằng kia đi ra”. Tư Cang chắc mẩm đây là lính Sài Gòn trú ở doanh trại gần đó nên hỏi tiếp: “cấp bậc gì?”. “Dạ, trung tá, còn hai thằng này là hạ sĩ quan, đều là lính thợ của kho quân cụ, xin ông tha cho”. Tư Cang gật đầu:
- Ờ, bỏ xe lại đây, chạy trở vào nhà đóng cửa lại, đừng ra đường nữa, đơn vị phía sau đến bắn chết, nghe chưa!
Viên trung tá và thuộc hạ xuống xe chạy trở vô phía cư xá, nhưng Tư Cang gọi quay lại, ngoắc viên trung tá lên ngồi cạnh mình để trả lời vắn tắt việc thao tác và sử dụng cần số của loại xe mới: “Thưa ông, chiếc xe này thuộc loại A2, loại mới nhất của jeep lùn (thời 1975). Máy nó tốt hơn hẳn các loại jeep cũ, chúng tôi mới dùng có mấy tháng nay”. Tư Cang nói: “được rồi, đi đi”, họ cảm ơn rồi chạy thẳng một mạch. Tư Cang quan sát kỹ trong xe thấy nệm ghế màu đỏ tươi, vỏ bọc chỗ ngồi còn bóng loáng. Sau xe, có đặt sẵn hai khẩu tiểu liên AR15, hai súng ngắn 12 ly, một bình điện dự bị và nhiều phụ tùng xe phòng khi trắc trở. Có cả một thùng mì tôm và một thùng bia hộp kèm theo nữa. Rõ là ba thầy trò viên trung tá đang chuẩn bị một cuộc đi xa, nhưng họ không biết rằng vào thời điểm ấy họ khó mà lọt ra khỏi vòng quân quản của lực lượng quân đội cách mạng. Vừa nghĩ như thế, Tư Cang vừa tự lái chiếc xe jeep lùn ấy chạy vào đường Hồng Thập Tự (đường Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay), đến cầu Thị Nghè, thấy một chiếc xe tăng của quân Sài Gòn bị bắn cháy đang còn nằm chình ình ra đó. Qua cầu, tới đầu ngõ hẻm vào cư xá Việt Nam Thương Tín, lòng ông bỗng chùng lại, bồi hồi, vì cuối ngõ hẻm hun hút kia là ngôi nhà của vợ con ông đang sống, họ phải biệt ly, xa cách nhau mấy chục năm ròng. Ông chưa thể vào đó được, mà phải phóng thẳng đến khu vực Giáo xứ Nguyễn Duy Khang để gặp một cán bộ biệt động chỉ huy trưởng mũi nổi dậy ở vùng Hàng Xanh là Nguyễn Bá Tòng và chỉ huy phó là Hai Truyền. Hai người đã đưa ông xem quang cảnh sáng 30.4 qua cuộn phim ghi hình vừa tráng xong: “Cuộn phim chụp rất đạt, hình ảnh sắc nét khá rõ ghi lại diễn biến từ ngã tư xa lộ qua nhà thương dưỡng lão, đến cầu Thị Nghè. Nhân dân đổ ra hai bên đường, tay cầm cờ cách mạng, nét mặt rạng rỡ, đón đoàn xe tăng, xe chở bộ binh như đón những người thân đi xa về. Tôi lấy kính lúp của anh Tòng trao cho đọc được cả những biển số xe đang đi trên đường sáng 30.4 như: CE 1949, CE 4211, CE 4250…”. Xem cuộn phim tài liệu quý này, Tư Cang mường tượng như thể đây là cuộc diễu binh trong thành phố thân quen của mình, thành phố mà ông đã trải qua hơn hai thập niên hoạt động bí mật, gắn bó với những tên tuổi trong ngành tình báo như Tư Trung (Phạm Xuân Ẩn), Bảy Vĩnh. Hoặc những chiến sĩ của Cụm H63 ít người biết đến vì công tác bảo mật, đã nằm xuống vĩnh viễn trước ngày 30.4 ở Sài Gòn như Năm Hải, Tư Lâm, Ba Cảnh, Sáu Ẩn, Tư Khương, Tư Re, Chín Ghém, Ba Đào, Tư Đạo… Họ đã cùng ông bám trụ những điểm nóng từ Củ Chi đến nội thành để thu thập tin tức tình báo, phân tích và đánh giá tình hình, chính xác tới nỗi Giám đốc cơ quan tình báo CIA ở Sài Gòn là William Colby đã có lần cảnh báo Nguyễn Văn Thiệu là trong lòng Sài Gòn và ngay cả dinh Độc Lập đang có mặt những điệp viên cộng sản. Những bằng chứng thuyết phục cho điều ấy sẽ được trình bày trong các kỳ tiếp theo của loạt bài này.


Những bí mật trước giờ G – Kỳ 4


Tình báo viên Yến Thảo đối mặt với CIA

Nguyễn Thị Yến Thảo thời hoạt động trong cụm tình báo H63 - Ảnh: nhân vật cung cấp
Một chiều đầu hạ, trên bến Bạch Đằng Sài Gòn, có hai người thư thả đến thuê một chiếc xuồng con, chèo thật chậm để ngắm cảnh ven sông. Đó là Tư Cang (Trần Văn Quang) và Hai Trung (Phạm Xuân Ẩn).
Một người là chỉ huy trưởng Cụm tình báo H63, người kia là “điệp viên hoàn hảo”- lúc bấy giờ đã là cán bộ của cụm này. Đứng từ bến nhìn xuống, sẽ thấy hai người như hai du khách sành điệu đang thưởng thức gió mát trên sông. Nhưng kỳ thực, họ đang thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt. Ấy là quan sát thật kỹ để vẽ toàn cảnh sơ đồ căn cứ của Bộ tư lệnh Hải quân Sài Gòn đóng trên bờ.
Ở ngoài nhìn là vậy, còn bên trong căn cứ quan trọng này ra sao? Phải làm cách nào để mô tả chi tiết và nắm quy luật đi lại, giờ giấc sinh hoạt, số nhân viên lẫn lực lượng thường trực ở đó? Việc khó khăn này rốt cuộc phải nhờ đến sự hợp sức của nữ tình báo viên xinh đẹp Nguyễn Thị Yến Thảo.
Và Yến Thảo đã được cài vào làm việc như thư ký riêng của viên sĩ quan tình báo Mỹ CIA ở căn cứ này ra sao?
Yến Thảo vào Đảng từ 1950, ra chiến khu miền Tây và sau đó được tổ chức đưa trở lại Sài Gòn để hoạt động từ 1954. Nhà cô là một địa điểm thuận lợi giữa trung tâm Sài Gòn (số 136 B Gia Long- nay là Lý Tự Trọng), cách dinh Độc Lập không xa. Chính ở căn nhà đó, Tư Cang – lúc ấy mang cấp bậc thiếu tá thuộc phòng tình báo B2 – đã chuyển đến cư trú và chỉ huy hoạt động của cụm H63 từ giữa 1966.
Trong nhà còn có ba má của Thảo và mấy em gái. Vào thời điểm trên, số quân Mỹ đổ vào Việt Nam tăng nhanh đến chóng mặt: từ 200.000 quân cuối 1965, tăng lên 389.000 cuối 1966 và lên đến nửa triệu năm 1967. Cùng lúc, số lượng không nhỏ cố vấn tình báo Mỹ cài vào các cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn cũng tăng theo.
Trước tình hình đó, cụm H63 nhận định cần đào tạo thêm cán bộ thông thạo tiếng Anh để tiếp cận nhân viên tình báo Mỹ, nên đã cho Thảo đi học tiếng Anh. Thảo học rất giỏi, nhanh chóng nói và viết đều rành. Đến kỳ thi, H63 chi một món tiền lớn để Thảo có được chứng nhận tốt nghiệp với số điểm thật cao. Xong việc ấy, phải tiếp tục xoay xở để tìm cho Thảo chỗ làm thật “vừa ý” theo kế hoạch của cụm tình báo. Kết quả thật khả quan, không lâu sau, Thảo được tuyển làm phiên dịch cho một thiếu tá tình báo Mỹ.
Viên sĩ quan này lúc bấy giờ đang là cố vấn cho tình báo hải quân Sài Gòn, có phòng làm việc riêng trong Bộ tư lệnh Hải quân đóng trên bến Bạch Đằng. Về phần Tư Cang, khi đến ở nhà Thảo, để giữ thế hợp pháp và che mắt người chung quanh, ông phải tìm một công việc theo kiểu công chức hằng ngày. Là một học sinh xuất sắc, đỗ cao vào trường Petrus Ký Sài Gòn từ những năm đầu thập niên 1940 và biết cả tiếng Pháp lẫn Anh, nên Tư Cang được một văn phòng kế toán gọi tắt là OCOGES đồng ý thu nhận và ông bắt đầu đi làm hằng ngày với thẻ căn cước giả mang tên Trần Công Tâm.
Đến sở rất sớm để bắt tay vào việc từ 6 giờ rưỡi đến tận 11 giờ rưỡi trưa, ông cũng không về nhà như nhiều đồng nghiệp khác mà mở chiếc ghế nệm ra ngả lưng tại chỗ trên lầu hai Thương xá Tax để tiện dậy tiếp tục làm việc đến 5 giờ chiều mới về nhà.
Nhiều hôm tan sở, ông không đi xe, lại thả bộ quanh khu vực chợ Bến Thành, vừa đi vừa để ý nhìn ngắm, ghi nhận từng hẻm nhỏ, từng lối rẽ vào các con đường lớn của khu trung tâm. Cũng có hôm ông rủ vài đồng nghiệp vòng qua phía Chợ Cũ, hoặc sà vào một quán nhậu để nhắp rượu Vĩnh Tồn Tâm với mấy con chim sẻ ram vàng chấm tương ớt. Sinh hoạt từ sáng đến chiều của ông theo nếp công chức như vậy, đã tạo cho ông bình phong khá chắc chắn nhằm che mắt hệ thống cảnh sát – mật vụ của Sài Gòn.
Sau này, khi Thảo được nhận làm phiên dịch cho viên thiếu tá tình báo Mỹ, ông đã xin nghỉ việc, lấy cớ “sức khỏe kém” để có thời giờ tập trung xử lý tin tức. Buổi sáng, ông chở Thảo đi làm bằng xe Honda. Buổi trưa, nhiều hôm ông đợi Thảo về, để nhận tài liệu tiếng Anh do Thảo lấy được từ nơi làm việc của viên sĩ quan Mỹ, dịch ra tiếng Việt thật nhanh, rồi giao lại bản gốc ngay trưa ấy để Thảo mang về trả lại trên bàn của anh ta. Những tài liệu này được Tư Cang tự tay chép lại theo kỹ thuật riêng trên giấy hút thuốc ABC mỏng lét để bí mật chuyển về phòng tình báo B2.
Sao viên thiếu tá tình báo Mỹ lại tin Thảo đến vậy? Theo Tư Cang, vì Thảo là một phụ nữ trẻ đẹp, với thân hình thon thả, gương mặt tròn đầy, nói giọng Nam pha một ít hơi Bắc (gia đình Thảo gốc Bắc) nghe là lạ, rất duyên. Viên thiếu tá tình báo Mỹ còn trẻ, rất ga-lăng, chiều chuộng cô thư ký phiên dịch của mình, nhiều đêm còn đột ngột đến nhà Thảo thăm chơi. Việc ấy tạo thêm một “lá chắn” nữa cho hoạt động bí mật của Thảo lẫn Tư Cang. Bởi thói thường, hễ nơi nào có “hơi” Mỹ thì nơi ấy công an mật vụ Sài Gòn né ra.
Dần dà, cứ đến buổi chiều xong việc, viên sĩ quan tình báo Mỹ lại lấy xe jeep tự đưa Thảo về. Một bữa, Thảo nói với Tư Cang: “Em nghĩ đời em cũng hay hay anh à”. Tư Cang hỏi: “Hay làm sao?”. Thảo đáp:
“Buổi sáng thì thiếu tá tình báo Việt Cộng đưa đi làm. Buổi chiều thì thiếu tá tình báo Mỹ đưa về. Không hay sao được hả anh?”.
Bật cười vì câu nói ngộ nghĩnh của Thảo, Tư Cang lại nghĩ, viên thiếu tá tình báo kia đã thật sự “đóng góp” vào cuộc tổng tấn công 1968 của quân giải phóng qua các tài liệu mà Thảo lấy được, kể cả tấm ảnh quý giá cô đứng chụp chung với anh ta trước những tòa nhà trong Bộ tư lệnh Hải quân. Khi chụp những bức ảnh đó, Thảo đã khéo léo dẫn viên thiếu tá đến đứng cạnh mình ở những vị trí rất cần cho việc tham khảo trước giờ tấn công.
Ngoài ra, Thảo còn lấy được rất nhiều tài liệu tốt, thường là những đánh giá của CIA và các nhận định của Phủ Đặc ủy Tình báo Trung ương và của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn gửi về. Là người đẹp, được tin dùng, luôn sát cánh bên cạnh sĩ quan CIA, nên Thảo lấy tài liệu ra khỏi văn phòng một cách khá dễ dàng. Cô nói với Tư Cang: “Ai làm việc xong ra về cũng bị xét cặp, lục giỏ xách, riêng em được miễn. Quen mặt rồi. Lính Mỹ gác cửa thấy em chỉ cười và khoát tay cho đi”.
Tư Cang đáp, đúng thôi, phụ nữ đẹp hoạt động tình báo luôn có ưu thế hơn người nam ở điểm đó. Nhưng không nên vì thế mà coi thường tình báo Mỹ được. Hãy nhớ rằng CIA vẫn theo dõi những nữ nhân viên người Việt đang thường ngày sát cạnh các sĩ quan của họ, như Thảo chẳng hạn. Tư Cang đã nhắc nhở Thảo điều rất quan trọng ấy.
Quả vậy, một hôm Thảo đang làm việc, bỗng có hai viên chức CIA Mỹ mặc thường phục đột nhiên vào phòng. Họ đưa giấy, mời cả viên thiếu tá tình báo lẫn Thảo ra ngoài, yêu cầu lên xe, phóng về căn biệt thự có cây xanh bọc quanh ở Chợ Lớn, rồi áp tải Thảo vào phòng thẩm vấn đặc biệt.
Đó là lần đầu tiên nữ tình báo viên Nguyễn Thị Yến Thảo phải đối mặt với một nhân viên hỏi cung người Mỹ cứ chằm chằm nhìn thẳng vào mặt mình với đôi mắt xanh lè…

Những bí mật trước giờ G – Kỳ 5

Thẩm vấn bằng “máy đo sự thật”


Phạm Xuân Ẩn (Hai Trung) cán bộ tình báo Cụm H.63 - Ảnh: T.C
Đơn độc bước vào phòng thẩm vấn của CIA, Thảo thấy một chiếc máy hình chữ nhật màu đen nhánh, to bằng cái ti vi 24 inches ngày nay, đặt sẵn giữa phòng.
Đây là căn phòng bít bùng với hệ thống đèn néon dường như chiếu sáng suốt ngày, soi rõ những chùm dây điện chằng chịt túa ra từ ruột “chiếc máy bí ẩn”. Trước máy đặt chiếc ghế vừa đủ một người ngồi, bên dưới trải tấm thảm màu đỏ. Thảo bị buộc phải duỗi thẳng hai chân lên thảm ấy, ngồi vào ghế và để hai tay lên thành ghế, mắt nhìn thẳng tới trước, không động đậy. Cô cũng được nhắc đi nhắc lại rằng không được liếc nhìn qua hai bên. Song, với kinh nghiệm của một cán bộ tình báo lâu năm, Thảo vẫn liếc rất nhanh tờ giấy để gần mình và biết trong đó ghi sẵn một loạt câu hỏi.
Một nhân viên CIA đến gần Thảo nói bằng tiếng Anh, rằng cô hãy đưa cánh tay phải cho hắn ta. Khi Thảo đưa tay ra, hắn ta rút từ chiếc máy bí ẩn một vật hình tròn nhỏ như miệng ly uống nước, từa tựa như đồng hồ đo huyết áp, với những sợi dây điện đủ màu. Tiếp đó từ từ từng chút một, hắn gắn lần lượt gắn 5 cái chụp bằng nhựa đỏ vào 5 đầu ngón tay của Thảo. Trước khi găm điện để máy hoạt động, nhân viên thẩm vấn CIA đến bên Thảo nói từng tiếng một, đại ý để Thảo biết rằng, cô đang ngồi trước chiếc máy tối tân của ngành tình báo Mỹ, là “máy đo sự thật”. Trong lúc nói, nhân viên này cố ý gằn giọng, dọa trước: “Cô phải nói đúng sự thật. Vì cô đang ngồi trước “máy đo sự thật”. Hãy nhớ là phải trả lời từng câu một bằng tiếng Việt và câu trả lời chỉ ngắn gọn hai tiếng: “có” hoặc “không”, chứ không được dài dòng”.
Tuy bị đe dọa như vậy, song mấy phút đầu của cuộc thẩm vấn, bằng bản lĩnh vốn có, Thảo đã bình tĩnh kéo dài thời gian để nghĩ ra cách đối phó với CIA sao cho không lộ tông tích của mình và của cụm tình báo H63. Thảo làm như không nghe rõ lời dặn trên, nên cứ trả lời bằng tiếng Anh và thêm vào đó một loạt giải thích khác nữa. Nóng ruột, tên nhân viên hỏi cung người Mỹ bực tức cắt ngang, gằn giọng: “Tôi đã nói với cô rồi. Bây giờ tôi buộc lòng phải nhắc một lần nữa. Rằng từ đây trở đi cô chỉ trả lời bằng tiếng Việt và câu dài nhất của cô không được quá ba chữ”.
Câu hỏi thứ nhất:
- Cô là người Nam hay người Bắc? – Đáp: Bắc.
- Lâu nay cô có về thăm quê không? – Không.
- Cô có sợ Việt Cộng không? – Có.
- Cô có mấy anh chị em? – Ba chị em.
- Anh của cô hiện có làm gì ngoài Bắc? – Không.
- Cô có người em trai đi học ngoài Bắc phải không? – Không…
Nghỉ một lát, nhân viên CIA bảo Thảo đưa tay trái ra. Và nhân viên hỏi cung của Mỹ lại chụp lên 5 đầu ngón tay (bên cánh tay trái) 5 cái mũ bằng nhựa màu đỏ, găm điện và cho máy khởi động lại. Song khác với lần trước một chút, lần này CIA Mỹ đảo lộn các câu hỏi không theo thứ tự cũ, để vặn vẹo, hỏi tới hỏi lui mấy chục lần những câu trên. Thảo biết mục đích của CIA là nhằm làm cho người bị hỏi cung phải chịu áp lực tâm lý, hoặc nói ra sự thật, hoặc nói lung tung, câu đầu mâu thuẫn với câu sau. Song, Thảo vẫn đáp rành rọt từng câu hỏi một. Kết quả, lần trả lời thẩm vấn bằng “cánh tay trái”, với lần thẩm vấn bằng “cánh tay mặt” đều khớp với nhau và CIA không moi được điều gì mới hơn.
Cứ thế cuộc thẩm vấn bằng “máy đo sự thật” kéo dài hơn 3 tiếng đồng hồ và dừng lại khi hai nhân viên hỏi cung của CIA mồ hôi toát ra, thấm rõ trên áo. Thảo hỏi ngược lại đại ý người Mỹ các ông muốn tra vấn thêm gì nữa không? Im lặng không trả lời, hai nhân viên CIA mời Thảo đứng lên bước ra phòng khách của biệt thự. Ở đó, viên thiếu tá Mỹ cố vấn tình báo của Bộ tư lệnh Hải quân Sài Gòn đã ngồi chờ sẵn. Anh ta mời Yến Thảo lên chiếc xe riêng của mình đậu ngoài sân để tự lái đưa Thảo về nhà của cô gần dinh Độc Lập.
Vượt qua một cuộc đấu trí quyết liệt nhiều giờ với CIA lẽ ra Thảo phải vui mừng, nhưng ngược lại cô đã khóc nức nở trước mặt viên thiếu tá tình báo Mỹ ở văn phòng Bộ tư lệnh Hải quân vào ngày hôm sau. Thấy những giọt nước mắt đàn bà rơi xuống, trái tim của viên thiếu tá dường như mềm đi, anh ta bước về phía Thảo an ủi và giải thích ra sao về “sự việc đáng tiếc” ở ngôi biệt thự chiều ấy.
Trước khi ghi lại lời giải thích trên, cũng cần nói thêm, nữ cán bộ tình báo Yến Thảo thoát khỏi cuộc thẩm vấn bằng “máy đo sự thật” của Mỹ trước hết là nhờ vào những tin tức kịp thời do Hai Trung (Phạm Xuân Ẩn) cung cấp. Sự việc thế này: cách đó vài tháng, theo yêu cầu của chỉ huy trưởng cụm tình báo H63 là Tư Cang, Hai Trung đã đến khách sạn Continental bên Nhà hát lớn Sài Gòn để dự bữa tiệc “mừng sinh nhật”. Ở đó Hai Trung đã đem đến một “món quà” đặc biệt, gồm những tin tức mới nhất thu thập từ các nhân viên tình báo CIA mà ông đã tiếp cận. Điều lưu ý nhất trong các tin tức do Hai Trung báo cáo với Tư Cang là: CIA Mỹ vừa đưa qua Sài Gòn một loại máy, gọi là máy “khai thác sự thật”. Máy này, theo thông tin kỹ thuật kèm theo, sẽ đo được mức độ nói thật hay nói dối của người bị tra hỏi.
Thật như thế không? Máy ấy hình dạng thế nào? Đã ứng dụng thử chưa? Các câu hỏi trên do Tư Cang nêu ra và vài ngày sau Hai Trung đáp ứng bằng cách chuyển đến những câu trả lời rõ ràng. Không chậm trễ, Tư Cang vừa viết một báo cáo kỹ thuật gửi B2, vừa liên lạc với cán bộ tình báo trong cụm H63 để thông báo trước cho tất cả được biết về máy đo sự thật mà mai đây họ có thể phải đối mặt với nội dung tóm tắt sau: “Đừng sợ gì cả. Không một loại máy móc nào, dù tối tân đến đâu, lại biết thấu tim đen rằng một con người đang nói thật hay nói dối. Chẳng qua là một trò hù dọa, dùng máy để đo thần kinh tim của người mà chúng đang điều tra… Để chứng minh, tôi kể lại câu chuyện mới nhất làm bằng chứng, gần đây quận trưởng Trảng Bàng bị gọi điện về Sài Gòn để cho cái “máy đo sự thật” làm việc. Trước các quan chức Mỹ và cấp trên, viên quận trưởng này lúng túng tái mặt, mất tinh thần, run quá nên cái máy cứ cho là nói dối mặc dù quận trưởng này không có liên hệ gì với cách mạng và nhất là chống Cộng rất quyết liệt“.
Một sự thật khác không cần đến máy đo vẫn thấy rõ, do Giám đốc Cục Tình báo trung ương Mỹ CIA là W.Colby nói ra, là đã có tình báo Cộng sản len lỏi vào các cơ quan cao cấp ở Sài Gòn, nếu không thì tại sao những chi tiết lợi hại, cũng như những tài liệu bảo mật liên quan đến an ninh của các căn cứ như Bộ tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng tham mưu, Tổng nha cảnh sát, Biệt khu thủ đô, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài phát thanh, và nhất là Tòa đại sứ Mỹ và dinh Độc Lập đều bị tiết lộ? Ngoài những thu thập thông tin từ Thảo, đã có những tài liệu quan trọng nào từ nguồn Hai Trung cũng như từ các cán bộ H63 đưa về phòng tình báo B2 trong thời điểm CIA đặt câu hỏi trên?

Những bí mật trước giờ G – Kỳ 6


Lấy bản khai của kẻ phản bội

CIA hoạt động khá ráo riết vào những thời điểm gay cấn nhất. Như hồi Tết Mậu Thân 1968, tướng Davidson – sĩ quan tình báo đặc biệt của MACV trình với Tư lệnh lực lượng quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam là tướng Westmoreland: “Rất có thể 40% đến 60% quân cộng sản sẽ mở đợt tấn công lớn sau Tết” (nhưng tổng tấn công rơi vào ngay Tết).
Tướng Westmoreland cấp tốc phúc trình với Bộ Quốc phòng Mỹ. Nhưng ở Sài Gòn, Thiệu và tướng Cao Văn Viên không để tâm đúng mức đến tin tình báo, nên vẫn điềm nhiên ăn Tết và cho dân chúng đốt pháo khắp đô thành. Đến giao thừa, khi tiếng súng quân cách mạng vang lên đồng loạt trên toàn miền, lúc ấy Thiệu đang còn ở quê vợ Mỹ Tho, còn tướng Westmoreland sửng sốt ngồi bật dậy khi hay tin “cộng sản đã tràn ngập lãnh thổ”. Rõ ràng theo Westmoreland, những cố gắng của CIA và Bộ chỉ huy MACV bị chính quyền Thiệu xem nhẹ và Sài Gòn vốn là mục tiêu quan trọng nhất trong đợt tổng tấn công đã thực sự là trung tâm “địa chấn” rung chuyển nước Mỹ và dư luận thế giới, với 9 căn cứ quan trọng như Tòa đại sứ Mỹ bị đột phá trong đợt 1.
Qua đợt 2, lúc cụm tình báo H63 đang chuẩn bị những báo cáo cuối cùng để Bộ Tư lệnh B2 tham khảo trước khi nổ súng, thì sự cố xảy ra: thượng tá Tám Hà ra đầu hàng quân Sài Gòn và khai báo “hết ráo”. Phòng tình báo B2 lập tức chỉ thị Tư Cang và cụm H63 phải bằng mọi cách lấy cho được bản khai (khẩu cung) chính thức của thượng tá Hà. Vì lúc ấy Hà đang nắm kế hoạch tác chiến của cuộc tổng tấn công đợt 2 sắp diễn ra, cả nhiều chi tiết chuẩn bị của quân giải phóng về quân số, đạn dược, lương thực. Nhận chỉ thị, sáng 23.4.1968, khi đang uống cà phê ở ngoại ô Sài Gòn, Tư Cang càng thêm sốt ruột khi đọc trên trang nhất của hầu hết các tờ nhật báo phát hành hôm đó đăng tin “thượng tá Tám Hà rời hàng ngũ Việt Cộng” kèm tấm ảnh lớn chụp Tám Hà đứng giữa, Tư lệnh quân đội viễn chinh Mỹ ở Việt Nam là tướng Westmoreland và Tư lệnh sư đoàn 5 bộ binh của quân đội Sài Gòn là Phạm Quốc Thuần, đứng hai bên Hà. Cầm tờ báo trên tay, Tư Cang phóng lên chiếc xe lam đầy khách vừa trờ tới, để về ngã tư Hàng Xanh, nhảy lên chiếc Honda ôm về hướng đường Hùng Vương. Chạy nửa chừng, để cảnh giác, ông bảo xe ngừng lại, trả tiền và nói đau lưng quá rồi ngoắc chiếc taxi sà vào lề, bảo đến đường Võ Tánh để tìm Hai Trung (Phạm Xuân Ẩn). Vì Tư Cang biết, lấy được bản cung khai của thượng tá Tám Hà trước CIA Mỹ và tình báo quân đội Sài Gòn, duy có Hai Trung mới lo được. Gặp Hai Trung, Tư Cang truyền đạt chỉ thị cấp trên, nghe xong Hai Trung vội đưa Tư Cang ra chiếc xe hơi riêng của mình phóng ngay đến tiểu khu Gia Định. Bởi Hai Trung biết viên trung tá chỉ huy tiểu khu Gia Định đã cùng CIA trực tiếp thẩm vấn thượng tá Tám Hà. Vậy nhất định viên trung tá cũng giữ một bản khai. Song, chưa cần gặp thẳng ông ta, mà chỉ cần móc anh hạ sĩ quan phụ trách giữ hồ sơ của ông ta ra hỏi nhỏ. Anh này không khỏi ngập ngừng một lát, rồi nói với Hai Trung: “Thôi được, các ông đợi tui cạnh lăng Ông Lê Văn Duyệt, tui lấy đem ra cho”. Khoảng 15 phút sau, anh ta bước ra, giao Hai Trung toàn văn bản khai mật của Tám Hà và dặn đi dặn lại: “Dùng xong anh nhớ trả lại tôi trước 2 giờ chiều nay cũng ở nơi này nha. Anh vui lòng đúng hẹn để lỡ chiều vào làm việc, ông trung tá tiểu khu trưởng muốn dùng lại tài liệu mà không có để đưa cho ông ta thì chết tôi!”.
Lúc ấy khoảng 10 giờ sáng. Từ đó đến 2 giờ chiều thừa sức trả lại. Theo Tư Cang, anh trung sĩ này không phải là cơ sở cách mạng, nhưng đã dám trao tài liệu mật cho Hai Trung cũng do trước đó Hai Trung xử sự rất tử tế. Khi vợ anh ta sinh đẻ gặp túng thiếu, Hai Trung đến tận nhà thương để thăm, vừa an ủi, vừa nhét vào túi anh ta một số tiền lớn để lo thuốc men cho vợ. Phần nữa, anh ta biết Hai Trung là nhà báo quen biết hầu hết với các viên chức cao cấp, các tướng tá có máu mặt ở Sài Gòn, giao du với rất nhiều người Mỹ, nên anh không ngại gì. Trước đó, Hai Trung mượn anh ta tài liệu gì để viết báo, đều trả đúng hẹn. Nên lần này cũng vậy, anh ta rất tin Hai Trung nên giao bản khai của Tám Hà vốn là tài liệu quan trọng. Lấy tài liệu xong, Hai Trung lái xe đưa Tư Cang đến đường Nguyễn Du, vòng qua đường Gia Long cũ, đến trước nhà Tám Thảo, dặn: “Anh Tư à, 2 giờ thiếu 10 chiều nay tôi sẽ đến đây để đón anh, đem tài liệu trả như đã hứa”. Tư Cang nói: “Chứ sao nữa, tôi sẽ giao tài liệu cho anh trước 2 giờ, đến tối mình sẽ gặp nhau ở nhà hàng Givral lúc 9 giờ để trao đổi, sau đó vào sáng mai tôi sẽ tổng hợp gửi về Phòng tình báo B2”.
Nói xong, Tư Cang đi nhanh vào nhà Thảo, còn Hai Trung lẳng lặng phóng xe đi. Vào nhà, Tư Cang biết Thảo đã đi làm, ông đi thẳng lên lầu, lấy hai khẩu súng ngắn K54 ra lau và để sẵn hai bên để đề phòng bất trắc. Tiếp đó ông nhấc mấy cây vải cuộn tròn, bỏ qua một bên, dời hết đồ đạc tuế nhuyễn linh tinh vốn dùng ngụy trang, thọc tay xuống dưới lấy ra một chiếc máy chụp ảnh chuyên dụng, gắn linh kiện kèm theo, bắt đầu chụp tài liệu. Đó là bản cung khai của thượng tá Tám Hà được ghi lại tỉ mỉ qua 5 trang đánh máy dày đặc. Ông chụp hai lần để phòng trắc trở. Nội dung lời khai của Tám Hà với CIA và tình báo quân sự mật Sài Gòn khá nguy hiểm. Các chi tiết từ quân số, vị trí bố phòng, tâm lý của chiến sĩ cách mạng dưới quyền, cho đến đội hình các đơn vị tham gia mặt trận của cuộc tổng tấn công đợt 2 sắp đến Tám Hà khai tuốt. Đặc biệt, Tám Hà khai sắp tới trước khi mở màn đợt 2 cuộc tổng tấn công vào Sài Gòn (giữa năm 1968) sẽ có đại pháo, hỏa tiễn, với mấy ngàn trái sẽ bắn nát sân bay Tân Sơn Nhất. Số hỏa tiễn và đại pháo dùng cho trận đánh đó hiện đang được chôn giấu trên các cánh đồng ở Bình Mỹ, phía bắc Hóc Môn…
Khai hết những bí mật như thế cho CIA và đặc báo Sài Gòn thật quá sức nguy hại, nên Tư Cang quyết định chuyển ngay bản khẩu cung của Tám Hà mà H63 vừa nắm được, không cần chép lại, cứ để nguyên bản bằng phim chụp tài liệu, gửi hỏa tốc đến Phòng tình báo B2

 7

Dấu hỏi về những kế hoạch bị tiết lộ


Trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, quân Giải phóng đã đánh chiếm tòa Đại sứ Mỹ làm cho cả thế giới phải kinh ngạc. Sau đó Sài Gòn đã tăng cường phòng thủ rất nghiêm ngặt nhưng quân Giải phóng lại từ mọi phía tiến đánh Sài Gòn đợt 2 - Ảnh do ISIKAWA Bundo chụp tại Chợ Lớn

Sau ngày Tám Hà khai báo, CIA và quân đội Sài Gòn dự đoán được khoảng thời gian tấn công đợt 2, đã dùng phi cơ chiến lược B52 ném bom rải thảm vùng ven Sài Gòn, nhằm “tạo vòng đai lửa bảo vệ thủ đô và chặn đứng Cộng sản”. Các địa điểm chôn giấu, dự trữ đạn pháo do Tám Hà tiết lộ, liên tục nhiều đêm bị máy bay Mỹ quần đảo ném bom, phối hợp với pháo lớn của quân đội Sài Gòn bắn nã vào, khiến vùng Bắc Hóc Môn bị băm vằm, tan nát.
Tiếng bom vùng ven còn đang nổ, Phòng tình báo B2 yêu cầu cụm H63 nắm tình hình mới nhất ở nội thành, chú ý phản ánh tâm lý của chính khách và binh lính Mỹ, kèm theo đề xuất của chính H63: đánh hay không nên đánh đợt 2 vào Sài Gòn? Lúc ấy đã cuối tháng 4, mà theo dự kiến tháng 5 sẽ nổ súng, thời hạn gần kề, thúc bách, nên Tư Cang vừa nhận chỉ thị xong, lập tức phóng honda đến nhà Hoàng Nam Sơn, thường gọi “anh Tám”, cũng là một cán bộ tình báo cụm H63 ở 113 đường Cô Bắc. Anh Tám là người quản lý khách sạn Embassy nơi có nhiều chính khách, sĩ quan Mỹ và các nước lui tới. Tư Cang nói anh Tám hãy tiếp cận, gợi chuyện các “thực khách đặc biệt” của khách sạn Embassy để thâu thập thêm một số tin tức mới nữa: “Việc gấp quá nên sáng mai mình sẽ gặp nhau lại ở nhà hàng Victory lúc 6 giờ 45 để gút”. Bằng kinh nghiệm nghiệp vụ, anh Tám bắt tay vào việc rất nhanh….
Ngay hôm sau, anh Tám đã chuyển các nội dung Tư Cang yêu cầu đến Victory – rất đúng hẹn. Khoảng 9 giờ, ở một căn phòng trên cư xá Việt Nam Thương Tín, Tư Cang viết bản báo cáo quan trọng, đúc kết từ nguồn tài liệu mới nhất do các cán bộ H63 cung cấp, đặc biệt của Hai Trung (qua cuộc tiếp xúc với một nhân viên cao cấp của CIA Mỹ phụ trách vùng Đông Nam Á và một đại tá trong Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn), của anh Tám và Yến Thảo vừa khai thác, đại ý: “Người Mỹ ở Sài Gòn đang bàn tán về tác động của trận tổng tấn công hồi Tết của ta và ta thán về những thiệt hại nặng nề ở mặt trận Khe Sanh. Họ cho rằng Tổng thống Johnson bị sức ép quá lớn của “phái bồ câu” trong hai viện của Quốc hội và phản ứng chống chiến tranh của dân chúng Mỹ khi xem hình ảnh người lính Mỹ cam khổ, bị thương, chết chóc, được chiếu trên màn ảnh vô tuyến truyền hình và in lên mặt báo, nên Johnson phải tuyên bố thôi không ra tranh cử tổng thống vào cuối năm nữa, để dồn sức giải quyết vấn đề Việt Nam.
Theo đó, Johnson muốn chuyển việc gánh vác cuộc chiến trực tiếp sang vai người Việt Nam để thay cho người Mỹ. Phóng viên bình luận chính trị người Pháp của tuần báo Express nhận định: đó là một trong những dấu hiệu đầu tiên cho thấy chiều hướng chấm dứt sự tham gia của Mỹ tại Việt Nam. Về ngoại giao, họ cũng bàn tán một sự kiện mới vừa hé mở, đó là đầu tháng 4, Johnson có chỉ thị mật cho Sullivan, Đại sứ Mỹ tại Lào, tìm cách nào đó để tiếp xúc với người đại diện chánh quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa mong tìm giải pháp ra khỏi “đường hầm không lối thoát”.
Còn các viên chức và sĩ quan của những nước đồng minh với Mỹ đang hoạt động ở Sài Gòn như Nam Triều Tiên, Thái Lan, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc thì cho biết tâm trạng của họ là mong mỏi hòa bình, không muốn duy trì quân đội và các hoạt động quân sự của mình quá lâu tại Nam Việt Nam. Theo nguồn tin từ các chính khách Mỹ đang có mặt tại Sài Gòn, thì trong tình thế đó, Johnson cùng các bộ trưởng quốc phòng, bộ trưởng ngoại giao của Chính phủ Mỹ đang rất lo ngại lại phải đối mặt với các trận tấn công nữa của quân giải phóng vào Sài Gòn và các trung tâm dân cư khác sắp tới.
Vì như thế sẽ làm tăng thêm tâm lý chán chường, phản đối chiến tranh trong lòng nước Mỹ. Tin mới nhất từ dinh Độc Lập cho biết, dầu không thích gì mấy chủ trương “xuống thang” trên của tổng thống Mỹ, song chính quyền Thiệu cũng không muốn phải ứng phó với những trận đánh mới trước mặt. Do vậy, việc cho đăng tải công khai trên mặt báo, tin Tám Hà ra đầu hàng, rêu rao trên đài phát thanh rằng: “Việt Cộng sẽ tấn công vào Sài Gòn” là có ngụ ý muốn nhắn với Mặt trận giải phóng miền Nam là: “Chúng ta (tức Sài Gòn) đã biết rõ kế hoạch tấn công sắp đến của các người rồi, thôi đừng đánh nữa, sẽ không hay”!.
Điều mâu thuẫn là, hiện giới quân sự hiếu chiến của Mỹ và Sài Gòn lại làm khác, ở chỗ thừa dịp những đơn vị lớn của ta đổ quân vào đô thị, tràn xuống đồng bằng, đầm lầy trống trải, đã ra sức dùng máy bay rải bom, dùng pháo binh, cơ giới càn quét đánh phá dữ tợn hơn, mưu chiếm lại các vùng nông thôn ta đã làm chủ từ lâu, hòng đẩy lực lượng ta lên vùng rừng núi và biên giới. Qua tình hình trên, H63 đề xuất ý kiến là nếu đã chuẩn bị tốt thì vẫn cứ đánh thêm một trận nữa vào Sài Gòn”.
Và đợt 2 của cuộc tổng tiến công 1968 đã mở màn khuya 5.5, lần này chiến sự đồng loạt nổ quanh Sài Gòn. Thiệu đã điều các tiểu đoàn biệt động quân số 33, 35, 38 với xe tăng và máy bay yểm trợ đến mặt trận trên ứng chiến, hai bên quần nhau suốt cả tuần, máy bay Sài Gòn bắn sụp một số nhà cửa vùng Phú Thọ và trên nhiều đường như Minh Phụng, đường 46. Ở ngã tư Bảy Hiền, vùng cầu chữ Y, lò heo Chánh Hưng và vòng ngoài quận 4, cũng như vùng An Phú Đông, Tân Thới Hiệp phía Tây Bắc Sài Gòn đều bị tấn công…
Một lần nữa, các phóng viên chiến trường của các hãng thông tấn trên thế giới lại xông xáo ghi hình, đưa tin và phơi bày trên các phương tiện truyền thông những hình ảnh máu lửa của cuộc chiến trên đường phố Sài Gòn, tác động mạnh đến phong trào phản chiến của dân chúng Mỹ. Lúc này chính khách và phóng viên nước ngoài lại càng lui tới đông đúc thường xuyên hơn tại khách sạn Embassy do anh Tám quản lý, họ mang theo những tin tức nóng bỏng, những lời bàn tán về chiến cuộc, về tình hình chính trị, ngoại giao vừa xảy ra. Đó cũng là dịp khai thác và thu thập nguồn tin tình báo của cụm H63. Nhất là vào tháng 10 năm ấy, phái đoàn Việt Nam tại Hội nghị Paris tuyên bố có thể đồng ý cho đại diện chính quyền Sài Gòn đến dự Hội nghị Paris nếu Mỹ đáp ứng các điều kiện kèm theo…
Những hoạt động bí mật như thế căng thẳng và kéo dài không ngớt những năm sau đó, với các sự kiện nổi cộm như cuộc hành quân Lam Sơn 719 của quân Sài Gòn đánh sang Lào nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh đã bị thất bại thảm hại, đánh một dấu hỏi lớn và đáng sợ rằng: Vì sao kế hoạch hành quân bị tiết lộ? Đã có điệp viên của Hà Nội cài đâu đó trong các cơ quan cao nhất của Mỹ và Sài Gòn? Bằng chứng là “bất kỳ nơi nào quân lính Nam Việt Nam tấn công đều thấy quân đội Bắc Việt dường như đã ém ở đó từ lâu để sẵn sàng đón đánh” như lời của cố vấn Tổng thống Thiệu là TS Nguyễn Tiến Hưng (và Jerrold L.Schecter) đã nhìn lại và kêu lên sau cuộc chiến.

8

“Phạm Xuân Ẩn vẫn cười, vẫn nói, vẫn ung dung”

Điệp viên Phạm Xuân Ẩn giữa các tùy viên quân sự Mỹ - Ảnh tư liệu
Sài Gòn trở nên sôi động sau Tết Mậu Thân 1968 với tin “trùm tình báo Cộng sản” cài ở dinh Độc Lập đóng vai trò cố vấn cho Tổng thống Thiệu bị CIA phát giác, bắt giam, tra tấn và đưa ra xét xử với án chung thân – đó là Vũ Ngọc Nhạ (cụm tình báo chiến lược A22).
Lạ một điều, sau ngày ông Nhạ và các cộng sự bị đày ra Côn Đảo, việc rò rỉ thông tin tình báo ở dinh Độc Lập lẽ ra bị dập tắt, nhưng ngược lại, những tường trình có tầm vóc chiến lược vẫn bị tiết lộ ra ngoài. Biết điều ấy, Thiệu ức lắm, cho rằng CIA vu oan cố vấn đặc biệt của mình (Vũ Ngọc Nhạ) nhằm cô lập Thiệu, nên Thiệu tìm cách đưa Vũ Ngọc Nhạ về lại đất liền khoảng 3 năm sau đó, vô tình phục hồi hoạt động tình báo chiến lược của cụm A22.
Khi Vũ Ngọc Nhạ bị bắt khỏi dinh Độc Lập, Thiệu (cũng như CIA) không ngờ bên cạnh họ vẫn còn một điệp viên cộng sản khác. Đó là Hai Trung – Phạm Xuân Ẩn. Chính Hai Trung là người đã giúp Thiệu các thủ tục để Thiệu đến Mỹ lần đầu, học khóa tham mưu sĩ quan tại Leavenworth. Và theo Tư Cang, muốn hiểu vì sao Thiệu không e dè khi để Hai Trung tham dự những cuộc họp quan trọng ở dinh, thì cũng nên biết qua những nét chính trong đời “điệp viên hoàn hảo” này.
Hai Trung sinh năm 1927, quê gốc Biên Hòa – Đồng Nai, tham gia phong trào Trần Văn Ơn tại Sài Gòn năm 1950, được Phạm Ngọc Thạch trực tiếp giao nhiệm vụ hoạt động tình báo chiến lược từ 1952, trở thành đảng viên cộng sản, đi lính Pháp, công tác ở Phái bộ Huấn luyện Quân sự Mỹ từ 1955, sang Mỹ học đại học 1957 và về Việt Nam làm việc cho Việt Tấn Xã từ 1960, cho Reuters từ 1960 – 1964, là cây bút có uy tín của tuần báo Times (1965 – 1976). Hai Trung còn viết trên nhật báo The New York Herald Tribune, với thẻ hành nghề do Giám đốc Nha Thông tin – Báo chí Sài Gòn lúc bấy giờ là Nguyễn Văn Huấn cấp, ghi rõ: “Trân trọng yêu cầu các giới hữu quyền hành chánh và quân sự dành mọi sự dễ dàng cho đương sự trong lúc thừa hành phận sự nhà báo”.
Một thẻ khác do Tổng cục Chiến tranh chính trị Việt Nam Cộng hòa cấp, cho phép “Làm phóng sự về công cuộc huấn luyện các hoạt động cũng như theo dõi các cuộc hành quân của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và thăm viếng các phi trường quân sự tại Việt Nam”, do Tổng cục trưởng là thiếu tướng Trần Văn Ẩn ký. Với một số giấy tờ tương tự, Hai Trung đã ra vào các cơ quan quản lý hoạt động hành chánh, kinh tế và quân sự của chính quyền Sài Gòn một cách dễ dàng, thậm chí được các sĩ quan cấp tá của Mỹ mời lên trực thăng quân sự đi quan sát các vùng chiến thuật. Ông còn là một nhà báo đặc cách, được xếp ngang hàng các chuyên viên và được mời vào Phủ tổng thống (dinh Độc Lập) dự các cuộc họp quan chức Việt – Mỹ, được đọc các tài liệu mật để tham khảo và góp ý cho đường lối chiến lược của chính quyền Sài Gòn!
Về phía Mỹ, ông thân cận nhiều nhân vật cấp cao của chi nhánh CIA ở Đông Nam Á và Việt Nam. Ban đầu là các tham mưu của Edward G.Lansdale, nắm nhiều nguồn tin quan trọng về các chiến dịch càn quét Việt Cộng do Lansdale quyết định. Trong suốt 23 năm (tính đến 1975), Hai Trung đã thâm nhập sâu vào các cơ quan đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn để lấy những tài liệu tối mật và đã “cung cấp kịp thời nhiều tài liệu bằng nguyên bản có giá trị lớn” (như hồ sơ tuyên dương anh hùng của ông ghi rõ). Chẳng hạn, những báo cáo về mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Sài Gòn, những ý đồ quân sự và bình định qua các đời tổng thống Mỹ, những bước đi trong chủ trương “Việt Nam hóa chiến tranh” thời Nixon. Trong đó có cả những hồ sơ liên quan đến kế hoạch cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, thể hiện bằng cuộc hành quân Lam Sơn 719 vào đầu 1971.
Chúng ta thử xem xét hiệu quả thực tế trên chiến trường đưa đến từ sự kết hợp chiến thuật quân sự của Hà Nội với tài liệu tình báo gửi từ Sài Gòn ra, qua ghi nhận dưới đây:
Từ mồng 3 Tết Tân Hợi, nhằm 30.1.1971, lực lượng Mỹ ở phía Nam sông Bến Hải lặng lẽ triển khai, tạo một bàn đạp vững chắc phóng sang Lào. Suốt 7 ngày sau đó, những vị trí chiến thuật then chốt ở Quảng Trị nhanh chóng được chiếm lĩnh để ba cánh quân Sài Gòn gồm bộ binh, lính nhảy dù và thiết giáp sẵn sàng vượt biên giới. Thiệu đã tung vào cuộc 2 sư đoàn tinh nhuệ nhất của “quân lực Việt Nam Cộng hòa” trong đó có sư đoàn thủy quân lục chiến… Nhưng ngót nửa tháng, đội quân ấy vẫn mắc kẹt trên đường, số tử thương tăng lên từng ngày, việc tải xác chết khỏi mặt trận không làm xuể và “ma sự” bắt dầu ám ảnh mạnh đến tinh thần binh lính. Qua ngày thứ 15, thời hạn chiếm Tchépone như dự định “tuyệt vời trên giấy” vụt qua. Cựu tư lệnh Mỹ ở Sài Gòn, tướng Westmoreland được Kissinger tham vấn ngay về tình hình chiến trận khi đó, đã nhận định ít nhất phải có 4 sư đoàn Mỹ mới tiến chiếm và giữ được Tchépone, chứ 2 sư đoàn Sài Gòn dù là “tinh nhuệ nhất” vẫn chịu chết… Cố vấn tổng thống Thiệu là TS Nguyễn Tiến Hưng đúc kết: Chiến dịch kết thúc sau 44 ngày với con số thương vong cao: 8.000 người, là một yếu tố làm suy nhược ý chí chiến đấu của Nam Việt Nam”.
Nguyễn Tiến Hưng còn viết, người ta đưa ông Thiệu xem bức ảnh đăng trên các tạp chí Mỹ chụp cảnh một người lính Sài Gòn bám đuôi chiếc trực thăng cứu nạn của Mỹ để “cố chạy sao cho thoát khỏi chảo lửa của mặt trận Tchépone, giống như một con thỏ chết nhát”. Bức ảnh chú thích bên dưới: “Một con thỏ!”. Xem ảnh Thiệu tức lắm, nhưng cố làm ra vẻ bình tĩnh, cười gằn, bảo ông ta xem thường điều mỉa mai đó, vì sự thật không phải binh lính Sài Gòn là “những con thỏ”, mà “chính các phi công trực thăng người Mỹ đã sợ lưới đạn của Cộng sản vây bủa trên đường đến Tchépone, nên đã sợ hãi dạt ra xa và bay mất!”.
Những báo cáo khác của Hai Trung đã giúp ích rất nhiều cho quyết định của B2 và Hà Nội vào các giai đoạn quyết liệt dẫn đến sự kiện lịch sử 30.4.1975. Cuối tháng 9.2006, khi Hai Trung qua đời tại TP.HCM, Tư Cang đã đến Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng thắp hương vĩnh biệt và ghi trong sổ: “Bị ốm nặng không đi lại được, anh thường dùng điện thoại chuyện trò tâm sự với tôi. Có lần anh nói vui: chắc lá số tử vi của anh và tôi tốt lắm, cao số lắm, nên tình báo CIA và đặc ủy Sài Gòn mới không phát hiện được hai đứa mình, chớ tụi mình có giỏi hơn anh em đâu? Nay anh ra đi, là bạn chí thân sống chết bên nhau trong thời chiến tranh chống Mỹ giữa Sài Gòn, tôi làm mấy câu thơ tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng: Những lúc hiểm nguy căng sợi tóc/Vẫn cười, vẫn nói, vẫn ung dung…”.

9
Bí quyết của một điệp viên chiến lược

Tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ

Là người được Thủ tướng Phạm Văn Đồng trực tiếp giao nhiệm vụ từ năm 1954, tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ vào Nam xâm nhập dinh Độc Lập – nơi tập trung quyền lực cao nhất của chính quyền Sài Gòn – trở thành “người nhà” của tổng thống Diệm, rồi “cố vấn tổng thống Thiệu”.
Ở những vị trí thuận lợi nhưng khá nguy hiểm đó, tướng Nhạ đã thu thập và phúc trình về Hà Nội những tài liệu chiến lược, bao gồm nhiều điều cơ mật mà ngay các bộ trưởng Sài Gòn cũng không được biết tới. Sau này dù ông bị CIA trưng bằng cớ “hoạt động tình báo cho cộng sản” và đày ra Côn Đảo (cùng hai người khác là Huỳnh Văn Trọng và Nguyễn Xuân Hòe), song Thiệu vẫn giữ tình cảm đặc biệt với “ông cố vấn” và cho người bắn tin vào nhà giam (sau Hiệp định Paris 1973) để hỏi “ông cố vấn” là nếu được trả tự do ông sẽ chọn về đâu?
Ông Nhạ trả lời muốn về Paris, Roma, hoặc Lộc Ninh. Và chiều 23.7.1973, ông được đưa lên chuyến máy bay hạ cánh xuống vùng giải phóng Lộc Ninh để trao trả cho chính phủ cách mạng. Nhưng không lâu sau, đầu năm 1974, ông xâm nhập trở lại Củ Chi, nối kết đường dây giao thông với nội thành, ăn ở bí mật tại Sài Gòn để tiếp tục hoạt động tình báo. Một cách nhanh chóng, ông đã bắt liên lạc với nhiều vị có uy tín trong giới trí thức và các viên chức cao cấp, cũng như các nhà lãnh đạo tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa giáo đương thời, để chuẩn bị nhân sự thành lập lực lượng thứ ba theo yêu cầu của trung tâm.


Ngô Đình Diệm (phải) 
và tướng ODaniel (Mỹ) - Ảnh: tư liệu

Đến những ngày tàn của chế độ Sài Gòn, Thiệu vẫn rất cảm động khi biết “ông cố vấn” ngày trước của mình đang bí mật quay lại đâu đó giữa đô thành và gửi lời thăm Thiệu lúc tình hình căng thẳng và bất lợi nhất cho Thiệu vào giữa tháng 4.1975. Thông qua các linh mục được Thiệu kính nể, Vũ Ngọc Nhạ đã gửi lời khuyên Thiệu đừng do dự, mà hãy nhanh chóng từ chức tổng thống để bảo toàn tánh mạng. Những chi tiết trên do tướng Nhạ kể lại với chúng tôi trong buổi phỏng vấn tại nhà riêng của ông trên đường Nguyễn Văn Mai, quận 3, TP.HCM vào giữa năm 1996 và một phần nội dung đã đăng trên báo Thanh Niên năm ấy (số ra ngày 14.7) trong mục Tự bạch (lúc ông còn sống). Qua đó ông nói về bí quyết thành công của một điệp viên chiến lược là phải làm sao am hiểu từng con người mình đang chinh phục.
Muốn vậy, không chỉ để tâm đến những chuyện lớn, mà cần nghe ngóng, ghi nhớ cả những câu phát biểu ngoài lề. Ví dụ, có lần ngồi chung xe Jeep với tướng Dương Văn Minh trước năm 1975, phóng qua đường phố Sài Gòn, rồi lòng vòng quanh những ngôi biệt thự trồng đầy hoa vàng ở ngoại ô, ông Minh đã buột miệng nói: “Mỹ bỏ bom miền Bắc khác nào bỏ bom lên đầu anh em của mình, phải không?”. Từ câu nói ấy, Vũ Ngọc Nhạ đánh giá tướng Minh là người có thể “đối thoại được” sau này. Không chỉ vậy, theo tướng Nhạ: “Không nên đặt con người mà mình cần am hiểu để chinh phục nào đó vào một “khung nhất định”. Khi tiếp xúc với những nguyên thủ ở dinh Độc Lập, tôi thấy rằng việc đặt những con người mình cần theo dõi, trong đó có họ, vào các nhận định ban đầu về họ, không thay đổi, thì rất khó. Vì họ chuyển đổi tâm lý, kể cả quan điểm, theo từng hoàn cảnh gặp phải, và theo những biến cố lớn. Nên mình cũng phải nhìn họ theo những chuyển đổi đó để ứng xử hợp lý. Điều này phù hợp với quan điểm biện chứng, vận động của Marxisme. Như trường hợp tôi có thể nêu ra dưới đây mà tôi tin chắc rằng không ít người để ý, là ông Ngô Đình Diệm của năm 1954 khác với ông Diệm năm 1962. Khác chỗ nào?”.
Tướng Vũ Ngọc Nhạ giải thích: “Ông Diệm năm 1954 là người chống cộng triệt để, không cần dông dài các bạn cũng rõ rồi. Với luật 10/59, ông cho lê máy chém khắp miền Nam với hy vọng hão huyền rằng sẽ “làm cỏ” những người Việt theo cộng sản. Nhưng ông đã không đạt được mục đích đó, dầu bấy giờ cách mạng miền Nam đúng là có tạm thời khó khăn, nhưng rồi những năm sau đó vẫn bén rễ xanh cây với sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Trước thực tế sống động ấy, buộc ông Diệm phải suy ngẫm về ảo vọng “diệt cộng” trước đây của mình. Huống là thêm vào đó, người Mỹ những năm đầu thập niên 1960 càng lộ rõ chân tướng là “ông chủ”, chứ chẳng phải người bạn “đồng minh” của ông Diệm. Họ nhúng tay vào nội bộ, chi phối lộ liễu nhiều hoạt động chính trị ở trung ương và địa phương của Nam Việt Nam, nhất là khi đòi loại bỏ Ngô Đình Nhu ra khỏi dinh Độc Lập.
Trước yêu cầu đó, ông Diệm họp gia đình “tứ long” gồm: Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và tôi tức “Hoàng Long” để tìm cách giải quyết. Ông Thục khăng khăng bảo ông Diệm phải giữ tình anh em và không được bỏ ông Nhu. Ông Diệm bảo đảm với Nhu rằng, nếu Nhu rời dinh Độc Lập ông cũng sẽ thôi làm tổng thống nữa. CIA biết được cuộc họp của anh em “gia đình trị” này, với các nội dung như thế đã không mấy vui vẻ, giới quân sự Mỹ thì bực tức ra mặt. Sau đó Mỹ tỏ thái độ bằng cách “chủ trò” trong việc ném bom dinh Độc Lập. Bom bỏ trúng đích, nổ ngay trong phần dinh có phòng riêng của Ngô Đình Nhu. May là sáng hôm đó, Nhu đã rời phòng sớm hơn thường lệ để cùng ông Diệm ra đón ông Thục (có tôi cùng đi), nếu không Nhu đã mất mạng. Còn bà Trần Lệ Xuân, vợ Ngô Đình Nhu, bị vôi gạch do sức ép của quả bom bay ra làm trầy xước mặt mày, sau phải qua Nhật “sửa sắc đẹp”. Sau ngày thoát chết, vợ chồng ông Nhu rất “căm” CIA và các cố vấn Mỹ. Những điều tôi vừa nói về việc người Mỹ muốn loại ông Ngô Đình Nhu trên đây được chính Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara thừa nhận trong hồi ký xuất bản năm 1995”.
Tướng Nhạ nói tiếp, sau “khúc dạo đầu” không giết được Nhu đó, CIA Mỹ gợi ý với ông Diệm nên đưa Ngô Đình Nhu ra nước ngoài. Người đầu tiên phản đối là Ngô Đình Thục, đã nói đại ý là ở trong nước ông Nhu còn bị ném bom mưu sát, huống chi ra nước ngoài đơn độc, chỉ làm bia cho đạn Mỹ nã chết mà thôi! Vậy rõ ràng “diệt cộng” là một ảo vọng không thành, mà muốn giữ “độc lập” với người bạn “đồng minh” bên trong lại là một ảo vọng khác. Bị tác động bởi hai ảo vọng đó, ông Diệm đi tìm giải pháp khác “quay lại với người Pháp và hòa giải với Hà Nội”. Ông Nhu công khai nêu rõ ý muốn đó và Pháp “hồi âm”: muốn miền Nam trung lập hóa. Còn việc hòa giải với Hà Nội, Nhu rất ngại Vũ Ngọc Nhạ không tán thành, vì Nhu luôn cho rằng Nhạ “chống cộng” quyết liệt nên “nhiều bữa tôi giả vờ tình cờ tìm cách hé mở khéo léo cho Nhu thấy rằng tôi đồng ý việc Sài Gòn bí mật tiến hành tiếp xúc và hòa giải với Hà Nội”.
Kể chuyện trên, tướng Nhạ nhằm minh chứng cho điều ông đã nêu ra về “việc cần thiết của một điệp viên là phải am hiểu từng con người và đặt con người ấy trong những chuyển đổi không ngừng của từng giai đoạn để ứng xử và chinh phục họ”. Đó là những gì “ông cố vấn” đưa ra liên quan đến bí quyết thành công của nhà tình báo. Còn đại tá Tư Cang? Theo Tư Cang, ngoài những cái lớn lao phải tuân thủ, nhà tình báo không được xem thường những thứ nhỏ nhặt khác quanh mình, ngay cả… một chồng bánh tráng ngoài chợ, hoặc một gói mắm ruốc từ đâu đưa đến nhà, như câu chuyện sẽ kể ở kỳ sau. 

CUỐI


Chiếc áo màu hoàng hậu

Người vợ trẻ của nhà tình báo - Tư Cang (ảnh chụp cuối năm 1947)
Để sắm vai “hai người tình” che mắt cảnh sát Sài Gòn, Tư Cang và Thảo (Mỹ Nhung) thường sóng đôi ra khỏi nhà, cứ như họ “sắp cưới nhau”.
Một bữa Thảo hỏi: “Hôm nay anh thích em mặc áo màu gì?”. Tư Cang: “Màu hoàng hậu đi em!”. Và hai người bước ra chiếc xe Honda đỏ nổ máy thoát khỏi cặp mắt dòm ngó của viên cảnh sát mật cạnh nhà. Chở Thảo vòng qua bùng binh chợ Bến Thành, Tư Cang dừng trước rạp Rex và chia tay “người tình”. Thảo cười duyên dáng bước xuống xe, lẫn vào đám đông như một con bướm giữa rừng.
Tư Cang nói, màu sắc tham dự rất nhiều vào các tín hiệu trên “đường tình báo”, để nhận ra nhau, trao tài liệu mật. Tài liệu chuyển theo nhiều cách, như ở một điểm sát Sài Gòn, cô giao thông tên Xinh về đến, đưa Tư Cang gói mắm ruốc rồi đi. Ông gạt mắm ra chén, lẫn trong ruốc có ve dầu Song Thập nhỏ bằng ngón tay út, đập bể chai dầu lộ ra hai tờ giấy hút thuốc rất mỏng, chi chít những dòng báo cáo của anh Tám từ khách sạn Embassy gửi ra về tình hình chính trường Sài Gòn giữa tháng 4.1975. Một cách nghi trang khác khá mạo hiểm như nữ giao thông Tư Ánh đã giao Tư Cang một chồng bánh tráng giữa chợ Bến Thành bên trong có… 2 khẩu K54 và 27 viên đạn.
Đối đầu với hiểm nguy, nhà tình báo vẫn có “những phút giây lãng mạn”? Năm 26 tuổi, trong chuyến thâm nhập lần đầu tiên vào Sài Gòn (1954), ông đã vượt sông Soài Rạp lúc trời tối cùng nữ đồng chí 23 tuổi tên H. xuất thân từ trường nữ sinh Áo Tím (Gia Long). Họ ngồi trên chiếc “xuồng ba lá” (ghép bằng 3 tấm ván mỏng), bất thần tàu tuần tra của lính Pháp từ phía Nhà Bè chạy tới, quét đi quét lại ánh đèn pha sáng rực. Thấy nguy, Tư Cang nhảy xuống sông kéo theo H., cô H. ôm chặt lấy Tư Cang. Ông kể “tôi phải hai chân đạp nước theo động tác lội đứng để giữ thăng bằng, còn cánh tay ôm choàng qua ngực người đồng đội, đầu cô nằm im trên vai tôi, ngửa lên ngang mặt nước…”. Khi tàu tuần tra Pháp đi khỏi, H. vẫn nằm yên trên cánh tay phải của ông giữa dòng Soài Rạp một lúc.
Lên bờ, hai người ngồi bên nhau trên một thân cây bần dưới ánh trăng, mà không nói điều gì cho rõ. Đến lúc con nước ngoài sông dâng cao với tiếng bìm bịp kêu từng chập, báo hiệu trời sắp sáng, thì H. lên tiếng trước: “Rừng lạnh quá!”. Tư Cang bất chợt đưa tay vòng qua thân H. cho ấm, cô để yên. Rồi H. nói anh là người đầu tiên đã ôm siết em và cứu sống em dưới dòng sông, em muốn anh hứa với em một điều được không? Tư Cang hỏi hứa gì? H. đáp: “Hứa anh là của em và em là của anh!”. Nhưng ông im lặng, nhìn vào đôi mắt đẹp lạ thường của H. dưới trăng, không nói gì. H. giục mãi. Ông vẫn im lặng, vì ông nghĩ mình đã… có vợ rồi.
Là do ông cưới vợ hồi mới 18 tuổi ở miền quê Long Phước (1946). Vợ ông kém ông một tuổi. Lúc lấy nhau hai người đều do gia đình đặt để theo lệ xưa với mong muốn con cháu “yên bề gia thất”. Qua những ngày chung đụng họ yêu nhau. Lúc vợ mang thai, ông ra chiến khu đánh Pháp, xa nhà biền biệt. Ông không nói rõ với H. chuyện đó, chỉ sợ H. thêm buồn, nên lấy cớ hai người đang hoạt động bí mật, sống chết bất ngờ không biết trước. H. cúi xuống và nước mắt tuôn ra. Tư Cang nắm lấy tay cô siết chặt, vừa lúc ấy có tiếng người gọi H. đi gấp. Đến khúc quẹo, cô dừng lại quay nhìn Tư Cang lần cuối…

Chị Tư Cang đang dắt con (Nhồng) trên đường phố Sài Gòn năm 1950 - Ảnh: nhân vật cung cấp
H. đi rồi, Tư Cang lọt vào Sài Gòn, tìm đến nhà của cơ sở cách mạng vùng chợ Hòa Hưng, chỉ cách khám Chí Hòa vài trăm thước. Ở đó hằng ngày cưỡi chiếc mobylette màu vàng để đi lại, vẽ bản đồ, điều tra lực lượng đồn trú của đối phương từ cầu Chữ Y đến Chợ Lớn. Bấy giờ, vợ ông cũng rời làng Long Phước lên Sài Gòn, con gái ông đã lên 7 tuổi và ông cũng biết được, cùng địa chỉ của vợ con. Mặc dầu công tác tình báo không cho phép ông tiếp xúc với người thân, nhưng một hôm, sắp hoàn tất nhiệm vụ, ông không cưỡng nổi, đã ngoắc một chiếc xích lô máy, bảo về số 11 – Rue Villard (nay là đường Phan Chu Trinh, TP.HCM). Gần tới nơi, ông xuống xe đi bộ một quãng, đến gốc cây vú sữa trước nhà và người đầu tiên ông gặp là mẹ vợ của ông đang ngồi vá quần áo dưới bóng cây. Bà nhấc đôi kính lão nhìn sững ông một lát, reo lên kinh ngạc: “Thằng Sáu! Thằng Sáu!” và gọi đứa con gái lên 7 của ông ra đón: “Nhồng ơi! Ba mày về đây nè!”.
Ba vợ của ông đang ngồi trên ván đưa tay lên miệng ra dấu cho bà im lặng. Vợ ông dưới bếp dắt con đi lên, đứa con từ ngày ra đời đến lúc ấy chưa hề thấy mặt cha bao giờ. “Tôi ôm nó vào lòng và hôn lên đầu, lên trán. Con tôi cười và ngước lên nhìn tôi rồi ngập ngừng gọi nhỏ: Ba! Ba! Cũng như nó, lần đầu tiên trong đời tôi thốt lên: Con! Con gái cưng của ba! Vợ tôi ngồi xuống sát bên tôi. Tôi choàng tay qua vai hôn vội vàng lên má”. Vợ ông hỏi: “Anh ở lại đến tối được chớ?”. Ông đáp: “Không, anh phải đi ngay bây giờ”. (Nghe vậy) vẻ mặt vợ tôi thoáng buồn. Lòng tôi càng xót xa”. Có bóng người thập thò nơi cửa, ông đi nhanh ra đường, trái tim vừa rộn lên vì cuộc gặp đã vội co thắt, chùng xuống, vì phải chia tay. Người vợ trẻ năm xưa nay đã hơn 80 tuổi đang sống cùng ông với con gái và cháu ngoại tại TP.HCM.
Ông nói thêm, trên đường hoạt động, ông đã được nhiều người giúp đỡ, như cô gái tên T. đã nhanh trí giúp ông thoát khỏi cuộc ruồng bố bên bờ sông Sài Gòn cách đây hơn nửa thế kỷ và hồi tưởng: “Đã qua cơn hãi hùng, cô gái T. có vẻ e thẹn. Em chui ra khỏi mui ghe và chạy đi. Tôi nhìn theo, lòng thẫn thờ như vừa bị cô gái mang đi một cái gì. Ôi đời chiến sĩ tình báo rày đây mai đó. Cuối cuộc chiến tranh này, có lẽ quả tim tôi bị nát vụn, để lại mỗi phương trời một mảnh”.
Giao Hưởng