Trung Quốc mới đây lại viện dẫn Công hàm 1958 của
Thủ tướng Phạm Văn Đồng như một "bằng chứng" về việc Việt Nam đã công
nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Song đây là một "vở diễn lại" quá lố của Trung Quốc bởi công luận
Việt Nam đã từng phân tích sáng tỏ nội dung Công hàm 1958, khẳng định
rằng văn bản này được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có
việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
Dưới đây, Báo điện tử Chính phủ xin dẫn lại bài báo "Công hàm
1958 với chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam" đăng trên báo Đại
Đoàn kết vào tháng 7/2011 trong đó tác giả bài báo phân tích rõ nội dung
Công hàm 1958 cũng như chỉ ra những diễn giải xuyên tạc của Trung Quốc
đối với văn bản này:
Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể
tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc
diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung
Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và
xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với
nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực
tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích
xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán
nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung
Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính
phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và
các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm
cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:
"Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố
ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy
và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng
hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng
lý lời chào rất trân trọng".
Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của
VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách
đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc
tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển
Đài Loan.
Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về
Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên
vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia.
Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to
lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên
biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu
chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc
đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt
đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các
vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho
tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn
tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra.
Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định
nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc
nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã
nằm trong chiến lược "lấn sân" của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên
giới quốc gia trên biển.
Ngày 26/5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ
Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn
chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài
Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung
Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày
3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển
như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển
Đài Loan lần thứ nhất.
Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải
phóng" Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ.
Ngày 12/9/1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn
công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do
dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ
vào cuộc chiến này.
Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ
hai. Ngày 23/8/1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim
Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống
Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu
cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.
Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách" đối với Trung Quốc như đã nêu
trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH
-Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em". Năm 1949, bộ đội
Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc
từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung
Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ
tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều
này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH - Trung Quốc lúc bấy
giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia
cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ
đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải
bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của
Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên,
Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa" của họ trên Biển Đông nên đã
"lồng ghép" thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào
bản tuyên bố.
Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ
rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ
sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy
giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của
VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các
diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc
trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm
đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện
rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền
của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai
hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc
gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và
việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu
đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời
của Công hàm như đã nêu trên.
Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH
ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai
là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới
hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.
Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào
đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần
đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn
bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng
Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam
đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên
tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu
sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu
đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong
phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của
tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng
động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ
quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là
vô hiệu.
Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức,
cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về
người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia
tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất
quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về
chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 về cơ sở pháp lý quốc
tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực.
Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo
Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam
vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ
VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần
đảo này theo luật pháp quốc tế.
Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành
những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc
tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần
nội dung của bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc đã vi phạm
nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng
vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã
nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt
Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với
Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới
hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn
giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp
ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận
sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế.
Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên
tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng
việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh
cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân
VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần
đảo Hoàng Sa năm 1974.
Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật
hiển nhiên là Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn
giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại
các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt
Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử
chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc.
Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía
Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân
tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi
chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập,
tự do.
Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của
Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là
ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam
vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà
Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung
Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn
cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời
cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán
của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó
là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay
là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị
quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc đó không trực
tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm
1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan,
Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH
xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ
tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel" để
suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam.
Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho
những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết
"estoppel". Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có
thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt
hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính:
(1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện
cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch; (2)
Quốc gia nại "estoppel" phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời
tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó,
hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại "estoppel" cũng phải chứng minh
rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại,
hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều
bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một
cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh
Maine", bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua",
bản án "Ngôi đền Preah Vihear"...
Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của
VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956,
năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi
thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể
chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố
đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó.
Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung
Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có
thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch
nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế
về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên,
trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng
của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm
cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu
cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn"
Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp
hoá tình hình".
THEO: http://baodientu.chinhphu.vn/Chu-quyen-la-thieng-lieng/Cong-ham-1958-voi-chu-quyen-Hoang-Sa-Truong-Sa-cua-Viet-Nam/199961.vgp
















