Hiển thị các bài đăng có nhãn HOÀNG SA-TRƯỜNG SA. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn HOÀNG SA-TRƯỜNG SA. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam

Trung Quốc mới đây lại viện dẫn Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như một "bằng chứng" về việc Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Song đây là một "vở diễn lại" quá lố của Trung Quốc bởi công luận Việt Nam đã từng phân tích sáng tỏ nội dung Công hàm 1958, khẳng định rằng văn bản này được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Dưới đây, Báo điện tử Chính phủ xin dẫn lại bài báo "Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam" đăng trên báo Đại Đoàn kết vào tháng 7/2011 trong đó tác giả bài báo phân tích rõ nội dung Công hàm 1958 cũng như chỉ ra những diễn giải xuyên tạc của Trung Quốc đối với văn bản này:
Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:
"Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng".
Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan.
Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia.
Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra.
Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược "lấn sân" của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển.
Ngày 26/5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất.
Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng" Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ.
Ngày 12/9/1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này.
Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23/8/1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.
Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách" đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH -Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em". Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH - Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa" của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép" thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố.
Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên.
Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.
Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu.
Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực.
Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế.
Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế.
Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.
Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do.
Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel" để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam.
Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel". Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch; (2) Quốc gia nại "estoppel" phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại "estoppel" cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine", bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua", bản án "Ngôi đền Preah Vihear"...
Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó.
Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn" Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình".
THEO: http://baodientu.chinhphu.vn/Chu-quyen-la-thieng-lieng/Cong-ham-1958-voi-chu-quyen-Hoang-Sa-Truong-Sa-cua-Viet-Nam/199961.vgp

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài

Ngày 21/5, tại Philippines, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trả lời phỏng vấn của Hãng AP (Mỹ) và Reuters (Anh) về tình hình Biển Đông cũng như các biện pháp giải quyết của Việt Nam. Trả lời câu hỏi của phóng viên về việc liệu Việt Nam có nộp đơn kiện Trung Quốc theo các cơ chế của luật pháp quốc tế hay giải quyết căng thẳng bằng biện pháp quân sự, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: "Việt Nam đã chịu nhiều đau thương mất mát từ các cuộc chiến tranh xâm lược. Vì thế, chúng tôi luôn tha thiết có hòa bình, hữu nghị để xây dựng và phát triển đất nước. Chúng tôi không bao giờ đơn phương sử dụng biện pháp quân sự, không bao giờ khơi mào một cuộc đối đầu quân sự, trừ khi chúng tôi bị bắt buộc phải tự vệ. 
Việt Nam luôn nhất quán sử dụng các biện pháp hòa bình và tận dụng mọi cơ hội, mọi kênh đối thoại để giải quyết tình hình hiện nay một cách hòa bình. Chúng tôi đã hết sức chân thành, thực tâm, thiện chí và kiềm chế, nhưng câu trả lời hiện nay là Trung Quốc ngày càng gia tăng sức mạnh, các hành động uy hiếp và xâm phạm, rồi liên tục vu khống và đổ lỗi cho Việt Nam. Những gì mà Trung Quốc đang làm khác rất xa những gì mà Trung Quốc nói. Những hành động của Trung Quốc trên vùng biển Việt Nam trong nhiều ngày qua là cực kỳ nguy hiểm, đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hợp tác và phát triển ở khu vực và thế giới.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng, Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Chúng tôi luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó.
Có lẽ như tất cả các nước, Việt Nam chúng tôi đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế."
Trả lời câu hỏi về việc trong bối cảnh căng thẳng leo thang hiện nay ở Biển Đông, Việt Nam có những đề nghị gì đối với cộng đồng quốc tế, có xem xét tham gia các liên minh an ninh không, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết: "Việt Nam không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào để chống lại một quốc gia khác. Đây là chính sách đối ngoại nhất quán của Việt Nam. Chúng tôi đã công khai về điều này rất nhiều lần với thế giới.
Về việc Trung Quốc đã hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép, xâm phạm nghiêm trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở Biển Đông, chúng tôi đã thông báo và thông tin trung thực đến các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước; chính giới và các học giả; truyền thông quốc tế. Những ngày qua, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, lãnh đạo nhiều nước trên thế giới, nhiều cá nhân và tổ chức quốc tế đã lên tiếng bày tỏ quan ngại sâu sắc về mối đe dọa của sự việc này đối với hòa bình, an ninh, ổn định trong khu vực. Tôi tin tưởng rằng cộng đồng quốc tế tiếp tục có đánh giá đúng và tiếng nói thích hợp để ngăn chặn mối đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định ở Biển Đông. Việt Nam kêu gọi cộng đồng quốc tế, các nước, các cá nhân và tổ chức quốc tế tiếp tục lên tiếng phản đối mạnh mẽ hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc.
Trả lời câu hỏi về quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong bối cảnh Trung Quốc tiếp tục hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 sâu trong vùng biển của Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh: "Tôi chỉ muốn nói rằng, Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc mối quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa Việt Nam và Trung Quốc vì điều này không chỉ đem lại lợi ích cơ bản và lâu dài cho hai nước Việt-Trung mà còn đóng góp cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Còn ngược lại, chắc các bạn hoàn toàn có thể hình dung điều gì sẽ xảy ra.
Tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa rằng, Việt Nam đặc biệt coi trọng và luôn làm hết sức mình đóng góp vào việc gìn giữ và tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị tốt đẹp với Trung Quốc. Việt Nam luôn chân thành mong muốn cùng Trung Quốc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
Đối với việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam, Việt Nam cực lực phản đối các hành động xâm phạm này và kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích chính đáng của mình phù hợp với luật pháp quốc tế"./.
Nguyễn Hoàng

Toàn văn phát biểu tại họp báo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chiều 21/5.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại buổi họp báo sau Hội đàm Việt Nam-Philippines chiều 21/5. 
Tôi và Ngài Tổng thống Aquino vừa có buổi hội đàm rất thực chất và đạt nhiều kết quả quan trọng trên tinh thần hữu nghị, tin cậy và hiểu biết lẫn nhau. 
Chúng tôi đã kiểm điểm tình hình hợp tác giữa hai nước và cùng nhất trí cho rằng quan hệ hai nước đang phát triển hết sức tốt đẹp. Hai Bên đều coi trọng tăng cường quan hệ hợp tác với nhau và sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ để đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ hữu nghị và hợp tác theo tinh thần “Khuôn khổ hợp tác song phương trong 25 năm đầu thế kỷ 21 và thời kỳ tiếp theo”, cũng như các thỏa thuận cấp cao đã có giữa hai nước.
Trước hết, chúng tôi nhất trí triển khai hiệu quả các thỏa thuận cấp cao đã đạt được; phấn đấu hoàn thành các mục tiêu trong chương trình Hành động Việt Nam - Philippines giai đoạn 2011-2016 đúng thời hạn; tiếp tục đẩy mạnh hợp tác thông qua các cơ chế Ủy ban hợp tác song phương; tăng cường trao đổi đoàn cấp cao và các cấp; hợp tác ở các kênh Đảng, Quốc hội và giao lưu nhân dân nhằm thắt chặt hơn nữa sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, trong đó có việc xúc tiến lập Hội Hữu nghị Việt Nam - Philippines và Hội Hữu nghị Philippines - Việt Nam.
Tôi và Ngài Tổng thống Philippines cũng đã nhất trí tiếp tục tăng cường hợp tác và tích cực triển khai các thỏa thuận đã đạt được về quốc phòng, an ninh; đẩy nhanh tiến trình đàm phán ký kết Hiệp định Dẫn độ; nghiên cứu thiết lập cơ chế Đối thoại chính sách quốc phòng cấp Thứ trưởng; thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực bảo đảm hậu cần, công nghiệp quốc phòng; tích cực tham vấn, ủng hộ nhau tại các cơ chế hợp tác khu vực về quốc phòng an ninh như ADMM, ADMM+, ARF... Chúng tôi cũng tái khẳng định hợp tác biển đại dương là một trụ cột trong quan hệ hai nước; nhất trí tiếp tục thường xuyên trao đổi, phối hợp lập trường, hợp tác có hiệu quả tại các cơ chế song phương như Ủy ban Hỗn hợp về hợp tác biển và đại dương, Nhóm Chuyên gia pháp lý về các vấn đề hợp tác trên biển; thúc đẩy hợp tác trong nghiên cứu khoa học biển, khí tượng thủy văn và bảo vệ môi trường biển.
Về hợp tác kinh tế-thương mại-đầu tư và các lĩnh vực khác, chúng tôi nhất trí tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực; phấn đấu đưa kim ngạch thương mại hai chiều đạt 3 tỷ USD vào năm 2016; tạo thuận lợi để hỗ trợ các doanh nghiệp hai nước tiếp xúc, tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh doanh và đầu tư; tăng cường kết nối giữa hai nền kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực và mong muốn hợp tác trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, dịch vụ… đồng thời khuyến khích tăng cường và mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực tiềm năng khác như văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ và du lịch…
Trên cơ sở mối quan hệ tốt đẹp hiện có, chúng tôi nhất trí cần đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt Nam- Philippines, đưa quan hệ hai nước phát triển toàn diện lên tầm cao mới theo đó, chúng tôi nhất trí lập Ủy ban công tác chung do hai Bộ Ngoại giao đứng đầu để xây dựng lộ trình tiến tới quan hệ Đối tác chiến lược, vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển chung của khu vực để sớm trình Lãnh đạo Cấp cao hai nước quyết định. 
Bên cạnh hợp tác song phương, chúng tôi cũng đã trao đổi sâu rộng về các vấn đề khu vực và quốc tế.
Hai bên nhất trí phối hợp chặt chẽ với nhau và với các nước ASEAN khác, phấn đấu xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN đoàn kết, vững mạnh vào năm 2015; tiếp tục phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực.
Về tình hình Biển Đông, tôi và Ngài Tổng thống cùng chia sẻ quan ngại sâu sắc về tình hình đặc biệt nguy hiểm hiện nay ở Biển Đông trước việc Trung Quốc tiến hành nhiều hành động vi phạm luật pháp quốc tế, Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, xâm phạm nghiêm trọng vùng biển của các quốc gia ven biển, nhất là vụ hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 và đưa nhiều tàu hộ tống bảo vệ xâm phạm sâu vào trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải tại Biển Đông.
Hai bên kiên quyết phản đối và kêu gọi các nước, cộng đồng quốc tế tiếp tục lên tiếng mạnh mẽ yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành động xâm phạm nêu trên, triệt để tuân thủ luật pháp quốc tế, Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), và phấn đấu sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Cuộc hội đàm giữa tôi và Ngài Tổng thống Philippines đã thành công tốt đẹp, chúng tôi đã đạt được những nhận thức chung quan trọng về phương hướng phát triển quan hệ song phương cũng như hợp tác ở khu vực trong thời gian tới.
Xin cảm ơn./.

Toàn văn phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 24 tại Myanmar.

Thưa Tổng thống U Thên Sên, Chủ tịch Hội nghị Cấp cao ASEAN,
Thưa Quốc vương,
Thưa các vị đồng nghiệp!
Trước hết, Việt Nam xin cảm ơn sự đón tiếp chu đáo và xin chúc mừng Mi-an-ma trên cương vị Chủ tịch ASEAN lần đầu tiên. Việt Nam sẽ hợp tác và ủng hộ Mi-an-ma hoàn thành tốt trọng trách Chủ tịch ASEAN năm 2014. Theo chủ đề của Hội nghị, chúng tôi xin chia sẻ một số ý kiến sau:
1. Về hòa bình và an ninh khu vực
Việt Nam xin thông báo và nhấn mạnh về vấn đề Biển Đông như sau:
Hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển  Đông - mối quan tâm chung của ASEAN, của khu vực và thế giới đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Từ ngày 01/5/2014 Trung Quốc đã ngang nhiên đưa giàn khoan nước sâu cùng hơn 80 tàu vũ trang, tàu quân sự và máy bay hộ tống đi vào vùng biển Việt Nam và đã hạ đặt giàn khoan này tại vị trí nằm sâu trên 80 hải lý trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982. Các tàu hộ tống bảo vệ giàn khoan của Trung Quốc đã rất hung hăng bắn vòi nước có cường độ mạnh và đâm húc thẳng vào các tàu công vụ, tàu dân sự của Việt Nam, gây hư hại nhiều tàu và làm nhiều người bị thương. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan vào hạ đặt tại địa điểm nằm sâu trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của một nước trong ASEAN, là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng Luật pháp Quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và cũng là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng Tuyên bố về Ứng xử của các Bên trên Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc là một Bên tham gia ký kết. Hành động cực kỳ nguy hiểm này đã và đang đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông.
Việt Nam đã hết sức kiềm chế, chân thành bày tỏ mọi thiện chí, sử dụng mọi kênh đối thoại, giao thiệp với các cấp khác nhau của Trung Quốc để phản đối và yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan và các tàu vũ trang, tàu quân sự ra khỏi vùng biển của Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay Trung Quốc không những không đáp ứng yêu cầu chính đáng của Việt Nam mà còn vu khống, đổ lỗi cho Việt Nam và tiếp tục dùng sức mạnh, gia tăng các hành động uy hiếp, xâm phạm ngày càng nguy hiểm và nghiêm trọng hơn.
Việt Nam đặc biệt coi trọng và luôn làm hết sức mình để gìn giữ và tăng cường quan hệ hữu nghị tốt đẹp với Trung Quốc. Việt Nam cũng luôn chân thành mong muốn cùng với Trung Quốc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định của Khu vực và Thế giới. Song, lãnh thổ là thiêng liêng, Việt Nam cực lực phản đối các hành động xâm phạm và kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích chính đáng của mình phù hợp với Luật pháp quốc tế.
Chúng tôi trân trọng cám ơn và khẩn thiết kêu gọi các nước ASEAN, các nước trên thế giới, các cá nhân và Tổ chức quốc tế tiếp tục lên tiếng phản đối hành động xâm phạm nghiêm trọng nêu trên và ủng hộ yêu cầu hợp pháp, chính đáng của Việt Nam.
Trước tình hình đặc biệt nghiêm trọng này, Việt Nam đề nghị ASEAN, chúng ta tăng cường đoàn kết, thống nhất và khẳng định lại mạnh mẽ các nguyên tắc đã được nêu tại Tuyên bố 6 điểm về Biển Đông, đồng thời yêu cầu Trung Quốc tuân thủ Luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982, đặc biệt phải tôn trọng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của các quốc gia ven biển và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc Tuyên bố Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Và cùng ASEAN thương lượng thực chất về Bộ Quy tắc ứng xử COC.
Việt Nam đề nghị ASEAN đưa các nội dung nêu trên về vấn đề Biển Đông vào Tuyên bố chung của Hội nghị và Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị Cấp cao ASEAN lần này. Việt Nam đánh giá cao việc các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN, ngày 10/5/2014, đã nhất trí thông qua một Tuyên bố riêng về tình hình nghiêm trọng hiện nay ở Biển Đông, thể hiện rõ sự đoàn kết, vai trò trung tâm, tinh thần chủ động và trách nhiệm cao của ASEAN đối với hòa bình, ổn định và an ninh của khu vực.
2. Về lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN
Việt Nam đánh giá cao Báo cáo của ngài Tổng Thư ký ASEAN về các hoạt động xây dựng Cộng đồng ASEAN. Chúng tôi cho rằng ASEAN chúng ta cần phải làm nhiều việc hơn nữa và tập trung vào những trọng tâm:
Trước hết, mỗi quốc gia và cả khu vực đều phải nỗ lực thực hiện đúng thời hạn Lộ trình xây dựng Cộng đồng. Cùng với việc đẩy mạnh chất lượng của gần 80% dòng hành động đã và đang được triển khai, ASEAN cần ưu tiên thực hiện 20% phần còn lại. Việt Nam ủng hộ việc thông qua Tuyên bố Nay-pi-tô về xây dựng Cộng đồng ASEAN làm văn kiện định hướng cho các hoạt động trong năm 2014.
Chúng ta cần tăng cường phát huy vai trò chủ đạo của ASEAN nhằm bảo đảm hòa bình, an ninh, ổn định và phát triển trong khu vực, cũng như ứng phó hiệu quả với những thách thức đang đặt ra.
Cùng với nỗ lực xây dựng Cộng đồng, ASEAN cần phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo ở khu vực, nhất là trong bối cảnh có nhiều sáng kiến về khuôn khổ an ninh khu vực đang được các nước lớn đưa ra. ASEAN cần chủ động, tích cực có tiếng nói chung về các vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp tới hòa bình, an ninh và phát triển của khu vực; đặc biệt cần đề cao các nguyên tắc giải quyết bất đồng bằng biện pháp hòa bình, kiềm chế, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế,…
Theo đó, ASEAN cần đẩy mạnh đối thoại xây dựng lòng tin, xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực  ứng xử chung cũng như phát huy các công cụ  và cơ chế hợp tác hiện có như Hiệp  ước Thân thiện và Hợp tác (TAC), Tuyên bố Bali về các nguyên tắc quan hệ cùng có lợi, Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
Vì các mục tiêu trên, chúng tôi nhất trí với đề xuất xây dựng một khuôn khổ các quy tắc ứng xử và hợp tác chung ở khu vực Đông Á, dựa trên các nguyên tắc của Hiệp ước TAC và các thỏa thuận đã có, cũng như các sáng kiến có liên quan được đưa ra gần đây. Đồng thời, chúng ta cần tiếp tục gắn kết mục tiêu này trong nỗ lực xây dựng Cộng đồng và Tầm nhìn ASEAN sau 2015.
Để làm được điều đó, ASEAN cần tiếp tục giữ vững đoàn kết và thống nhất, đề cao trách nhiệm vì lợi ích chung của khu vực trên cơ sở các nguyên tắc và phương cách đã thỏa thuận, góp phần bảo đảm tốt hơn môi trường hòa bình, an ninh và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để ASEAN tiếp tục phát triển vững mạnh trong giai đoạn tiếp theo.
ASEAN chúng ta cũng cần đẩy mạnh các nỗ lực nhằm ứng phó hiệu quả đối với các thách thức an ninh phi truyền thống đang nổi lên, bao gồm các thách thức môi trường, nguồn nước, thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh… Trước những thiên tai, thảm họa xảy ra liên tiếp gần đây, tôi đề nghị các cơ quan chức năng của ASEAN cần phải rà soát và đưa ra các kiến nghị về việc tăng cường khả năng hợp tác, ứng phó kịp thời và hiệu quả của ASEAN trong lĩnh vực này.
Nhân dịp này, một lần nữa, tôi xin gửi lời chia sẻ  sâu sắc tới nhân dân Phi-líp-pin về những hậu quả  nặng nề do cơn bão Hải Yến gây ra và tới gia đình các nạn nhân của thảm họa máy bay MH370. Những thảm họa này càng đòi hỏi chúng ta phải quan tâm hơn nữa việc tăng cường năng lực ứng phó, hợp tác của ASEAN. Chúng tôi đề nghị sớm tổ chức tổng kết kinh nghiệm về sự phối hợp của khu vực trong công việc quan trọng này.
3. Về tương lai Cộng đồng ASEAN. Việt Nam đánh giá cao thỏa thuận Cấp cao ASEAN về xây dựng Tầm nhìn ASEAN sau 2015.
Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau 2015 phải là sự  tiếp nối và phát huy các thành tựu đã đạt được trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN 2009-2015. Sau khi trở thành Cộng đồng, ASEAN cần hướng tới những mục tiêu liên kết cao hơn trên cả ba trụ cột. Đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò chủ đạo trong cấu trúc khu vực, chủ động thúc đẩy và mở rộng liên kết ở khu vực Đông Á. Tầm nhìn sau 2015 phải giúp đưa Cộng đồng ASEAN vì phúc lợi người dân, khơi gợi ý thức cộng đồng và khuyến khích sự tham gia tự nguyện, tích cực của người dân vào tiến trình này. ASEAN cần chú trọng củng cố và tăng cường hơn nữa các cơ chế hợp tác nhằm ứng phó kịp thời, hiệu quả với những rủi ro, bao gồm cả thiên tai, dịch bệnh, tai nạn. Chúng tôi đề nghị giao Hội đồng Điều phối ASEAN xây dựng kế hoạch kỷ niệm thiết thực về sự kiện Cộng đồng ASEAN ra đời.
4. Về kiểm điểm và định hướng quan hệ đối ngoại của ASEAN
Việt Nam đề nghị ASEAN gia tăng vai trò và hợp tác với các đối tác tại các diễn đàn khu vực; phát huy vai trò chủ đạo trong diễn đàn Đông Á; xây dựng một khuôn khổ các quy tắc ứng xử và hợp tác tương tự như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) mở rộng ra phạm vi toàn Đông Á.
Là điều phối viên quan hệ ASEAN-EU, Việt Nam đề nghị Hội nghị Bộ trưởng ASEAN-EU lần thứ 20 sắp tới cần bàn kỹ việc tăng cường quan hệ đối tác ASEAN-EU, trong đó có đề xuất của EU về tổ chức các cuộc gặp cấp cao giữa Lãnh đạo hai Bên. Chúng tôi cũng ủng hộ đề xuất rà soát và đề ra những định hướng chỉ đạo về việc tăng cường quan hệ đối ngoại của ASEAN.
Thưa quý vị,
Việt Nam trân trọng cảm ơn và đánh giá cao sự đóng góp quan trọng của Tổng thống In-đô-nê-xi-a Xu-xi-lô Bam-bang Giu-đô-giô-nô vào quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Xin chúc Ngài Tổng thống mọi điều tốt đẹp.
Xin cám ơn./.

Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014

CÔNG THƯ 1958 KHÔNG CÔNG NHẬN CHỦ QUYỀN HOÀNG SA CHO TRUNG QUỐC

Công thư mà Việt Nam gửi Trung Quốc năm 1958 không hề đề cập đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; trên thực tế chúng nằm dưới vĩ tuyến 17, thuộc quản lý của Việt Nam Cộng hòa khi đó, vì thế công thư không thể là sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc với hai quần đảo như Bắc Kinh viện cớ vin vào. 

Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm nay tổ chức họp công bố các diễn biến thực địa ở khu vực mà Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển Việt Nam; các cơ sở pháp lý và bằng chứng chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo.

Đây là lần thứ ba Bộ Ngoại giao tổ chức họp báo quốc tế kể từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trên bờ biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hồi đầu tháng. Sự kiện thu hút sự quan tâm của hơn 200 phóng viên, nhà báo của các hãng thông tấn trong và ngoài nước. Phòng họp chật kín phóng viên, nhiều người phải đứng.

Các quan chức Việt Nam chủ trì cuộc họp báo hôm nay cho thấy quyết tâm bảo vệ chủ quyền. Khi được đề nghị bình luận về việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu rằng Việt Nam "không đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông" và về 16 chữ vàng trong mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, ông Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, nói: "Vấn đề chủ quyền lãnh thổ là hết sức thiêng liêng và không gì đánh đổi được. Vàng rất quý nhưng độc lập tự do và chủ quyền lãnh thổ còn quý hơn vàng".

Ông Hải cho biết bất chấp sự giao thiệp nghiêm túc của Việt Nam với phía Trung Quốc từ nhiều cấp, nhiều hình thức, mọi thiện chí của Việt Nam không được đáp ứng.

Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và tàu hộ tống khỏi vùng biển Việt Nam, yêu cầu Trung Quốc không gây ảnh hưởng đến an ninh an toàn hàng hải, và sau khi Trung Quốc rút giàn khoan đôi bên sẽ trao đổi để kiềm chế và kiểm soát ổn định tình hình trên biển.

Tuy nhiên Trung Quốc vẫn tiếp tục các hành vi xâm phạm, thậm chí có nhiều tuyên bố sai lệch, ông Hải cho biết.

Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới bác bỏ luận điệu sai trái của Trung Quốc và nêu rõ quan điểm cũng như các bằng chứng của Việt Nam liên quan đến chủ quyền biển đảo. Ông Hải trình chiếu video cho thấy các tư liệu pháp lý lịch sử của Việt Nam liên quan đến quần đảo Hoàng Sa. 

"Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và lịch sử đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", ông nói và nêu từng vấn đề.
Bản đồ mang tên Partie de la Cochinchie về nước An Nam với quần đảo Hoàng Sa.
"Từ rất nhiều thế kỷ nay, ít nhất là từ thế kỷ thứ 17 các nhà nước Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền với hai quần đảo này từ khi còn là đất vô chủ. Các Nhà nước phong kiến Việt Nam thực thi chủ quyền của mình ở Trường Sa và Hoàng Sa một cách hòa bình, liên tục phù hợp với luật pháp quốc tế và không bị quốc gia nào phản đối.

"Trong thời kỳ Pháp thuộc từ giữa thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20 Pháp đã nhân danh Nhà nước Việt Nam để tiếp tục quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời phản đối các yêu sách của các nước liên quan đối với hai quần đảo này.

"Chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo đã được khẳng định và thừa nhận tại hội nghị San Francisco tháng 9/1951. Đây là hội nghị giải quyết các vấn đề lãnh thổ sau Thế chiến thứ hai.

"Tại hội nghị này, phái đoàn Liên Xô có đề nghị trao hai quần đảo cho Trung Quốc nhưng 46/51 nước đã bỏ phiếu chống, phản đối. Cũng tại hội nghị này, trưởng phái đoàn của Chính phủ Bảo Đại đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này và không gặp phải sự phản đối của bất cứ ai.

"Sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam Cộng hòa cũng đã ra nhiều tuyên bố và có những hành vi trên thực tế để thực thi chủ quyền với hai quần đảo này. Trung Quốc là một nước tham gia hội nghị quốc tế về Đông Dương Geneva năm 1954, biết rất rõ điều này và phải có trách nhiệm tôn trọng các văn kiện của hội nghị này.

"Năm 1974 Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa cũng như chính phủ Cách mạng lâm thời của Cộng hòa miền Nam Việt Nam đều lên tiếng phản đối hành động đó của Trung Quốc và khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam với quần đảo Hoàng Sa.

"Từ góc độ luật pháp quốc tế, việc chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền là một hành vi phi pháp và không thể đem lại chủ quyền cho Trung Quốc với Hoàng Sa", ông Hải kết luận. "Thực tế là cho đến nay không có một quốc gia nào trên thế giới công nhận chủ quyền của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa".

Về công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, ông Hải phân tích văn bản này hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ, chủ quyền và không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nội dung công thư chỉ ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải 12 hải lý, đồng thời chỉ thị cho các cơ quan Việt Nam tôn trọng giới hạn 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố mà thôi.

Việc công thư không đề cập đến hai quần đảo cũng phù hợp với thực tế lúc đó: hai quần đảo nằm dưới vĩ tuyến 17 và thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa, được Pháp giao lại năm 1956 phù hợp với Hiệp định Geneva năm 1954 mà Trung Quốc có tham gia.

Ngoài ra, công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể thời điểm được gửi cho Trung Quốc, khi đó Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Geneva, Trung Quốc là bên tham gia.

"Bạn không thể cho người khác cái bạn chưa có. Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị gì với việc công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa hay Nam Sa theo cách gọi của Trung Quốc", ông Hải khẳng định.


Về khả năng Việt Nam có thể sẽ sử dụng hành động pháp lý trước tình hình hiện tại, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Hàm Vụ trưởng Vụ Luật pháp quốc tế Bộ Ngoại giao, cho biết, với tư cách thành viên của Công ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam có quyền sử dụng tất cả các cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến mình.

"Việt Nam sẽ sử dụng các biện pháp hòa bình, bao gồm khả năng sử dụng cơ quan tài phán quốc tế mà Hiến chương Liên Hợp Quốc và UNCLOS khẳng định. Việt Nam sẽ sử dụng các biện pháp phù hợp luật quốc tế, và sử dụng các biện pháp này tốt hơn là để xảy ra xung đột vũ trang", bà Hà nói.

"Lãnh đạo Việt Nam khẳng định không loại trừ bất cứ biện pháp nào, chúng tôi với tư cách cơ quan tư vấn pháp lý sẽ chuẩn bị mọi biện pháp có thể sử dụng được", bà nói thêm.

Việt Nam và Trung Quốc nhất trí giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình, các thông tin cho rằng Trung Quốc điều chuyển quân đến khu vực biên giới là chưa chính xác, ông Trần Duy Hải cho biết.

"Trong cuộc gặp của hai Thứ trưởng Ngoại giao, hai bên nhất trí không sử dụng biện pháp quân sự để giải quyết bất đồng. Tôi xin khẳng định như vậy", ông Hải nói, và cho biết thêm rằng hiện các hoạt động giao thương trên biên giới Việt - Trung diễn ra bình thường.

Theo các cơ quan chức năng của Việt Nam, trong các cuộc gây rối ở Hà Tĩnh, có hai người Trung Quốc chết. Ở Bình Dương, các đối tượng xấu gây xô xát, gây ra cái chết cho một người Trung Quốc.

Về việc công nhân Trung Quốc về nước sau các sự cố biểu tình, ông Lê Hải Bình khẳng định những vụ gây rối tại một số địa phương là hết sức đáng tiếc. Dưới sự chỉ đạo của của Thủ tướng chính phủ, tình hình đã trở về bình thường, ổn định

"Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài đã khôi phục hoạt động. Chính phủ Việt Nam sẽ sử dụng mọi biện pháp đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản, đồng thời đảm bảo không để tái diễn sự cố đáng tiếc như vừa qua", ông Bình cho biết. 

"Tuyệt đại đa số doanh nghiệp bị ảnh hưởng đều đánh giá cao nỗ lực của chính phủ Việt Nam. Theo chúng tôi được biết, trừ Trung Quốc, không có nước nào rút công dân về nước", ông Bình nói.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình khẳng định, sau một số vụ gây rối, tình hình đã trở lại hoàn toàn bình thường. Ảnh: Nguyên Anh
Bác bỏ quan điểm của Trung Quốc về khai thác dầu khí

Ông Đỗ Văn Hậu, Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí Việt Nam cho biết từ năm 1996, sau khi quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS), hoạt động dầu khí chỉ thực hiện trong vòng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Phía Việt Nam đã ký 99 hợp đồng với doanh nghiệp nước ngoài. 30 mỏ đang được khai thác trong vùng thềm lục địa vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, được quốc tế công nhận. 

Ông Hậu bác bỏ tài liệu của phía Trung Quốc công bố hôm 16/5 cho rằng "Việt Nam đã phân 57 lô dầu khí và có 37 giàn khoan tại vùng biển có tranh chấp".

"Trung Quốc chỉ nêu ra mà không có cơ sở pháp lý nào chứng minh. Chúng tôi bác bỏ quan điểm của Trung Quốc".

Ông Hậu phân tích rằng quan điểm trên của phía Trung Quốc thực chất là nhằm biến những khu vực không tranh chấp trên thềm lục địa Việt Nam thành những khu vực tranh chấp, với ý đồ hiện thực hóa yêu sách đường lưỡi bò đang bị cả cộng đồng quốc tế lên án.

Đánh giá trữ lượng dầu mỏ tại khu vực này, ông Hậu cho biết có các đánh giá của Trung Quốc, Mỹ và các nước trong khu vực về trữ lượng hydro carbon về toàn bộ khu vực Biển Đông, Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu khảo sát, dự báo là từ 4 đến 6 tỷ tấn trong vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. "Tại những khu vực đang khoan, chúng tôi đánh giá triển vọng ở đây là không lớn", ông Hậu nói.
Ông Đỗ Văn Hậu khẳng định các lô dầu khí mà Việt Nam lập ra và khai thác đều hợp pháp và được quốc tế công nhận. Ảnh: Nguyên An
Đấu tranh ngoại giao

Kể từ khi Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc đưa giàn khoan trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chính phủ Việt Nam đã 20 lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan cùng tàu và máy bay khỏi khu vực, đồng thời tố cáo hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc tại các Hội nghị của khu vực ASEAN và các Diễn đàn quốc tế.

Trên kênh ngoại giao đa phương, Việt Nam đưa vụ việc này ra Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 24 diễn ra ngày 11/5 tại Myanmar, Diễn đàn kinh tế Thế giới về Đông Á tại Philippines, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng yêu chuộng hòa bình thế giới. 

Trên các diễn đàn này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng, nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó. Việt Nam khẳng định kiên quyết bảo vệ chủ quyền bằng các biện pháp hòa bình và phù hợp luật pháp quốc tế. 

Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã điện đàm với người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị, nhằm đề nghị Bắc Kinh phản hồi tích cực trước yêu cầu rút giàn khoan 981 ra khỏi vùng biển Việt Nam. Ông cũng có các cuộc nói chuyện điện thoại với bộ trưởng ngoại giao các nước Mỹ, Nga, Indonesia và Singapore để thông báo những nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm tình hình căng thẳng tại Biển Đông. 

Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh hôm 20/5 gặp với người đồng cấp Trung Quốc Thường Vạn Toàn bên lề hội nghị quốc phòng các ASEAN (ADMM) tại Myanmar, yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan khỏi khu vực.

Tại thực địa, các tàu kiểm ngư của Việt Nam vẫn kiên trì đấu tranh hòa bình, triển khai khoảng 20 tàu, tiến sâu và áp sát giàn khoan hơn để phát loa tuyên truyền, yêu cầu tàu Trung Quốc rời khỏi khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Nguồn vnexpress.net

Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2013

Hoàng Sa - Trường Sa

Kỳ 1 - Cuộc tranh chấp phức tạp
QĐND - Thứ Sáu, 12/08/2011, 20:59 (GMT+7)
Tranh  chấp  chủ  quyền  trên  hai  quần  đảo Paracels và Spratlys  (Hoàng Sa và Trường Sa  theo tên  gọi Việt Nam, Tây  Sa  và Nam  Sa  theo  tên  gọi Trung Quốc) nằm giữa biển Đông đã  tồn  tại từ  trăm năm nay. Đó  là những  tranh chấp  lâu đời nhất giữa nhiều nước cùng  yêu  sách  chủ quyền trên các đảo, một cuộc tranh chấp kéo dài cho đến tận ngày hôm nay mà chưa đạt được bất kỳ một giải pháp pháp lý bền vững  nào.
Nó còn phức tạp hơn với nghĩa là tranh chấp lúc thì bùng lên gay gắt, lúc lại lắng xuống với những thay đổi phức tạp từ phía các bên có can dự trực tiếp vào cuộc tranh chấp. Lúc đầu, cuộc tranh chấp chỉ  liên quan trực tiếp đến các đảo. Do vị  trí địa  lý, các đảo này cho phép quốc  gia  ven  biển chiếm hữu  chúng không chỉ quyền kiểm soát thông thương hàng hóa trong  biển Đông mà  còn quyền sử dụng chúng như các căn cứ hải quân ban đầu nhằm mục đích quốc phòng.
Cuộc đua tranh có quy mô và sắc thái khác từ sự phát triển  nhanh chóng  gần đây của Luật  Biển quốc tế  và khả năng phát  hiện  được những mỏ dầu có thể khai thác được nằm dưới đáy biển của hai quần đảo. Công ước của Liên Hiệp Quốc về  Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 có hiệu lực từ năm 1994 cho phép  các quốc gia ven biển có quyền mở  rộng lãnh hải 12 hải  lý, vùng đặc quyền kinh  tế 200 hải  lý và thềm lục địa.
Sự phát triển của luật biển quốc tế đem lại nhiều lợi ích cho quốc gia ven biển như khả năng khai thác các tài nguyên thiên nhiên từ  biển: dầu mỏ, nguồn lợi  thủy sản, khoáng sản, nhưng cũng làm nảy sinh vấn đề phân định vùng biển và thềm lục địa giữa các quốc gia có vùng biển chồng lấn. Giải quyết vấn đề phân định biển luôn gắn  liền  với vấn đề tranh chấp lãnh thổ, đảo.
Theo quy định của UNCLOS 1982,  các đảo, đá  hoặc có  thể  có  vùng  lãnh  hải  12  hải  lý,  vùng  đặc  quyền kinh  tế 200 hải  lý và  thềm  lục địa hoặc chỉ có vùng lãnh hải 12 hải  lý, căn cứ vào một số điều kiện nhất định. 
Đảo Trường Sa Lớn - Ảnh: Đỗ Hùng 


Trên  thực  tế,  tranh  chấp  phức tạp  thêm chính  là do nguyện vọng của các quốc gia ven biển muốn cho một số đảo, đá, bãi ngầm ngoài khơi không có người ở này được hưởng quy chế pháp  lý đầy đủ  của một đảo. Đúng là luật biển quốc tế mới cho phép các quốc gia ven biển được yêu sách một vùng thềm lục địa và một vùng đặc quyền về kinh tế rộng hai  trăm hải  lý xung quanh các đảo nổi thường xuyên  khi  thủy  triều  lên.  Nhưng  thực tế vẫn có các đảo không thích hợp cho con người đến ở hoặc  cho một  đời  sống  kinh  tế  riêng  có  thể  đòi  hỏi cùng một  quy  chế  như  trên ([1]).  Luật  biển  hiện  đại  đó làm tăng thêm giá trị địa chiến lược của hai quần đảo và  các  bên  tranh  chấp  chính  là  về  vai  trò  địa  chiến lược mới đó của hai quần đảo.
Các  tranh chấp  trên biển Đông, ngoài ý nghĩa về chủ quyền lãnh thổ, lợi ích chiến lược còn  là  quyền sở hữu và khai thác tài  nguyên,  đặc biệt  là  tài  nguyên dầu mỏ. Tranh chấp chủ quyền các đảo và vùng biển không dễ dàng được  giải  quyết  vì  liên  quan  không  chỉ  yếu  tố  luật pháp mà còn cả về lịch sử, ý chí dân tộc và kinh tế.
Mục tiêu của cuộc tranh chấp dai dẳng giờ đây không chỉ là các đảo chính mà chính là các vùng biển rộng lớn bao quanh chúng nhằm kiểm soát được toàn bộ hoặc chỉ một phần biển này. Hoàng Sa, Trường Sa do CHXHCN Việt Nam xác lập chủ quyền; CHND Trung Hoa, lãnh thổ Đài Loan cùng yêu cầu tương tự. Riêng Trường Sa, Philippines chỉ  vào cuộc từ năm 1956, Malaysia từ năm 1979 và Brunei yêu sách một phần nhỏ từ năm 1993. 
TS Nguyễn Hồng Thao (Theo báo Thanh Niên)

Kỳ 2: Sức ép và phản ứng
QĐND - Thứ Sáu, 12/08/2011, 20:59 (GMT+7)
Trong  các thập  kỷ  gần  đây,  trong  quan  hệ  với Việt Nam, Trung Quốc đã hai lần sử dụng vũ lực để giành quyền chiếm hữu các đảo này, ngày 19-1-1974 tại Hoàng Sa và  ngày 14-3-1988  tại Trường Sa. 
Sau  các  biến  cố  trên, mặc  dù hai nước đã  bình thường hóa quan hệ năm 1991, song  tình  trạng căng thẳng  trên biển vẫn tồn tại ([1]). Việc thông qua Luật về lãnh hải của CHND Trung Hoa ngày 25-2-1992,  trong đó khẳng định lại yêu sách của TQ  đối  với  hai  quần  đảo Hoàng  Sa  và Trường Sa, lại  làm dấy  lên một  làn sóng  lo ngại mới tại Đông  Nam  Á ([2])  về  những  toan  tính  sâu  xa  của TQ. 
Tháng 2.1995 đến lượt quan hệ Trung Quốc - Philippines  trở  nên  căng  thẳng. Philippines  đã  tố  cáo Trung Quốc xâm chiếm bằng quân sự một đảo đá nhỏ mà Philippines tuyên bố chủ quyền trong quần đảo Trường Sa. Bộ  trưởng Quốc  phòng  Philippines đã  đưa  ra những tấm ảnh cho thấy các cấu kiện hình đa giác đã được dựng trên những cột thép đảo đá Vành Khăn, mà theo Philippines, đó là các công trình nhà ở lâu dài. Tàu chiến của Trung Quốc cũng được quan  sát  thấy tập  trung xung quanh đảo đá này. Philippines đã phản ứng  bằng cách  tăng  cường  thêm  lực  lượng  quân  sự  tại Trường Sa.
Ngày 15.5.1996, Trung Quốc gia nhập UNCLOS 1982 và cam kết giải quyết các tranh chấp “phù hợp với  luật pháp quốc tế  đã  được  công  nhận”. Tuy  nhiên, cùng  ngày, Trung Quốc công  bố  sắc  lệnh  mở  rộng lãnh hải, trong đó áp dụng việc vạch đường cơ sở cho quốc gia quần đảo vào khu vực quần đảo Hoàng Sa. Hành  động  này  của Trung Quốc  là “bất  hợp  pháp  - đó là điều mà nhiều học giả đều nói tới” và là chủ đề chất vấn  tại Diễn  đàn  khu  vực ASEAN  (ARF).  
Cơ sở của Trung Quốc tại đá Vành Khăn mà họ chiếm đóng trái phép ở quần đảo Trường Sa - Ảnh: AFP 

Đóng  góp  của  Indonesia  (trong  vai  trò  đồng chủ  trì  với  Canada)  và  các  nước  ASEAN, TQ tại Hội thảo “Kiềm chế các xung đột tiềm  tàng tại biển Đông” từ năm 1993, các sáng kiến về Bộ quy tắc ứng xử giữa Việt Nam - Philippines, Trung Quốc- Philippines,  nỗ  lực  của  các  bên  liên  quan  trực  tiếp  đã đưa đến việc ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trong biển Đông năm 2002 (DOC), một bước ngoặt mới đi đến một giải pháp cho biển Đông.
Tuy nhiên cơn khát dầu lửa và các nguồn tài nguyên biển lại tiếp tục làm  dấy  lên  làn  sóng  lo  ngại mới  về  hành động  lấn chiếm  trên  biển  Đông.  Trong  năm  2007-2009, Trung Quốc đưa ra chiến lược “biển xanh”, triển khai căn cứ tàu  ngầm nguyên tử ở Hải Nam, xúc tiến chương trình đóng tàu sân bay, nâng cấp đơn vị hành chính Tam Á, mở tour du lịch ra đảo Phú Lâm (Hoàng Sa). Tháng 11.2008, Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc CNOOC thông qua kế hoạch đầu tư 200 tỉ NDT  (29  tỉ USD)  cho  thăm  dò  và  khai  thác  dầu khí ở biển Đông.
Trung Quốc cũng  tăng cường sức ép  lên  các  công  ty  dầu  khí  nước  ngoài  (British Petroleum (BP), Conoco Phillips, Exxon Mobil, và Oil & National  Gas  Company  (ONGC)  đang  làm việc trên thềm lục địa VN, tiếp tục duy trì yêu sách đường “lưỡi bò” đứt khúc 9 đoạn và chủ trương “chủ quyền thuộc ta, gác tranh chấp cùng khai thác”. 
Tháng 5-2009, tình hình thêm nóng bỏng với việc Việt Nam tự trình và cùng Malaysia trình hồ sơ chung ranh giới thềm lục địa ngoài 200  hải  lý  và phản  đối  của  Trung Quốc. Phái  đoàn  đại  diện của Trung Quốc tại LHQ lần đầu tiên chính thức khẳng định yêu sách của nước này với tất cả vùng nước và các đảo trong phạm vi “đường yêu sách lưỡi  bò”. Việt Nam và Malaysia cho  rằng  hồ sơ ranh  giới  thềm lục địa của mình được tính từ đường cơ sở đất  liền nên không ảnh hưởng đến quyền lợi của các nước nào khác.
Tầm quan trọng chính trị,  chiến lược và kinh tế của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đòi hỏi phải có được một giải pháp tổng thể. Nhưng trước hết tranh chấp ở đây phải được coi là tranh chấp pháp lý, trong đó cần dựa trên danh nghĩa pháp lý nào để  xác  định  chủ  quyền  trên  các  quần  đảo  này?
Câu hỏi được đặt  ra  là: đây có phải  là  tranh chấp có  liên quan đến quyền thụ đắc lãnh  thổ được coi  là vô chủ (res  nullius) hoặc là tranh chấp một  vùng lãnh thổ trên đó chủ quyền quốc gia đã được xác định, nhưng với thời gian và sự  phát triển của các sự kiện, lãnh thổ đó trở thành lãnh thổ từ bỏ (terre derelictio)?
Do việc chiếm cứ các đảo  khác nhau tại các giai đoạn khác  nhau và do có quá nhiều các  danh nghĩa khác nhau được đưa ra trên cùng một vùng lãnh thổ. Đã có khá nhiều tác phẩm trong và ngoài nước viết về tranh chấp  chủ  quyền  trên  hai  quần  đảo  Hoàng  Sa  và Trường Sa.
Chúng tôi sẽ cố gắng nghiên  cứu sâu các luận thuyết của mỗi bên tranh chấp dưới ánh sáng của thuyết luật theo thời điểm (Intertemporel).
Luật theo thời điểm do M.Hubert đưa ra lần đầu tiên trong vụ đảo Palmas bao gồm  hai nguyên tắc cơ bản: 
1) Một sự kiện pháp lý phải  được đánh  giá  dưới  ánh sáng  của luật mà nó là đương thời  chứ không phải dưới ánh sáng của luật có hiệu lực vào thời điểm mà tranh chấp nảy sinh hoặc được giải quyết;
2) Một luật lệ không thể duy trì trong một hệ thống pháp luật trừ phi nó phù hợp với các yêu cầu trong  hệ  thống  đó. 
TS Nguyễn Hồng Thao (Theo báo Thanh Niên)

Kỳ 3: 
 
Trước  hết  Trung Quốc (TQ)  yêu  sách  chủ  quyền  trên các quần đảo  trên cơ sở quyền phát hiện và  sự quản lý. Lập luận của TQ bao gồm: 1. Người TQ đã phát hiện ra các đảo này sớm nhất và đã đặt tên cho chúng. 2. Ngư dân TQ đã khai thác các đảo này từ  hàng  nghìn  năm  nay. Điều đó chứng  minh  chủ quyền của TQ. 3. Sự  quy  thuộc  các  đảo  này  vào  TQ được củng cố bằng các phát hiện khảo cổ học. 4. TQ đã  thực  hiện  các  hành  động  cai quản trên các đảo này từ lâu đời. Chúng  ta  sẽ  xem  xét  lập  luận  của  TQ trong hai tiểu giai đoạn sau: thiết lập một danh nghĩa ban đầu và việc củng cố danh nghĩa đó.
“Từ  thời Hán Vũ  đế  trước  công  lịch  hai  thế  kỷ, nhân dân TQ đã bắt đầu đi lại trên biển Nam. Trải  qua  thực  tiễn  hàng  hải  lâu  dài  nhân  dân TQ  đã  lần  lượt  phát  hiện  các  quần  đảo  Tây  Sa (Paracels)  và Nam  Sa (Spratlys)” - Sách  trắng  của Bộ  Ngoại  giao  TQ  ngày 30.1.1980:  “Chủ  quyền  không  thể  tranh  cãi  của  TQ trên các đảo Tây Sa và Nam Sa” đã khẳng định như vậy. Để chứng minh danh nghĩa  lịch  sử của họ, phía TQ đã dựa trên những cuốn sách chính như sau:
- Nam châu dị vật chí của Dương Phù và Phù Nam truyện của Khang Thái, đều viết vào thời Tam Quốc (220-265); Vũ  kinh  tổng  yếu của Tăng Công  Lượng  (998-1078) và Đinh Độ (990-1053) thời Tống biên soạn; Mong Liang Lu được soạn dưới thời nhà Tống (960 - 1127); Đảo di chí  lược do Vương Đại Uyên soạn dưới thời nhà Nguyên (1206 - 1368); Đông Tây  dương  khảo của Trương Nhiếp  viết dưới thời nhà Minh (1368 - 1644); “Trịnh Hòa hàng hải đồ” trong  Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi biên soạn đầu thế kỷ XVII; Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ đầu nhà Thanh; Hải  Quốc  văn  kiến  lục  của  Trần  Luân  Quýnh năm 1730; Dương  phòng  tập  yếu của  Nghiêm  Như  Dục viết, Trương Bằng Phi khắc năm 1828; Quỳnh Châu phủ chí giữa thế kỷ XIX; Quảng Đông đồ thuyết (1862-1875); Canh lộ bạ do ngư dân các đời kể lại.
Theo bản đồ do triều đình nhà Thanh ấn hành năm 1894 thì đến cuối thế kỷ XIX "lãnh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết” -  trong ảnh: Đại Thanh nhất thống toàn đồ (đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ (VN), đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan) - Ảnh: biengioilanhtho.gov.vn
Các  sách  kể  trên  hoàn  toàn  không  phải  là  các chính  sử  được  viết  bởi  các  cơ  quan  chính  thức  của nhà nước. Phần  lớn chúng  là những ghi chép về các chuyến đi, các chuyên khảo và các sách hàng hải thể hiện những nhận biết địa  lý của người xưa  liên quan không chỉ  tới  lãnh  thổ TQ mà  còn  tới  lãnh thổ của các nước khác.
Ví dụ, Hải Quốc văn kiến lục, đúng  như  tên  sách,  phần  lớn  nói  về  các  miền  mà người TQ gọi  là “man di” nhiều hơn  là TQ.
Sách Tống  sử phần Ngoại  quốc  chép  chuyện Chiêm  Thành: “Năm  Thiên  Hy thứ  hai  (1016)  vua Chiêm Thành là Thi Mặc Bài Ma Diệp sai sứ là La Bi Đế Gia chở đồ cống sang... La Bi Đế Gia nói  rằng người nước  tôi  trên đường sang Quảng Châu, nếu bị thuyền  dạt  ra Thạch Đường thì cả năm cũng không tới nơi được”.  Cứ  theo  đó  mà  suy  thì  từ  Chiêm Thành  đến Quảng Châu có vùng được  gọi là Thạch Đường  nhưng  không  có  nghĩa  Thạch  Đường  thuộc Quảng Châu và vì sách  này  chép  về  các  vùng  nước người  TQ coi  là “man  di”  thì  nó  không  thể được coi là thuộc  TQ.
Sách Dư  địa  chí, quyển  4  phần Cương vực  chép: “Phía  ngoại  vi  của Quỳnh Châu là biển lớn tiếp với các châu Ô, châu Lý, Tô Cách  Lương,  phía Nam  đến Chiêm  Thành,  phía Tây  đến Chân Lạp, Giao Chỉ,  phía Đông  đến Thiên Lý  Trường  Sa,  Vạn  Lý  Thạch  Đường... Người  địa phương đi thuyền đều không biết rõ đâu là vị trí thực của chúng”. Trong tất cả các sách kể trên, liệt kê một đống  lẫn  lộn  các  tên  Cửu  Nhũ  Loa  Châu,  Thạch Đường, Thiên Lý Vạn Đường, Trường Sa, Thiên Lý Trường  Sa  và Vạn  Lý  Trường  Sa  nhưng  không  có tên Tây Sa và Nam Sa. Bản  thân người TQ cũng  không định  rõ được  vị  trí  của  chúng. Điều đó, không  nghi  ngờ  gì  đã  dẫn  tới  những  cuộc  tranh  cãi bất tận giữa các nhà dịch thuật và các học giả về việc thống  nhất  các  tên  gọi  trên. Mặc dù Hung dan Chiu và Choon Ho Park cho  rằng Vạn Lý Thạch Sành chỉ Spratlys, M.S Samuels  lại bảo vệ tên đó dùng để chỉ đá  ngầm  mà  ngày  nay  có  tên  gọi  là  Trung  Sa (Macclesfield Bank).
Phù Nam truyện chép: “Trong Trướng Hải có các bãi san hô, dưới bãi là đá tảng san hô mọc trên đó”.
Nam Châu di vật chí ghi lại: “Kỳ đầu Trướng Hải nước nông có nhiều từ thạch,  thuyền  lớn  nằm  ngoài biên cương, đóng đai sắt, đi lại dựa trên la bàn”.
Xuất phát  từ  những  ghi  chép  đó,  người TQ cho rằng Trướng Hải  là biển Nam Trung Hoa bao gồm tất cả các đảo của biển Nam Hải. Tuy nhiên, chúng ta có thể có một vài nhận xét:
- Các đoạn văn trích trên không cho thấy rõ vị trí chính  xác  của  Trướng  Hải.  Chúng  cũng  không  xác định  rõ  các  thạch  sành  nói  trên  chính  là  Tây  Sa  và Nam Sa. Các sách trên, đúng như tên gọi, đều là miêu tả các  lãnh  thổ “man di”, nước ngoài, không phải  lãnh thổ TQ.
- Nam  Châu dị  vật chí được  soạn  thời Tam Quốc (220-265)  lại nói  tới việc  sử dụng  la bàn  trong hàng hải,  thế nhưng dụng cụ hàng hải này dường như chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ thứ X.
- Cụm  từ  “nằm  ngoài  biên  cương” cho  thấy  các đảo  đá  này  không  thuộc  lãnh  thổ  TQ. Giả định này còn được khẳng định bởi các  tài  liệu chính thức khác  của TQ mô  tả  và phân định  lãnh thổ của “Thiên triều” kết thúc ở điểm cực Nam của đảo Hải Nam  như: Quỳnh Châu  phủ  chí  (1731), Hoàng Triều  di  tông  tâm  lĩnh (1894),  Đại  Thanh  di  đồ (1905)... hay  các  sách,  bản  đồ  cổ  khác  của  người TQ đều xác định rõ điểm mút phía Nam của lãnh  thổ  TQ  nằm ở Nhai Châu,  thuộc  phủ Quỳnh Châu tỉnh Quảng Đông tại vĩ độ 18013’ Nam. Điều đó  còn được khẳng định bởi  sách Địa  lý  Giáo  khoa  thư,  Thương Vụ ấn Thư Quán, Thượng Hải (TQ) năm 1906 xuất bản: “Phía Nam bắt đầu là  vĩ  độ  18013’  Nam  lấy  bờ  biển  Châu  Nhai  đảo Quỳnh  Châu  (tức  đảo  Hải  Nam)  làm  điểm  mút”. Chúng ta không thấy trong các tác phẩm này một ghi chép nào về các quần đảo nằm ngoài điểm cực Nam đó.
TS Nguyễn Hồng Thao - (Theo Báo Thanh Niên )
 
Kỳ 4: “Bằng chứng khảo cổ” mập mờ và thiếu chính xác của Trung Quốc
QĐND - Thứ Ba, 16/08/2011, 22:45 (GMT+7)
Để củng cố lý lẽ về chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, người TQ sử dụng cả các luận cứ về khảo cổ. Người TQ cho là đã tìm thấy vết tích tiền cổ và vật dụng cổ có từ thời Vương Mãng (năm thứ ba trước Công nguyên cho đến năm 23 sau Công nguyên) trên các quần đảo.
Chang The-Kuang và S.Yeh viết rằng các đảo này có chứa “các tàn tích của khu dân cư, các vật dùng sành sứ, các dao sắt, các nồi gang và các vật dụng hằng ngày khác có niên đại từ thời Đường, Tống”. Báo cáo sơ bộ của chuyến khảo cổ học thứ hai trên quần đảo Tây Sa của tỉnh Quảng Đông ghi rằng “qua hai cuộc khảo sát, các nhà khảo cổ học đã khảo sát hầu hết các đảo, đá, bãi ngầm, các vũng của quần đảo Tây Sa và hầu như ở đâu họ cũng tìm thấy các đồ vật cổ và các lịch sử của quần đảo Tây Sa, bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta từ ngàn đời nay”.
Vấn đề đặt ra ở đây là trong luật quốc tế không tồn tại một quy tắc nào cho phép tự quy thuộc chủ quyền cho một quốc gia trên một vùng đất mà tại đó các cổ vật thuộc nền văn minh của nước đó được tìm thấy. Các cổ vật này có thể thuộc các ngư dân TQ đi lại và bị đắm thuyền trong vùng biển này, cũng như có thể thuộc các ngư dân Philippines, Malaysia hoặc của các tàu thuyền Ả Rập, Bồ Đào Nha, Hà Lan bị trôi dạt mắc nạn vào đây. Không có gì chứng minh được rằng các ngư dân TQ là những người duy nhất có các hoạt động định cư thường xuyên trên các đảo không có nước ngọt này.
Trong khi đó, năm 2001, trong khuôn khổ dự án 10 năm điều tra cơ bản khảo cổ học Trường Sa - Tây Nguyên - Nam Bộ, các nhà khoa học Việt Nam đã khai quật và phát hiện nhiều di tích khảo cổ có giá trị trên quần đảo Trường Sa. Trên chứng chỉ khảo cổ học, các nhà sử học đã xác định được các cư dân người Việt sinh sống ở Trường Sa là rất sớm, chí ít cũng phải từ thời nhà Trần và liên tục định cư, sinh sống ở đây trong các giai đoạn thời kỳ sau. Qua các hiện vật thu được, dựa trên căn cứ sử học và văn hóa học, rất rõ ràng để nhận ra có một sợi dây liên kết chặt chẽ giữa cư dân trên đảo với cư dân đất liền từ thuở sơ khai đến nay. Có thể những cư dân đầu tiên Trường Sa là kết quả của các cuộc di dân, tìm đất mới thời cổ xưa. Hoặc là các ngư dân Việt đi biển ghé vào và ở lại lâu dài, khai phá đất đai, tạo lập cuộc sống mới.
Một trang trong cuốn Hải ngoại kỷ sự (1695) của Thích Đại Sán, một nhà sư Trung Quốc đời Khang Hy, thuật lại chuyến du hành tới xứ Đàng Trong, thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Đại Việt - Ảnh: biengioilanhtho.gov.vn
Chủ quyền quốc gia đã được luật quốc tế định nghĩa về mặt pháp lý. Trương Hồng Tăng và các tác giả TQ khác lập luận rằng: “Dưới thời nhà Tống, nhiều sách vở đã ghi nhận rằng những ngư dân TQ thường tới đây bắt cá và thu lượm san hô (…). Theo Chư phiên chí (ghi chép về các nước chư hầu) của Zhao Rushi (Triệu Nhữ Quát) sống dưới thời nhà Tống cách đây 700 - 800 năm, người TQ đã biết rằng các quần đảo Tây Sa và Nam Sa là những vùng nguy hiểm cho hàng hải (…). Vào thế kỷ trước, chỉ có người TQ đã sống và khai thác một cách liên tục các quần đảo Tây Sa và Nam Sa (…)”.
Sau khi đã nghiên cứu sâu sắc các tài liệu TQ, ông Heinzig, một luật gia Đức đã rút ra kết luận chỉ bắt đầu từ thời nhà Tống (960) người TQ mới có thể tiếp cận với quần đảo Paracels (Hoàng Sa). Còn về việc hiện diện của người TQ trong khu vực Spratlys (Trường Sa) không có gì ghi nhận trước 1867, thời điểm một tàu nghiên cứu Anh gặp những ngư dân TQ tới từ đảo Hải Nam. Theo Heinzig, chỉ từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất người TQ mới bắt đầu gọi quần đảo Spratlys là “Đoàn Sa Trung Đảo”. ([1])
Sự tiếp xúc riêng rẽ của những cư dân TQ cá thể đối với Paracels liệu có đủ để thiết lập chủ quyền TQ tại đó không theo luật quốc tế? Các tác giả TQ khẳng định rằng TQ phát hiện ra Tây Sa và Nam Sa cách nay 2.100 năm, vào thời Hán Vũ Đế. Đối với họ, theo luật quốc tế và tập quán quốc tế thời kỳ đó: “Chủ quyền thuộc về người phát hiện” (Who discovers the territory, holds its sovereignty), đó là ngư dân TQ, và vì vậy TQ phải có chủ quyền trên đó".
So sánh với các tiêu chuẩn thụ đắc lãnh thổ, các ghi chép mà TQ viện dẫn không đủ chứng minh rằng quyền phát hiện đã được xác lập. Một đảo hoặc một quần đảo có thể là đối tượng nhận biết từ lâu đời của các nhà hàng hải, các ngư dân, các nhà địa lý… nhưng chúng vẫn chỉ được coi là lãnh thổ vô chủ
res nullius một khi quốc gia của họ chưa tiến hành một hành động nhà nước nào tại đó. Phan Thạch Anh cố chứng minh rằng vào thế kỷ XV, XVI chỉ cần quyền phát hiện là đủ để tạo nên quyền sở hữu đất vô chủ. Sở dĩ ông ta lập luận như vậy là để chứng minh rằng các hoạt động của tư nhân TQ là đủ để tạo ra quyền phát hiện ([2]). Thế nhưng các hoạt động tư nhân của các ngư dân TQ không thể mang lại hiệu lực pháp lý của “quyền phát hiện” và nó không thể được đánh đồng với quyền chiếm hữu.
Các bằng chứng của quyền phát hiện các đảo này như đã nêu trên rất mập mờ và thiếu chính xác. Chúng ta có thể đồng ý rằng các hoạt động của ngư dân có thể kéo theo sự chú ý và ý định của nhà nước trên lãnh thổ vô chủ. Tuy nhiên, yếu tố ý chí này không đủ khi còn thiếu yếu tố vật chất của các hoạt động nhà nước trên thực địa. Người TQ sẽ chứng minh như thế nào đòi hỏi này của luật quốc tế vào thời kỳ đó?
TS Nguyễn Hồng Thao – Nguồn Báo Thanh Niên
_________
[1] Theo Nguyễn Quang Ngọc, Sđd, tr 41. Trước khi Lý Chuẩn ra Hoàng Sa năm 1909, bản đồ TQ vẫn thể hiện đảo Hải Nam là cực nam lãnh thổ TQ. Năm 1928 trường Đại học Trung Sơn tổ chức điều tra quần đảo Tây Sa, được coi là mốc đánh dấu sự hiểu biết của người TQ về quần đảo Tây Sa. Tuy nhiên, cho đến năm 1934, bản đồ TQ vẫn chưa vượt quá quần đảo Tây Sa và đảo Triton, cực nam của quần đảo, ở sát phía dưới vĩ tuyến 16 được gọi là đảo cực nam với lời giải thích đảo là cột mốc đánh dấu lãnh thổ cực nam của TQ. Trong khoảng năm 1935-1936 địa danh Nam Sa và Đoàn Sa xuất hiện trên bản đồ TQ. Nam Sa được đặt tên cho bãi ngầm Maccelesfield Bank còn Đoàn Sa để chỉ Spratleys. Từ năm 1939 tên Nam Sa mới được dùng để chỉ Trường Sa của Việt Nam, tên Đoàn Sa mất đi, còn Maccelesfield Bank được đặt tên là Trung Sa.
[2] Phan Thạch Anh, The ptropolitics of the Nansha islands-China’s indisputable legal case, Beijing, December 19955 

Kỳ 5: Độ chênh của lịch sử trong Sách trắng Trung Quốc

Để hiểu rõ câu chuyện, có thể tham khảo Sách trắng của Bộ Ngoại giao nước CHND Trung Hoa năm 1980 và Sách trắng của Bộ Ngoại giao CHXHCN VN năm 1979, 1981 và 1988. Nhằm chứng minh sự quản lý của Trung Quốc (TQ) trên các đảo tranh chấp này từ hàng nghìn năm, Bộ Ngoại giao TQ chỉ đưa ra được ba sự kiện sau:
- Sự kiện thứ nhất: Từ thời nhà Tống (960 - 1127) Hải quân TQ đã đi tuần tra đến vùng biển quần đảo Tây Sa. Sự khẳng định này dựa trên cơ sở đoạn văn trích từ Vũ Kinh tổng yếu có lời tựa của vua Nhân Tông đời Bắc Tống. Đoạn trích trong văn kiện chính thức của TQ như sau: “Triều đình Bắc Tống lệnh cho Vương Sư đi phòng giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở Quảng Nam (tức Quảng Đông ngày nay) và “đóng tàu chiến đao ngư”.
Tác phẩm trên còn khẳng định: “Từ Đồn Môn Sơn, dùng gió Đông hướng Tây Nam 7 ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu. Cửu Nhũ Loa Châu là quần đảo Tây Sa ngày nay. Điều đó chứng tỏ quần đảo Tây Sa đã thuộc phạm vi cai quản của đời Bắc Tống”.
Theo Sách trắng 1981 của VN thì đoạn trích từ Vũ Kinh tổng yếu này là sự kết hợp ba đoạn riêng rẽ khác nhau trong một đoạn sau lời tựa:
“Lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở hai cửa biển phía Đông và phía Tây rộng 280 trượng đến Đồn Môn Sơn 200 lý đóng tàu chiến đao ngư. Từ Đồn Môn Sơn dùng gió Đông đi về hướng Tây Nam bảy ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu, đi ba ngày nữa đến Bất Lao Sơn (thuộc địa giới nước Hoàn Châu), ([1]) đi 300 hải lý nữa về phía Nam đến lăng Sơn Đông. Phía Tây Nam nơi đó là các nước Đại Thực Phật, Sư Tử, Thiên Trúc không thể tính được hành trình”.
Theo Nguyên sử (bộ sử chính thức của nhà Nguyên - TQ), “lãnh thổ TQ” dưới thời Nguyên phía Nam chỉ tới đảo Hải Nam, phía Bắc không quá sa mạc Gobi - Nguồn: gis.chinhphu
Rõ ràng trong đoạn trích kể trên của Vũ Kinh tổng yếu, có đoạn văn Bắc Tống “lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở Quảng Nam (Quảng Đông ngày nay)”, “đóng tàu chiến đao ngư”, có đoạn mô tả vị trí địa lý của đồn binh nhắc trên, đoạn khác tả lộ trình đi từ cảng Quảng Nam tới tận Ấn Độ Dương. Đó là hành trình khảo sát địa lý, đúng hơn là tuần tra lãnh thổ TQ. Không có gì trong đoạn trích trên cho phép khẳng định rằng Cửu Nhũ Loa Châu chính là quần đảo Tây Sa. Đối với chúng ta, đó không thể là bằng chứng đầy đủ chứng minh rằng ngay từ thời nhà Tống, quần đảo Hoàng Sa đã thuộc quyền quản lý của TQ và “Hải quân TQ đã đi tuần tới các đảo Tây Sa”.
- Sự kiện thứ hai: Việc đo thiên văn trong biển Nam Hải vào đầu đời Nguyên đã khẳng định rằng các đảo là một bộ phận của lãnh thổ TQ.
Sách trắng của Bộ Ngoại giao TQ 1980 viết:
“Năm thứ nhất đời Nguyên tiến hành đo đạc thiên văn 27 nơi trong nước, nhà Nguyên năm thứ 16 (Công nguyên năm 1279) Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đích thân sai Đồng Trí Thái, Sử viện sử Quách Thụ Kinh, nhà thiên văn nổi tiếng đến biển Nam tiến hành đo đạc. Theo Nguyên Sử, điểm thiên văn Nam Hải nằm ở phía Nam Châu Nhai (thuộc đảo Hải Nam) và kết quả đo đạc cho thấy Nam Hải ở vĩ tuyến Bắc 15 độ. Điểm thiên văn Nam Hải chính là ở quần đảo Tây Sa ngày nay. Điều đó nói rõ quần đảo Tây Sa thời Nguyên đã là nằm trong biên thùy TQ”.
Thực ra, Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn được ghi chép như sau:
“Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi. Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc”.
Khái niệm “bốn biển”, theo ngôn từ TQ, chỉ rằng các lãnh thổ này nằm ngoài lãnh thổ quốc gia. Trên thực tế, dưới đầu đề “đo đạc bốn biển”, Nguyên Sử chép rõ tên 27 nơi đo đạc thiên văn trong đó có những địa danh hoàn toàn không thuộc cương vực TQ như Cao Ly (Triều Tiên), Thiết Lặc (Siberia). Chính Nguyên Sử cũng nói rõ “lãnh thổ TQ” dưới thời Nguyên phía Nam chỉ tới đảo Hải Nam, phía Bắc không quá sa mạc Gobi.
Các quan trắc thiên văn trên có phần tiến hành trên lãnh thổ TQ, có phần nằm ngoài cương vực TQ. Do đó, nó không thể tạo ra bằng chứng xác đáng cho chủ quyền TQ. Ngay cả khi điểm quan sát thiên văn “Nam Hải” nằm trên các đảo Tây Sa, thì việc quan sát thiên văn đó… cũng không đủ để thể hiện ý chí của “Chính phủ đó thực hiện chủ quyền trên các đảo đá nhỏ này”. Hơn nữa một hành động nghiên cứu khoa học không thể tạo nên một danh nghĩa chủ quyền.  
TS Nguyễn Hồng Thao – Nguồn Báo Thanh Niên
Tin liên quan