Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc (26-29) tt

Trên đỉnh Hải Vân, ánh trăng khi mờ khi tỏ. Gió lạnh từng đợt lùa vào lều vải. Ông bỏ thêm củi cho to ngọn lửa để xua đuổi khí lạnh đang bao vây quanh người. Xa xa dưới dãy núi chỉ thấy một dải trắng xám mờ mờ. Trời lẫn lộn với biển và thỉnh thoảng có đám mây từ từ bay qua dưới chân ông. Ông lại nhớ Kiếm Qua sau thời gian động phòng 2 người đều không có mái nhà để ở và cả hai đều ở cách nhau 4, 5 cây số. Lúc đó ông từ Cục chính trị được điều về tại báo Kháng Địch nên ít gặp Kiếm Qua. Tờ báo này đã ra được 20 lần và viết chữ ngược lên đá litho1 để in báo. Khi ông ra thêm 1 số thì tòa báo bị máy bay Nhật đánh phá sập trụ sở. Ông được Ủy ban huyện cấp cho 1 máy in với số chữ chì. Những máy móc này rất lạ đối với ông nhưng ông quyết mấy mò cùng anh em xếp chữ tranh thủ ra báo lần thứ 22 - Sức làm việc của ông suốt ngày đêm đã cuốn hút các nhân viên cán bộ, nhà in và toà soạn cùng làm như ông. Từ đấy ông viết truyện ngắn, xã luận và thơ. Thời gian ông phụ trách đã ra được 5 lần báo thì ông được chuyển công tác.
Tư lệnh Bát lộ quân đã công nhận tờ báo của biên khu do ông làm chủ nhiệm đã tạo nội dung tốt và trình bày phong phú hơn trước. Song song trong thời gian này ông cũng đã thành lập Ban kịch nói với 5 người và 1 nữ là vợ ông. Sau lần ấy vợ ông đã lôi kéo bạn bè trong hội phụ nữ được thêm 4 người làm ca sĩ trong Ban kịch2.
Năm 1939 do sự phát triển của Bát lộ quân yêu cầu phải thành lập thêm trường huấn luyện cấp bách, Hồng Thủy được điều về làm Phân hiệu phó phân hiệu 2 trường đại học kháng Nhật do La Thụy Khanh phụ trách. Đây là trường đại học đầu tiên tại khu căn cứ địa. Các giáo viên đều có trình độ tú tài trở lên, Hồng Thủy phụ trách chủ nhiệm khoa chính trị.
Thu đông 1939 Bát lộ quân đánh 3 trận lớn tại Trấn Đông Bắc đập tan chiến dịch vây quét mùa đông của giặc Nhật. Sau đó Sư đoàn Hạ Long lại thắng 1 trận lớn tại Trần Gia Trang gần nhà trường.
Ngày 3 tháng 4 năm 1940, tướng Nhật là Trung tướng Abê Norihido phái Đại tá Mêruna Kankichi chỉ huy 1500 quân tấn công khu căn cứ cách mạng. Đội quân này đã bị Bát lộ quân tiêu diệt hoàn toàn tại núi Nhạn Túc - Đại tá Kankichi bị chết dưới hoả lực mạnh mẽ của Hồng Quân.
Trung tướng Abê người đã tự phụ là vị chỉ huy tài giỏi đứng đầu trong hàng tướng Nhật Bản, sau cái chết của sĩ quan cấp dưới, ông coi đây là một cái tát lớn của Hồng Quân đã giáng vào mặt ông. Tính tự cao, kiêu căng đã làm ông nổi giận. Bốn ngày sau ông Abê thân chinh dẫn đại quân tấn công vào biên khu tại Hoàng Phố để trả thù trận thua cay đắng vừa rồi. Abê đã bị đại quân Dương Thành Vũ bao vây. Một trận chiến đấu khốc liệt giữa hai bên. Sau cùng Abê bị tiêu diệt cùng quân đoàn của mình. Chiến thắng oai hùng này đã vang dậy khắp cả nước Trung Hoa vì đây là chiến thắng to lớn nhất chưa từng có của Hồng Quân.
Đêm nay nhớ đến chuyện cũ ông ngâm nho nhỏ, bài thơ ông viết về Abê sau trận thất bại to lớn này. Bài này đã được đăng lên báo Kháng Địch.
“Chiến thuật mũi dao nhọn thọc sâu”
“Phản công hợp kích”
“Phân khu càn quét”
Còn có trò nào
        có thể làm
bày ra cho hết!
Hỡi các anh hùng “Hoàng khuẩn”!!
(Hoàng quân)
“Chín mũi tiến công”
“bảy vòng vây quét”
Đã bao phen
Mộng xâm lược tan như bèo bọt
Thế nhưng
Như lợn chết, không sợ dội nước sôi:
lại muốn tới
lại phải tới
lại phải mò đến nơi
Chiến dịch Trần Gia Trang
Bài học đó
vẫn không dạy người sâu sắc
trận tiêu diệt Ngân Phương Nhạn Tú
cũng chưa làm người mở mắt
Cho nên “Trung tướng Abê”, con người xuất sắc,
thân chinh xuất mã
là danh tướng, tỏ rõ uy phong
nở hết cỡ “Đoá hoa danh tướng”
Tiếc thay!...
        Hoa đẹp mà sao “mệnh bạc”
“Danh tướng chi hoa”
cũng chẳng sao tránh nổi
mệnh vẫn bi thảm trời dành
Ô Ê hô! Ra ma!

*
Đường sao mà hiểm ác
như báo “Triều Nhật” đã nêu
đúng đấy
những con đường
        Trung Quốc
bọn xâm lược đi trên đường Trung Quốc
thì đâu đâu cũng là hiểm ác.
dù là phương Nam
hay lên miền Bắc
“Trung tướng”
cũng chẳng còn đường nào khác
… ngoài những con đường hiểm ác...
Vậy làm sao?
        miệt mài,
                lặn lội,
Ông cố gắng
miệt mài
mò mẫm,
từ Trương Gia Khẩu tới được Mã Dịch xong,
là đến...
        chỗ cuộc đời ông đi tong!
“Trung tướng”
Cái vận ông đen như chó mực
Không!...
Cái vận tối của Thiên hoàng mới là đích thực,
đã hại ông!
biến ông thành cây mục
chẳng nhận nỗi hình dung
Biển báo đường
đã đề rất rõ:
“Trương Gia Khẩu” từ chữ “khẩu” mà ra
“Trương Gia Phần” theo chữ “phần” mà tiến
“Xin lỗi ông,
Đừng nổi cáu!...
Trung Quốc không có họ “Abê”
trong tính danh trận họ
Họ Trương là họ đứng đầu!
Vậy nên ông,
vừa tới địa giới “Phần”
Đạn pháo!
Lũ đạn pháo thật là vô lễ
đã đợi ngài tới nổ ầm ầm.
Ông đã tới nơi ông định tới,
miệt mài,
mò mẫm
mời tới được chả muốn tới:
“Phần mộ Abê”
(trên nghĩa trang đã ghi)
“Adi đà phật!
Quan thế âm Bồ tát,
xin cứu khổ ông
cứu nạn cho ông ấy,
Khổ nạn của ông do chiến tranh xâm lược đấy!
“Trung tướng”
Ngài thương kẻ dưới trướng lắm nhỉ?
thương chàng đội trưởng Kankichi
Ngài thương hắn...
hết lòng chiến đấu
khổ cực
bên vực Nhạn Túc
chết rục
Ngài rơi lệ
Ngài nắm tay kêu
và bèn cùng hắn
chết theo...
Ôi gương “nhân ái” thực là đáng nêu
Chúng tôi
đám con cháu của Thái Hàng Sơn
Xin cám ơn ngài
Từ huyện Thanh Sơn
quê hương ngài yêu dấu
đã miệt mài
mò mẫm
đến tặng cho
mảnh đất khô cằn
thêm được ít phân bón
Đoá hoa danh tướng!...
Nay thành phân bón cho Thái Hàng Sơn
Hồng Thủy rất có tài về thơ, văn. Đoàn kịch do ông tổ chức tại Trung Quốc lúc đầu chỉ có vợ ông và ông đơn ca, hoặc nói chuyện tếu vì ông rất có khiếu hài hước. Trong cuộc trường chinh vạn lý rất khổ sở, đói khát, ai nấy mặt mày ủ rũ, mồ hôi đầm đìa ông lại có nhiều tình tiết để khai thác làm đề tài văn nghệ. Trong hoàn cảnh gian nan ông vẫn lạc quan yêu đời và đem cuốn Kiều ra ngâm nga để quên đi những cực khổ trước mắt hoặc ông lại trêu chọc tướng Trần Canh và anh em đang mệt nhọc trên đường đi xa thẳm.
Lúc đầu tiết mục trình diễn rất nghèo nàn. Ông còn nhớ vợ ông hát được 6 bài là “cạn vốn.” Bài hát ruột của vợ ông được quân dân hoan hô với những lời lẽ mộc mạc, Nguyễn Sơn nhớ lại và se sẽ hát:
Chiếc đèn nho nhỏ leo lét cháy
Chồng tôi đánh trận tôi ở lại
Không buồn không đau không rầu rĩ
Tôi mang cho chiếc áo thật ấm thật mềm
A! Hây a!
Đàn con lớn lên lại đi đánh giặc Nhật
A! Hây a!
Nguyễn Sơn còn có khiếu sáng tác kịch thơ như “Xuân canh”, “Tòng quân Triều” và trường ca “Thiên chân” 3 bản bi kịch đã đăng nhiều kỳ báo. Những bài thơ ông đều được quần chúng và nhất là thương binh bộ đội thích nhất. Sau đó kịch của ông được các anh các chị kịch sĩ ở thành thị vào kháng chiến đã dàn dựng diễn xuất và sau này có những diễn viên nổi tiếng như Hồ Bằng, Diễm Hoa và các biên tập Lưu Giai, Hồ Khả, Đỗ Phong cùng các đạo diễn Nguỵ Nguỵ, Đinh Lý, Hồ Xô, Uông Dương về với ban kịch nên có thêm nhiều sáng tác giá trị và tiết mục biểu diễn càng thêm phong phú.
Đoàn kịch Kháng Nhật đã tạo thêm nguồn sinh lực trong quần chúng - là đạo quân tiên phong phục vụ nâng cao tinh thần chiến đấu và giáo dục bộ đội, quần chúng nhân dân trong khu căn cứ địa. Đây là đoàn kịch đầu tiên của Hồng Quân Trung Hoa có những kịch bản sâu sắc với diễn viên diễn xuất rất hay được toàn quân đội và dân chúng các tỉnh hoan nghênh.
_______________________________________
1. Phải viết chữ ngược và in bằng tay trên đá. Miếng đá trắng, viết chữ ngược bằng mực charbonel.
2. Ban Kịch sau thành đoàn kịch Kháng Nhật có tăng cường các tri thức nam nữ ở thành vào chiến khu nên lực lượng Đoàn kịch trở nên vững mạnh và phong phú về tiết mục biểu diễn.
3. Tiếc rằng chúng tôi chưa sưu tầm được tác phẩm và thơ của ông.


27
Qua đêm khác, trên dải Trường Sơn ông cũng đã không ngủ được. Ông đặt lưng trên vải bạt. Đêm càng khuya. Trăng mờ dần. Ông vẫn suy nghĩ miên man về những ngày hoạt động ở Trung Quốc, với người vợ trẻ nhưng kiên cường - ông nghĩ đến con ông, hai đứa Tiểu Việt, Hàn Phong còn nhỏ quá. Ông nằm trằn trọc, trong những hình ảnh quay cuồng. Mắt ông khi nhắm, khi mở.
Ba tháng trước đây ông đã nghe tin vợ con ông đều bị chết vì bom do máy bay Nhật oanh tạc. Không thể nào ngủ yên! Vợ yêu của ông có chết thật không! Chao ôi! Chiến tranh khói lửa mịt mùng. Cái gì cũng có thể gọi là đúng được. Ông bước ra ven rừng nhìn những ngọn núi xanh lam trùng điệp lớp lớp chung quanh. Xa xa có phải là cửa biển Thuận Hóa không? Ông lại nhớ đến cô Nội một chiến sĩ cách mạng năm 1940 của thời Nam Kỳ khởi nghĩa. Cô Nội trong thời kỳ bí mật đã từng là vợ đồng chí Trần Văn Bẩy, Bí thư Liên chi ủy Hậu Giang. Đồng chí đã bị giặc bắt và bị thủ tiêu trong tù. Cũng như cô Tú Anh1, cũng đi mua vật liệu làm súng, mìn cùng một công tác với cô Nội. Từ năm 1936 hai cô đã gia nhập cách mạng lúc còn rất trẻ. Đảng ủy liên tỉnh Hậu Giang đã giao cho hai cô công tác sưu tầm vật liệu làm vũ khí như thuốc nổ, ống nước đem về xưởng tại U Minh để chế tạo vũ khí, chuẩn bị thời cơ chống Pháp. Tuy cùng 1 công tác nhưng 2 người phải đi riêng với 2 hướng đi khác nhau.

28
Trước khi vào nhận nhiệm vụ tại Quảng Ngãi, Nguyễn Sơn đã ghé Huế hai ngày vì ông được biết một sĩ quan cao cấp Nhật chỉ huy các đội quân Nhật tại miền Trung nên ông cần gặp họ. Nếu thuyết phục được bộ chỉ huy này theo kháng chiến thì ta được lợi vô kể. Cuộc gặp gỡ đã diễn ra tốt đẹp.
Đã từ lâu ông có ý định thưởng thức cảnh đẹp của sông Hương núi Ngự do các bạn khen ngợi và mô tả về Phu Vân Lâu chỗ vua ngự và chùa Thiên Mụ.
Đây cũng là dịp may để ông được xem thành nội, lăng các vị vua triều Nguyễn, chỗ ở của vua, hoàng hậu và các cung tần mỹ nữ. Ở Huế còn có món ăn đặc biệt như cơm âm phủ, bánh bột lọc, tôm chua... và các nơi như chợ Đông Ba, bến Kim Luông, núi Ngự, đò sông Hương...
Ông lái ô tô đến Huế, ông được Ủy ban nhân dân thành phố bố trí ở tại khách sạn Morin Frère và ăn tại nhà sẹt2. Qua một đêm trên giường nệm êm ái, ông thức dậy đi tắm. Ông đã phải ở Huế hai ngày trong việc gặp gỡ sĩ quan Nhật.
Lúc tờ mờ sáng ông lái xe qua cầu Tràng Tiền. Ông rẽ bên trái từ từ đậu vào lề đường. Ông tò mò muốn biết chỗ vua hay ra hóng mát tại Phu Vân Lâu. Ông nhớ rất rõ lúc ấy ánh mai vừa hừng sáng. Ông bước lên bậc tam cấp của ngồi nhà cổ kính cất gần bờ sông. Chung quanh cỏ cây xinh đẹp. Chợt ông sững sờ nhìn thấy bóng một người đàn bà đang đứng nhìn ra bờ sông Hương. Người phụ nữ này dong dỏng tầm thước. Trên đầu mái tóc đen huyền được bới gọn và xệ xuống dưới vai. Gió dưới sông thổi lên làm bộ bà ba lụa trắng của cô dán sát vào người nổi bật những đường cong tuyệt mỹ. Phía sau đã vậy ông tìm cách ra phía trước để quan sát. Ông giả vờ hỏi:
- Thưa cô! Tôi từ Hà Nội vào, nghe nói chùa Thiên Mụ đẹp lắm, mong cô chỉ hộ chùa Thiên Mụ đi đường nào?
- Thiên Mụ à! May quá, người ta mới chỉ cho tôi, tôi cũng đang định đến đó.
- Thế tôi có thể đưa cô đi được không? Tôi đậu xe ngoài kia.
Ông nói thêm:
- Người bạn ở Hà Nội có giới thiệu về bún bò Huế ở Đông Ba, mắm tôm chua ở thành nội, cơm âm phủ, tiện thể mời cô ăn thử bún bò Huế sáng nay!
- Quá hân hạnh cho tôi!
Cả hai lên xe ông cầm lái. Cô ngồi bên xe Jeep chăm chú nhìn hai bên cầu. Khi qua ngang cầu Tràng Tiền ông cao hứng ngâm nho nhỏ bắt chước giọng Huế. “Cầu Tràng Tiền mười hai cái nhịp - em đi qua không kịp ờ - chậm - Cô cướp lời - chậm thì em đi nhờ xe anh. Cả hai cùng cười thích thú. Không khí giữa họ đã trở nên thân mật.
Ăn bún bò xong, khi lên xe ông giơ tay nắm tay cô nâng cô lên chỗ ngồi. Bàn tay búp mầng của cô hồng hào mềm mại. Cô cảm ơn và nhìn ông với cặp mắt dịu hiền. Đôi má trái xoan của cô ửng hồng. Cô cười rất tươi và nói:
- Mong ông giúp đỡ những người miền Nam xa xôi như tôi
Ông cầm vô lăng lái và nói:
- Tôi từ miền Bắc vào công tác có thể sẽ vào tới miền Nam của cô. Tôi cũng ước mong được sự giúp đỡ của - lúc ấy hai người cùng nhìn nhau, ông nói tiếp của mọi người và nhất là cô.
Trên xe, cô cho biết khi các mặt trận trong Nam tan vỡ cô cùng các đồng chí Dương Bạch Mai, Vũ Trường Khê (đã học 5 năm trường Hoàng phố) và Hà Huy Giáp đi thị sát mặt trận Buôn Ma Thuột khi trở về bị phục kích, Khê đã chỉ huy một tiểu đội bắn cầm chân địch để đoàn rút lui an toàn. Tiếc thay Khê đã bị một viên đạn vào ngực và hy sinh anh dũng. Năm ấy anh mới 24 tuổi. Đàm Minh Viễn anh ruột Đàm Quang Trung cũng hy sinh ở mặt trận này cách một tuần trước.
Ông liếc nhìn cô và thầm nghĩ người đẹp như cô lại thích chịu khổ cực nơi mặt trận. Quả thật cô là người đẹp toàn bích. Nếu so sánh Kiếm Qua có vẻ non trẻ và dáng người thấp hơn, chắc da chắc thịt với giọng nói cương nghị biểu hiện bản chất người nông dân cứng cỏi. Còn cô Nội lại có một vẻ đẹp quý phái trong nước da trắng hồng, với đôi mắt long lanh, với mái tóc được búi tròn và thòng xuống theo kiểu những thiếu nữ đảng Dân chủ đi kháng chiến ở Nam Bộ. Cô mặc bộ quần áo bà ba cổ “bà lai” 3 làm nổi lên một bộ ngực tròn trịa với thân hình thon thả. Quả là một vẻ đẹp lý tưởng trong sự giản đơn của bộ đồ màu mỡ gà lụa Hà Đông.
“Em Kiếm Qua! Hồn em bây giờ ở đâu có lẽ xác em và con biến thành những mảnh vụn trong làn bom khủng khiếp của bọn giặc Nhật và Quốc dân đảng. Tha lỗi cho anh trong sự so sánh ngày hôm nay. Đây cũng là đồng chí bạn của em đấy. Họ cũng gian nan cực khổ không kém em”.
_________________________________
1. Tú Anh là một nữ sinh – Đảng viên Đảng ủy Rạch Giá (Kiên Giang) đóng tại rừng U Minh. Thời đầu Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940. Sau 1975 cô là Giám đốc nhà hàng xuống khách sạn tỉnh Minh Hải suốt gần 20 năm, cô là vợ của đồng chí Tăng Hồng Phẩm, Bí thư tỉnh Minh Hải. Khi Tây đi ruồng bố U Minh, phần lớn các đồng chí bị bắt chỉ còn đồng chí Tám Kiệt (Tám Lục lạc) và Năm Tôn thoát khỏi. Rừng U Minh lúc ấy là nơi căn cứ của liên tỉnh ủy gồm Long Xuyên (An Giang), Rạch Giá (Kiên Giang), Cần Thơ (Hậu Giang), Sóc Trăng, Bạc Liêu (Minh Hải).
2. Nhà Sẹt, tiếng Pháp Cercle: Câu lạc bộ hồi ấy nơi này toàn tiếp khách sang trọng và các dân biểu Trung phần thời chế độ cũ (Diệm, Thiệu)
3. Bà lai: cổ chéo.

29
Khi xe dừng lại bên thềm chùa Thiên Mụ, hai người vào chùa và cũng dâng hương lễ phật. Đây là lần đầu tiên, ông thắp hương bắt chước vái theo cô.
- Anh biết tôi vái gì không?
- Chắc cô cầu cho ông, bà cha mẹ...
- Không phải? Tôi vái cho chồng tôi đấy.
Ông ngạc nhiên nhưng không dám hỏi giữa khói hương nghi ngút của điện thờ.
Khi hai người bước ra sân gần lan can chùa, họ đứng bên nhau cùng hướng mắt xuống dưới sông Hương nhìn con đò đang cô đơn cắm sào ở bên kia bờ sông.
Cô Nội nói tiếp:
- Chắc anh ngạc nhiên là tôi đã có chồng. Chồng tôi là Bí thư Liên chi ủy Hậu Giang1, tuy chúng tôi gần nhau có một đêm và sáng hôm sau chồng tôi bị bắt. Giặc Pháp từ Rạch Giá đi từ tờ mờ sáng vào bao vây căn cứ bắt hầu hết những người trong căn cứ. Lúc đó tôi đang đánh răng tại bờ rạch rừng U Minh. Tôi nghe tiếng súng, tôi vội lặn vào bụi ô rô nhưng tôi cũng bị bắt. Bọn Pháp dẫn tôi đi dập dềnh trên bờ kênh và lùng sục trong rừng. Khoảng chừng một tiếng đồng hồ thằng quan Pháp hô lớn
- Rassemblement2. Tiếng chạy và tiếng súng lách cách tiếp theo.
- En avant! à la direction du bâteau! Marche ! 3
Nguyễn Sơn là người học tiếng Pháp thông thạo. Ông nghe cô Nội nói tiếng Tây4 lưu loát và phát âm đúng giọng “đầm” 5 sau này ông mới biết cô là sinh viên địa chủ ở Bình Minh, tỉnh Cần Thơ. Từ đấy ông và cô nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp vì ông rất thích giọng nói của cô phát âm giống người Pháp.
Ánh sáng ban mai hồng lên trên bờ sông Hương. Hai người vừa chuyện trò vừa nhìn những con thuyền đánh cá đang buông lưới trên dòng Kim Luông.
Ông cũng đã nói đến công tác và hoàn cảnh gia đình vợ ông ở Ngũ Hành Sơn (Trung Quốc). Cô cũng nói thời gian cô công tác với các đồng chí ở rừng U Minh.
Cô nói tiếp: bọn Pháp đã bắt được tôi và một số đồng chí đưa về nhốt tại khám Rạch Giá, sau đó tôi bị đày ra Côn Đảo6. May mắn thay còn hai anh đi công tác đến trưa mới về là anh Tám Kiệt7 và anh Năm Tôn không bị bắt.
Chiều hôm đó các anh Quảng Trọng Linh, Chín Ngự, Ba Đôn đã gặp đ/c Ba Hồ trong rừng sâu. Đ/c Ba Hồ8 là Bí thư đầu tiên của tỉnh Rạch Giá năm 1941. Đ/c phân công các anh đi các nơi để tránh mũi nhọn của giặc và tạm thời ngừng hoạt động chờ lệnh mới. Căn cứ tỉnh ủy được chuyển về Canh Đền khoảng 8 cây số gần nơi đồng chí Chín Ngự đang ở.
Hai người nói chuyện càng tâm đầu ý hợp. Tình cảm đồng chí càng dâng trào. Họ đều đồng chung cảnh ngộ một bên không vợ, một bên không chồng. Họ nắm tay nhau tung tăng hết đi quanh thành nội thăm ngai vàng của Vua Bảo Đại, khi dừng bên hồ Tĩnh Tâm đầy sen nở thơm ngát. Khi vào Hoàng cung ông lại lái xe đưa cô Nội đi các Lăng Minh Mạng, Thiệu Trị, cuối cùng là lăng Tự Đức. Họ hẹn nhau sau này nếu có thì giờ sẽ đi thăm lăng vua Gia Long. Cô Nội hứa sẽ thuê một chiếc thuyền mui, cùng ông đi trên dòng sông dài 27 cây số để hưởng thú vui trên sóng nước sông Hương. Cô quả là một trí thức có tình cảm dạt dào, lãng mạn.
Tại Lăng Tự Đức 2 người đứng bên nhau nơi ngự phòng, vua Tự Đức thường ngắm cảnh và làm thơ ở đấy. Họ nhìn ra hồ sen nở đầy mầu hồng chung quanh nhà thủy tạ. Hương sen thoảng thơm ngát. Ông nhắc lại khi Bằng Phi chết, vua Tự Đức tiếc thương và đã làm một bài thơ trong đó ông còn nhớ 2 câu thơ rất hay:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi!...
Những đóa sen hồng như ánh lên giữa những tia nắng chiều trong cảnh tranh tối tranh sáng, Nguyễn Sơn nhẹ nhàng đặt hai tay lên vai cô và từ từ hai đôi môi giáp lại vào nhau. Hai thân xác nóng bỏng như đang lên cơn sốt đã hòa nhập trong những cánh tay xiết chặt giữa ánh chiều đang lóe sáng trước khi tắt.
______________________________________
1. Liên chi ủy Hậu Giang là Liên chi ủy miền tây Nam Bộ gồm Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên.
2. Rassemblement: tập họp
3. Theo hướng tàu chiến “tiến”
4. Tiếng tây: tiếng Pháp.
5. Đầm: tiếng Pháp: madame là đàn bà.
6. Côn Đảo (Poulo condore) cách Vũng Tàu 80 cây số.
7. Tám Kiệt được gọi là “Tám lục lạc”. Đi đến đâu, tiếng nói rổn ràng và lội nước rất hay. Sau này ông Tám làm thủ tướng chính phủ Việt Nam .
8. Đồng chí Ba Hồ tên thật là Huỳnh Hữu Phước Bí thư tỉnh uỷ đầu tiên của tỉnh Rạch Giá (Kiên Giang) - Trích tư liệu lịch sử đảng Kiên Giang

Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc tt

Tác giả: Hà Anh
Nhà xuất bản: Thanh Hoá
LỜI CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP NGUYÊN TỔNG TƯ LỆNH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VỀ TƯỚNG NGUYỄN SƠN

Anh Nguyễn Sơn lúc 16 tuổi đã tham gia phong trào Thanh niên cách mạng đồng minh hội và được vinh hạnh học tập tại trường Võ bị Hoàng Phố nổi tiếng của Trung Quốc. Khi anh về nước thì quân Pháp đã xâm lược miền Nam nước ta. Trong cuộc họp, Bác Hồ, anh Trường Chinh và tôi yêu cầu anh Nguyễn Sơn vào Nam phụ trách Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam (nơi diễn ra chiến sự ác liệt giữa ta và địch). Đây là một chức vụ cực kỳ quan trọng thể hiện lòng tin của Đảng và Chính phủ đối với anh.
Anh Nguyễn Sơn là tướng lĩnh có công với quân đội ta. Đặc biệt anh đã từng tham gia cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài ở Trung Quốc. Anh là vị tướng nước ngoài duy nhất của Hồng Quân Trung Hoa. Các đồng chí láng giềng khi nhắc đến anh đều có một tình cảm tôn trọng và sâu nặng. Năm 1993, tôi sang thăm Trung Quốc đã gặp vợ con anh Sơn, tôi rất vui và yên lòng khi thấy những đứa con bên đó cũng như những đứa con bên này đều đã thực hiện được những điều mà cha anh mong đợi, cần cù phấn đấu, học tập và công tác với tinh thần lạc quan.
Tướng Nguyễn Sơn là một chiến sĩ cộng sản của Trung Quốc và Việt Nam , là người có khí phách dũng cảm, cũng là một vị tướng tài không chỉ ở lĩnh vực quân sự mà còn ở các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. Anh luôn rất coi trọng đào tạo cán bộ. Trong phong trào luyện quân tại Quân khu 4 anh đã rất thành công khi đưa ra một hình thức huấn luyện “Đại hội Tập” được Bộ quốc phòng áp dụng trong toàn quân và nhân dân.
Có thể nói Cách mạng tháng Tám vừa mới thành công, cách mạng Trung Hoa còn chưa giành được thắng lợi, Đảng và nhân dân ta đã phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, độc lập tự chủ, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chính quyền non trẻ trong điều kiện bị bao vây đầy khó khăn phức tạp. Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và Đảng toàn dân đoàn kết xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, xây dựng từ dân quân đến sư đoàn chủ lực đầu tiên. Chúng ta đã nêu cao tinh thần tự lực tự cường, đã đứng vững và lớn mạnh, đặt nền móng vững chãi cho việc tiếp thu và sử dụng có hiệu quả sự viện trợ hết lòng của các nước anh em, đặc biệt là Trung Quốc.
Năm 1949 có một tài liệu của Pháp công bố, Pháp đã buộc phải thừa nhận: “Dùng lực lượng quân sự không thể thắng nổi Việt Minh”.
Anh Sơn về nước giữa những ngày khó khăn đó. Trong các cuộc thảo luận anh đã đưa nhiều ý kiến sâu sắc về bồi dưỡng cán bộ tác chiến, xây dựng bộ đội chủ lực, đặc biệt là xây dựng lực lượng dân quân. Anh phát biểu sôi nổi đã thu hút được sự chú ý của mọi người. Trong quan hệ bạn bè anh tôn trọng đồng chí, đồng đội. Anh thường tâm sự với mọi người thâu đêm, suối sáng làm cho ai cũng có cảm giác thoải mái và quyến rũ.
Sau khi công hiến hết mình cho miền Nam, mùa hè năm 1950 anh đã nhận công tác của Bác Hồ để đi Bắc Kinh. Trong thời gian kháng Mỹ viện Triều anh đã mang bệnh nặng. Mặc dù đã được nhà nước Trung Quốc hết lòng cứu chữa thậm chí gửi sổ y bạ đi hội chẩn ở Liên Xô nhưng bệnh tình anh không thể qua nổi. Đảng đã đón anh về nước để chữa bệnh theo yêu cầu của anh. Anh đã từ trần trong niềm thương tiếc vô hạn của người thân, bạn bè, chiến sỹ trên mảnh đất quê hương mình.
Mặc dù mất sớm nhưng anh đã để lại hình ảnh của một người cộng sản suốt đời cung cúc tận tuỵ cho sự nghiệp cách mạng nước ta và nước bạn. Hình ảnh một đồng chí - một người bạn chiến đấu thân thiết hết sức chân thành vẫn sáng chói. Anh mãi mãi được ghi nhớ trong trang sử cách mạng Việt Nam và khắc sâu trong mỗi trái tim chúng ta.
Hà Nội, tháng 06 năm 2000
Đại tướng Võ Nguyễn Giáp ký
Trích lời đề tựa của Đại Tướng đã viết cho cuốn “Nguyễn Sơn vị tướng huyền thoại” của Minh Quang - tháng 6/2000. Nhà xuất bản trẻ - 161B Lý Chiến Thắng TPHCM

LỜI TÁC GIẢ VÀ BẠN BÈ
cùng là sinh viên thuộc trường Võ bị I Nguyễn Sơn
(Trường Lục Quân Trung học Quảng Ngãi 1946)

Tướng Nguyễn Sơn sinh năm 1908 tên thật là Vũ Nguyên Bắc quê tại thôn Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội (nơi đây có nghề sơn mài dát vàng). Sau 23 năm chiến đấu trong quân đội Hồng quân Trung Hoa, ông đã tham gia nhiều trận đánh chống quân Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Năm 28 tuổi ông đã là Sư đoàn trưởng lại là dân biểu Quốc hội qua 2 nhiệm kỳ. Khi quân Pháp có dã tâm chiếm Nam Bộ để thôn tính Việt Nam lần thứ 2 ông được Mao chủ tịch chấp thuận về nước nhà tham gia chống ngoại xâm.
Đầu tháng 1/1946 Bác Hồ phong Nguyễn Sơn là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam . Ông đến Quảng Ngãi rồi lập tức lên đóng đại bản doanh tại An Khê.
Tôi cũng là người đầu tiên lên mặt trận An Khê phụ trách về quân giới tại mặt trận An Khê. Tôi lại có may mắn được gặp gỡ và nói chuyện với ông tại bờ suối An Khê. Ông cũng là trí thức tiểu tư sản, tôi cũng thế nên hai người dễ thông cảm nhau. Ông đã cho tôi biết về hoàn cảnh gia đình của ông ở Việt Nam và bên Trung Quốc.
Sau khi chỉ đạo các lực lượng chiến đấu tại An Khê phần đất gần quân khu 15. Ông lập giới tuyến phòng ngự chống địch bung ra từ Buôn Ma Thuột, ông dời đại bản doanh về Bồng Sơn. Ông dành thời gian vào mặt trận Khánh Hoà, Phan Rang để ổn định chiến trường quân khu 6. Khi trở về ông lại dời đại bản doanh về Quảng Ngãi và xúc tiến việc thành lập trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi với nhận xét quân đội ta lúc ấy rất non kém và thiếu nhiều cán bộ có năng lực chỉ huy trong chiến đấu nên vì thế phải có trường đào tạo cấp tốc. Tôi cũng đã đăng ký và thi đậu vào học trường này, có thể nói tôi có nửa năm làm việc dưới quyền Tướng Nguyễn Sơn cộng với thời gian học trường lục quân là một năm.
Rất nhiều sách nói về Nguyễn Sơn đúng cũng có, sai cũng có. Ở đây tôi xin được tổng hợp cuộc đời và sự nghiệp của ông qua con mắt nhận xét của một sinh viên là học trò của ông cùng với sự tham khảo của các bạn đồng học, chúng tôi nhận thấy trình độ có hạn chưa nói lên được tất cả những điểm ưu việt qua 30 chục năm chinh chiến đã rèn luyện ông thành con người thép với ý chí tấn công quyết chiến quyết thắng, không lùi bước trước kẻ địch, ông lại còn muốn lời văn, câu thơ, khúc nhạc, tiếng ca phải vang lên theo những bước chiến sĩ tiến lên tiêu diệt quân thù. Ông là nhà hùng biện, nhà thơ, nhà văn, soạn giả kiêm kịch sĩ nổi tiếng của ban kịch đầu tiên nước Cộng hoà nhân dân Trung Quốc. Do lối sống hài hoà nhiều khi hài hước dí dỏm đã thuyết phục một số lớn văn nghệ sĩ, số học giả có tiếng trong nước, những người thuộc chế độ cũ kể cả những sĩ quan phát xít và ngoại quốc cùng theo ông làm cách mạng.
Học trò của Thầy thành đạt rất nhiều, cán bộ tại các trường Võ bị I, Võ bị II, Trường quân chính đại đội, các lớp Trung đoàn, trường Thiếu sinh quân và trường Văn học kể ra có trên 5000 học viên trong vòng năm năm khi thầy hoạt động tại Việt Nam . Riêng các sinh viên trường Võ bị I khi nhập học có 480 sinh viên, đợt đầu loại 50 sinh viên do trình độ kém, sức khoẻ kém, hoặc thiếu kỷ luật. Đợt cuối 430 sinh viên được phân công hoạt động về các đơn vị ở ba miền đất nước.
Sau 30 năm kháng chiến thành công các sinh viên Võ bị I họp mặt chỉ còn 120 người (bảo vệ Thủ đô 40 sinh viên hy sinh). Trên 300 sinh viên đã được phủ quốc kỳ trên thân xác họ tại các chiến dịch Đông Xuân, Biên giới, Thượng Lào, Khe Sanh, Quảng Trị, Khánh Hoà, Đồng Tháp Mười, Trường Sơn, Điện Biên Phủ v.v...
Trong vinh quang cũng có những đau xót. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến gian khổ chống Pháp, chống Mỹ sự hy sinh tính mạng của cải là đương nhiên. Đa số sinh viên chúng tôi nằm trong thành phần địa chủ, tiểu tư sản, trí thức nên qua những đợt chỉnh phong, chỉnh đảng, cải cách ruộng đất một số cũng bị lao đao dao động nhưng cuối cùng đều khắc phục khó khăn noi gương thầy đeo đuổi kháng chiến đến ngày thành công.
Số sinh viên thành đạt có thể kể ra: Trung tướng Phan Quang Tiệp và trên 20 Thiếu tướng như Hồ Đệ, Lê Văn Kiện, Hồ Quang Hóa, Vũ Hắc Thông, Tống Trần Thuật, Lê Trung Ngôn, Dương Bá Nuôi, Y Block,... và trên 50 chục Đại tá. Ngoài ra, có 3 Đại sứ: Nguyễn Khắc Huỳnh, Tô Anh, Vũ Hắc Bồng, Nhà văn dã sử nổi tiếng Thái Vũ, hoạ sĩ Vũ Anh, v. v...
Về phía trường Thiếu sinh quân và các lớp văn hoá khác đều cũng có những người đã thành đạt làm: Bộ trưởng, Ủy viên Trung ương, Tiến sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư... chúng tôi mong rằng các bạn ở thế hệ sau tìm hiểu và noi gương chiến đấu của Thầy về mọi lĩnh vực.
Tôi nghĩ không những Thầy đã củng cố các Quân khu 4, 5, 6, 15 trở nên vững mạnh mà theo tôi công lớn nhất của Thầy lại là thực hiện nhiệm vụ do Bác Hồ giao cho khi qua Trung Quốc liên lạc mật thiết với các lãnh tụ để nhận được sự yểm trợ tối đa về vũ khí, về hóa chất... kể cả công lao của đoàn Cố vấn Trung Quốc sang giúp đỡ Việt Nam tận tình. Đây cũng là bằng chứng hùng hồn đánh bật những luận điệu cho là thầy Sơn qua Trung Quốc vì bất mãn địa vị.
Trong lần kỷ niệm 50 năm ngày thành lập trường Lục quân trung học Quảng Ngãi, thiếu tướng Lê Văn Kiện, Tư lệnh Tăng, Thiết Giáp là sinh viên Đại đội 1 đã đại diện cho toàn trường làm 2 câu đối mô tả tình quân dân cá nước. Ông trân trọng tặng Bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi Đỗ Minh Toại để tỏ sự biết ơn Tỉnh ủy, Ủy ban, Mặt trận Tổ quốc cùng các đoàn thể và nhân dân đã giúp mọi phương diện cho trường Lục quân.
“Quảng Ngãi dựng xây công đức lớn
Lục quân nhớ mãi cội nguồn xưa”.
Đồng chí Toại đã cho khắc hai câu thơ lên bia kỷ niệm của nhà trường. Khi tướng Nguyễn Sơn qua Trung Quốc đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chúc ông “Mã đáo công thành” trong công cuộc kháng Mỹ viện Triều. Quả thật ông đã đem chuông đi đánh xứ người như đại tướng mong muốn. Khi rời Liên khu tư bao nhiêu văn nghệ sĩ và đồng bào tiễn đưa ông. Họ đã khóc trong niềm thương nhớ kính mến. Phải chăng đấy là “triệu bất tường”.
Sau cái chết còn son trẻ của ông, bà Trần Kiếm Qua và bà Lê Hằng Huân đã gặp nhiều cực khổ trong vấn đề nuôi con khôn lớn thành tài. Khi đại tá Chúc, sĩ quan dưới quyền ông, đã đến thăm gia đình bà, ông đã phải khóc vì thấy những đứa con bé tí chập chững đã sớm mất cha. Theo di chúc của ông, bà Huân đã trao số tiền chính phủ Trung Quốc trao tặng Nguyễn Sơn tặng lại nhà nước Việt Nam .
Đấy gia đình Tướng Nguyễn Sơn đã thừa hưởng cung cách con người của Nguyễn Sơn là thế, là thẳng thắn, kiên cường, không vụ lợi, không khuất phục, không dua nịnh, cương quyết, tự lực, dũng cảm vượt qua các trở ngại của cuộc sống, tranh đấu cho hoà bình, cho tự do và công bằng, bác ái của nhân loại như ông. Ngay như các cán bộ văn nghệ dưới quyền cũng noi theo ông không khuất phục trước cường quyền, không bị lôi cuốn trước sự sai trái, sống trong sạch đúng lương tâm con người.
Giờ đây tượng Thầy đã có chỗ trong hội khoa học lịch sử Việt Nam . Tại núi Hồng Lĩnh nhân dân đã lập đền thờ thầy quanh năm khói hương nghi ngút. Chính phủ 2 nước Trung - Việt nhất là Chủ tịch Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Chu Đức... và các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta như: Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Võ Văn Kiệt, Nông Đức Mạnh khi viếng thăm Trung Quốc đã ưu ái chú ý đến gia đình hai bên. Các vị đã thăm viếng và tạo điều kiện để các vợ con Thầy được sum họp trong tình hữu nghị Trung - Việt bền vững. Vong hồn thầy chắc đã hài lòng vì mong ước về gia đình của thầy đã đạt được. Các con cháu Thầy ở Trung Quốc như: Hàn Phong đã trưởng thành là một học giả có tiếng vang được báo chí Trung Quốc khen ngợi. Tiểu Việt cũng là một Tổng giám đốc của Công ty liên doanh với Việt Nam . Tại nước nhà các con như: Thanh Hà, Nguyễn Cương đều là Trung tá và cũng là Giám đốc công ty liên doanh Hồng Đạt hoạt động giữa 2 nước Trung Việt và Châu Á. Cô Mai Lâm sống theo gương bố năm xưa cũng xông vào chiến trường miền Nam với tiếng hát của mình thúc dục miền Nam chiến thắng. Các cháu Vũ Tuấn là giáo sư, Vũ Kỳ Lân là nhà văn, Vũ Ký, cục trưởng trong Bộ Ngoại giao Việt Nam. Nói chung con cháu của thầy đều là những người thành đạt trong cuộc sống tự lập, họ tự đi lên bằng hai chân họ. Họ đang dắt tay nhau, hiên ngang đi trên hai con đường thênh thang có tên Nguyễn Sơn tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây chỉ là những mẩu chuyện nhỏ gợi nhớ đầy tình cảm thương mến đối với Thầy, nó chưa có thể là tác phẩm diễn tả đúng mức cuộc sống oai hùng của Thầy tại hai nước. Vì trình độ có hạn, tôi không đủ lời để nhận xét đánh giá và phê phán thầy tôi: một vị tướng có trình độ rất cao, chỉ có cấp trên của ông mới đánh giá đúng. Tôi mong những bạn là học trò của Thầy, những vị là bạn của ông, những nhà Khoa học, Nhà Văn hóa Nghệ thuật sẽ góp nhiều ý hay, tư liệu chính xác để tác phẩm viết về cuộc đời và sự nghiệp tướng Nguyễn Sơn khi tái bản được hoàn chỉnh hơn.
Xin trân trọng cám ơn quí vị, quí bạn.
Hà Anh (Nguyễn Quốc Tài)
Sinh viên số 229 - Trung đội 2 - Đại đội 3
Trường Võ bị I (Lục quân Trung học Quảng Ngãi)

Ý KIẾN CỦA BAN ĐẠI DIỆN TOÀN QUỐC,
BAN ĐẠI DIỆN PHÍA BẮC, PHÍA NAM CỦA TRUỜNG VÕ BỊ I
 (LỤC QUÂN TRUNG HỌC QUẢNG NGÃI) CÙNG MỘT SỐ SINH VIÊN

1- Thiếu tướng Hồ Đệ nguyên phụ trách Tiểu đoàn pháo binh 954/E34 chiến đấu tại chiến trường Điện Biên Phủ sau là Tham mưu trưởng Quân đoàn III. Ông là sinh viên Đại đội 3 làm Đại diện ban liên lạc toàn quốc của trường.
… Thầy Sơn đã để lại cho sinh viên chúng ta một kho kinh điển về quân sự, chính trị, văn hoá. Từ phép luyện quân, nuôi quân đến cầm quân... thầy trao cho chúng ta những căn bản về phát triển quân đội và văn hóa nghệ thuật. Những tư tưởng đi trước đã làm Quân khu 4 nổi tiếng một thời về mọi mặt.
Thầy để lại cho chúng ta một gương sáng về chiến sĩ quốc tế phục vụ vô tư cho nhân loại: cương quyết, kiên trì chiến đấu dũng cảm bất kỳ nơi nào có bọn đế quốc xâm lăng. Tuy nhiên, thầy rất mềm dẻo đối xử với mọi tầng lớp dân chúng và cán bộ các cấp. Thời gian dài tuy chiến đấu tại nước ngoài thầy vẫn luôn nghĩ phải làm gì cho tổ quốc của thầy. Quả đúng là tư tưởng của vô sản quốc tế. Sự cống hiến của thầy rất to lớn với hai dân tộc. Thầy là tượng trưng sự thắt chặt bền chắc tình hữu nghị giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam . Chúng tôi sung sướng được là học trò của thầy và cũng ngậm ngùi tiếc thương khi sức thầy còn có thể làm được nhiều nữa...
2- Đại tá Trần Đình Mai nguyên Vụ trưởng vụ I Tổng cục Mỏ địa chất (sinh viên đại đội 3).
… Thiếu tướng Nguyễn Sơn vị tướng đa tài huyền thoại như gần đây nhiều sách đã viết. Cũng như hàng trăm đồng môn khác chúng tôi thật vinh hạnh có được một người thầy, một biểu tượng tài năng ngời sáng: Trí, Dũng quả đoán, tình huynh đệ chan hoà, bình dị hiếm có. Thầy mất đi đã để lại vốn quý về quân sự, chính trị văn hoá nghệ thuật và chúng ta cũng mất đi một nhân tài hết lòng vì quốc tế vô sản và vì sự tồn vong của đất nước Việt Nam .
Sinh viên Hà Anh thuộc Đại đội 3 đã có may mắn sống bên thầy từ khi thầy nhận chức chủ tịch Uỷ ban kháng chiến miền Nam Việt Nam trong một năm. Với hai năm sưu tầm, anh đã đi từ nam ra bắc hay miền trung và cao nguyên, những nơi có dấu vết tướng Nguyễn Sơn đã hoạt động để lượm nhặt những tư liệu về một người thầy và cũng là một vị tướng lỗi lạc, oai hùng. Có những chuyện anh đã làm chúng ta xúc động khi tưởng nhớ tới thầy và các bạn đồng môn đã hy sinh làm rạng rỡ trường Lục quân trung học Quảng Ngãi nay là Võ bị I.
3- Thiếu tướng Võ Hắc Thông đại diện Ban liên lạc trường Lục quân trung học (nhóm A miền Bắc) là sinh viên Đại đội II của nhà trường. Ông đã phụ trách tổng kết chiến tranh của Cục Dân quân Bộ quốc phòng:
… Tôi là một trong số mười sinh viên được nhà trường chọn để đi theo thầy Sơn ra miền Bắc lập trường Võ bị II. Sau hôm khai giảng với trên 300 sinh viên, tối hôm ấy thầy Sơn triệu tập những sinh viên có giấy giới thiệu về sinh hoạt Đảng đều được mời đến họp tại văn phòng của thầy. Riêng nhóm sinh viên trường Võ bị Trần Quốc Tuấn thì chưa ai là đảng viên cả.
Ngồi trên chiếc chiếu dưới ngọn đèn dầu, thầy Sơn nhắc lại cương lĩnh của Đảng và năm bước công tác. Việc này chứng tỏ thầy rất chú trọng việc tổ chức và phát triển Đảng trong nhà trường. Một chuyện gây ấn tượng cho chúng tôi là thầy đã kể những sự gian khổ mà thầy đã trải qua trong cuộc vạn lý trường chinh để tiến lên phía Bắc lập căn cứ địa. Suốt dọc đường chống máy bay địch truy kích, chống đói, rét, bệnh tật với tinh thần sắt đá chiến đấu cho giai cấp vô sản, thầy đã chiến thắng trong chiến đấu góp phần quan trọng cho công cuộc thành công của cách mạng nước bạn. Những hình ảnh ấy đã động viên chúng tôi khi về công tác tại vòng đai thủ đô trong buổi đầu gặp nhiều khó khăn gian khổ nhưng chúng tôi đã vượt qua được. Có thể nói công tác tổ chức Đảng đối với thầy rất quan trọng. Trong khóa đó các sinh viên chúng tôi đã cố gắng tuyên truyền vận động và hai tháng sau chúng tôi đã phát triển được trên 50 chục đảng viên...
… Bằng việc làm trong những hành động cụ thể, bằng lý luận chuyên sâu, bằng lời nói có sức thuyết phục lòng người, bằng kho kinh nghiệm tích lũy nhiều năm trong sách vở và thực tế tại các chiến trường, với nguồn vốn dồi dào và nhiều khía cạnh phong phú trên mọi lĩnh vực với cuộc sống đầy sóng gió, trắc trở, oan trái trong cách mạng và đời thường đã hun đúc nên một vị tướng vừa kiên nghị, cứng rắn, vừa mềm dẻo đầy tình đồng chí, đồng đội, tình người đã cảm hoá cán bộ, chiến sĩ, nhân dân trong cuộc kháng chiến trường kỳ.
Một vị tướng văn võ song toàn mà sinh viên Hà Anh mô tả như là một thiên tài. Tôi cho là không quá đáng và đây có thể là bài học cho những thế hệ sau này noi theo.
4- Thiếu tướng Hồ Quang Hóa sinh viên Đại đội II trong Ban đại diện trường LQTH (nhóm C tại phía Nam ). Ông cũng là sĩ quan đã lấy khẩu cung đầu tiên của tù binh là Thiếu tướng Đe Castrie tư lệnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của Pháp.
… Nguyễn Sơn là một vị tướng khẳng khái dũng mãnh, oai phong nhưng rất chan hoà với cán bộ dưới quyền và dân chúng. Giới Văn nghệ sĩ rất thích ông vì lòng rộng rãi thương yêu giúp đỡ họ. Ông cũng là người sâu sắc, luôn có tư tưởng đúng đắn trong các môn thi ca, kịch nghệ, văn chương. Tôi đã đọc bản thảo của Hà Anh cũng là học trò thầy Sơn đã được sống gần thầy từ mặt trận An Khê, Hà Anh đã có một phần nào hiểu biết hơn các bạn khác. Việc người ta đồn thầy nhiều vợ, theo tôi thầy không phải là người đèo bồng, nhăng nhít. Các vợ đến với thầy đều có khoảng cách hợp lý, cho phép thầy có vợ nữa.
Thầy là người rất thương vợ, thương con không kể cả bên Tàu hay bên ta. Thầy chỉ có 5 năm để chỉ huy quân đội phía Nam trong hoàn cảnh khốc liệt với hai bàn tay trắng thầy đã tạo một đội ngũ cán bộ tin cẩn có trình độ dũng cảm quyết theo thầy ra sức chiến đấu xây dựng quân đội.
Năm năm đầy trí tuệ và mồ hôi thầy đã làm cho các quân khu 4, 5, 6, 15 từ yếu ớt trở nên vững mạnh. Thầy chú tâm dốc toàn lực đào tạo lực lượng dân quân các quân khu để có trình độ tự chiến đấu mặt đối mặt với quân thù. Thầy đã tạo một hậu bị quân với hậu cần dồi dào tiếp ứng cho các đơn vị trực chiến tại quân khu 4 về quân trang, quân lương, quân dụng, vũ khí...
Như Hà Anh nhận xét: du kích chiến là phương pháp tối ưu của các nước yếu chống đế quốc xâm lược cho nên thầy Sơn chú trọng rất nhiều về đào luyện dân quân. Cuộc đời thầy đầy lửa và ánh sáng để các sĩ quan noi theo trên đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chúng ta phải coi đây là “tinh thần Nguyễn Sơn”. Tinh thần sắt đá khắc phục mọi gian khổ khó khăn quyết vươn lên tới đích công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Còn nữa

Ký ức của “người đưa tin chiến dịch Thành cổ”

Hai nữ du kích Phan Thị Lệ và Lê Thị Hảo tình nguyện dẫn đường cho nhà báo Đoàn Công Tính vào Thành cổ Quảng Trị

Hàng trăm nhà báo của hai bên chực chờ bên ngoài “túi lửa” Thành cổ Quảng Trị trong chiến dịch 81 ngày đêm kinh hoàng của năm 1972 vì không thể tiếp cận với cái nơi kinh khủng này. Lúc đó, báo chí Sài Gòn đưa tin có hai nhà báo, một nhà quay phim tử trận khi tìm cách xâm nhập Thành cổ.
Máy bay Mỹ cho oanh kích tự do dù bên dưới binh lính của hai phía vẫn đan xen đánh giáp lá cà... Trong bối cảnh ác liệt ấy, có một nhà báo một mình vác máy ảnh đi vào nơi máu lửa. Đó là Đoàn Công Tính - phóng viên chiến trường duy nhất sống sót trở ra từ Thành cổ Quảng Trị. Ký ức lại sống dậy trong ông...
Đường vào cõi chết
Lệnh từ ban biên tập: “Chiến trường quá dữ dội, các đồng chí không được mạo hiểm để vào bên trong Thành cổ Quảng Trị”. Hàng trăm nhà báo chực chờ hàng tuần lễ vẫn không thể vào Thành cổ mà chủ yếu lấy tin bên ngoài, từ các chuyến chuyển thương ra.
Đó là ngày 15-8-1972, bên bờ bắc sông Thạch Hãn nhìn sang phía Thành cổ pháo từ hạm đội 7 của địch giội vào cứ như bắn pháo hoa. B52, trực thăng vũ trang… giội xuống, pháo lớn từ mặt đất bắn lên… tất cả là một bầu trời khói lửa tập trung trên khoảng hơn 1km Thành cổ. Mới ngày nào giải phóng, Thành cổ vẫn còn nguyên vẹn từng bờ tường, góc đất…
Phía bên địch, hai lực lượng tổng dự bị từ Sài Gòn ra, lính dù, lính biệt động lăm lăm khí thế chuẩn bị san bằng Thành cổ... Thương binh chuyển ra ùn ùn, có người bị bom napalm cháy hết da, chỉ còn thịt đỏ lòm, ai yếu bóng vía nhìn vào sẽ mất tinh thần ngay.
Tôi năn nỉ những cán bộ tải thương tìm đường vào trong, họ lắc đầu “không thể!”. Đường giao liên cứu thương chạy ra còn tắc huống hồ gì đường vào. Nhưng rồi tôi cũng tìm được hai o du kích mới từ trong “chảo lửa” ra, một người tên Lệ, 17 tuổi và một người tên Hảo, 20 tuổi. Sau một hồi ỉ ôi năn nỉ, hai cô liều mạng mở đường: “Thấy anh là nhà báo, chúng em tình nguyện đưa vào nhưng phải xin phép chỉ huy”. Tôi tìm gặp bí thư Đảng ủy xã Triệu Thượng, đầu tiên là cái lắc đầu.
Tôi lấy chuyện “chính trị” ra thuyết phục: “Thành cổ mình đang hồi quyết liệt, tôi muốn mô tả tư thế dũng cảm ngoan cường của ta, mà trong ảnh thiếu người nữ du kích sẽ không được hay lắm”. Tới đây thì hai cô Lệ, Hảo thấy tội quá, nói vào: “Chúng em xung phong đi mà, chỉ huy cứ cho anh ấy vào!”. Vậy là ổn rồi. Trước khi lên đường, tôi hỏi lại một lần nữa: “Quyết định dẫn tôi đi có thể là phải gian khổ và hi sinh nữa, các cô có sợ không?”. Hai cô lắc đầu: “Không!”.
Nụ cười chiến thắng dưới chân Thành cổ Quảng Trị
Tôi đã may mắn được gặp lại nguyên mẫu của bức ảnh Nụ cười chiến thắng dưới chân Thành cổ Quảng Trị, một cuộc gặp dù hơi muộn màng nhưng thật cảm động.
Bao nhiêu năm xa cách, tôi cứ ngỡ là người mà tôi chụp trên chiến trường đã chết, ngay cả khi tôi về thăm Quảng Trị, người hướng dẫn viên du lịch lúc giới thiệu bức ảnh người lính đẹp trai với nụ cười sống mãi của tuổi 20 cũng đi kèm với câu: “Thật tiếc, người lính ấy đã hi sinh”.
Chỉ đến khi một người quen phát hiện nhân vật trong ảnh chính là người cùng quê với anh và cho biết hiện anh ấy - Lê Xuân Chinh - đã lên Điện Biên làm kinh tế.
Hóa ra anh Chinh chỉ bị thương sau khi tôi chụp ảnh một ngày, phải chuyển ra tuyến sau điều trị, ngày về kẻ gian móc túi anh lấy hết giấy tờ, cuối cùng không được hưởng một chế độ gì. Đây cũng là một cuộc gặp ý nghĩa, bởi sau đó các giấy tờ của anh được xác minh lại, giờ cuộc sống của anh Chinh cũng tạm ổn.
Tôi thấy hạnh phúc vì đã góp phần nhỏ bé giữ lại hình ảnh của những người lính, một chút kỷ niệm trên đường hành quân hay một nụ cười.
Dù cái nụ cười hồn nhiên, yêu đời và chan chứa sức trẻ của Chinh năm nào - nụ cười chiến thắng dưới chân Thành cổ Quảng Trị, do một cuộc sống vất vả, éo le nên không thể còn được như xưa nữa, tôi vẫn tin rằng thời gian không làm khác đi sự tự tin yêu đời trong nụ cười của những con người ấy.
ĐOÀN CÔNG TÍNH
Dòng sông Thạch Hãn ban ngày trông hẹp nhưng đêm sao rộng quá, tôi mượn được hai phao cao su của công binh, quí như vàng, tôi đưa cả hai cho hai cô Lệ và Hảo, còn mình bọc balô, súng máy, máy ảnh... nói chung là toàn bộ gia sản vào trong tấm cao su, dốc ngược xuống làm phao bơi. Chúng tôi bơi qua sông cùng với một đại đội của đơn vị phiên hiệu 312 mới từ Bắc vào bổ sung chiến trường. Tôi cố sức đạp nước mà trên đầu đạn vẫn rít liên hồi...
Về bức ảnh Nụ cười Thành cổ
Qua tới bờ bên kia, lại tiếp tục chạy trong làn đạn pháo bắn xối xả vào bất cứ cái gì động đậy bên bờ sông. Tôi lao vào một tầng hầm mà sau này mới biết đó là dinh tỉnh trưởng. Đêm đó, chúng tôi nằm chịu đựng pháo và bom giội vào trong Thành cổ, chốc chốc từng vụn bêtông và khói bụi bay vào ngạt thở vô cùng. Có tiếng rên rỉ đâu đó trong hầm, tôi ngồi dậy lần bước đi tìm. Đó là những người thương binh đang chờ chuyển ra tuyến sau.
Có lẽ không có bất cứ từ ngữ nào để mô tả nỗi khủng khiếp của một nơi như vậy: tôi đã chứng kiến những ca đại phẫu do các y sĩ quân đội thực hiện mà không có một mũi thuốc tiêm gây tê nào, tiếng người gào thét còn to hơn cả tiếng bom. Một ai đó rên rỉ nửa mê nửa tỉnh: “Ôi, B52 lại đến kìa! Tôi đã chết chưa mà chụp hình đó?!”.
Buổi sáng, 6g tôi thức dậy và theo trinh sát ra khỏi hầm. Hai chiếc A 37 lao ra cắt bom gần cổng thành. Anh em lôi ngay tôi xuống hầm. Ngó lại những chiến sĩ không quen, tôi hỏi họ có sợ không, một anh còn rất trẻ cười tươi: “Chúng tôi đã tự nguyện viết quyết tâm thư bằng máu rồi, sợ gì nữa!”.
Một ý tưởng lóe lên trong đầu tôi làm sao để ghi lại một cách “thần” nhất của nụ cười nơi Thành cổ này - bởi ở đó, chỉ có sức mạnh tinh thần là chiến thắng được đạn bom và nỗi sợ hãi. Chụp dưới hầm thì lại không được. Tôi đề nghị anh em chuẩn bị để mình chạy ra ngoài canh máy, hễ tôi vừa canh máy xong, báo một tiếng, mọi người phải ùa lên ngay kẻo máy bay địch thả bom.
Tôi nhổm lên trên cửa hầm, bước ra cách 5m và canh máy rồi ra hiệu mọi người bước ra. Anh em từ từ, người trước người sau nhô lên, tất cả những nụ cười rạng rỡ ấy làm dâng lên trong tôi niềm cảm xúc lạ thường. Tôi run tay bấm máy tức thì... Vừa lúc đó bom địch cắt ngang nụ cười ngay trong khoảnh khắc. Anh em ôm súng xuất kích luôn, tôi ôm máy ảnh lao theo họ bấm liên tục.
Còn hai cô Lệ và Hảo, những nữ du kích dũng cảm đã mở đường đưa tôi vào đây, thì giờ tôi “trả ơn” họ bằng cách bấm mấy kiểu ảnh cho họ ở chân tường Thành cổ nham nhở vết đạn. Đạn vẫn rít trên đầu nhưng họ vẫn nở những nụ cười thật tươi và tự nhiên nhất.
Chụp ảnh xong họ lại hồn nhiên lao vào khói bom tìm kiếm thương binh, tôi cũng chạy hết hầm này đến hầm khác để bấm các kiểu ảnh chân dung chiến sĩ đang giành giật từng thước đất Thành cổ. Với tôi, họ đều là những người anh hùng và những bức ảnh mà tôi có được không thể gọi là bức ảnh thông thường mà là xương, là máu của những người lính.
Ngay tối hôm đó, tuy phải hứng chịu những trận bom, pháo ghê hồn hơn, nhưng đầu óc tôi chỉ tính làm sao chuyển những bức ảnh này ra ngoài, chuyển về Hà Nội để đưa tin cho thế giới biết sự tồn tại ngoan cường của những chiến sĩ anh hùng trong Thành cổ Quảng Trị. Những tấm ảnh này sẽ là những khoảnh khắc không bao giờ lặp lại và những con người trong ấy chưa chắc sẽ còn sống đến ngày mai...
Tôi cẩn thận lấy từng cuốn phim, gói riêng ra và ghi những dòng chữ bên ngoài: “Tôi là phóng viên chiến trường, đây là những cuốn phim chụp tại mặt trận Thành cổ Quảng Trị, nếu tôi có hi sinh, xin gửi về báo Quân Đội Nhân Dân...”.Vì chính tôi cũng không tin rằng mình có thể vượt qua lưới lửa mà trở ra an toàn…
NGUYỄN VĂN TIẾN HÙNG

Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam


Giuse Phạm Hữu Tạo


     tháng Tư 1975, nhiều người nghe nói đến Việt Cộng hay Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam rất ớn. Có chúng tôi trong đó!
     Bởi vì nói đến Việt Cộng, MTGP/MN lúc đó là nói đến những gì gớm ghiếc, ghê tởm vô cùng. Đến nỗi ngoài này, có một tác giả bị báo chí “quốc gia” tấn công rách như cái mền, vì dám viết về quân đội hào hùng say sưa và hãm hiếp, thì phải hiểu nói về VC hay tổ chức ấy không hãi hùng dễ sợ sao được! Nhưng phải bình tĩnh và nhìn vào thực tế. Bác sĩ có Hội Đồng Kỷ Luật Y Khoa (Medical Board Examiners), gồm một số bác sĩ hợp thành một ủy ban để điều tra những trường hợp vi phạm của đồng nghiệp. Luật sư có luật sư đoàn vv … Đại khái là ngành nghề nào cũng có ủy ban điều tra, kỷ luật. Thường dân thì có tư pháp, và nhà giam. Cho nên vì khác chiến tuyến nên VC hay MTGP/MN đều là xấu, và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), nhất là quân lực thì khỏi chê. Binh hùng, tướng mạnh, nói đến những gì không tốt hay sai quấy là phản tuyên truyền phá hoại của địch. Tốt đẹp thế sao lại phải có Nha Quân Pháp Bộ Quốc Phòng và Quân Lao? Chẳng lẽ Nha Quân Pháp và Quân Lao do địch xúi chính quyền VNCH lập ra để nói xấu, làm xấu quân binh chủng “hào hùng”.
     Việt Cộng và MTGP/MN đều là những kẻ đại thắng sau tháng Tư 75. Họ không cần phải ca ngợi kiểu khen phò mã tốt áo. Nhưng phải ngay thẳng công bình. Nghĩa là tận cùng bằng số có sao nói vậy.

     Bài này, trước hết, xin nói đến MTGP/MN.
     Phải gạt bỏ hận thù và thành kiến hay  tuyên truyền, đây là cái tênđep. Rất đẹp, muốn sửa hay thêm bớt không được. Cũng như những câu “đánh Pháp cứu nước, đánh Mỹ cứu nước”, hay “đánh Giặc áo đen bán nước” thêm ra sao và bớt thế nào? Trong dân tộc ai không muốn đánh đuổi ngoại xâm cứu quốc hay không muốn phát hiện nguyền rủa bọn nấp bóng đạo để bán nước; như những Nguyễn Văn Lý. Tám năm tù, quá nhẹ ngày xưa là phanh thây xé xác. Bộ tên linh mục này đui hay sao khi y không thấy Bênêdictô XVI đón tiếp TT Nguyễn Tấn Dũng, hay trình diễn ngủ gục trước màn ảnh truyền hình là Gioan Phaolồ II đã sang yết kiến quỷ vương Fidel Castro, chúa chùm loài quỷ đỏ của nước Cuba. Thôi thì giáo dân quèn không thấy cũng bỏ qua được, mặc dù không ngừng nghỉ :“Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển thế gian”; chứ linh mục Tađéo Nguyễn Văn Lý, lý đoán cùng mình, tranh đấu cùng mình, lại không thấy hai ngôi sao sáng cấp cao hơn trung ương đảng là thánh cha, cha thánh xiết tay thân hữu, hóa ra con mắt cha Lý là con mắt trâu luộc à? Hay là sách lược trên đàm dưới đánh? Hai ngàn năm cuội mà La Mã qua cầu trót lọt được hết, nên cũng phải thận trọng dù còn yếu tố ngờ vực (benefit of the doubt). 
     Trở lại với MTGP/MN phải công nhận hai điểm son, điểm sáng là :
     Thực sự chiến đấu gian khổ, cho đến lúc hoàn tất và chấm dứt nhiệm vụ.
      Và là một kế sách tuyệt vời nhất của cụ Hồ, không sơ xuất để Mỹ lấy cớ tấn công miền Bắc, gây xáo trộn hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam. Thử hỏi nếu Mỹ đánh ra Bắc nước ta, như chiến tranh Cao Ly thì nước ta còn bị tan hoang và tàn phế đến mức thảm thiết nào? Biết rằng chiến tranh chống ngoại xâm lại bị nội tuyến áo đen, thì gian khổ, hy sinh mấy cũng không sờn lòng!
     Với hai nhiệm vụ để hoàn thành sự nghiệp cứu quốc, MTGP/MN quả thật đã chết cho Việt Nam được sống.
     Nói đến MTGP/MN phải nói đến Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Việt Nam tức là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh (MT/HCM). Sao có thể cùng viết và ca ngợi hai mặt trận đối nghịch nhau như vậy? Thưa được, vì một mặt trận đánh giặc trong thù ngoài, một Mặt Trận mở mắt Việt kiều hải ngoại. Có thể vì vậy mà đề đốc có một người cháu là bác sĩ nhãn khoa!
     Không kể thường dân không nhìn thấy hay không ý thức được việc làm, chứ ngay cả các trí thức, lớp tinh hoa của miền Nam, các viên chức cao cấp chính quyền quân dân sự mà cũng làm thầy bói mù, nên lênh từ lúc ra khơi là đúng rồi. Đồng chí đồng tình không có. Thành lập theo cách đẻ dễ, đẻ không đau và nhất là ngay tại nơi chắc chắn làm mồi cho chính quyền bản xứ, vì chính quyền, lúc đó đang tiến tới và nay đã bang giao với Việt Nam. Trên thế giới có hai thế và thần quyền mạnh nhất, lớn nhất là Mỹ và La Mã; một bên đổ đô-la vào một bên ban phép lành tòa thánh; đạp vào mặt bọn chống Cộng đến nỗi chúng lịm người và lịm tắt, không lóe lên được một ánh sáng leo lắt bên kia đường hầm. Như vậy phải biết rõ, biết chắc những chính quyền bản xứ mọi nơi không bao giờ cho phép một đảng chính trị, một tổ chức không dưới sự kiểm soát của họ. Tại miền Nam không nói đến đối lập bị giết như Vũ tam Anh, Nguyễn Phan Châu vv … mà chỉ là đảng ngoài đảng cầm quyền cũng không sống nổi. Do đó, khi tố cáo hay nguyền rủa mặt trận của đề đốc buôn bán kháng chiến là sai, làm tiền là sai, vì làm gì hợp pháp khi chính quyền ở đâu  nhất là ở Mỹ không cho phép gì ngoài làm ăn, làm tiền? Như thế, chúng tôi xin thành thật minh oan cho tổ chức của đề đốc và cho đề đốc. Nên khi đề đốc hy sinh, ông Đạo Tôn, thờ đề đốc là đúng. Còn đồng bào đóng tiền là hoàn toàn tự nguyện, Mặt Trận kêu gọi và đồng bào đồng ý thuận lòng. Còn lời qua tiếng lại, ở đâu thời nào cũng thế. Ngay Tòa Thánh mà sách báo còn đụng tóe lửa ngay mặt (head-on collusion), huống chi Mặt Trận là tổ chức quần chúng công khai, tránh sao khỏi lời ong tiếng ve. Nên không gì hơn là ghi nhận sự thực của hai MT. Một đánh đuổi ngoại xâm, một triệt để tuân hành luật pháp Hoa Kỳ; làm ăn buôn bán, để đóng tiền vào ngân hàng có kiểm soát chặt chẽ, thử hỏi còn gì bằng! Chính quyền Mỹ chỉ muốn vậy thôi, còn tổ chức những ngày vinh danh, sách báo tung hô chỉ là những hành vi lịch sự xã giao; phải cân bằng bằng đóng góp, như góp phần làm cho «nền kinh tế thêm mạnh, tham gia vào giòng chính, tốn tiền và thời giờ; chứ không phải là nói xuông.
     Vậy xin trả lại sự thật cho hai mặt trận và nhất là kế sách tuyệt vời không để Mỹ có cớ đánh vào hậu phương Bắc Việt của miền Nam thành đồng vách sắt. Còn xây tượng đài chiến sĩ, hay treo cờ, nếu phạm luật, chính quyền bản xứ hiển nhiên không để yên. Xây tượng và treo cờ đều phải bỏ tiền ra, ai lọt vào “Thị Trường Chung” người đó hưởng. Ai bỏ ra thì cũng là tiền, làm cho đồng tiền luân chuyển, đúng sách vở của kinh tế tư bản! Còn chuyện đi Mỹ, chúng ta cũng phải nhận ra một thực tế nữa là phải nói đến hai chữ “du học!” Vậy mà đã thua trận, không cứu nước lại chống Mỹ, mà Mỹ vẫn cho đi du học, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, không cần bằng cấp, không cần thi tuyển mà từ đàn bà con nít, qúy vị cao niên, không phân biệt kỳ thị, đến nỗi thi quốc tịch cũng bằng tiếng Việt, muốn gì nữa, kẻo mang tiếng mẹ chồng độc ác khắt khe! Sang đến Mỹ, chưa học gì hết, lại đẻ con ngay, Mỹ đúng là quý nhân :”Tu thân là sửa mình, người dậy ta là thầy ta, người giúp ta là bạn ta”. Cùng một lúc vừa là bạn vừa là thầy, khỏi chê!
     Tóm lại, trước thành tích của MTGP/MN và bài học giải phẫu mắt của MT Đề Đốc, ngoan cố xác định: “Chúng tôi không công nhận cờ đỏ ”, nhưng chính quyền Mỹ không thèm trả lời, họ kiên nhẫn đợi những thế hệ tới được khai tâm của nền giáo dục Mỹ, thoát khỏi căn bệnh ấu trĩ! 
Phạm Hữu Tạo, ngày 2/8/07
ĐDTB. ngày 30/9/07

Thứ Năm, 4 tháng 4, 2013

NHỮNG BÓNG ĐÈN KHÔNG ĐƯỢC SÁNG

MẤY NĂM GẦN ĐÂY  Ở THỊ XÃ QUẢNG TRỊ CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG CÔNG ĐƯỢC MỌC LÊN, ĐÃ THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA MỘT THỊ XÃ BỊ TÀN PHÁ TRONG NĂM 1972.
NẾU AI ĐẾN ĐÂY HÔM NAY SẼ NGỠ NGÀNG TRƯỚC NHỮNG THAY ĐỔI VÔ CÙNG LỚN LAO CỦA THỊ XÃ.
VẬY MÀ, TRONG NHỮNG CÁI ĐỔI THAY ẤY CÓ MỘT SỐ ĐIỀU CẦN PHẢI LƯU TÂM, CÁI ĐẦU TIÊN LÀ TÍNH KHẢ DỤNG CỦA CÁC CÔNG TRÌNH.
ĐI DỌC THEO BỜ SÔNG THACH HÃN TỪ CHỢ LÊN PHÍA CẦU THẠCH HÃN, CÓ LẺ KHÔNG AI KHÔNG TRÁCH MÓC AI ĐÓ ĐÃ VÔ TÌNH QUÊN LÃNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG DỌC SÔNG.
KÈ CHỐNG LỞ THÌ DỠ DANG  ĐÃ ĐÀNH, NHƯNG CÁC TRỤ ĐÈN  NGHIÊNG NGÃ, CỎ MỌC NGÚT NGÀN DƯỚI CHÂN  , NƠI NÀO KHÔNG CÓ LAU LÁCH, CỎ DẠI LÀ NHỮNG VỒNG RAU LANG, CÁC BÓNG ĐÈN THÌ KHÔNG ĐƯỢC MỘT LẦN SÁNG TỪ CUỐI NĂM 2009 CHO ĐẾN NAY.
CHƯA NÓI ĐẾN CÁC CỐNG THOÁT NƯỚC ĐƯỢC THIẾT KẾ THEO DẠNG XI PHÔNG LÒN DƯỚI ĐƯỜNG DÂN SINH BẰNG BÊ TÔNG, MIỆNG CỐNG CAO HƠN PHẦN ĐẤT PHÍ TRƯỚC, ĐẦU RA LẠI THẤP HƠN, NHIỀU NGƯỜI NÓI VUI , XÂY 2 CÁI CỐNG THOÁT NƯỚC NẦY ĐỂ CHO DÂN NHỐT VỊT.ĐÚNG LÀ TRÌNH ĐỘ CỦA MỘT KỶ SƯ XÂY DỰNG ĐƯỢC HỌC VET. SAU ĐÂY LÀ MỘT SỐ HÌNH ẢNH ĐỂ MINH HỌA CHO NHỮNG Ý KIẾN KHÔNG ĐAU VÀO ĐÂU TRÊN:

 DÙNG ĐỂ TREO LỐP XE ĐẠP
 XIÊU VẸO HAY TẠO DÁNG CHO TRỤ ĐÈN
CỎ DẠI VÀ LUỐNG RAU DƯỚI CHÂN TRỤ ĐÈN
 KÍNH MONG NHỮNG NGƯỜI CÓ TRÁCH NHIỆM CẦN MỘT LẦN ĐẾN XEM

Thứ Tư, 3 tháng 4, 2013

Khí phách kỳ diệu

Qua các cuộc chiến tranh vệ quốc, cùng với biết bao vùng đất quả cảm, kiên cường của đất nước, tỉnh Quảng Trị huyền thoại là minh chứng hùng hồn cho đỉnh cao khí phách và trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Bắt đầu từ trưa ngày 30-3-1972, sau hai cuộc tiến công bất ngờ và quả cảm, với binh chủng hợp đồng quy mô lớn của quân ta, ngày 2-5-1972, thị xã Quảng Trị được giải phóng, sau 18 năm, bị Mỹ-ngụy chiếm đóng. Trong chiến dịch này, ta đã đánh tan tập đoàn phòng ngự mạnh nhất của địch ở Quảng Trị. Hơn ba vạn quân giặc bị loại khỏi vòng chiến đấu; 178 máy bay, 11 tàu chiến, 320 xe tăng, 237 khẩu đại bác và nhiều vũ khí đạn dược của địch bị phá hủy hoặc lọt vào tay Quân giải phóng.
Sau những giờ phút hoàn hồn, để lấy lại tinh thần và nhằm gây sức ép với ta tại Hội nghị Pa-ri, họp lại vào ngày 13-7-1972, đã nhiều lần trì hoãn, địch dốc toàn bộ lực lượng, mở cuộc phản kích, tái chiếm Quảng Trị, mà mục tiêu số 1 là chiếm lại tòa Thành cổ. Chúng gọi tên cuộc hành quân này là “Lam Sơn 72” và bắt đầu từ ngày 28-6-1972.
Địch huy động máy bay phản lực, bình quân mỗi ngày 150-170 lần (có ngày 220 lần), 70-90 lần chiếc B-52; 12-16 tàu khu trục hạm và tuần dương hạm, thuộc Hạm đội 7; 2 sư đoàn dự bị chiến lược là sư dù và sư thủy quân lục chiến, một liên đoàn biệt động, 4 trung đoàn thiết giáp (mỗi trung đoàn có 79 xe tăng và xe bọc thép), cùng hàng chục tiểu đoàn khác.
Đây là cuộc hành quân cực kỳ tàn bạo mà kẻ thù không từ một hành động tội ác nào: Ném đủ các loại bom bi, bom 7 tấn, bom điều khiểu bằng la-de; bắn đủ các loại pháo chụp, pháo khoan; thả chất độc hóa học, hơi độc và hơi ngạt... Số bom đạn chúng ném xuống đây khoảng 328 nghìn tấn, tương đương với sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống hai thành phố Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki (Nhật Bản), năm 1945.

Thanh niên, sinh viên nhập ngũ vào chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị năm 1972. Ảnh tư liệu.
 
Trong lịch sử chiến tranh thế giới, chưa hề có một cuộc hành quân nào mà mục tiêu chủ yếu chỉ đánh vào một tòa Thành cổ, có chu vi 2.080m, rộng chưa đầy 3km2, khiến đối phương có thể huy động một lực lượng hải, lục, không quân đông và sử dụng một khối lượng chất nổ khổng lồ như vậy.
Chính trong chiến dịch phản kích mang tính hủy diệt đó của kẻ thù, Thành cổ Quảng Trị đã mở đầu trang sử vô cùng oanh liệt, hào hùng bằng cuộc chiến đấu cực kỳ gian khổ, hiểm nguy và dũng cảm qua 81 ngày đêm mùa hè rực lửa, rung chuyển cả nước và toàn cầu từ ngày 28-6-1972 đến ngày 16-9-1972.
Lực lượng ta ở vòng trong thị xã, lúc đầu có Trung đoàn 48, Sư đoàn 320B và hai tiểu đoàn bộ đội địa phương. Khi cao điểm, có thêm Trung đoàn 95, Sư đoàn 325 và Tiểu đoàn 8 của Trung đoàn 64. Chỉ huy sở của Mặt trận thị xã đặt tại hầm trong dinh Tỉnh trưởng ngụy, bên bờ sông Thạch Hãn. Lực lượng vòng ngoài có Sư đoàn 320B ở cánh Đông, Sư 308 ở cánh Nam, cùng các đơn vị xe tăng, pháo cao xạ và lực lượng du kích các xã phụ cận. Các chốt quan trọng như: Long Quang, nhà thờ Trí Bưu, ngã ba Long Hưng, trường Bồ Đề, ngã ba Cầu Ga... là những nơi, quân ta bất chấp mọi nguy hiểm, gian khổ, hy sinh, kiên quyết đập tan các đợt phản kích của địch. Đặc biệt, trong Thành cổ Quảng Trị, là tiêu điểm ác liệt nhất và cũng là nơi thể hiện tinh thần chiến đấu phi thường, huyền thoại, cực kỳ dũng cảm, hy sinh của quân dân ta. Tại đây, trung bình, một chiến sĩ phải hứng chịu hơn 100 quả bom và 200 quả đạn pháo. Có ngày như ngày 25-7-1972, kẻ thù bắn vào Thành Cổ 5.000 quả đạn. Bốn dãy tường thành ở bốn phía đông, tây, nam, bắc, dày 12m, đều bị vỡ dần; đến một viên gạch nơi đây cũng không còn nguyên vẹn.
Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra như một huyền thoại. Và cách đánh địch nhiều khi cũng vượt ra khỏi những quy ước thông thường: Súng cối 60mm, được các chiến sĩ kẹp nách, bắn ứng dụng liên tục mấy chục quả một lần; lựu đạn sau khi rút chốt, phải tính toán sao cho khi nó vừa bay tới mục tiêu là nổ. Có lúc, chiến sĩ bò sát miệng hầm của địch rồi mới tung lựu đạn vào. Trong một trận đánh, có chiến sĩ bắn tới 14 quả đạn B40, diệt 32 tên địch. Tại mặt trận, nhiều chiến sĩ bị thương một, hai, thậm chí ba lần, vẫn chiến đấu, không chịu về tuyến sau. Các chiến sĩ bộ binh, công binh, quân y, thông tin, đều cầm súng đánh địch. Bằng tính kỷ luật tuyệt vời, tinh thần dũng cảm, ý chí ngoan cường và sự hy sinh vô bờ, ai nấy kiên quyết giữ vững trận địa trong suốt 81 ngày đêm. Đó là 81 ngày đêm lịch sử bi tráng, ác liệt, hào hùng, đầy hy sinh và mãi mãi bất tử.
Đại đội 1, Tiểu đoàn 25 vận tải, Sư đoàn 320B nhận thấy, nếu chỉ dùng sức người mang vác vũ khí vào thị xã và dùng võng cáng thương binh ra, với quãng đường dài hàng chục cây số, dưới làn bom đạn của máy bay, pháo mặt đất và pháo hạm của địch thì khá vất vả, hiểm nguy mà hiệu quả thấp. Còn như dùng thuyền, vận chuyển qua sông Thạch Hãn, sẽ được nhiều hơn. Ban chỉ huy đại đội bàn bạc và thống nhất với phương án của Đại đội trưởng Nguyễn Thanh Mai (sau này, đồng chí là giảng viên của Học viện Lục quân Đà Lạt), vận động địa phương cho dùng thuyền máy của bà con ngư dân đi sơ tán, để lại ở các thôn, xóm ven sông, làm phương tiện vận chuyển. Được cấp trên chuẩn y, các chiến sĩ khẩn trương tìm những chiếc thuyền có máy móc còn tốt và một số thùng dầu ma-dút để chạy máy.
Nhớ lại những ngày ấy, các chiến sĩ không thể quên sự giúp đỡ tận tình, có hiệu quả và tình cảm chân thành của nhân dân cũng như du kích bốn thôn: Nhĩ Hạ, Vĩnh Quang, Mai Xá, Lâm Xuân... Những chiếc thuyền đánh cá, đầu máy xe tải nhỏ, máy bơm nước, máy xay xát thóc gạo, các thùng nhiên liệu chạy máy... đều là tài sản lớn mà bà con chắt chiu, dành dụm trong nhiều năm để làm ăn sinh sống. Nhưng khi bộ đội xin được trưng dụng thì ai cũng sẵn sàng ủng hộ và nói: “Mấy chú từ miền Bắc vô đây chẳng tiếc máu xương để giải phóng cho bà con, thì tụi tôi tiếc chi các thứ đó...”.
Thôn Nhĩ Hạ có o Hồng, du kích, mới 17 tuổi, mặt tròn, da trắng, mắt bồ câu. Hồng đang dẫn đường cho bộ đội thì bị pháo địch bắn dữ dội. Một số chiến sĩ mới vào chiến trường, chưa quen trận mạc nên hốt hoảng, lúng túng. Giữa lúc ấy, o bình tĩnh hướng dẫn anh em xuống trú ẩn vào các hố bom vừa nổ, bảo toàn lực lượng.
Có thuyền và nhiên liệu chạy máy, phân đội vận tải thủy của đơn vị được thành lập, kèm theo một tổ bảo đảm kỹ thuật mà nòng cốt là mấy chiến sĩ quê ở hai huyện Giao Thủy và Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ngay trong 5 đêm đầu tiên, đơn vị đã vận chuyển được 8 tấn vũ khí vào thị xã Quảng Trị và đưa gần 100 thương binh về tuyến sau an toàn. Nhưng rồi địch phát hiện ra, nên cuộc chiến ác liệt trên sông Thạch Hãn bắt đầu...
Để tìm diệt thuyền tiếp tế của ta, đêm đêm, chúng cho máy bay thả đèn dù sáng rực và rải bom từ trường trên sông, nhiều nhất là đoạn từ cầu Quảng Trị, thôn Nhan Biều đến căn cứ Ái Tử. Với ánh sáng đèn dù, các chiến sĩ cứ nghe tiếng máy bay và tiếng nổ “bụp” trên trời, liền cho thuyền đã ngụy trang, tắt máy, áp sát vào bờ; đợi đèn dù tắt, máy bay đi xa, lại tiếp tục công việc. Nhưng đối phó với bom từ trường thì không dễ, bởi bom chìm sâu dưới lòng sông, rất khó phát hiện. Nếu thuyền đi qua, tác động của chân vịt, bom sẽ phát nổ, gây thương vong, nhấn chìm vũ khí, đạn dược.
Thời gian đầu, bom từ trường của địch đã phá hủy nhiều thuyền của ta và làm hàng chục cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Đồng chí Phạm Vụ, Chính trị viên đại đội, dẫn một tổ đi tìm kiếm thi hài đồng đội để chôn cất, đã phải thu nhặt từng mảnh thi thể liệt sĩ bị bom địch hất lên bờ sông. “Cái khó ló cái khôn”, phải tìm cách chế ngự sự hiểm nguy này.
Đơn vị cử một tổ được tăng cường ba chiến sĩ công binh của Sư đoàn 320B và có du kích địa phương giúp đỡ, thực hiện rà phá bom từ trường bằng phương pháp thủ công: Dùng dây ni-lông, buộc các thùng đạn đại liên của địch (cách 5m một thùng), với độ sâu từ 1,5 đến 2m, có cây chuối làm phao; rồi chăng ngang sông và kéo xuôi dòng chảy để kích cho bom nổ. Trong quá trình rà phá bom, anh chị em phát hiện nhiều thi thể bộ đội ta hy sinh trong lúc vượt sông sang Thành cổ Quảng Trị, trôi theo dòng nước khiến anh chị em sục sôi căm thù giặc. Đêm đêm, khi đưa thuyền ngang qua các đoạn sông có bom từ trường, để hạn chế thương vong, ta tắt máy, chỉ để một người trên thuyền cầm sào giữ hướng, số còn lại, buộc dây vào mũi thuyền, lội theo mép nước, kéo qua đoạn nguy hiểm.
Trong 81 ngày đêm diễn ra chiến dịch bảo vệ thị xã, Thành cổ Quảng Trị, thì có đến gần 40 đêm, thuyền của Đại đội 1, vận chuyển vũ khí, đạn dược, thương binh cho các đơn vị bộ đội. Thường thì, mỗi đêm từ một đến ba chiếc qua sông và hầu như, đêm nào cũng có đồng đội hy sinh. Khó khăn, gian khổ và hiểm nguy như vậy, nhưng với khẩu hiệu “Đoàn Quang Sơn còn thì thị xã, Thành cổ Quảng Trị còn”, “Đại đội 1 còn thì Đoàn Quang Sơn còn được cung cấp vũ khí, đạn dược”. Anh em trong đơn vị đã đoàn kết một lòng, kiên quyết vượt qua mưa bom, bão đạn của quân thù để đưa những chuyến hàng tới đích.
Trong 81 ngày đêm, ngược xuôi dòng Thạch Hãn làm nhiệm vụ, một phần ba số quân của Đại đội 1 đã mãi mãi hóa thân vào dòng sông đầy máu lửa. Cùng với những con thuyền, hài cốt liệt sĩ của đơn vị còn nằm dưới lòng sông này. Linh hồn của các anh trở thành hồn thiêng sông nước.
... Đò lên Thạch Hãn ơi... chèo nhẹ
Đáy sông còn đó, bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm
(Thơ Lê Bá Dương)
Cuộc chiến đấu anh hùng trong 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, kết thúc bằng thất bại của một đội quân xâm lược đông hơn 5 vạn tên, với thừa thãi vũ khí, bom đạn hiện đại, một lần nữa làm sáng ngời chân lý: Kẻ thù dù có vũ khí tối tân đến đâu cũng phải khuất phục trước những con người có ý chí kiên cường, một lòng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Đúng như cố Tổng bí thư Lê Duẩn tôn vinh về cuộc chiến đấu trong Thành cổ Quảng Trị: “Chúng ta đã chịu được không phải chúng ta là gang thép; vì gang thép cũng chảy với bom đạn địch; mà chúng ta là những con người thực sự, con người Việt Nam với truyền thống hàng nghìn năm, đã giác ngộ sâu sắc trách nhiệm trọng đại trước Tổ quốc, trước thời đại”.
Thành cổ cùng với thị xã Quảng Trị đã được Nhà nước ta tuyên dương danh hiệu: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Lập nên những chiến công vang dội đó, nơi đây đã thấm đẫm máu của 18 nghìn cán bộ, chiến sĩ, đồng bào Quảng Trị và cả nước. Dưới lớp cỏ non Thành cổ, ngã ba Long Hưng, được gọi là “ngã ba bom”, “ngã ba lửa”, dòng sông Thạch Hãn... bao nhiêu người con yêu nước đã mãi mãi nằm lại. Đời đời, con cháu luôn luôn tưởng nhớ một thời máu lửa, một thời oanh liệt, hào hùng mà cha anh đã làm tất cả để đánh đuổi giặc ngoại xâm, đem lại cuộc sống hòa bình, tươi đẹp như hôm nay.