| Cách
đây trên 40 năm tại Thành cổ Quảng Trị và thị xã Quảng Trị đã làm thức
tỉnh loài người trên toàn thế giới bằng cuộc chiến 81 ngày đêm, vào mùa
hè đỏ lửa năm 1972. Sự kiện lịch sử đó đã góp phần vào thắng lợi trên
bàn đàm phán Paris tạo đà cho Đại thắng của toàn dân tộc năm 1975, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Để giữ vững Thành cổ và thị xã Quảng Trị 81 ngày đêm, hàng ngày chiến sĩ Giải phóng quân cùng đồng bào Quảng Trị đã chiến đấu, anh dũng hy sinh vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất này. Đa số hình hài của các chiến sĩ không còn nguyên vẹn, máu và xương thịt hòa vào từng nắm đất, bờ cây, ngọn cỏ nơi đây. Khác với các nghĩa trang liệt sĩ khác, nghĩa trang ở Thành cổ Quảng Trị được ví như nghĩa trang không mộ. Chỉ tại Đài tưởng niệm trung tâm được mô hình hóa thành một nấm mộ chung cho những người con đã anh dũng ngã xuống trên mảnh đất bom cày, đạn xới vô cùng khốc liệt. Ý nghĩa Đài tượng niệm Đài tưởng niệm trung tâm được xây theo thuyết âm dương siêu thoát. Dưới chân Đài tưởng niệm được xây theo hình bát giác tượng trưng cho bát quái, có bốn lối đi lên Đài tưởng niệm tượng trưng cho tứ tượng. Tầng này được gọi là tầng lưỡng nghi, trên tầng lưỡng nghi có một mái đình cách điệu và trên mái đình Việt có hình thái cực. Theo triết học phương Đông quan niệm: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Bát quái hình thành vũ trụ, vạn vật phát triển không ngừng. Tầng lưỡng nghi bên trong có hình tròn xây dựng theo thái cực đồ. Bên cạnh là hồ nước được xem như là phần âm. Từ phần âm người ta đắp một cây đèn màu đỏ được tượng trưng cho phần dương. Cây đèn này được ví như một cây thiên mệnh có chức năng thiêng liêng làm cầu nối giữa trời và đất, được truyền tải linh hồn các anh hùng liệt sĩ về với cõi vĩnh hằng. Trên cây thiên mệnh có ba tầng nhìn giống như ba áng mây, tượng trưng cho thiên, địa, nhân. Nói lên mối quan hệ giữa trời, đất và con người. Dưới ba áng mây là hình tượng của ba bát cơm chồng lên nhau cho người đã khuất. Theo phong tục người Á Đông những người mất từ 60 tuổi trở lên được gọi là hưởng thọ và cúng một bát cơm, còn những người mất dưới 60 tuổi thường được gọi là hưởng dương cúng ba bát. Các chiến sĩ của ta hy sinh tại đây khi tuổi đời còn rất trẻ bởi vậy nên khi xây dựng có hình tượng ba bát cơm. Phần dâng hương được xây bằng gạch màu đỏ được ví là màu của sự sống, màu của sự sinh sôi nảy nở và màu của vũ trụ vận hành. Từ phần dương, người ta khoét một lỗ tròn ăn thông vào sâu trong Đài tưởng niệm, bởi quan niệm trong cuộc sống âm dương không thể tách rời, luôn bổ sung cho nhau, trong âm có dương, trong dương có âm. Và giữa hai phần âm dương đặt một lư hương lớn để mọi người khi đến đây thắp một nén hương thực tâm cầu khấn thì vong linh các anh hùng liệt sĩ sẽ từ cõi âm được siêu thoát về cõi vĩnh hằng.
Cho đến hôm nay hơn 40 năm qua, Thành cổ Quảng Trị đã được bao phủ bởi một màu xanh cỏ cây nhưng còn đó dưới lớp cỏ xanh kia biết bao nhiêu hài cốt của các anh hùng liệt sĩ đã hiến trọn đời mình cho quê hương đất nước. Sau khi thống nhất đất nước, những người lính năm xưa trở lại thăm chiến trường đứng trên Đài tưởng niệm thắp nén tâm nhang cho đồng đội đã không cầm được nước mắt: "Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi/ Cho đồng đội tôi nằm yên dưới cỏ/ Trời Quảng Trị trong xanh và lộng gió/ Dẫu ồn ào đừng lay mình nhìn cây/ Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi/ Thành cổ rộng sao đồng đội tôi nằm chật/ Mỗi tấc đất là một cuộc đời có thật/ Cho tôi hôm nay xúc động nghẹn ngào". Mỗi tấc đất, cành cây, ngọn cỏ chúng ta vào thành cổ Quảng Trị hôm nay đều thấm đẫm xương máu của các anh. Tổng thể thành có hình vuông với chu vi 2.080 m tổng diện tích nội thành là 16 hécta. Phía bên ngoài thành có hào sâu 3m và rộng 34 m, có cầu bắc qua. Lịch sử hào hùng Ngược dòng thời gian, Thành cổ Quảng Trị được xây dựng vào năm 1809 từ thời Vua Gia Long, mục đích cho xây dựng Thành cổ là để thiết lập hệ thống phòng thủ phía bắc của kinh thành Huế, lúc đầu thành chỉ được đắp bằng đất thô sơ. Thành cổ Quảng Trị là trung tâm hành chính của tỉnh. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đặt quyền bảo hộ đất Trung kỳ, Thành cổ Quảng Trị thành trung tâm bộ máy cai trị của thực dân Pháp tại tỉnh Quảng Trị. Đặc biệt chúng đã cho xây ở phía đông nam một nhà lao bằng đá được gọi là lao xá Quảng Trị. Nơi đây từ năm 1929 đến đầu năm 1972 là nơi giam cầm hàng ngàn sĩ phu yêu nước và các chiến sĩ Cộng sản. Đầu năm 1972, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch vào giải phóng tỉnh Quảng Trị. Trích lời kêu gọi của Quân ủy Trung ương: "Ra trận lần này các lực lượng vũ trang nhân dân ta có trách nhiệm nặng nề và vẻ vang là: Kiên quyết giành cho kỳ được thắng lợi lớn nhất trong chiến dịch quan trọng này. Kiên quyết tiêu diệt cho thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, và nhất là chủ lực của chúng, làm so sánh thay đổi lực lượng có lợi cho ta... Trận chiến đấu lịch sử 1972 bắt đầu. Tất cả hãy anh dũng tiến lên". Mùa hè năm 1972 với quyết tâm giành thắng lợi chiến trường Quảng Trị ta đã tổng động viên đưa vào đây 6 sư đoàn chủ lực, bao gồm Sư đoàn 304, 308, 320b, 324, 325, 312 và rất nhiều tiểu đoàn, trung đoàn thuộc nhiều binh chủng khác. Trong số đó có hàng ngàn sinh viên các trường đại học, cao đẳng miền Bắc theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Những người con ưu tú đã xếp bút nghiên lên đường và cầm súng tiến thẳng ra chiến trường khi mang trong mình biết bao nhiêu ước mơ và hoài bão. Trong đó có không ít những chàng sinh viên đã khai thêm tuổi để đủ tuổi vào tham gia chiến trường Quảng Trị. Cuộc chiến khốc liệt đẫm máu diễn ra tại các chốt bảo vệ vòng ngoài của thị xã, cách trung tâm thành cổ khoảng 20 km về hướng nam tại các chốt, các chiến sĩ giải phóng quân bất chấp gian khổ hy sinh, cản bước tiến quân thù quyết tâm không cho địch vào Thành cổ và thị xã Quảng Trị. Người này ngã xuống thì người khác đứng lên thay với lời thề: "Còn người còn trận địa, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Bị quân và dân ta giam chân ở vòng ngoài địch đã điên cuồng cho không quân và hải quân ném bom bắn phá vào Thành cổ và thị xã Quảng Trị. Các loại bom: 328.000 tấn. Đạn pháo các loại 105mm: 552.000 quả. Loại 155mm: 55.000 viên. Loại 175mm: 8.164 viên. Hải pháo Mỹ: 615.164 viên. Không quân Oanh kích, máy bay Mỹ: 1.650 lần. Máy bay ngụy: 594 lần. Có thể so sánh: Tổng số bom, đạn Mỹ, ngụy ném xuống Thành cổ và thị xã Quảng Trị trong chiến dịch tái chiếm 81 ngày đêm năm 1972 bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử trong một thị xã nhỏ bé chưa đầy 3 cây số vuông. Người ta ví nơi đây như một túi bom và máy xay thịt khổng lồ. Trung bình một chiến sĩ Giải phóng quân phải hứng chịu 100 quả bom và 200 quả đạn pháo. Mặc dù trong mưa bom bão đạn nhưng các chiến sĩ giải phóng quân một tấc không đi, một ly không rời. Người này ngã xuống, người khác đứng lên thay. Cuộc chiến mỗi lúc diễn ra càng khốc liệt. Vào cuối tháng 8/1972, lực lượng hỏa lực pháo binh lớn các tuyến phòng thủ bên ngoài của ta đã bị vỡ dần. Lúc bấy giờ địch đã tràn vào trong lòng thị xã, và cuộc chiến giáp lá cà. Ta bảo vệ từng bờ tường, từng mảng hào, từng mô đất. Các chiến sĩ Giải phóng quân cho dù bị thương vẫn không rời trận địa quyết tâm chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Máu của các bác các anh đã hòa vào từng nắm đất nơi đây.
Cho đến ngày Bắc Nam sum họp một nhà, chiến sĩ Lê Bá Dương trở lại thăm đồng đội trên dòng sông đỏ máu ngày nào, thả một nhành hoa, thắp một nén nhang, khóc thương đồng đội: "Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi đôi mươi thành sóng nước/ Giữ yên bờ bãi mãi ngàn năm". Chứng tích của trận chiến Đại thắng 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, 39 năm chiến tranh đã qua trong quá trình trùng tu tôn tạo di tích, người ta vẫn bắt gặp nhiều hài cốt liệt sĩ trong đó đa phần chưa có danh, chỉ có số ít hài cốt biết tên. Tại nhà lưu niệm nằm trong khuôn viên Thành cổ có hai di vật của hai liệt sĩ đại diện cho hàng ngàn di vật tìm thấy trên mảnh đất đau thương mà kiêu hùng bi tráng. Di vật của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh, anh là sinh viên năm thứ tư Khoa Cầu đường, Trường đại học Xây dựng Hà Nội. Sau khi anh lấy vợ được 6 ngày, theo lệnh tổng động viên anh đã lên đường nhập ngũ tham gia chiến trường Quảng Trị vào cuối tháng 8. Đầu tháng 9 anh nhận nhiệm vụ đưa hàng sang sông Thạch Hãn tiếp tế cho chiến trường. Anh có một dự cảm đây là chuyến đi rất xa, không hẹn ngày trở lại, bởi vậy anh đã bình thản viết 10 trang thư gửi về gia đình xem như đây là bức thư vĩnh biệt cuối cùng. Trong bức thư có đoạn anh viết gửi người mẹ ở hậu phương: "Quảng Trị ngày 11 tháng 9 năm 1972, toàn gia đình kính thương. Hôm nay con ngồi đây biên vài dòng chữ cuối cùng phòng khi đi nghiên cứu Bí mật trong lòng đất, thì gia đình chẳng thấy đó là điều đột ngột. Mẹ kính mến! Lớn lên trong tay mẹ từ khi còn trứng nước chưa đền đáp công ơn to lớn đó của mẹ thì đứa con út của mẹ đã phải đi thăm bố con rồi. Thư này tới tay mẹ chắc mẹ buồn lắm. Mẹ mang nặng đẻ đau, giọt máu đào hơn ao nước lã. Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời. Con của mẹ đã đi xa để lại cho mẹ nỗi buồn nhất trên đời. Con rất hiểu đời mẹ khổ đã nhiều, nay bao hy vọng nuôi con khôn lớn, xong vì đất nước có chiến tranh. Mẹ ơi, hãy lau nước mắt cho đời trẻ lâu, sống cho đến ngày đón mừng chiến thắng. Con đi mẹ ở lại trăm tuổi bạc đầu, coi như con lúc nào cũng nằm bên cạnh mẹ.... Bố con đã đi xa để lại cho mẹ biết bao nỗi khó nhọc, nay con đến ngày khôn lớn. Thôi nhé, mẹ đừng buồn xem như con đã sống trọn đời cho Tổ quốc mai sau...". Và trong bức thư của anh có đoạn anh viết về cho người vợ của mình mới cưới có 6 ngày: "Em thương yêu, anh biết em sẽ không đọc nổi lá thư này, biết bao nỗi buồn đã đè nặng lên tấm thân người con gái trẻ tuổi như em. Nhưng em ơi hãy bình tĩnh lại mà làm theo những điều anh căn dặn, ngày anh đi xa là ngày anh đề ở ngoài phong bì. Em sẽ đọc lá thư này trong buổi lễ truy điệu anh. Cho anh gửi lời hỏi thăm sức khỏe đến những bà con thân thuộc trong buổi lễ truy điệu lịch sử này. Thôi nhé, em đừng buồn, nếu sau này được sống trong hòa bình hãy nhớ đến lòng anh...". Và sự thật đã diễn ra, khi bức thư chuyển về gia đình, anh hy sinh trong lúc đang làm nhiệm vụ. Điều đặc biệt của lá thư bằng sự dự cảm của mình, anh đã xác định nơi mình sẽ hy sinh và nơi chôn cất hài cốt của mình. Sau khi thống nhất đất nước, gia đình anh theo chỉ dẫn trong thư qua nhiều ngày tìm kiếm đã thấy mộ anh được chôn bên dòng sông Thạch Hãn. Và bức thư anh viết được trưng bày tại Bảo tàng Thành cổ. Người vợ của anh, nửa thế kỷ trôi qua chị vẫn ở vậy thờ chồng, chăm sóc người mẹ già. Thành cổ Quảng Trị nơi tôn vinh, tri ân cho những anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì sự độc lập tự do của Tổ quốc về sự trường tồn của dân tộc. Nơi đây mãi mãi là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước tinh thần bất khuất kiên trung của cả một dân tộc anh hùng cho các thế hệ hôm nay và mai sau ![]() |
||||
| Trần Mỹ Hiền |
Hiển thị các bài đăng có nhãn THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2014
Thành cổ Quảng Trị: “Mỗi tấc đất là một cuộc đời có thật”
Nhãn:
THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ
Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013
Ký ức của “người đưa tin chiến dịch Thành cổ”
Hai nữ du kích Phan Thị Lệ
và Lê Thị Hảo tình nguyện dẫn đường cho nhà báo Đoàn Công Tính vào Thành cổ
Quảng Trị
Hàng trăm nhà báo của hai bên chực chờ bên
ngoài “túi lửa” Thành cổ Quảng Trị trong chiến dịch 81 ngày đêm kinh hoàng của
năm 1972 vì không thể tiếp cận với cái nơi kinh khủng này. Lúc đó, báo chí Sài
Gòn đưa tin có hai nhà báo, một nhà quay phim tử trận khi tìm cách xâm nhập
Thành cổ.
Máy bay Mỹ cho oanh kích tự do dù bên dưới binh lính của hai phía vẫn đan xen đánh giáp lá cà... Trong bối cảnh ác liệt ấy, có một nhà báo một mình vác máy ảnh đi vào nơi máu lửa. Đó là Đoàn Công Tính - phóng viên chiến trường duy nhất sống sót trở ra từ Thành cổ Quảng Trị. Ký ức lại sống dậy trong ông...
Máy bay Mỹ cho oanh kích tự do dù bên dưới binh lính của hai phía vẫn đan xen đánh giáp lá cà... Trong bối cảnh ác liệt ấy, có một nhà báo một mình vác máy ảnh đi vào nơi máu lửa. Đó là Đoàn Công Tính - phóng viên chiến trường duy nhất sống sót trở ra từ Thành cổ Quảng Trị. Ký ức lại sống dậy trong ông...
Đường vào cõi chết
Lệnh từ ban biên tập: “Chiến trường quá dữ dội,
các đồng chí không được mạo hiểm để vào bên trong Thành cổ Quảng Trị”. Hàng trăm
nhà báo chực chờ hàng tuần lễ vẫn không thể vào Thành cổ mà chủ yếu lấy tin bên
ngoài, từ các chuyến chuyển thương ra.
Đó là ngày 15-8-1972, bên bờ bắc sông Thạch Hãn nhìn sang phía Thành cổ pháo từ hạm đội 7 của địch giội vào cứ như bắn pháo hoa. B52, trực thăng vũ trang… giội xuống, pháo lớn từ mặt đất bắn lên… tất cả là một bầu trời khói lửa tập trung trên khoảng hơn 1km Thành cổ. Mới ngày nào giải phóng, Thành cổ vẫn còn nguyên vẹn từng bờ tường, góc đất…
Phía bên địch, hai lực lượng tổng dự bị từ Sài Gòn ra, lính dù, lính biệt động lăm lăm khí thế chuẩn bị san bằng Thành cổ... Thương binh chuyển ra ùn ùn, có người bị bom napalm cháy hết da, chỉ còn thịt đỏ lòm, ai yếu bóng vía nhìn vào sẽ mất tinh thần ngay.
Tôi năn nỉ những cán bộ tải thương tìm đường vào trong, họ lắc đầu “không thể!”. Đường giao liên cứu thương chạy ra còn tắc huống hồ gì đường vào. Nhưng rồi tôi cũng tìm được hai o du kích mới từ trong “chảo lửa” ra, một người tên Lệ, 17 tuổi và một người tên Hảo, 20 tuổi. Sau một hồi ỉ ôi năn nỉ, hai cô liều mạng mở đường: “Thấy anh là nhà báo, chúng em tình nguyện đưa vào nhưng phải xin phép chỉ huy”. Tôi tìm gặp bí thư Đảng ủy xã Triệu Thượng, đầu tiên là cái lắc đầu.
Tôi lấy chuyện “chính trị” ra thuyết phục: “Thành cổ mình đang hồi quyết liệt, tôi muốn mô tả tư thế dũng cảm ngoan cường của ta, mà trong ảnh thiếu người nữ du kích sẽ không được hay lắm”. Tới đây thì hai cô Lệ, Hảo thấy tội quá, nói vào: “Chúng em xung phong đi mà, chỉ huy cứ cho anh ấy vào!”. Vậy là ổn rồi. Trước khi lên đường, tôi hỏi lại một lần nữa: “Quyết định dẫn tôi đi có thể là phải gian khổ và hi sinh nữa, các cô có sợ không?”. Hai cô lắc đầu: “Không!”.
Đó là ngày 15-8-1972, bên bờ bắc sông Thạch Hãn nhìn sang phía Thành cổ pháo từ hạm đội 7 của địch giội vào cứ như bắn pháo hoa. B52, trực thăng vũ trang… giội xuống, pháo lớn từ mặt đất bắn lên… tất cả là một bầu trời khói lửa tập trung trên khoảng hơn 1km Thành cổ. Mới ngày nào giải phóng, Thành cổ vẫn còn nguyên vẹn từng bờ tường, góc đất…
Phía bên địch, hai lực lượng tổng dự bị từ Sài Gòn ra, lính dù, lính biệt động lăm lăm khí thế chuẩn bị san bằng Thành cổ... Thương binh chuyển ra ùn ùn, có người bị bom napalm cháy hết da, chỉ còn thịt đỏ lòm, ai yếu bóng vía nhìn vào sẽ mất tinh thần ngay.
Tôi năn nỉ những cán bộ tải thương tìm đường vào trong, họ lắc đầu “không thể!”. Đường giao liên cứu thương chạy ra còn tắc huống hồ gì đường vào. Nhưng rồi tôi cũng tìm được hai o du kích mới từ trong “chảo lửa” ra, một người tên Lệ, 17 tuổi và một người tên Hảo, 20 tuổi. Sau một hồi ỉ ôi năn nỉ, hai cô liều mạng mở đường: “Thấy anh là nhà báo, chúng em tình nguyện đưa vào nhưng phải xin phép chỉ huy”. Tôi tìm gặp bí thư Đảng ủy xã Triệu Thượng, đầu tiên là cái lắc đầu.
Tôi lấy chuyện “chính trị” ra thuyết phục: “Thành cổ mình đang hồi quyết liệt, tôi muốn mô tả tư thế dũng cảm ngoan cường của ta, mà trong ảnh thiếu người nữ du kích sẽ không được hay lắm”. Tới đây thì hai cô Lệ, Hảo thấy tội quá, nói vào: “Chúng em xung phong đi mà, chỉ huy cứ cho anh ấy vào!”. Vậy là ổn rồi. Trước khi lên đường, tôi hỏi lại một lần nữa: “Quyết định dẫn tôi đi có thể là phải gian khổ và hi sinh nữa, các cô có sợ không?”. Hai cô lắc đầu: “Không!”.
Nụ cười chiến thắng dưới chân Thành cổ
Quảng Trị
Tôi đã may mắn được gặp lại nguyên mẫu của bức
ảnh Nụ cười chiến thắng dưới chân Thành cổ Quảng Trị, một cuộc gặp dù hơi muộn
màng nhưng thật cảm động.
Bao nhiêu năm xa cách, tôi cứ ngỡ là người mà
tôi chụp trên chiến trường đã chết, ngay cả khi tôi về thăm Quảng Trị, người
hướng dẫn viên du lịch lúc giới thiệu bức ảnh người lính đẹp trai với nụ cười
sống mãi của tuổi 20 cũng đi kèm với câu: “Thật tiếc, người lính ấy đã hi sinh”.
Chỉ đến khi một người quen phát hiện nhân vật
trong ảnh chính là người cùng quê với anh và cho biết hiện anh ấy - Lê Xuân
Chinh - đã lên Điện Biên làm kinh tế.
Hóa ra anh Chinh chỉ bị thương sau khi tôi chụp
ảnh một ngày, phải chuyển ra tuyến sau điều trị, ngày về kẻ gian móc túi anh lấy
hết giấy tờ, cuối cùng không được hưởng một chế độ gì. Đây cũng là một cuộc gặp
ý nghĩa, bởi sau đó các giấy tờ của anh được xác minh lại, giờ cuộc sống của anh
Chinh cũng tạm ổn.
Tôi thấy hạnh phúc vì đã góp phần nhỏ bé giữ lại hình ảnh của những người lính, một chút kỷ niệm trên đường hành quân hay một nụ cười.
Dù cái nụ cười hồn nhiên, yêu đời và chan chứa sức trẻ của Chinh năm nào - nụ cười chiến thắng dưới chân Thành cổ Quảng Trị, do một cuộc sống vất vả, éo le nên không thể còn được như xưa nữa, tôi vẫn tin rằng thời gian không làm khác đi sự tự tin yêu đời trong nụ cười của những con người ấy.
Tôi thấy hạnh phúc vì đã góp phần nhỏ bé giữ lại hình ảnh của những người lính, một chút kỷ niệm trên đường hành quân hay một nụ cười.
Dù cái nụ cười hồn nhiên, yêu đời và chan chứa sức trẻ của Chinh năm nào - nụ cười chiến thắng dưới chân Thành cổ Quảng Trị, do một cuộc sống vất vả, éo le nên không thể còn được như xưa nữa, tôi vẫn tin rằng thời gian không làm khác đi sự tự tin yêu đời trong nụ cười của những con người ấy.
ĐOÀN CÔNG TÍNH
Dòng sông Thạch Hãn ban ngày trông hẹp nhưng
đêm sao rộng quá, tôi mượn được hai phao cao su của công binh, quí như vàng, tôi
đưa cả hai cho hai cô Lệ và Hảo, còn mình bọc balô, súng máy, máy ảnh... nói
chung là toàn bộ gia sản vào trong tấm cao su, dốc ngược xuống làm phao bơi.
Chúng tôi bơi qua sông cùng với một đại đội của đơn vị phiên hiệu 312 mới từ Bắc
vào bổ sung chiến trường. Tôi cố sức đạp nước mà trên đầu đạn vẫn rít liên
hồi...
Về bức ảnh Nụ cười Thành cổ
Qua tới bờ bên kia, lại tiếp tục chạy trong làn đạn pháo bắn xối xả vào bất cứ cái gì động đậy bên bờ sông. Tôi lao vào một tầng hầm mà sau này mới biết đó là dinh tỉnh trưởng. Đêm đó, chúng tôi nằm chịu đựng pháo và bom giội vào trong Thành cổ, chốc chốc từng vụn bêtông và khói bụi bay vào ngạt thở vô cùng. Có tiếng rên rỉ đâu đó trong hầm, tôi ngồi dậy lần bước đi tìm. Đó là những người thương binh đang chờ chuyển ra tuyến sau.
Có lẽ không có bất cứ từ ngữ nào để mô tả nỗi khủng khiếp của một nơi như vậy: tôi đã chứng kiến những ca đại phẫu do các y sĩ quân đội thực hiện mà không có một mũi thuốc tiêm gây tê nào, tiếng người gào thét còn to hơn cả tiếng bom. Một ai đó rên rỉ nửa mê nửa tỉnh: “Ôi, B52 lại đến kìa! Tôi đã chết chưa mà chụp hình đó?!”.
Buổi sáng, 6g tôi thức dậy và theo trinh sát ra khỏi hầm. Hai chiếc A 37 lao ra cắt bom gần cổng thành. Anh em lôi ngay tôi xuống hầm. Ngó lại những chiến sĩ không quen, tôi hỏi họ có sợ không, một anh còn rất trẻ cười tươi: “Chúng tôi đã tự nguyện viết quyết tâm thư bằng máu rồi, sợ gì nữa!”.
Một ý tưởng lóe lên trong đầu tôi làm sao để ghi lại một cách “thần” nhất của nụ cười nơi Thành cổ này - bởi ở đó, chỉ có sức mạnh tinh thần là chiến thắng được đạn bom và nỗi sợ hãi. Chụp dưới hầm thì lại không được. Tôi đề nghị anh em chuẩn bị để mình chạy ra ngoài canh máy, hễ tôi vừa canh máy xong, báo một tiếng, mọi người phải ùa lên ngay kẻo máy bay địch thả bom.
Tôi nhổm lên trên cửa hầm, bước ra cách 5m và canh máy rồi ra hiệu mọi người bước ra. Anh em từ từ, người trước người sau nhô lên, tất cả những nụ cười rạng rỡ ấy làm dâng lên trong tôi niềm cảm xúc lạ thường. Tôi run tay bấm máy tức thì... Vừa lúc đó bom địch cắt ngang nụ cười ngay trong khoảnh khắc. Anh em ôm súng xuất kích luôn, tôi ôm máy ảnh lao theo họ bấm liên tục.
Còn hai cô Lệ và Hảo, những nữ du kích dũng cảm đã mở đường đưa tôi vào đây, thì giờ tôi “trả ơn” họ bằng cách bấm mấy kiểu ảnh cho họ ở chân tường Thành cổ nham nhở vết đạn. Đạn vẫn rít trên đầu nhưng họ vẫn nở những nụ cười thật tươi và tự nhiên nhất.
Chụp ảnh xong họ lại hồn nhiên lao vào khói bom tìm kiếm thương binh, tôi cũng chạy hết hầm này đến hầm khác để bấm các kiểu ảnh chân dung chiến sĩ đang giành giật từng thước đất Thành cổ. Với tôi, họ đều là những người anh hùng và những bức ảnh mà tôi có được không thể gọi là bức ảnh thông thường mà là xương, là máu của những người lính.
Ngay tối hôm đó, tuy phải hứng chịu những trận bom, pháo ghê hồn hơn, nhưng đầu óc tôi chỉ tính làm sao chuyển những bức ảnh này ra ngoài, chuyển về Hà Nội để đưa tin cho thế giới biết sự tồn tại ngoan cường của những chiến sĩ anh hùng trong Thành cổ Quảng Trị. Những tấm ảnh này sẽ là những khoảnh khắc không bao giờ lặp lại và những con người trong ấy chưa chắc sẽ còn sống đến ngày mai...
Tôi cẩn thận lấy từng cuốn phim, gói riêng ra và ghi những dòng chữ bên ngoài: “Tôi là phóng viên chiến trường, đây là những cuốn phim chụp tại mặt trận Thành cổ Quảng Trị, nếu tôi có hi sinh, xin gửi về báo Quân Đội Nhân Dân...”.Vì chính tôi cũng không tin rằng mình có thể vượt qua lưới lửa mà trở ra an toàn…
Qua tới bờ bên kia, lại tiếp tục chạy trong làn đạn pháo bắn xối xả vào bất cứ cái gì động đậy bên bờ sông. Tôi lao vào một tầng hầm mà sau này mới biết đó là dinh tỉnh trưởng. Đêm đó, chúng tôi nằm chịu đựng pháo và bom giội vào trong Thành cổ, chốc chốc từng vụn bêtông và khói bụi bay vào ngạt thở vô cùng. Có tiếng rên rỉ đâu đó trong hầm, tôi ngồi dậy lần bước đi tìm. Đó là những người thương binh đang chờ chuyển ra tuyến sau.
Có lẽ không có bất cứ từ ngữ nào để mô tả nỗi khủng khiếp của một nơi như vậy: tôi đã chứng kiến những ca đại phẫu do các y sĩ quân đội thực hiện mà không có một mũi thuốc tiêm gây tê nào, tiếng người gào thét còn to hơn cả tiếng bom. Một ai đó rên rỉ nửa mê nửa tỉnh: “Ôi, B52 lại đến kìa! Tôi đã chết chưa mà chụp hình đó?!”.
Buổi sáng, 6g tôi thức dậy và theo trinh sát ra khỏi hầm. Hai chiếc A 37 lao ra cắt bom gần cổng thành. Anh em lôi ngay tôi xuống hầm. Ngó lại những chiến sĩ không quen, tôi hỏi họ có sợ không, một anh còn rất trẻ cười tươi: “Chúng tôi đã tự nguyện viết quyết tâm thư bằng máu rồi, sợ gì nữa!”.
Một ý tưởng lóe lên trong đầu tôi làm sao để ghi lại một cách “thần” nhất của nụ cười nơi Thành cổ này - bởi ở đó, chỉ có sức mạnh tinh thần là chiến thắng được đạn bom và nỗi sợ hãi. Chụp dưới hầm thì lại không được. Tôi đề nghị anh em chuẩn bị để mình chạy ra ngoài canh máy, hễ tôi vừa canh máy xong, báo một tiếng, mọi người phải ùa lên ngay kẻo máy bay địch thả bom.
Tôi nhổm lên trên cửa hầm, bước ra cách 5m và canh máy rồi ra hiệu mọi người bước ra. Anh em từ từ, người trước người sau nhô lên, tất cả những nụ cười rạng rỡ ấy làm dâng lên trong tôi niềm cảm xúc lạ thường. Tôi run tay bấm máy tức thì... Vừa lúc đó bom địch cắt ngang nụ cười ngay trong khoảnh khắc. Anh em ôm súng xuất kích luôn, tôi ôm máy ảnh lao theo họ bấm liên tục.
Còn hai cô Lệ và Hảo, những nữ du kích dũng cảm đã mở đường đưa tôi vào đây, thì giờ tôi “trả ơn” họ bằng cách bấm mấy kiểu ảnh cho họ ở chân tường Thành cổ nham nhở vết đạn. Đạn vẫn rít trên đầu nhưng họ vẫn nở những nụ cười thật tươi và tự nhiên nhất.
Chụp ảnh xong họ lại hồn nhiên lao vào khói bom tìm kiếm thương binh, tôi cũng chạy hết hầm này đến hầm khác để bấm các kiểu ảnh chân dung chiến sĩ đang giành giật từng thước đất Thành cổ. Với tôi, họ đều là những người anh hùng và những bức ảnh mà tôi có được không thể gọi là bức ảnh thông thường mà là xương, là máu của những người lính.
Ngay tối hôm đó, tuy phải hứng chịu những trận bom, pháo ghê hồn hơn, nhưng đầu óc tôi chỉ tính làm sao chuyển những bức ảnh này ra ngoài, chuyển về Hà Nội để đưa tin cho thế giới biết sự tồn tại ngoan cường của những chiến sĩ anh hùng trong Thành cổ Quảng Trị. Những tấm ảnh này sẽ là những khoảnh khắc không bao giờ lặp lại và những con người trong ấy chưa chắc sẽ còn sống đến ngày mai...
Tôi cẩn thận lấy từng cuốn phim, gói riêng ra và ghi những dòng chữ bên ngoài: “Tôi là phóng viên chiến trường, đây là những cuốn phim chụp tại mặt trận Thành cổ Quảng Trị, nếu tôi có hi sinh, xin gửi về báo Quân Đội Nhân Dân...”.Vì chính tôi cũng không tin rằng mình có thể vượt qua lưới lửa mà trở ra an toàn…
NGUYỄN VĂN TIẾN HÙNG
Nhãn:
THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ
Thứ Tư, 3 tháng 4, 2013
Khí phách kỳ diệu
Qua các cuộc chiến tranh vệ quốc, cùng với biết bao vùng đất quả cảm,
kiên cường của đất nước, tỉnh Quảng Trị huyền thoại là minh chứng hùng
hồn cho đỉnh cao khí phách và trí tuệ Việt Nam trong
thời đại Hồ Chí Minh.
Bắt đầu từ trưa ngày 30-3-1972, sau hai cuộc tiến công bất ngờ và quả
cảm, với binh chủng hợp đồng quy mô lớn của quân ta, ngày 2-5-1972, thị
xã Quảng Trị được giải phóng, sau 18 năm, bị Mỹ-ngụy
chiếm đóng. Trong chiến dịch này, ta đã đánh tan tập đoàn phòng ngự
mạnh nhất của địch ở Quảng Trị. Hơn ba vạn quân giặc bị loại khỏi vòng
chiến đấu; 178 máy bay, 11 tàu chiến, 320 xe tăng, 237
khẩu đại bác và nhiều vũ khí đạn dược của địch bị phá hủy hoặc lọt vào
tay Quân giải phóng.
Sau những giờ phút hoàn hồn, để lấy lại tinh thần và nhằm gây sức ép
với ta tại Hội nghị Pa-ri, họp lại vào ngày 13-7-1972, đã nhiều lần trì
hoãn, địch dốc toàn bộ lực lượng, mở cuộc phản kích, tái
chiếm Quảng Trị, mà mục tiêu số 1 là chiếm lại tòa Thành cổ. Chúng gọi
tên cuộc hành quân này là “Lam Sơn 72” và bắt đầu từ ngày 28-6-1972.
Địch huy động máy bay phản lực, bình quân mỗi ngày 150-170 lần (có
ngày 220 lần), 70-90 lần chiếc B-52; 12-16 tàu khu trục hạm và tuần
dương hạm, thuộc Hạm đội 7; 2 sư đoàn dự bị chiến lược là sư
dù và sư thủy quân lục chiến, một liên đoàn biệt động, 4 trung đoàn
thiết giáp (mỗi trung đoàn có 79 xe tăng và xe bọc thép), cùng hàng chục
tiểu đoàn khác.
Đây là cuộc hành quân cực kỳ tàn bạo mà kẻ thù không từ một hành động
tội ác nào: Ném đủ các loại bom bi, bom 7 tấn, bom điều khiểu bằng
la-de; bắn đủ các loại pháo chụp, pháo khoan; thả chất độc
hóa học, hơi độc và hơi ngạt... Số bom đạn chúng ném xuống đây khoảng
328 nghìn tấn, tương đương với sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà
Mỹ ném xuống hai thành phố Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki
(Nhật Bản), năm 1945.
|
|
Thanh niên, sinh viên nhập ngũ vào chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị năm 1972. Ảnh tư liệu.
|
Trong lịch sử chiến tranh thế giới, chưa hề có một cuộc hành quân nào
mà mục tiêu chủ yếu chỉ đánh vào một tòa Thành cổ, có chu vi 2.080m,
rộng chưa đầy 3km2, khiến đối phương có thể huy
động một lực lượng hải, lục, không quân đông và sử dụng một khối lượng chất nổ khổng lồ như vậy.
Chính trong chiến dịch phản kích mang tính hủy diệt đó của kẻ thù,
Thành cổ Quảng Trị đã mở đầu trang sử vô cùng oanh liệt, hào hùng bằng
cuộc chiến đấu cực kỳ gian khổ, hiểm nguy và dũng cảm qua
81 ngày đêm mùa hè rực lửa, rung chuyển cả nước và toàn cầu từ ngày
28-6-1972 đến ngày 16-9-1972.
Lực lượng ta ở vòng trong thị xã, lúc đầu có Trung đoàn 48, Sư đoàn
320B và hai tiểu đoàn bộ đội địa phương. Khi cao điểm, có thêm Trung
đoàn 95, Sư đoàn 325 và Tiểu đoàn 8 của Trung đoàn 64. Chỉ
huy sở của Mặt trận thị xã đặt tại hầm trong dinh Tỉnh trưởng ngụy,
bên bờ sông Thạch Hãn. Lực lượng vòng ngoài có Sư đoàn 320B ở cánh Đông,
Sư 308 ở cánh Nam, cùng các đơn vị xe tăng, pháo cao xạ
và lực lượng du kích các xã phụ cận. Các chốt quan trọng như: Long
Quang, nhà thờ Trí Bưu, ngã ba Long Hưng, trường Bồ Đề, ngã ba Cầu Ga...
là những nơi, quân ta bất chấp mọi nguy hiểm, gian khổ,
hy sinh, kiên quyết đập tan các đợt phản kích của địch. Đặc biệt,
trong Thành cổ Quảng Trị, là tiêu điểm ác liệt nhất và cũng là nơi thể
hiện tinh thần chiến đấu phi thường, huyền thoại, cực kỳ
dũng cảm, hy sinh của quân dân ta. Tại đây, trung bình, một chiến sĩ
phải hứng chịu hơn 100 quả bom và 200 quả đạn pháo. Có ngày như ngày
25-7-1972, kẻ thù bắn vào Thành Cổ 5.000 quả đạn. Bốn dãy
tường thành ở bốn phía đông, tây, nam, bắc, dày 12m, đều bị vỡ dần;
đến một viên gạch nơi đây cũng không còn nguyên vẹn.
Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra như một huyền thoại. Và cách đánh địch
nhiều khi cũng vượt ra khỏi những quy ước thông thường: Súng cối 60mm,
được các chiến sĩ kẹp nách, bắn ứng dụng liên tục mấy chục
quả một lần; lựu đạn sau khi rút chốt, phải tính toán sao cho khi nó
vừa bay tới mục tiêu là nổ. Có lúc, chiến sĩ bò sát miệng hầm của địch
rồi mới tung lựu đạn vào. Trong một trận đánh, có chiến
sĩ bắn tới 14 quả đạn B40, diệt 32 tên địch. Tại mặt trận, nhiều chiến
sĩ bị thương một, hai, thậm chí ba lần, vẫn chiến đấu, không chịu về
tuyến sau. Các chiến sĩ bộ binh, công binh, quân y, thông
tin, đều cầm súng đánh địch. Bằng tính kỷ luật tuyệt vời, tinh thần
dũng cảm, ý chí ngoan cường và sự hy sinh vô bờ, ai nấy kiên quyết giữ
vững trận địa trong suốt 81 ngày đêm. Đó là 81 ngày đêm
lịch sử bi tráng, ác liệt, hào hùng, đầy hy sinh và mãi mãi bất tử.
Đại đội 1, Tiểu đoàn 25 vận tải, Sư đoàn 320B nhận thấy, nếu chỉ dùng
sức người mang vác vũ khí vào thị xã và dùng võng cáng thương binh ra,
với quãng đường dài hàng chục cây số, dưới làn bom đạn
của máy bay, pháo mặt đất và pháo hạm của địch thì khá vất vả, hiểm
nguy mà hiệu quả thấp. Còn như dùng thuyền, vận chuyển qua sông Thạch
Hãn, sẽ được nhiều hơn. Ban chỉ huy đại đội bàn bạc và
thống nhất với phương án của Đại đội trưởng Nguyễn Thanh Mai (sau này,
đồng chí là giảng viên của Học viện Lục quân Đà Lạt), vận động địa
phương cho dùng thuyền máy của bà con ngư dân đi sơ tán, để
lại ở các thôn, xóm ven sông, làm phương tiện vận chuyển. Được cấp
trên chuẩn y, các chiến sĩ khẩn trương tìm những chiếc thuyền có máy móc
còn tốt và một số thùng dầu ma-dút để chạy máy.
Nhớ lại những ngày ấy, các chiến sĩ không thể quên sự giúp đỡ tận
tình, có hiệu quả và tình cảm chân thành của nhân dân cũng như du kích
bốn thôn: Nhĩ Hạ, Vĩnh Quang, Mai Xá, Lâm Xuân... Những
chiếc thuyền đánh cá, đầu máy xe tải nhỏ, máy bơm nước, máy xay xát
thóc gạo, các thùng nhiên liệu chạy máy... đều là tài sản lớn mà bà con
chắt chiu, dành dụm trong nhiều năm để làm ăn sinh sống.
Nhưng khi bộ đội xin được trưng dụng thì ai cũng sẵn sàng ủng hộ và
nói: “Mấy chú từ miền Bắc vô đây chẳng tiếc máu xương để giải phóng cho
bà con, thì tụi tôi tiếc chi các thứ đó...”.
Thôn Nhĩ Hạ có o Hồng, du kích, mới 17 tuổi, mặt tròn, da trắng, mắt
bồ câu. Hồng đang dẫn đường cho bộ đội thì bị pháo địch bắn dữ dội. Một
số chiến sĩ mới vào chiến trường, chưa quen trận mạc nên
hốt hoảng, lúng túng. Giữa lúc ấy, o bình tĩnh hướng dẫn anh em xuống
trú ẩn vào các hố bom vừa nổ, bảo toàn lực lượng.
Có thuyền và nhiên liệu chạy máy, phân đội vận tải thủy của đơn vị
được thành lập, kèm theo một tổ bảo đảm kỹ thuật mà nòng cốt là mấy
chiến sĩ quê ở hai huyện Giao Thủy và Xuân Trường, tỉnh Nam
Định. Ngay trong 5 đêm đầu tiên, đơn vị đã vận chuyển được 8 tấn vũ
khí vào thị xã Quảng Trị và đưa gần 100 thương binh về tuyến sau an
toàn. Nhưng rồi địch phát hiện ra, nên cuộc chiến ác liệt
trên sông Thạch Hãn bắt đầu...
Để tìm diệt thuyền tiếp tế của ta, đêm đêm, chúng cho máy bay thả đèn
dù sáng rực và rải bom từ trường trên sông, nhiều nhất là đoạn từ cầu
Quảng Trị, thôn Nhan Biều đến căn cứ Ái Tử. Với ánh sáng
đèn dù, các chiến sĩ cứ nghe tiếng máy bay và tiếng nổ “bụp” trên
trời, liền cho thuyền đã ngụy trang, tắt máy, áp sát vào bờ; đợi đèn dù
tắt, máy bay đi xa, lại tiếp tục công việc. Nhưng đối phó
với bom từ trường thì không dễ, bởi bom chìm sâu dưới lòng sông, rất
khó phát hiện. Nếu thuyền đi qua, tác động của chân vịt, bom sẽ phát nổ,
gây thương vong, nhấn chìm vũ khí, đạn dược.
Thời gian đầu, bom từ trường của địch đã phá hủy nhiều thuyền của ta
và làm hàng chục cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Đồng chí Phạm Vụ, Chính trị
viên đại đội, dẫn một tổ đi tìm kiếm thi hài đồng đội để
chôn cất, đã phải thu nhặt từng mảnh thi thể liệt sĩ bị bom địch hất
lên bờ sông. “Cái khó ló cái khôn”, phải tìm cách chế ngự sự hiểm nguy
này.
Đơn vị cử một tổ được tăng cường ba chiến sĩ công binh của Sư đoàn
320B và có du kích địa phương giúp đỡ, thực hiện rà phá bom từ trường
bằng phương pháp thủ công: Dùng dây ni-lông, buộc các thùng
đạn đại liên của địch (cách 5m một thùng), với độ sâu từ 1,5 đến 2m,
có cây chuối làm phao; rồi chăng ngang sông và kéo xuôi dòng chảy để
kích cho bom nổ. Trong quá trình rà phá bom, anh chị em
phát hiện nhiều thi thể bộ đội ta hy sinh trong lúc vượt sông sang
Thành cổ Quảng Trị, trôi theo dòng nước khiến anh chị em sục sôi căm thù
giặc. Đêm đêm, khi đưa thuyền ngang qua các đoạn sông có
bom từ trường, để hạn chế thương vong, ta tắt máy, chỉ để một người
trên thuyền cầm sào giữ hướng, số còn lại, buộc dây vào mũi thuyền, lội
theo mép nước, kéo qua đoạn nguy hiểm.
Trong 81 ngày đêm diễn ra chiến dịch bảo vệ thị xã, Thành cổ Quảng
Trị, thì có đến gần 40 đêm, thuyền của Đại đội 1, vận chuyển vũ khí, đạn
dược, thương binh cho các đơn vị bộ đội. Thường thì, mỗi
đêm từ một đến ba chiếc qua sông và hầu như, đêm nào cũng có đồng đội
hy sinh. Khó khăn, gian khổ và hiểm nguy như vậy, nhưng với khẩu hiệu
“Đoàn Quang Sơn còn thì thị xã, Thành cổ Quảng Trị còn”,
“Đại đội 1 còn thì Đoàn Quang Sơn còn được cung cấp vũ khí, đạn dược”.
Anh em trong đơn vị đã đoàn kết một lòng, kiên quyết vượt qua mưa bom,
bão đạn của quân thù để đưa những chuyến hàng tới đích.
Trong 81 ngày đêm, ngược xuôi dòng Thạch Hãn làm nhiệm vụ, một phần ba
số quân của Đại đội 1 đã mãi mãi hóa thân vào dòng sông đầy máu lửa.
Cùng với những con thuyền, hài cốt liệt sĩ của đơn vị còn
nằm dưới lòng sông này. Linh hồn của các anh trở thành hồn thiêng sông
nước.
... Đò lên Thạch Hãn ơi... chèo nhẹ
Đáy sông còn đó, bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm
(Thơ Lê Bá Dương)
Cuộc chiến đấu anh hùng trong 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị,
kết thúc bằng thất bại của một đội quân xâm lược đông hơn 5 vạn tên, với
thừa thãi vũ khí, bom đạn hiện đại, một lần nữa làm
sáng ngời chân lý: Kẻ thù dù có vũ khí tối tân đến đâu cũng phải khuất
phục trước những con người có ý chí kiên cường, một lòng chiến đấu vì
độc lập, tự do của Tổ quốc. Đúng như cố Tổng bí thư Lê
Duẩn tôn vinh về cuộc chiến đấu trong Thành cổ Quảng Trị: “Chúng ta đã
chịu được không phải chúng ta là gang thép; vì gang thép cũng chảy với
bom đạn địch; mà chúng ta là những con người thực sự,
con người Việt Nam với truyền thống hàng nghìn năm, đã giác ngộ sâu
sắc trách nhiệm trọng đại trước Tổ quốc, trước thời đại”.
Thành cổ cùng với thị xã Quảng Trị đã được Nhà nước ta tuyên dương
danh hiệu: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Lập nên những chiến
công vang dội đó, nơi đây đã thấm đẫm máu của 18 nghìn cán
bộ, chiến sĩ, đồng bào Quảng Trị và cả nước. Dưới lớp cỏ non Thành cổ,
ngã ba Long Hưng, được gọi là “ngã ba bom”, “ngã ba lửa”, dòng sông
Thạch Hãn... bao nhiêu người con yêu nước đã mãi mãi nằm
lại. Đời đời, con cháu luôn luôn tưởng nhớ một thời máu lửa, một thời
oanh liệt, hào hùng mà cha anh đã làm tất cả để đánh đuổi giặc ngoại
xâm, đem lại cuộc sống hòa bình, tươi đẹp như hôm nay.
Nhãn:
THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ
Thả 10.000 hoa đăng trên dòng Thạch Hãn
"Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm."
Tối 10/7, tại bờ Bắc và Nam sông Thạch Hãn đã diễn ra lễ thả hoa đăng
nhằm tri ân, tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong chiến dịch
81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972.
Trên dòng Thạch Hãn
Phút mặc niệm
Đây là hoạt động kỷ niệm 64 năm ngày thương binh liệt sĩ 27/7/1947 -
27/7/2011 và đáp ứng ước nguyện cháy lòng của đông đảo các gia đình thân
nhân liệt sĩ và đồng đội của các chiến sĩ đã hy sinh
tại Thành cổ năm 1972.
Dòng sông sáng rực bởi những chiếc hoa đăng.
Các cựu chiến binh, thanh niên xung phong và khách thập phương cùng nhau thả hoa đăng.
Hàng nghìn ngọn nến được thắp lên trong đêm lễ.
Đông đảo tăng ni, phật tử tham gia buổi lễ cầu siêu
Điểm nhấn của chương trình là buổi lễ ra mắt cuốn sách trong đó lần
đầu công bố danh sách hơn 4.000 dòng tên các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh
trong 81 ngày đêm chiến đấu ở Thành cổ Quảng Trị và từ
các hướng bảo vệ Thành cổ Quảng Trị.
Với kích thước 1m x 0,7m, cuốn sách “Huyền thoại Thành cổ Quảng
Trị” đã xác lập kỷ lục Việt Nam “Cuốn đại sách lớn nhất lưu danh tên
tuổi liệt sĩ hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc.”
àng ngàn ấn bản “Huyền thoại Thành cổ Quảng Trị” được in để trao
tặng cho thân nhân liệt sĩ, Ban liên lạc Chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị và
hệ thống thư viện trên cả nước… để lưu danh đời đời
dòng tên liệt sĩ.
Một em bé 6 tuổi mải mê thắp nến và thả hoa đăng cùng gia đình
Nhãn:
HOA ĐĂNG,
THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ
Bức thư 'thiêng' ở Thành cổ Quảng Trị
“Nguyên bức thư 'thiêng' ở Thành cổ Quảng Trị ngày thống nhất,
em hãy vào Nam tìm anh. Đường đi như sau: Đi tàu vào thị xã Quảng Trị,
qua sông Thạch Hãn là nơi anh hy sinh... Nếu tính xuôi
theo dòng nước thì mộ anh ở cuối làng”.
Không ai có thể ngờ rằng, bức thư định mệnh đó là manh mối để đồng đội
tìm thấy mộ người chiến sĩ, tác giả của bức thư sau ngày giải phóng...

Sau mấy chục năm, dưới sâu trong lòng đất người dân vẫn thường tìm được
những bức thư thiêng của những người lính chưa kịp gửi về gia đình trước
ngày bước vào trận đánh cuối cùng.
Đến với Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị trong những ngày tháng 7 cả nước
đang tổ chức các hoạt động hướng về kỷ niệm 65 năm ngày Thương binh liệt
sĩ (27/7/1947-27/7/2012), mọi người sẽ được đọc những
dòng thư của người chiến sĩ trẻ chưa kịp gửi về cho người thân vẫn còn
vẹn nguyên. Những câu từ trong bức thư thật giản dị nhưng cũng cho
chúng ta biết rằng, những người lính cầm súng vì họ khát
khao được hạnh phúc, đất nước được hòa bình.
Cuộc chiến đấu 81 ngày đêm mùa hè đỏ lửa năm 1972 bảo vệ Thành cổ
Quảng Trị diễn ra vô cùng khốc liệt. Thành cổ lúc bấy giờ phải gánh lấy
hàng chục vạn tấn bom đạn của kẻ thù đổ xuống, nhằm biến nó
về thời kỳ đồ đá. Nhưng quân và dân ta đã chiến đấu ngoan cường giành
lại từng tấc đất thiêng cho Thành cổ. Những ngày tháng 7/2012, Quảng Trị
vinh dự được thay mặt cho nhân dân cả nước thắp sáng
Thành cổ với vô vàn ánh nến hồng và trải đầy Thạch Hãn bởi ngàn vạn
hoa đăng để tri ân công lao to lớn của các Anh hùng đã ngã xuống bảo vệ
Thành cổ.
40 năm qua, Thành cổ mãi khắc ghi trong lòng dân tộc như một “Bảo tàng
chiến tranh” vô cùng phong phú và sinh động, có giá trị về lịch sử, quân
sự và nhân văn. Ngoài những chứng tích về những đoạn
tường thành đổ nát còn sót lại, tại đây đang trưng bày hàng trăm di
vật và nhiều ảnh tư liệu có giá trị lịch sử về cuộc chiến đấu của quân
và dân ta trong 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ năm 1972.
Mỗi hiện vật, di vật gắn liền với một chiến công và sự hy sinh cao cả
của hàng ngàn chiến sĩ. Trong đó, đặc biệt là lá thư của liệt sĩ Lê Văn
Huỳnh, quê ở xóm Một, xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương, tỉnh
Thái Bình, sinh viên năm thứ tư Khoa Xây dựng, khóa 13 của ĐH Bách
khoa Hà Nội được tìm thấy ngày 28/10/2002.
Bức thư đã để lại cho người đọc biết bao cảm xúc. Lời lẽ trong thư thể
hiện bao tâm tư tình cảm, hoài bão đành gác lại phía sau để quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh. “Toàn thể gia đình kính thương...
Con viết mấy dòng cuối cùng trước khi “đi nghiên cứu bí mật trong lòng
đất”. Xin mẹ đừng buồn để sống đến ngày tin mừng chiến thắng. Con đi,
mẹ ở lại trăm tuổi bạc đầu, coi như con lúc nào cũng ở
bên mẹ, coi như con đã sống trọn đời cho Tổ quốc mai sau…”. Người lính
trẻ Lê Văn Huỳnh viết bức thư cuối cùng vào ngày thứ 77 của chiến dịch
81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, khi sự khốc liệt
của đạn bom lên đến tột cùng. Bức thư anh không kịp gửi bởi anh cùng
những đồng đội cuối cùng trong tiểu đội đã ngã xuống ở trong Thành cổ.
Bức thư viết vội trước trận đánh là tâm tư của anh dành cho người mẹ
già yếu, cho người vợ mới cưới bảy ngày, cho anh trai, chị dâu, cho cha
mẹ vợ, cho đứa cháu đích tôn, cho người bạn thân thuở
nhỏ và cho bà con lối xóm. Đặc biệt, bức thư có đoạn: “Ngày thống
nhất, em hãy vào Nam tìm anh. Đường đi như sau: Đi tàu vào thị xã Quảng
Trị, qua sông Thạch Hãn là nơi anh hy sinh. Từ thị xã, qua
cầu ngược trở lại hỏi thăm đường về thôn Nhan Biều I. Nếu tính xuôi
theo dòng nước thì mộ anh ở cuối làng”. Không ai có thể ngờ rằng, đó là
manh mối để đồng đội tìm thấy anh sau ngày giải phóng.
Hơn ba mươi năm, miền quê từng bị hủy diệt tàn khốc nhất trong cuộc
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đổi thay, thanh bình và trù phú. Và
đúng như bức thư, mọi người không khỏi ngạc nhiên khi tìm
thấy anh…
Có lẽ, đó chỉ là một trong số hàng vạn lá thư mà những người lính
Thành cổ Quảng Trị chưa kịp gửi đi trước trận đánh cuối cùng.
40 năm trôi qua, những lá thư như thế tiếp tục được gửi về cho những
người đang sống hôm nay và cho cả mai sau. Nhưng có một điều thật kỳ
diệu là những dòng chữ viết dưới làn bom đó dù chưa kịp gửi
đi thì người ở hậu phương năm xưa, những người đang sống hôm nay và
các thế hệ mai sau đã, đang và sẽ còn cảm nhận được nhịp đập của trái
tim các anh. Bom đạn có thể giết chết sinh mệnh con người,
nhưng không thể tiêu diệt được ý chí những người chiến đấu vì một lý
tưởng đã chọn. Hàng ngàn người đã ngã xuống, xương máu đã lẫn vào đất,
vào sông, hóa thành cây cỏ, thành phù sa bờ bãi. Vì thế
mỗi người hôm nay thấm hơn sự hy sinh cao cả của quân dân Quảng Trị
cùng biết bao chiến sĩ trên mọi miền đất nước. Cuộc chiến đã qua đi mấy
chục năm nhưng nỗi đau thương mất mát đó vẫn hằn sâu
trong lòng của người ở lại.
Lê Dương- Infonet
Nhãn:
THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)



