Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc (23-26) tt


20
Quảng Ngãi cũng là trung tâm nhận các thương binh trên các chiến trường từ miền Nam ra dưỡng bệnh và dưỡng thương. Các chiến sĩ từ miền Bắc vào được nghỉ ngơi trước khi được phân phối ra mặt trận - Tỉnh Quảng Ngãi cũng là trung tâm văn hoá, văn nghệ miền trung để các chiến sĩ về nghỉ được giải trí trước khi đi nhận công tác. Tại rạp chiếu bóng đều có trình diễn văn nghệ dịp cuối tuần.
Trường Quân chính Đại đội đã mãn khoá vào tháng 7 do tình hình chiến trường miền Nam căng thẳng. Căn cứ vào tình hình chiến sự phía nam trung bộ, Nguyễn Sơn đã đề nghị được rút ngắn thời gian luyện tập của trường lục quân. Bác Hồ và Quân ủy Trung ương đã chấp thuận. Ngày 20/11/1946 trường Lục quân trung học cũng bế mạc.
Buổi lễ diễn long trọng và chứa chan tình cảm giữa thầy trò, quân dân. Sau khi tuyên bố kết quả học tập của các sinh viên, thầy Nguyễn Sơn căn dặn: sinh viên phải cố gắng khắc phục mọi trở ngại luôn học tập trong chiến đấu để làm rạng danh trường.
Các sinh viên phải hiểu vị trí mình trong hoàn cảnh lực lượng ta còn non yếu hơn địch rất nhiều, phải cùng đồng đội, đồng bào nuôi lấy lòng căm thù giặc và bọn Việt gian bán nước. Phải khắc phục mọi khó khăn, gian khổ sáng tạo trong chiến thuật, quyết đoán mau và dốc toàn lực diệt quân thù.
Cuối cùng đồng chí Lê Văn Kiện đại diện cho sinh viên toàn trường đã cảm ơn thầy Nguyễn Sơn cùng toàn thể Ban Giám hiệu và các huấn luyện viên ngoại quốc đã giảng dạy. Đồng chí Kiện không quên cám ơn đồng chí Bí thư, đồng chí Chủ tịch cùng các ban ngành, đoàn thể, nhất là các mẹ, chị chiến sĩ đã giúp đỡ về hậu cần cho trường trong khi tỉnh nhà phần đông ăn cơm sắn, khoai để nhường cơm sẻ áo cho sinh viên. Đồng chí đánh giá: chúng tôi xem đây là một mối tình đẹp nhất giữa địa phương và tiền tuyến, giữa quân và dân như cá với nước.
Sau lễ bế mạc, chúng tôi ra trường sớm hơn một tháng để kịp thời trường tung cán bộ về các địa phương. Tuy nhiên nhà trường cũng cho các sinh viên nghỉ 10 ngày phép để chuẩn bị hành trang, sau này lên đường ra mặt trận với sự phân công của nhà trường.
Riêng phần tôi, nhờ dịp này tôi đã được về thăm mẹ ở Gia Lâm sau 10 năm xa cách. Khi tôi lên 5 tuổi mẹ tôi đã đi tu nhưng năm sau bà được ông chánh tổng Gia Quất huyện Gia Lâm rước về làm vợ. Dịp này tôi đã gặp bà ở một căn nhà lá riêng biệt trong đất nhà ông Chánh tổng. Bà được sống độc lập nhưng vì ham buôn bán, gánh gạo nhiều quá nên bị cụp xương sống làm cho bà gù lưng. Bà vẫn còn mạnh khỏe khi tôi trở về trường. Đó là điều làm tôi rất mừng và yên chí vào tiểu đoàn Ba Dương thực hiện “Nam Tiến”.
Thế mà hơn 30 năm sau khi hoà bình lặp lại tôi mới gặp mẹ tôi, như thế cũng là điều may mắn hơn một bạn sinh viên trường này sau hiệp định Giơnevơ1 đáng lẽ được về nhà gặp mẹ nhưng vì có lệnh đi học Trung Quốc gấp trong 3 năm. Đến khi trở về nhà thì mẹ đã mất rồi...
Việc nghỉ phép 10 ngày riêng đối với tôi thật quý. Đây cũng là một quyết định rất tình cảm và khoa học của thầy Sơn đã dành cho các sinh viên được sum họp với gia đình trước giờ xuất phát và chuẩn bị từ tinh thần đến vật chất thật dứt khoát, gọn nhẹ trước khi trở về trường nhận nhiệm vụ phục vụ mặt trận tại 3 miền trung, nam, bắc. Họ đã rũ bỏ hết những vấn vương trong lòng trước khi ra đi với tinh thần sung mãn được vinh dự hiến thân cho Tổ quốc. 
21
Nhận được quyết định số 214 ngày 20 tháng 11 năm 1946 ông Nguyễn Sơn đã bàn giao với Thiếu tướng Lê Thiết Hùng sẽ thay ông làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam và ông sẽ về trung ương làm Tham mưu trưởng. Đi theo ông có 17 người gồm 1 cần vụ, 1 y tá, 1 thư ký và 2 bảo vệ với 10 sinh viên lục quân Quảng Ngãi, bà Nội vì mang thai 4 tháng nên ông để ở lại khi nào yên sẽ ra Bắc sau.
Ông cho biết trước đường đi ra Bắc rất gian nan phải xuyên rừng vượt núi. Ông ra lệnh mỗi người phải chuẩn bị một ruột tượng 5kg gạo - Và lương khô cùng đồ gia vị muối vừng (muối tiêu) muối đậu. Mỗi người được cấp 1 võng, 1 tấm ny lông che mưa và để đắp, 1 hộp mùng tròn dùng khi đứng gác, hộp này trồng vào đầu để tránh muỗi, một khăn mặt, một đôi giầy da và hai đôi tất, 30 viên thuốc cảm, ỉa chảy và kiết, một gói nhỏ bông băng với lọ thuốc đỏ - Ông giao la bàn cho thư ký quản lý.
Các đồng chí Nguyễn Chánh, Phạm Kiệt, Hoàng Quốc Việt đã tổ chức một bữa cơm tiễn đưa ông Nguyễn Sơn và đoàn đi về trung ương có mặt cả cô Nội. Trong bữa ăn ông nhắc nhở các vị chỉ huy nên chú ý vùng biên giới Trung Lào, địch có thể xâm nhập bất cứ lúc nào kể cả các cửa biển Mỹ Khê, Thu Xà, Sa Huỳnh - nhất là Sa Huỳnh nên có những phòng tuyến chống địch đổ bộ - Nơi đây là đường huyết mạch, núi lại sát biển nếu địch chiếm được chúng sẽ uy hiếp vùng Đức Phổ, Mộ Đức làm trở ngại cho hoạt động quân sự của ta.
Hiện lại tỉnh Buôn Ma Thuột đã thành lập 3 đại đội độc lập, 3 đội vũ trang tuyên truyền và 3 ban xung phong công tác gồm:
- Đại đội độc lập 29 phụ trách Cheo Leo và tả ngạn sông Ba.
- Đại đội độc lập 79 hoạt động ở M’Drak
- Đại đội độc lập 49 hoạt động ở Buôn Hồ2
Phải liên lạc với 2 ban xung phong công tác ở bản Đôn và một ban hoạt động ở phía Tây đường 14 (từ Buôn Ma Thuột đến Buôn Trắp) để chỉ đạo chiến đấu.
Tình hình lúc này thuận lợi cho ta vì các cán bộ, đảng viên các cấp, bộ đội du kích, bắt đầu bám vào dân, bám đất, vào cơ sở cách mạng. Tuy nhiên các đồng chí phải theo sát tình hình để tìm cách tạo cho địa phương những thuận lợi trong chiến đấu và xây dựng. Đây cũng chứng tỏ về mặt chiến lược khi ông mới bước chân vào miền Nam ông đã lên liền An Khê để chỉ đạo việc bố phòng mạn sườn của Trung bộ là Buôn Ma Thuột, Pleiku, Kontum chống lại dã tâm lấn chiếm của thực dân Pháp.
Mãi 8 giờ tối mới chia tay. Theo thường lệ, sau buồi cơm chiều ông nghỉ chừng 15 phút và sau đó là giờ đọc sách của ông tối thiểu cũng phải mất 2 giờ. Đây xem như kỷ luật ông đã áp dụng suốt thời gian ở nước bạn.
Đặc biệt tối nay, ông bỏ việc đọc sách, và lái xe đưa cô Nội đi vào Sa Huỳnh vì biển Mỹ Khê cô Nội đã đến tắm biển ở đó rồi.
Trước khi đi ra bắc ông cũng có chuyện cần bàn với cô
_______________________________________
1. Hiệp định đình chiến tại Genève (Thụy Sĩ) giữa Pháp và Việt Nam ký kết vào tháng 7/1954.
2. Trích cuốn Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc tập 2 năm 1992.







22
Biển Sa Huỳnh nằm hai bên ngọn núi nhỏ gần bờ. Ánh trăng bàng bạc khắp trời - Hai người leo ngồi trên tảng đá phẳng lì. Cô Nội ngả người vào vai ông - Ông lại nhớ phảng phất mùi hoa bưởi khi mới gặp nhau - Cô Nội nói:
- Về đây nhiều khi em nhớ Huế nhất là ngày đầu tiên gặp nhau chúng mình rong chơi cả ngày quên ăn...
- Em lãng mạn còn hơn anh! Chỉ khi nào em cười anh mới thấy đấy là Nội của Huế năm xưa, và những lúc...
Cô Nội cướp lời:
- Những lúc mình cãi nhau, là anh không nhớ phải không? Nói rồi cô véo vào đùi ông. Ông suýt xoa nói nhỏ: Đừng thế!
Ông xoay mặt cô hôn cô và bảo:
- Bao giờ anh cũng yêu quý em kể cả hòn máu đang nhúc nhích trong bụng em! Em cũng biết thời giờ đối với anh rất quý vì thế có khi em buồn vì thời gian gần bên em ít ỏi và anh lại là người tham công tiếc việc anh phải luôn xuống chỉ đạo tại các tỉnh, huyện và những điểm anh cảm thấy còn yếu kém. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến cán bộ, chiến sĩ phải được chăm sóc cũng như ta trồng cây. Giống cây tốt đã đành nhưng nếu ta không bón phân và luôn tưới nước thì cây, cũng không thể nẩy mầm ra hoa kết quả mau chóng được.
Hai người tâm sự với nhau một hồi lâu. Trăng vừa ló trên ngọn núi trước mặt. Họ đã thỏa thuận ông Sơn đi ra bắc và sau khi sinh đẻ xong vài tháng cô Nội sẽ ra sau.
Hai vợ chồng lên xe ra về khi trăng lên khỏi đỉnh núi. Biển vẫn im lìm dưới bầu trời xanh lơ - Không ngọn gió, không tiếng sóng dạt dào. Không một bóng người - Ánh sáng mờ mờ của biển và trời nhập nhòa. Cảnh biển lùi dần phía sau xe...
6 giờ sáng ngày 02 tháng 01 năm 1947. Đoàn được một xe ô tô lớn chở ra Tam Kỳ. Tại đây bắt đầu cuộc đi bộ xuyên rừng vì đường sá đã bị phá hủy. Các địa phương triệt để “Tiêu thổ kháng chiến” 1 vườn không, nhà trống, đường quốc lộ đào thành những hố ngang dọc để đề phòng quân Pháp không thể dùng đường để đi ruồng bố, dùng nhà để ở dễ dàng.
Đoàn đã phải vất vả khi qua các khu vườn hoang, dân chúng di tản xa thành thị tất nhiên đoàn phải tự chuẩn bị nấu nướng để giải quyết bữa ăn dọc đường. Qua ba ngày đi trong núi rừng, đoàn đã lên được đỉnh đèo Hải Vân.
Ngồi trên tảng đá Nguyễn Sơn thấy mây bay là là dưới chân như những dải bông gòn - Khí lạnh núi rừng làm tê buốt mặt. Sau khi ăn cơm nóng sốt anh em phải tìm những cành khô nhóm lửa sưởi tay. Lúc anh em vào ngủ trong lều vải Nguyễn Sơn vẫn ngồi trầm ngâm bên bếp lửa sắp tàn. Ông nhìn màn đêm mờ mờ dưới trăng đã gợi ông nhớ đến Ngũ Hành Sơn, đến thôn Đông Dã nhà của người vợ trẻ Trần Kiếm Qua, cái tên do ông đặt và nàng đã vui lòng chấp nhận. Kiếm Qua có nghĩa là gươm, giáo hợp với bản chất cứng rắn của nàng thay vì tên Ngọc Anh. Nàng là người năng động, quả cảm, cứng rắn, nói là phải làm cho được. Mọi việc quyết định mau lẹ, tính tình như đàn ông. Nàng đã dám cắt tóc ngắn trong khi phụ nữ Trung Hoa lúc ấy để tóc dài và thắt bím của thời phong kiến. Ông đã cưới nàng bất chấp luật lệ của Hồng Quân vì sự kiện này ông đã bị kỷ luật “khai trừ khỏi đảng”.
____________________________________
Tiêu thổ kháng chiến là tất cả đường sá, cầu cống, nhà gạch kiên cố, thành quách đều phá để quân địch khi tiến chiếm không có chỗ ở, không vườn rau để ăn...

Trăng vẫn mờ mờ thấp thoáng sau những làn mây đang lững lờ trôi trên khắp núi đồi. Ông nhớ lần lượt hồi mới gặp Kiếm Qua, nàng đã chấp thuận cùng ông sinh cùng một ngày (1/10) Ông nhớ ông nắm tay nàng, ông lắc lắc và nói:
- Em hãy ghi nhớ không cần biết năm nào tháng nào ta chết, hãy cứ quyết định chúng ta sinh ra cùng tháng cùng ngày. Ngày ấy là ngày 1/10 và ta tôn thờ chủ nghĩa cộng sản mãi mãi. Ông nhớ cả bữa tiệc cưới chỉ có ông nội của Kiếm Qua đứng chủ hôn. Ông đã hứa trước ông nội và anh em: “Thưa ông nội! Xin ông cứ yên tâm, cháu và Ngọc Anh trên trời như đôi chim liền cánh, dưới đất như hai cành lý liền cành sẽ theo cách mạng cho đến chết, cháu nguyện cùng kết bạn với Ngọc Anh suối đời”. Nói xong ông uống hết chén rượu đầy không còn sót một giọt. Cảnh tượng đêm động phòng ông nhớ rõ như in.
Khi vừa tiến vào “phòng hoa chúc” 1, tửu hứng của Hồng Thủy vẫn còn. Ông bỗng nổi hứng vừa đi lại vừa cao giọng ngâm bài thơ đã làm rung động Hoa Hạ của thi sĩ Vương Bột đầu đời Đường. Bài thơ “Đằng Vương Các” bất hủ. Khi ông đang say sưa ngâm đến câu: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi; Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” là 2 câu thơ hay tuyệt trần, Kiếm Qua nhịn không được, cười rũ ra:
- “Anh vừa làm rể của Trung Hoa, lại vừa muốn làm “thiếu niên tài tử” của Trung Quốc nữa cơ đấy!”
Hồng Thủy dừng lại hỏi Kiếm Qua:
- “Kiếm Qua, em có biết Vương Bột là nhân sĩ đất nào không?”
- “Tất nhiên là em biết! Ông ta là người Hà Tân, Sơn Tây, là “thiếu niên tài tử” của quê em. Ông được coi là người đứng đầu “Tứ kiệt” thời đầu nhà Đường”.
- “Thế em có biết ông ta chết chôn ở đâu không?”
Cô lắc đầu im tịt.
Ông từ từ thong thả đáp:
- “Vương Bột chết chôn ở Việt Nam ”.
Cô nghĩ rằng có lẽ trong khi vui mừng ngày cưới, Hồng Thủy lại da diết nhớ về Việt Nam chăng, nên cô không dám hỏi.
Hồng Thủy bỗng nhiên cười phá lên “Người Sơn Tây và Việt Nam có duyên với nhau đấy!”
Bấy giờ Kiếm Qua mới rõ là Hồng Thủy chúc mừng hai người thành đôi thành lứa.
Về vấn đề Vương Bột cha là Vương Phúc Kỳ, một huyện lệnh của quận Giao Chỉ thời đó (nay là Việt Nam ). “Đằng Vương Các tự” là tác phẩm của Vương Bột sáng tác tại Nam Dương, Sơn Tây.
Trên đường về nam, sang Giao Chỉ thăm người thân vào mùa thu năm 676 (sau công nguyên). Vương Bột cùng gia đình cả thảy 7 người đi thuyền vượt biển gần tới bờ thì biển nổi bão lớn, thuyền chìm. Tất cả đều chết hết. Theo truyền thuyết thì sau khi thuyền chìm, chỉ duy nhất xác Vương Bột nổi lên và trôi dạt vào bờ bắc sông Lam (ở Trung Bộ Việt Nam ). Thời ấy Vương Phúc Kỳ làm quan được lòng dân, nên dân chúng tổ chức chôn cất Vương Bột tử tế. Người dân địa phương thường đồn đại: cứ nửa đêm ở hai ven sông lại vang lên tiếng Vương Bột ngâm hai câu thơ tuyệt cú:
“Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”.
Tạm dịch:
Ráng chiều theo cánh chim cô đơn
Nước mùa thu lẫn trời một sắc.
Dân chúng bèn lập đền thờ Vương Bột để cầu cho vong hồn của một thiếu niên từ miền Bắc Trung Quốc đến đây gặp nạn tại Việt Nam . Ít lâu sau người cha của Vương Bột là Vương Phúc Kỳ tạ thế. Dân chúng địa phương cũng đem chôn ông cạnh mộ của con, và thành kính thờ. Trải hơn một nghìn năm đã trôi qua, hương khói của đền vẫn luôn nghi ngút cho đến bây giờ.
“A! Anh còn là một nhà Trung Quốc học”. Kiếm Qua mỉm cười khen ông.
- Em còn nhớ 2 câu thơ khác của Vương Bột cũng đã được lưu truyền thiên cổ không?”
“Hải nội tồn tri kỷ
Thiên nhai nhược tỉ lân”
Tạm dịch:
“Bốn bể còn tri âm
Chân trời xa mà gần”
Kiếm Qua và Hồng Thủy thực sự hợp ý nhau. Khi ấy hai trái tim của hai người đã hoà cùng nhịp đập. Người này mới mở miệng người kia lại đáp liền.
Đây cũng thể hiện tính hiếu học của ông đã nghiên cứu về cả văn chương cổ đại Trung Quốc.
________________________________________
1.      Phòng hoa chúc có nghĩa là phòng ngủ của đôi tân hôn.
                                                                               24
Một hôm, bí thư Đặc ủy Tấn Đông Bắc, Vương Dật Quần, mời Kiếm Qua lên phòng làm việc của ông. Ông mặc một chiếc áo bông dài, hai tay đút vào hai ống tay áo, đi đi lại lại, mặt có vẻ đăm chiêu. Kiếm Qua nghi ngại không hiểu ra sao. Ông ngừng lại và hỏi thẳng:
“Nghe nói cô và Hồng Thủy kết hôn rồi, có phải không?”
Kiếm Qua gật đầu, cảm thấy có điểu bí ẩn.
“Cô có biết Bát lộ quân có một điều quy định, không cho phép quan binh kết hôn trong thời gian kháng Nhật không?”
Cô lắc đầu “Không biết ạ”
Lúc đó mặt cô đỏ bừng lên. Bản tính cô rất bướng, thế mà lúc ấy vì chuyện kết hôn bị phê bình, thật chẳng biết làm thế nào cho phải.
Thấy thái độ phản ứng của cô, Vương Dật Quần dịu giọng hơn:
“Việc này không trách cô được, điều này do Bát lộ quân quy định. Cô cũng lớn tuổi rồi, ở huyện Ngũ Đài, người tuổi như cô thì đã có con bồng, con mang”
Vương Dật Quần không phê bình cô nữa, song trong lòng cô rất không yên. Điều quy định chỉ áp dụng với người trong Bát lộ quân, thế nhưng “sai lầm” đó đều do hai người gây nên. Nghĩ lại cô vô cùng lo lắng cho Hồng Thủy. Vì việc lấy vợ này, Hồng Thủy bị phê bình, song ông không nói nửa lời cho cô hay. Hồng Thủy là người tính tình quả cảm, chỉ cần thấy đúng là ông dám làm và cũng dám chịu. Trời có sập, thì một mình chịu, quyết không để ai bị liên luỵ, và nét mặt vẫn bình thản như không có gì xẩy ra.
Cô hiểu rõ tính cách của Hồng Thủy. Việc ông Vương gọi cô lên nói, cô cũng không kể lại. Cô nghĩ Hồng Thủy đã chịu đả kích quá nhiều, lẽ nào cô lại gây thêm nỗi đau lòng cho ông! Hồng Thủy đã ba mươi tuổi rồi, thời gian ở trong Bát lộ quân đâu có ngắn. Hàng ngày anh vẫn vui vẻ, nói nói, cười cười, không lúc nào thấy anh lộ vẻ buồn rầu. Một người chịu nhiều đả kích như thế, nếu không có ý chí cách mạng kiên cường thì sao còn luôn giữ được niềm lạc quan.
Việc Hồng Thủy và cô lấy nhau, nghe nói trong Bát lộ quân thời đó là việc xảy ra đầu tiên và vang dội khắp nơi. Một số cán bộ lớn tuổi đều cười:
- Hồng Thủy đã có vợ, chúng ta lớp lớn tuổi chắc có thể được cấp trên lưu ý và thay đổi chính sách đối với cán bộ lớn tuổi chưa vợ chăng!
Tin Hồng Thủy cưới vợ và bị khai trừ khỏi Đảng đã được truyền về Diên An, đến tai Mao Chủ tịch và Chu Tổng tư lệnh. Hai người cảm khái nói: “Đây là lòng quân rồi! Con đường cách mạng Trung Quốc quá dài. Rất nhiều chú bé ngày nào vào bộ đội, súng đeo dài lê thê gần quét đất, tham gia chống bao vây dũng cảm, xông pha trận mạc, đánh rồi lại tiếp tục đánh nữa, luôn hăng hái trung thành với cách mạng. Nay đã quá tuổi. Yêu cầu lấy vợ ngày càng bức thiết. Địa bàn của khu giải phóng có hạn con gái vốn dĩ đã thiếu, nay lại về đóng thêm bao nhiêu quân, tỷ lệ nam nữ chênh lệch rất lớn. Tại Diên An tỷ lệ đó đã đạt tới mười tám nam trên một nữ. Tranh dành với đàn bà con gái địa phương, thì làm sao còn được lòng dân! Chúng ta phải nghĩ ra một giải pháp hợp lý để hạn chế việc bộ đội kết hôn, chứ không nên cấm hẳn.
Cấp lãnh đạo quân đội bàn đi tính lại rồi ra một quy định gọi là “28 + 7 + đoàn” (Đoàn: trung đoàn), tức là người đã đủ hai mươi tám tuổi, có bẩy tuổi quân, là cán bộ cấp trung đoàn, phù hợp với điều kiện trên thì được phép kết hôn.
Tuy có quy định nghiêm như vậy, song số lượng nữ đồng chí quá ít. Vì vậy bộ đội chiến đấu có thêm một nhiệm vụ nữa: mỗi khi đến một nơi nào, hết sức thu nạp nữ thanh niên tham gia quân đội, làm cán bộ hậu cần.
Khi nói đến chuyện này, các đồng chí lớn tuổi đã dự đoán đúng và hả hê nói với nhau:
“Phải cảm ơn Hồng Thủy đã nã phát súng đầu tiên tạo điều kiện cho chúng ta lấy vợ”.
Sự việc cô và Hồng Thủy kết hôn đã làm Mao Chủ tịch và Chu Tổng tư lệnh phải thay đổi chính sách hợp lý khoa học đối với các cán bộ trong quân đội.
25
Trăng le lói trên dải Trường Sơn. Đêm này ông lại liên tưởng đến người vợ đầu tiên đã có một cháu gái mới vài tháng. Bà tên Hoàng Thị Diệm người Hà Nội, học lớp 5 sau bỏ học bán hàng xén1, là người xinh đẹp thùy mị của đường Quán Thánh. Lúc bấy giờ khi quen nhau ông mới 16 kém bà 4 tuổi. Mỗi lần đi học ngang qua quán, ông đều tìm một lý do để mua hàng của bà. Có lần ông mua gói thuốc lào, ông để lá thư tỏ tình trong gói thuốc và trả lại bảo là thuốc hỏng. Bà giở gói thuốc và biết là thư của ông. Nội dung muốn nói gì, bà nhìn ông và cười. Sau đó bố ông đã sắm lễ vật xin cưới bà Diệm cho con mình.
Trong vòng 1 năm giữa 2 bà thông gia có chuyện bất đồng. Chiều theo ý mẹ, vợ ông ôm bé Võ Thanh Các về bên ngoại. Sẵn dịp đồng chí Thụ đón ông qua Trung Hoa gặp Bác Hồ để tham gia cách mạng, ông giả vờ gây gổ đập tan cửa kính, chửi bới om sòm cho láng giềng biết để tối hôm đó ông, cùng đ/c Thụ và một người nữa đi tàu hỏa lên Bắc Giang. Bắt đầu từ đây ba người phải đi bộ qua Trung Quốc đến Quảng Châu.
Thuở ấy nếu thực dân Pháp biết nhà nào có người làm cách mạng, là chúng đầy đọa gia đình người ấy khổ sở điêu đứng - Vì tránh tình trạng liên luỵ đến gia đình bên vợ, ông đã tạo một màn kịch giả trước khi đi để tránh con mắt soi mói của mật thám Pháp. Ông cố hét to cho hàng xóm nghe để lấy cớ trước khi ông đi bọn mật thám không chú ý. Đoàn ông đi trong 3 ngày bằng đường bộ lên đến biên giới vì khi đó đường tàu hỏa bị phá nên phải băng núi rừng về Quảng Châu rất vất vả vì phải luồn tránh những đồn của Quốc dân đảng.
Tại đây ông đã gặp lại Bác Hồ lần thứ 2. Ông ở với Bác một tuần, sau đó ông được vào học trường Hoàng Phố2. Khi ra trường Bác giữ ông lại bên Bác để làm sĩ quan liên lạc với các cán bộ cao cấp của Hồng Quân.
______________________________________
1. Hàng xén: hàng tạp hoá.
2. Trường sĩ quan đầu tiên của Quốc dân đảng - Lê Thiết Hùng trong đội ngũ quân Tưởng cũng học trong này.
26
Trên đỉnh Hải Vân, ánh trăng khi mờ khi tỏ. Gió lạnh từng đợt lùa vào lều vải. Ông bỏ thêm củi cho to ngọn lửa để xua đuổi khí lạnh đang bao vây quanh người. Xa xa dưới dãy núi chỉ thấy một dải trắng xám mờ mờ. Trời lẫn lộn với biển và thỉnh thoảng có đám mây từ từ bay qua dưới chân ông. Ông lại nhớ Kiếm Qua sau thời gian động phòng 2 người đều không có mái nhà để ở và cả hai đều ở cách nhau 4, 5 cây số. Lúc đó ông từ Cục chính trị được điều về tại báo Kháng Địch nên ít gặp Kiếm Qua. Tờ báo này đã ra được 20 lần và viết chữ ngược lên đá litho1 để in báo. Khi ông ra thêm 1 số thì tòa báo bị máy bay Nhật đánh phá sập trụ sở. Ông được Ủy ban huyện cấp cho 1 máy in với số chữ chì. Những máy móc này rất lạ đối với ông nhưng ông quyết mấy mò cùng anh em xếp chữ tranh thủ ra báo lần thứ 22 - Sức làm việc của ông suốt ngày đêm đã cuốn hút các nhân viên cán bộ, nhà in và toà soạn cùng làm như ông. Từ đấy ông viết truyện ngắn, xã luận và thơ. Thời gian ông phụ trách đã ra được 5 lần báo thì ông được chuyển công tác.
Tư lệnh Bát lộ quân đã công nhận tờ báo của biên khu do ông làm chủ nhiệm đã tạo nội dung tốt và trình bày phong phú hơn trước. Song song trong thời gian này ông cũng đã thành lập Ban kịch nói với 5 người và 1 nữ là vợ ông. Sau lần ấy vợ ông đã lôi kéo bạn bè trong hội phụ nữ được thêm 4 người làm ca sĩ trong Ban kịch2.
Năm 1939 do sự phát triển của Bát lộ quân yêu cầu phải thành lập thêm trường huấn luyện đông của giặc Nhật. Sau đó Sư đoàn Hạ Long lại thắng 1 trận lớn tại Trần Gia Trang gần nhà trường. 
 cấp bách, Hồng Thủy được điều về làm Phân hiệu phó phân hiệu 2 trường đại học kháng Nhật do La Thụy Khanh phụ trách. Đây là trường đại học đầu tiên tại khu căn cứ địa. Các giáo viên đều có trình độ tú tài trở lên, Hồng Thủy phụ trách chủ nhiệm khoa chính trị.
Thu đông 1939 Bát lộ quân đánh 3 trận lớn tại Trấn Đông Bắc đập tan chiến dịch vây quét mùa đông của giặc Nhật. Sau đó Sư đoàn Hạ Long lại thắng 1 trận lớn tại Trần Gia Trang gần nhà trường.

Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc (26-29) tt

Trên đỉnh Hải Vân, ánh trăng khi mờ khi tỏ. Gió lạnh từng đợt lùa vào lều vải. Ông bỏ thêm củi cho to ngọn lửa để xua đuổi khí lạnh đang bao vây quanh người. Xa xa dưới dãy núi chỉ thấy một dải trắng xám mờ mờ. Trời lẫn lộn với biển và thỉnh thoảng có đám mây từ từ bay qua dưới chân ông. Ông lại nhớ Kiếm Qua sau thời gian động phòng 2 người đều không có mái nhà để ở và cả hai đều ở cách nhau 4, 5 cây số. Lúc đó ông từ Cục chính trị được điều về tại báo Kháng Địch nên ít gặp Kiếm Qua. Tờ báo này đã ra được 20 lần và viết chữ ngược lên đá litho1 để in báo. Khi ông ra thêm 1 số thì tòa báo bị máy bay Nhật đánh phá sập trụ sở. Ông được Ủy ban huyện cấp cho 1 máy in với số chữ chì. Những máy móc này rất lạ đối với ông nhưng ông quyết mấy mò cùng anh em xếp chữ tranh thủ ra báo lần thứ 22 - Sức làm việc của ông suốt ngày đêm đã cuốn hút các nhân viên cán bộ, nhà in và toà soạn cùng làm như ông. Từ đấy ông viết truyện ngắn, xã luận và thơ. Thời gian ông phụ trách đã ra được 5 lần báo thì ông được chuyển công tác.
Tư lệnh Bát lộ quân đã công nhận tờ báo của biên khu do ông làm chủ nhiệm đã tạo nội dung tốt và trình bày phong phú hơn trước. Song song trong thời gian này ông cũng đã thành lập Ban kịch nói với 5 người và 1 nữ là vợ ông. Sau lần ấy vợ ông đã lôi kéo bạn bè trong hội phụ nữ được thêm 4 người làm ca sĩ trong Ban kịch2.
Năm 1939 do sự phát triển của Bát lộ quân yêu cầu phải thành lập thêm trường huấn luyện cấp bách, Hồng Thủy được điều về làm Phân hiệu phó phân hiệu 2 trường đại học kháng Nhật do La Thụy Khanh phụ trách. Đây là trường đại học đầu tiên tại khu căn cứ địa. Các giáo viên đều có trình độ tú tài trở lên, Hồng Thủy phụ trách chủ nhiệm khoa chính trị.
Thu đông 1939 Bát lộ quân đánh 3 trận lớn tại Trấn Đông Bắc đập tan chiến dịch vây quét mùa đông của giặc Nhật. Sau đó Sư đoàn Hạ Long lại thắng 1 trận lớn tại Trần Gia Trang gần nhà trường.
Ngày 3 tháng 4 năm 1940, tướng Nhật là Trung tướng Abê Norihido phái Đại tá Mêruna Kankichi chỉ huy 1500 quân tấn công khu căn cứ cách mạng. Đội quân này đã bị Bát lộ quân tiêu diệt hoàn toàn tại núi Nhạn Túc - Đại tá Kankichi bị chết dưới hoả lực mạnh mẽ của Hồng Quân.
Trung tướng Abê người đã tự phụ là vị chỉ huy tài giỏi đứng đầu trong hàng tướng Nhật Bản, sau cái chết của sĩ quan cấp dưới, ông coi đây là một cái tát lớn của Hồng Quân đã giáng vào mặt ông. Tính tự cao, kiêu căng đã làm ông nổi giận. Bốn ngày sau ông Abê thân chinh dẫn đại quân tấn công vào biên khu tại Hoàng Phố để trả thù trận thua cay đắng vừa rồi. Abê đã bị đại quân Dương Thành Vũ bao vây. Một trận chiến đấu khốc liệt giữa hai bên. Sau cùng Abê bị tiêu diệt cùng quân đoàn của mình. Chiến thắng oai hùng này đã vang dậy khắp cả nước Trung Hoa vì đây là chiến thắng to lớn nhất chưa từng có của Hồng Quân.
Đêm nay nhớ đến chuyện cũ ông ngâm nho nhỏ, bài thơ ông viết về Abê sau trận thất bại to lớn này. Bài này đã được đăng lên báo Kháng Địch.
“Chiến thuật mũi dao nhọn thọc sâu”
“Phản công hợp kích”
“Phân khu càn quét”
Còn có trò nào
        có thể làm
bày ra cho hết!
Hỡi các anh hùng “Hoàng khuẩn”!!
(Hoàng quân)
“Chín mũi tiến công”
“bảy vòng vây quét”
Đã bao phen
Mộng xâm lược tan như bèo bọt
Thế nhưng
Như lợn chết, không sợ dội nước sôi:
lại muốn tới
lại phải tới
lại phải mò đến nơi
Chiến dịch Trần Gia Trang
Bài học đó
vẫn không dạy người sâu sắc
trận tiêu diệt Ngân Phương Nhạn Tú
cũng chưa làm người mở mắt
Cho nên “Trung tướng Abê”, con người xuất sắc,
thân chinh xuất mã
là danh tướng, tỏ rõ uy phong
nở hết cỡ “Đoá hoa danh tướng”
Tiếc thay!...
        Hoa đẹp mà sao “mệnh bạc”
“Danh tướng chi hoa”
cũng chẳng sao tránh nổi
mệnh vẫn bi thảm trời dành
Ô Ê hô! Ra ma!

*
Đường sao mà hiểm ác
như báo “Triều Nhật” đã nêu
đúng đấy
những con đường
        Trung Quốc
bọn xâm lược đi trên đường Trung Quốc
thì đâu đâu cũng là hiểm ác.
dù là phương Nam
hay lên miền Bắc
“Trung tướng”
cũng chẳng còn đường nào khác
… ngoài những con đường hiểm ác...
Vậy làm sao?
        miệt mài,
                lặn lội,
Ông cố gắng
miệt mài
mò mẫm,
từ Trương Gia Khẩu tới được Mã Dịch xong,
là đến...
        chỗ cuộc đời ông đi tong!
“Trung tướng”
Cái vận ông đen như chó mực
Không!...
Cái vận tối của Thiên hoàng mới là đích thực,
đã hại ông!
biến ông thành cây mục
chẳng nhận nỗi hình dung
Biển báo đường
đã đề rất rõ:
“Trương Gia Khẩu” từ chữ “khẩu” mà ra
“Trương Gia Phần” theo chữ “phần” mà tiến
“Xin lỗi ông,
Đừng nổi cáu!...
Trung Quốc không có họ “Abê”
trong tính danh trận họ
Họ Trương là họ đứng đầu!
Vậy nên ông,
vừa tới địa giới “Phần”
Đạn pháo!
Lũ đạn pháo thật là vô lễ
đã đợi ngài tới nổ ầm ầm.
Ông đã tới nơi ông định tới,
miệt mài,
mò mẫm
mời tới được chả muốn tới:
“Phần mộ Abê”
(trên nghĩa trang đã ghi)
“Adi đà phật!
Quan thế âm Bồ tát,
xin cứu khổ ông
cứu nạn cho ông ấy,
Khổ nạn của ông do chiến tranh xâm lược đấy!
“Trung tướng”
Ngài thương kẻ dưới trướng lắm nhỉ?
thương chàng đội trưởng Kankichi
Ngài thương hắn...
hết lòng chiến đấu
khổ cực
bên vực Nhạn Túc
chết rục
Ngài rơi lệ
Ngài nắm tay kêu
và bèn cùng hắn
chết theo...
Ôi gương “nhân ái” thực là đáng nêu
Chúng tôi
đám con cháu của Thái Hàng Sơn
Xin cám ơn ngài
Từ huyện Thanh Sơn
quê hương ngài yêu dấu
đã miệt mài
mò mẫm
đến tặng cho
mảnh đất khô cằn
thêm được ít phân bón
Đoá hoa danh tướng!...
Nay thành phân bón cho Thái Hàng Sơn
Hồng Thủy rất có tài về thơ, văn. Đoàn kịch do ông tổ chức tại Trung Quốc lúc đầu chỉ có vợ ông và ông đơn ca, hoặc nói chuyện tếu vì ông rất có khiếu hài hước. Trong cuộc trường chinh vạn lý rất khổ sở, đói khát, ai nấy mặt mày ủ rũ, mồ hôi đầm đìa ông lại có nhiều tình tiết để khai thác làm đề tài văn nghệ. Trong hoàn cảnh gian nan ông vẫn lạc quan yêu đời và đem cuốn Kiều ra ngâm nga để quên đi những cực khổ trước mắt hoặc ông lại trêu chọc tướng Trần Canh và anh em đang mệt nhọc trên đường đi xa thẳm.
Lúc đầu tiết mục trình diễn rất nghèo nàn. Ông còn nhớ vợ ông hát được 6 bài là “cạn vốn.” Bài hát ruột của vợ ông được quân dân hoan hô với những lời lẽ mộc mạc, Nguyễn Sơn nhớ lại và se sẽ hát:
Chiếc đèn nho nhỏ leo lét cháy
Chồng tôi đánh trận tôi ở lại
Không buồn không đau không rầu rĩ
Tôi mang cho chiếc áo thật ấm thật mềm
A! Hây a!
Đàn con lớn lên lại đi đánh giặc Nhật
A! Hây a!
Nguyễn Sơn còn có khiếu sáng tác kịch thơ như “Xuân canh”, “Tòng quân Triều” và trường ca “Thiên chân” 3 bản bi kịch đã đăng nhiều kỳ báo. Những bài thơ ông đều được quần chúng và nhất là thương binh bộ đội thích nhất. Sau đó kịch của ông được các anh các chị kịch sĩ ở thành thị vào kháng chiến đã dàn dựng diễn xuất và sau này có những diễn viên nổi tiếng như Hồ Bằng, Diễm Hoa và các biên tập Lưu Giai, Hồ Khả, Đỗ Phong cùng các đạo diễn Nguỵ Nguỵ, Đinh Lý, Hồ Xô, Uông Dương về với ban kịch nên có thêm nhiều sáng tác giá trị và tiết mục biểu diễn càng thêm phong phú.
Đoàn kịch Kháng Nhật đã tạo thêm nguồn sinh lực trong quần chúng - là đạo quân tiên phong phục vụ nâng cao tinh thần chiến đấu và giáo dục bộ đội, quần chúng nhân dân trong khu căn cứ địa. Đây là đoàn kịch đầu tiên của Hồng Quân Trung Hoa có những kịch bản sâu sắc với diễn viên diễn xuất rất hay được toàn quân đội và dân chúng các tỉnh hoan nghênh.
_______________________________________
1. Phải viết chữ ngược và in bằng tay trên đá. Miếng đá trắng, viết chữ ngược bằng mực charbonel.
2. Ban Kịch sau thành đoàn kịch Kháng Nhật có tăng cường các tri thức nam nữ ở thành vào chiến khu nên lực lượng Đoàn kịch trở nên vững mạnh và phong phú về tiết mục biểu diễn.
3. Tiếc rằng chúng tôi chưa sưu tầm được tác phẩm và thơ của ông.


27
Qua đêm khác, trên dải Trường Sơn ông cũng đã không ngủ được. Ông đặt lưng trên vải bạt. Đêm càng khuya. Trăng mờ dần. Ông vẫn suy nghĩ miên man về những ngày hoạt động ở Trung Quốc, với người vợ trẻ nhưng kiên cường - ông nghĩ đến con ông, hai đứa Tiểu Việt, Hàn Phong còn nhỏ quá. Ông nằm trằn trọc, trong những hình ảnh quay cuồng. Mắt ông khi nhắm, khi mở.
Ba tháng trước đây ông đã nghe tin vợ con ông đều bị chết vì bom do máy bay Nhật oanh tạc. Không thể nào ngủ yên! Vợ yêu của ông có chết thật không! Chao ôi! Chiến tranh khói lửa mịt mùng. Cái gì cũng có thể gọi là đúng được. Ông bước ra ven rừng nhìn những ngọn núi xanh lam trùng điệp lớp lớp chung quanh. Xa xa có phải là cửa biển Thuận Hóa không? Ông lại nhớ đến cô Nội một chiến sĩ cách mạng năm 1940 của thời Nam Kỳ khởi nghĩa. Cô Nội trong thời kỳ bí mật đã từng là vợ đồng chí Trần Văn Bẩy, Bí thư Liên chi ủy Hậu Giang. Đồng chí đã bị giặc bắt và bị thủ tiêu trong tù. Cũng như cô Tú Anh1, cũng đi mua vật liệu làm súng, mìn cùng một công tác với cô Nội. Từ năm 1936 hai cô đã gia nhập cách mạng lúc còn rất trẻ. Đảng ủy liên tỉnh Hậu Giang đã giao cho hai cô công tác sưu tầm vật liệu làm vũ khí như thuốc nổ, ống nước đem về xưởng tại U Minh để chế tạo vũ khí, chuẩn bị thời cơ chống Pháp. Tuy cùng 1 công tác nhưng 2 người phải đi riêng với 2 hướng đi khác nhau.

28
Trước khi vào nhận nhiệm vụ tại Quảng Ngãi, Nguyễn Sơn đã ghé Huế hai ngày vì ông được biết một sĩ quan cao cấp Nhật chỉ huy các đội quân Nhật tại miền Trung nên ông cần gặp họ. Nếu thuyết phục được bộ chỉ huy này theo kháng chiến thì ta được lợi vô kể. Cuộc gặp gỡ đã diễn ra tốt đẹp.
Đã từ lâu ông có ý định thưởng thức cảnh đẹp của sông Hương núi Ngự do các bạn khen ngợi và mô tả về Phu Vân Lâu chỗ vua ngự và chùa Thiên Mụ.
Đây cũng là dịp may để ông được xem thành nội, lăng các vị vua triều Nguyễn, chỗ ở của vua, hoàng hậu và các cung tần mỹ nữ. Ở Huế còn có món ăn đặc biệt như cơm âm phủ, bánh bột lọc, tôm chua... và các nơi như chợ Đông Ba, bến Kim Luông, núi Ngự, đò sông Hương...
Ông lái ô tô đến Huế, ông được Ủy ban nhân dân thành phố bố trí ở tại khách sạn Morin Frère và ăn tại nhà sẹt2. Qua một đêm trên giường nệm êm ái, ông thức dậy đi tắm. Ông đã phải ở Huế hai ngày trong việc gặp gỡ sĩ quan Nhật.
Lúc tờ mờ sáng ông lái xe qua cầu Tràng Tiền. Ông rẽ bên trái từ từ đậu vào lề đường. Ông tò mò muốn biết chỗ vua hay ra hóng mát tại Phu Vân Lâu. Ông nhớ rất rõ lúc ấy ánh mai vừa hừng sáng. Ông bước lên bậc tam cấp của ngồi nhà cổ kính cất gần bờ sông. Chung quanh cỏ cây xinh đẹp. Chợt ông sững sờ nhìn thấy bóng một người đàn bà đang đứng nhìn ra bờ sông Hương. Người phụ nữ này dong dỏng tầm thước. Trên đầu mái tóc đen huyền được bới gọn và xệ xuống dưới vai. Gió dưới sông thổi lên làm bộ bà ba lụa trắng của cô dán sát vào người nổi bật những đường cong tuyệt mỹ. Phía sau đã vậy ông tìm cách ra phía trước để quan sát. Ông giả vờ hỏi:
- Thưa cô! Tôi từ Hà Nội vào, nghe nói chùa Thiên Mụ đẹp lắm, mong cô chỉ hộ chùa Thiên Mụ đi đường nào?
- Thiên Mụ à! May quá, người ta mới chỉ cho tôi, tôi cũng đang định đến đó.
- Thế tôi có thể đưa cô đi được không? Tôi đậu xe ngoài kia.
Ông nói thêm:
- Người bạn ở Hà Nội có giới thiệu về bún bò Huế ở Đông Ba, mắm tôm chua ở thành nội, cơm âm phủ, tiện thể mời cô ăn thử bún bò Huế sáng nay!
- Quá hân hạnh cho tôi!
Cả hai lên xe ông cầm lái. Cô ngồi bên xe Jeep chăm chú nhìn hai bên cầu. Khi qua ngang cầu Tràng Tiền ông cao hứng ngâm nho nhỏ bắt chước giọng Huế. “Cầu Tràng Tiền mười hai cái nhịp - em đi qua không kịp ờ - chậm - Cô cướp lời - chậm thì em đi nhờ xe anh. Cả hai cùng cười thích thú. Không khí giữa họ đã trở nên thân mật.
Ăn bún bò xong, khi lên xe ông giơ tay nắm tay cô nâng cô lên chỗ ngồi. Bàn tay búp mầng của cô hồng hào mềm mại. Cô cảm ơn và nhìn ông với cặp mắt dịu hiền. Đôi má trái xoan của cô ửng hồng. Cô cười rất tươi và nói:
- Mong ông giúp đỡ những người miền Nam xa xôi như tôi
Ông cầm vô lăng lái và nói:
- Tôi từ miền Bắc vào công tác có thể sẽ vào tới miền Nam của cô. Tôi cũng ước mong được sự giúp đỡ của - lúc ấy hai người cùng nhìn nhau, ông nói tiếp của mọi người và nhất là cô.
Trên xe, cô cho biết khi các mặt trận trong Nam tan vỡ cô cùng các đồng chí Dương Bạch Mai, Vũ Trường Khê (đã học 5 năm trường Hoàng phố) và Hà Huy Giáp đi thị sát mặt trận Buôn Ma Thuột khi trở về bị phục kích, Khê đã chỉ huy một tiểu đội bắn cầm chân địch để đoàn rút lui an toàn. Tiếc thay Khê đã bị một viên đạn vào ngực và hy sinh anh dũng. Năm ấy anh mới 24 tuổi. Đàm Minh Viễn anh ruột Đàm Quang Trung cũng hy sinh ở mặt trận này cách một tuần trước.
Ông liếc nhìn cô và thầm nghĩ người đẹp như cô lại thích chịu khổ cực nơi mặt trận. Quả thật cô là người đẹp toàn bích. Nếu so sánh Kiếm Qua có vẻ non trẻ và dáng người thấp hơn, chắc da chắc thịt với giọng nói cương nghị biểu hiện bản chất người nông dân cứng cỏi. Còn cô Nội lại có một vẻ đẹp quý phái trong nước da trắng hồng, với đôi mắt long lanh, với mái tóc được búi tròn và thòng xuống theo kiểu những thiếu nữ đảng Dân chủ đi kháng chiến ở Nam Bộ. Cô mặc bộ quần áo bà ba cổ “bà lai” 3 làm nổi lên một bộ ngực tròn trịa với thân hình thon thả. Quả là một vẻ đẹp lý tưởng trong sự giản đơn của bộ đồ màu mỡ gà lụa Hà Đông.
“Em Kiếm Qua! Hồn em bây giờ ở đâu có lẽ xác em và con biến thành những mảnh vụn trong làn bom khủng khiếp của bọn giặc Nhật và Quốc dân đảng. Tha lỗi cho anh trong sự so sánh ngày hôm nay. Đây cũng là đồng chí bạn của em đấy. Họ cũng gian nan cực khổ không kém em”.
_________________________________
1. Tú Anh là một nữ sinh – Đảng viên Đảng ủy Rạch Giá (Kiên Giang) đóng tại rừng U Minh. Thời đầu Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940. Sau 1975 cô là Giám đốc nhà hàng xuống khách sạn tỉnh Minh Hải suốt gần 20 năm, cô là vợ của đồng chí Tăng Hồng Phẩm, Bí thư tỉnh Minh Hải. Khi Tây đi ruồng bố U Minh, phần lớn các đồng chí bị bắt chỉ còn đồng chí Tám Kiệt (Tám Lục lạc) và Năm Tôn thoát khỏi. Rừng U Minh lúc ấy là nơi căn cứ của liên tỉnh ủy gồm Long Xuyên (An Giang), Rạch Giá (Kiên Giang), Cần Thơ (Hậu Giang), Sóc Trăng, Bạc Liêu (Minh Hải).
2. Nhà Sẹt, tiếng Pháp Cercle: Câu lạc bộ hồi ấy nơi này toàn tiếp khách sang trọng và các dân biểu Trung phần thời chế độ cũ (Diệm, Thiệu)
3. Bà lai: cổ chéo.

29
Khi xe dừng lại bên thềm chùa Thiên Mụ, hai người vào chùa và cũng dâng hương lễ phật. Đây là lần đầu tiên, ông thắp hương bắt chước vái theo cô.
- Anh biết tôi vái gì không?
- Chắc cô cầu cho ông, bà cha mẹ...
- Không phải? Tôi vái cho chồng tôi đấy.
Ông ngạc nhiên nhưng không dám hỏi giữa khói hương nghi ngút của điện thờ.
Khi hai người bước ra sân gần lan can chùa, họ đứng bên nhau cùng hướng mắt xuống dưới sông Hương nhìn con đò đang cô đơn cắm sào ở bên kia bờ sông.
Cô Nội nói tiếp:
- Chắc anh ngạc nhiên là tôi đã có chồng. Chồng tôi là Bí thư Liên chi ủy Hậu Giang1, tuy chúng tôi gần nhau có một đêm và sáng hôm sau chồng tôi bị bắt. Giặc Pháp từ Rạch Giá đi từ tờ mờ sáng vào bao vây căn cứ bắt hầu hết những người trong căn cứ. Lúc đó tôi đang đánh răng tại bờ rạch rừng U Minh. Tôi nghe tiếng súng, tôi vội lặn vào bụi ô rô nhưng tôi cũng bị bắt. Bọn Pháp dẫn tôi đi dập dềnh trên bờ kênh và lùng sục trong rừng. Khoảng chừng một tiếng đồng hồ thằng quan Pháp hô lớn
- Rassemblement2. Tiếng chạy và tiếng súng lách cách tiếp theo.
- En avant! à la direction du bâteau! Marche ! 3
Nguyễn Sơn là người học tiếng Pháp thông thạo. Ông nghe cô Nội nói tiếng Tây4 lưu loát và phát âm đúng giọng “đầm” 5 sau này ông mới biết cô là sinh viên địa chủ ở Bình Minh, tỉnh Cần Thơ. Từ đấy ông và cô nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp vì ông rất thích giọng nói của cô phát âm giống người Pháp.
Ánh sáng ban mai hồng lên trên bờ sông Hương. Hai người vừa chuyện trò vừa nhìn những con thuyền đánh cá đang buông lưới trên dòng Kim Luông.
Ông cũng đã nói đến công tác và hoàn cảnh gia đình vợ ông ở Ngũ Hành Sơn (Trung Quốc). Cô cũng nói thời gian cô công tác với các đồng chí ở rừng U Minh.
Cô nói tiếp: bọn Pháp đã bắt được tôi và một số đồng chí đưa về nhốt tại khám Rạch Giá, sau đó tôi bị đày ra Côn Đảo6. May mắn thay còn hai anh đi công tác đến trưa mới về là anh Tám Kiệt7 và anh Năm Tôn không bị bắt.
Chiều hôm đó các anh Quảng Trọng Linh, Chín Ngự, Ba Đôn đã gặp đ/c Ba Hồ trong rừng sâu. Đ/c Ba Hồ8 là Bí thư đầu tiên của tỉnh Rạch Giá năm 1941. Đ/c phân công các anh đi các nơi để tránh mũi nhọn của giặc và tạm thời ngừng hoạt động chờ lệnh mới. Căn cứ tỉnh ủy được chuyển về Canh Đền khoảng 8 cây số gần nơi đồng chí Chín Ngự đang ở.
Hai người nói chuyện càng tâm đầu ý hợp. Tình cảm đồng chí càng dâng trào. Họ đều đồng chung cảnh ngộ một bên không vợ, một bên không chồng. Họ nắm tay nhau tung tăng hết đi quanh thành nội thăm ngai vàng của Vua Bảo Đại, khi dừng bên hồ Tĩnh Tâm đầy sen nở thơm ngát. Khi vào Hoàng cung ông lại lái xe đưa cô Nội đi các Lăng Minh Mạng, Thiệu Trị, cuối cùng là lăng Tự Đức. Họ hẹn nhau sau này nếu có thì giờ sẽ đi thăm lăng vua Gia Long. Cô Nội hứa sẽ thuê một chiếc thuyền mui, cùng ông đi trên dòng sông dài 27 cây số để hưởng thú vui trên sóng nước sông Hương. Cô quả là một trí thức có tình cảm dạt dào, lãng mạn.
Tại Lăng Tự Đức 2 người đứng bên nhau nơi ngự phòng, vua Tự Đức thường ngắm cảnh và làm thơ ở đấy. Họ nhìn ra hồ sen nở đầy mầu hồng chung quanh nhà thủy tạ. Hương sen thoảng thơm ngát. Ông nhắc lại khi Bằng Phi chết, vua Tự Đức tiếc thương và đã làm một bài thơ trong đó ông còn nhớ 2 câu thơ rất hay:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi!...
Những đóa sen hồng như ánh lên giữa những tia nắng chiều trong cảnh tranh tối tranh sáng, Nguyễn Sơn nhẹ nhàng đặt hai tay lên vai cô và từ từ hai đôi môi giáp lại vào nhau. Hai thân xác nóng bỏng như đang lên cơn sốt đã hòa nhập trong những cánh tay xiết chặt giữa ánh chiều đang lóe sáng trước khi tắt.
______________________________________
1. Liên chi ủy Hậu Giang là Liên chi ủy miền tây Nam Bộ gồm Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên.
2. Rassemblement: tập họp
3. Theo hướng tàu chiến “tiến”
4. Tiếng tây: tiếng Pháp.
5. Đầm: tiếng Pháp: madame là đàn bà.
6. Côn Đảo (Poulo condore) cách Vũng Tàu 80 cây số.
7. Tám Kiệt được gọi là “Tám lục lạc”. Đi đến đâu, tiếng nói rổn ràng và lội nước rất hay. Sau này ông Tám làm thủ tướng chính phủ Việt Nam .
8. Đồng chí Ba Hồ tên thật là Huỳnh Hữu Phước Bí thư tỉnh uỷ đầu tiên của tỉnh Rạch Giá (Kiên Giang) - Trích tư liệu lịch sử đảng Kiên Giang

Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc tt

Tác giả: Hà Anh
Nhà xuất bản: Thanh Hoá
LỜI CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP NGUYÊN TỔNG TƯ LỆNH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VỀ TƯỚNG NGUYỄN SƠN

Anh Nguyễn Sơn lúc 16 tuổi đã tham gia phong trào Thanh niên cách mạng đồng minh hội và được vinh hạnh học tập tại trường Võ bị Hoàng Phố nổi tiếng của Trung Quốc. Khi anh về nước thì quân Pháp đã xâm lược miền Nam nước ta. Trong cuộc họp, Bác Hồ, anh Trường Chinh và tôi yêu cầu anh Nguyễn Sơn vào Nam phụ trách Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam (nơi diễn ra chiến sự ác liệt giữa ta và địch). Đây là một chức vụ cực kỳ quan trọng thể hiện lòng tin của Đảng và Chính phủ đối với anh.
Anh Nguyễn Sơn là tướng lĩnh có công với quân đội ta. Đặc biệt anh đã từng tham gia cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài ở Trung Quốc. Anh là vị tướng nước ngoài duy nhất của Hồng Quân Trung Hoa. Các đồng chí láng giềng khi nhắc đến anh đều có một tình cảm tôn trọng và sâu nặng. Năm 1993, tôi sang thăm Trung Quốc đã gặp vợ con anh Sơn, tôi rất vui và yên lòng khi thấy những đứa con bên đó cũng như những đứa con bên này đều đã thực hiện được những điều mà cha anh mong đợi, cần cù phấn đấu, học tập và công tác với tinh thần lạc quan.
Tướng Nguyễn Sơn là một chiến sĩ cộng sản của Trung Quốc và Việt Nam , là người có khí phách dũng cảm, cũng là một vị tướng tài không chỉ ở lĩnh vực quân sự mà còn ở các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. Anh luôn rất coi trọng đào tạo cán bộ. Trong phong trào luyện quân tại Quân khu 4 anh đã rất thành công khi đưa ra một hình thức huấn luyện “Đại hội Tập” được Bộ quốc phòng áp dụng trong toàn quân và nhân dân.
Có thể nói Cách mạng tháng Tám vừa mới thành công, cách mạng Trung Hoa còn chưa giành được thắng lợi, Đảng và nhân dân ta đã phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, độc lập tự chủ, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chính quyền non trẻ trong điều kiện bị bao vây đầy khó khăn phức tạp. Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và Đảng toàn dân đoàn kết xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, xây dựng từ dân quân đến sư đoàn chủ lực đầu tiên. Chúng ta đã nêu cao tinh thần tự lực tự cường, đã đứng vững và lớn mạnh, đặt nền móng vững chãi cho việc tiếp thu và sử dụng có hiệu quả sự viện trợ hết lòng của các nước anh em, đặc biệt là Trung Quốc.
Năm 1949 có một tài liệu của Pháp công bố, Pháp đã buộc phải thừa nhận: “Dùng lực lượng quân sự không thể thắng nổi Việt Minh”.
Anh Sơn về nước giữa những ngày khó khăn đó. Trong các cuộc thảo luận anh đã đưa nhiều ý kiến sâu sắc về bồi dưỡng cán bộ tác chiến, xây dựng bộ đội chủ lực, đặc biệt là xây dựng lực lượng dân quân. Anh phát biểu sôi nổi đã thu hút được sự chú ý của mọi người. Trong quan hệ bạn bè anh tôn trọng đồng chí, đồng đội. Anh thường tâm sự với mọi người thâu đêm, suối sáng làm cho ai cũng có cảm giác thoải mái và quyến rũ.
Sau khi công hiến hết mình cho miền Nam, mùa hè năm 1950 anh đã nhận công tác của Bác Hồ để đi Bắc Kinh. Trong thời gian kháng Mỹ viện Triều anh đã mang bệnh nặng. Mặc dù đã được nhà nước Trung Quốc hết lòng cứu chữa thậm chí gửi sổ y bạ đi hội chẩn ở Liên Xô nhưng bệnh tình anh không thể qua nổi. Đảng đã đón anh về nước để chữa bệnh theo yêu cầu của anh. Anh đã từ trần trong niềm thương tiếc vô hạn của người thân, bạn bè, chiến sỹ trên mảnh đất quê hương mình.
Mặc dù mất sớm nhưng anh đã để lại hình ảnh của một người cộng sản suốt đời cung cúc tận tuỵ cho sự nghiệp cách mạng nước ta và nước bạn. Hình ảnh một đồng chí - một người bạn chiến đấu thân thiết hết sức chân thành vẫn sáng chói. Anh mãi mãi được ghi nhớ trong trang sử cách mạng Việt Nam và khắc sâu trong mỗi trái tim chúng ta.
Hà Nội, tháng 06 năm 2000
Đại tướng Võ Nguyễn Giáp ký
Trích lời đề tựa của Đại Tướng đã viết cho cuốn “Nguyễn Sơn vị tướng huyền thoại” của Minh Quang - tháng 6/2000. Nhà xuất bản trẻ - 161B Lý Chiến Thắng TPHCM

LỜI TÁC GIẢ VÀ BẠN BÈ
cùng là sinh viên thuộc trường Võ bị I Nguyễn Sơn
(Trường Lục Quân Trung học Quảng Ngãi 1946)

Tướng Nguyễn Sơn sinh năm 1908 tên thật là Vũ Nguyên Bắc quê tại thôn Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội (nơi đây có nghề sơn mài dát vàng). Sau 23 năm chiến đấu trong quân đội Hồng quân Trung Hoa, ông đã tham gia nhiều trận đánh chống quân Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Năm 28 tuổi ông đã là Sư đoàn trưởng lại là dân biểu Quốc hội qua 2 nhiệm kỳ. Khi quân Pháp có dã tâm chiếm Nam Bộ để thôn tính Việt Nam lần thứ 2 ông được Mao chủ tịch chấp thuận về nước nhà tham gia chống ngoại xâm.
Đầu tháng 1/1946 Bác Hồ phong Nguyễn Sơn là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam . Ông đến Quảng Ngãi rồi lập tức lên đóng đại bản doanh tại An Khê.
Tôi cũng là người đầu tiên lên mặt trận An Khê phụ trách về quân giới tại mặt trận An Khê. Tôi lại có may mắn được gặp gỡ và nói chuyện với ông tại bờ suối An Khê. Ông cũng là trí thức tiểu tư sản, tôi cũng thế nên hai người dễ thông cảm nhau. Ông đã cho tôi biết về hoàn cảnh gia đình của ông ở Việt Nam và bên Trung Quốc.
Sau khi chỉ đạo các lực lượng chiến đấu tại An Khê phần đất gần quân khu 15. Ông lập giới tuyến phòng ngự chống địch bung ra từ Buôn Ma Thuột, ông dời đại bản doanh về Bồng Sơn. Ông dành thời gian vào mặt trận Khánh Hoà, Phan Rang để ổn định chiến trường quân khu 6. Khi trở về ông lại dời đại bản doanh về Quảng Ngãi và xúc tiến việc thành lập trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi với nhận xét quân đội ta lúc ấy rất non kém và thiếu nhiều cán bộ có năng lực chỉ huy trong chiến đấu nên vì thế phải có trường đào tạo cấp tốc. Tôi cũng đã đăng ký và thi đậu vào học trường này, có thể nói tôi có nửa năm làm việc dưới quyền Tướng Nguyễn Sơn cộng với thời gian học trường lục quân là một năm.
Rất nhiều sách nói về Nguyễn Sơn đúng cũng có, sai cũng có. Ở đây tôi xin được tổng hợp cuộc đời và sự nghiệp của ông qua con mắt nhận xét của một sinh viên là học trò của ông cùng với sự tham khảo của các bạn đồng học, chúng tôi nhận thấy trình độ có hạn chưa nói lên được tất cả những điểm ưu việt qua 30 chục năm chinh chiến đã rèn luyện ông thành con người thép với ý chí tấn công quyết chiến quyết thắng, không lùi bước trước kẻ địch, ông lại còn muốn lời văn, câu thơ, khúc nhạc, tiếng ca phải vang lên theo những bước chiến sĩ tiến lên tiêu diệt quân thù. Ông là nhà hùng biện, nhà thơ, nhà văn, soạn giả kiêm kịch sĩ nổi tiếng của ban kịch đầu tiên nước Cộng hoà nhân dân Trung Quốc. Do lối sống hài hoà nhiều khi hài hước dí dỏm đã thuyết phục một số lớn văn nghệ sĩ, số học giả có tiếng trong nước, những người thuộc chế độ cũ kể cả những sĩ quan phát xít và ngoại quốc cùng theo ông làm cách mạng.
Học trò của Thầy thành đạt rất nhiều, cán bộ tại các trường Võ bị I, Võ bị II, Trường quân chính đại đội, các lớp Trung đoàn, trường Thiếu sinh quân và trường Văn học kể ra có trên 5000 học viên trong vòng năm năm khi thầy hoạt động tại Việt Nam . Riêng các sinh viên trường Võ bị I khi nhập học có 480 sinh viên, đợt đầu loại 50 sinh viên do trình độ kém, sức khoẻ kém, hoặc thiếu kỷ luật. Đợt cuối 430 sinh viên được phân công hoạt động về các đơn vị ở ba miền đất nước.
Sau 30 năm kháng chiến thành công các sinh viên Võ bị I họp mặt chỉ còn 120 người (bảo vệ Thủ đô 40 sinh viên hy sinh). Trên 300 sinh viên đã được phủ quốc kỳ trên thân xác họ tại các chiến dịch Đông Xuân, Biên giới, Thượng Lào, Khe Sanh, Quảng Trị, Khánh Hoà, Đồng Tháp Mười, Trường Sơn, Điện Biên Phủ v.v...
Trong vinh quang cũng có những đau xót. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến gian khổ chống Pháp, chống Mỹ sự hy sinh tính mạng của cải là đương nhiên. Đa số sinh viên chúng tôi nằm trong thành phần địa chủ, tiểu tư sản, trí thức nên qua những đợt chỉnh phong, chỉnh đảng, cải cách ruộng đất một số cũng bị lao đao dao động nhưng cuối cùng đều khắc phục khó khăn noi gương thầy đeo đuổi kháng chiến đến ngày thành công.
Số sinh viên thành đạt có thể kể ra: Trung tướng Phan Quang Tiệp và trên 20 Thiếu tướng như Hồ Đệ, Lê Văn Kiện, Hồ Quang Hóa, Vũ Hắc Thông, Tống Trần Thuật, Lê Trung Ngôn, Dương Bá Nuôi, Y Block,... và trên 50 chục Đại tá. Ngoài ra, có 3 Đại sứ: Nguyễn Khắc Huỳnh, Tô Anh, Vũ Hắc Bồng, Nhà văn dã sử nổi tiếng Thái Vũ, hoạ sĩ Vũ Anh, v. v...
Về phía trường Thiếu sinh quân và các lớp văn hoá khác đều cũng có những người đã thành đạt làm: Bộ trưởng, Ủy viên Trung ương, Tiến sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư... chúng tôi mong rằng các bạn ở thế hệ sau tìm hiểu và noi gương chiến đấu của Thầy về mọi lĩnh vực.
Tôi nghĩ không những Thầy đã củng cố các Quân khu 4, 5, 6, 15 trở nên vững mạnh mà theo tôi công lớn nhất của Thầy lại là thực hiện nhiệm vụ do Bác Hồ giao cho khi qua Trung Quốc liên lạc mật thiết với các lãnh tụ để nhận được sự yểm trợ tối đa về vũ khí, về hóa chất... kể cả công lao của đoàn Cố vấn Trung Quốc sang giúp đỡ Việt Nam tận tình. Đây cũng là bằng chứng hùng hồn đánh bật những luận điệu cho là thầy Sơn qua Trung Quốc vì bất mãn địa vị.
Trong lần kỷ niệm 50 năm ngày thành lập trường Lục quân trung học Quảng Ngãi, thiếu tướng Lê Văn Kiện, Tư lệnh Tăng, Thiết Giáp là sinh viên Đại đội 1 đã đại diện cho toàn trường làm 2 câu đối mô tả tình quân dân cá nước. Ông trân trọng tặng Bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi Đỗ Minh Toại để tỏ sự biết ơn Tỉnh ủy, Ủy ban, Mặt trận Tổ quốc cùng các đoàn thể và nhân dân đã giúp mọi phương diện cho trường Lục quân.
“Quảng Ngãi dựng xây công đức lớn
Lục quân nhớ mãi cội nguồn xưa”.
Đồng chí Toại đã cho khắc hai câu thơ lên bia kỷ niệm của nhà trường. Khi tướng Nguyễn Sơn qua Trung Quốc đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chúc ông “Mã đáo công thành” trong công cuộc kháng Mỹ viện Triều. Quả thật ông đã đem chuông đi đánh xứ người như đại tướng mong muốn. Khi rời Liên khu tư bao nhiêu văn nghệ sĩ và đồng bào tiễn đưa ông. Họ đã khóc trong niềm thương nhớ kính mến. Phải chăng đấy là “triệu bất tường”.
Sau cái chết còn son trẻ của ông, bà Trần Kiếm Qua và bà Lê Hằng Huân đã gặp nhiều cực khổ trong vấn đề nuôi con khôn lớn thành tài. Khi đại tá Chúc, sĩ quan dưới quyền ông, đã đến thăm gia đình bà, ông đã phải khóc vì thấy những đứa con bé tí chập chững đã sớm mất cha. Theo di chúc của ông, bà Huân đã trao số tiền chính phủ Trung Quốc trao tặng Nguyễn Sơn tặng lại nhà nước Việt Nam .
Đấy gia đình Tướng Nguyễn Sơn đã thừa hưởng cung cách con người của Nguyễn Sơn là thế, là thẳng thắn, kiên cường, không vụ lợi, không khuất phục, không dua nịnh, cương quyết, tự lực, dũng cảm vượt qua các trở ngại của cuộc sống, tranh đấu cho hoà bình, cho tự do và công bằng, bác ái của nhân loại như ông. Ngay như các cán bộ văn nghệ dưới quyền cũng noi theo ông không khuất phục trước cường quyền, không bị lôi cuốn trước sự sai trái, sống trong sạch đúng lương tâm con người.
Giờ đây tượng Thầy đã có chỗ trong hội khoa học lịch sử Việt Nam . Tại núi Hồng Lĩnh nhân dân đã lập đền thờ thầy quanh năm khói hương nghi ngút. Chính phủ 2 nước Trung - Việt nhất là Chủ tịch Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Chu Đức... và các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta như: Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Võ Văn Kiệt, Nông Đức Mạnh khi viếng thăm Trung Quốc đã ưu ái chú ý đến gia đình hai bên. Các vị đã thăm viếng và tạo điều kiện để các vợ con Thầy được sum họp trong tình hữu nghị Trung - Việt bền vững. Vong hồn thầy chắc đã hài lòng vì mong ước về gia đình của thầy đã đạt được. Các con cháu Thầy ở Trung Quốc như: Hàn Phong đã trưởng thành là một học giả có tiếng vang được báo chí Trung Quốc khen ngợi. Tiểu Việt cũng là một Tổng giám đốc của Công ty liên doanh với Việt Nam . Tại nước nhà các con như: Thanh Hà, Nguyễn Cương đều là Trung tá và cũng là Giám đốc công ty liên doanh Hồng Đạt hoạt động giữa 2 nước Trung Việt và Châu Á. Cô Mai Lâm sống theo gương bố năm xưa cũng xông vào chiến trường miền Nam với tiếng hát của mình thúc dục miền Nam chiến thắng. Các cháu Vũ Tuấn là giáo sư, Vũ Kỳ Lân là nhà văn, Vũ Ký, cục trưởng trong Bộ Ngoại giao Việt Nam. Nói chung con cháu của thầy đều là những người thành đạt trong cuộc sống tự lập, họ tự đi lên bằng hai chân họ. Họ đang dắt tay nhau, hiên ngang đi trên hai con đường thênh thang có tên Nguyễn Sơn tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây chỉ là những mẩu chuyện nhỏ gợi nhớ đầy tình cảm thương mến đối với Thầy, nó chưa có thể là tác phẩm diễn tả đúng mức cuộc sống oai hùng của Thầy tại hai nước. Vì trình độ có hạn, tôi không đủ lời để nhận xét đánh giá và phê phán thầy tôi: một vị tướng có trình độ rất cao, chỉ có cấp trên của ông mới đánh giá đúng. Tôi mong những bạn là học trò của Thầy, những vị là bạn của ông, những nhà Khoa học, Nhà Văn hóa Nghệ thuật sẽ góp nhiều ý hay, tư liệu chính xác để tác phẩm viết về cuộc đời và sự nghiệp tướng Nguyễn Sơn khi tái bản được hoàn chỉnh hơn.
Xin trân trọng cám ơn quí vị, quí bạn.
Hà Anh (Nguyễn Quốc Tài)
Sinh viên số 229 - Trung đội 2 - Đại đội 3
Trường Võ bị I (Lục quân Trung học Quảng Ngãi)

Ý KIẾN CỦA BAN ĐẠI DIỆN TOÀN QUỐC,
BAN ĐẠI DIỆN PHÍA BẮC, PHÍA NAM CỦA TRUỜNG VÕ BỊ I
 (LỤC QUÂN TRUNG HỌC QUẢNG NGÃI) CÙNG MỘT SỐ SINH VIÊN

1- Thiếu tướng Hồ Đệ nguyên phụ trách Tiểu đoàn pháo binh 954/E34 chiến đấu tại chiến trường Điện Biên Phủ sau là Tham mưu trưởng Quân đoàn III. Ông là sinh viên Đại đội 3 làm Đại diện ban liên lạc toàn quốc của trường.
… Thầy Sơn đã để lại cho sinh viên chúng ta một kho kinh điển về quân sự, chính trị, văn hoá. Từ phép luyện quân, nuôi quân đến cầm quân... thầy trao cho chúng ta những căn bản về phát triển quân đội và văn hóa nghệ thuật. Những tư tưởng đi trước đã làm Quân khu 4 nổi tiếng một thời về mọi mặt.
Thầy để lại cho chúng ta một gương sáng về chiến sĩ quốc tế phục vụ vô tư cho nhân loại: cương quyết, kiên trì chiến đấu dũng cảm bất kỳ nơi nào có bọn đế quốc xâm lăng. Tuy nhiên, thầy rất mềm dẻo đối xử với mọi tầng lớp dân chúng và cán bộ các cấp. Thời gian dài tuy chiến đấu tại nước ngoài thầy vẫn luôn nghĩ phải làm gì cho tổ quốc của thầy. Quả đúng là tư tưởng của vô sản quốc tế. Sự cống hiến của thầy rất to lớn với hai dân tộc. Thầy là tượng trưng sự thắt chặt bền chắc tình hữu nghị giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam . Chúng tôi sung sướng được là học trò của thầy và cũng ngậm ngùi tiếc thương khi sức thầy còn có thể làm được nhiều nữa...
2- Đại tá Trần Đình Mai nguyên Vụ trưởng vụ I Tổng cục Mỏ địa chất (sinh viên đại đội 3).
… Thiếu tướng Nguyễn Sơn vị tướng đa tài huyền thoại như gần đây nhiều sách đã viết. Cũng như hàng trăm đồng môn khác chúng tôi thật vinh hạnh có được một người thầy, một biểu tượng tài năng ngời sáng: Trí, Dũng quả đoán, tình huynh đệ chan hoà, bình dị hiếm có. Thầy mất đi đã để lại vốn quý về quân sự, chính trị văn hoá nghệ thuật và chúng ta cũng mất đi một nhân tài hết lòng vì quốc tế vô sản và vì sự tồn vong của đất nước Việt Nam .
Sinh viên Hà Anh thuộc Đại đội 3 đã có may mắn sống bên thầy từ khi thầy nhận chức chủ tịch Uỷ ban kháng chiến miền Nam Việt Nam trong một năm. Với hai năm sưu tầm, anh đã đi từ nam ra bắc hay miền trung và cao nguyên, những nơi có dấu vết tướng Nguyễn Sơn đã hoạt động để lượm nhặt những tư liệu về một người thầy và cũng là một vị tướng lỗi lạc, oai hùng. Có những chuyện anh đã làm chúng ta xúc động khi tưởng nhớ tới thầy và các bạn đồng môn đã hy sinh làm rạng rỡ trường Lục quân trung học Quảng Ngãi nay là Võ bị I.
3- Thiếu tướng Võ Hắc Thông đại diện Ban liên lạc trường Lục quân trung học (nhóm A miền Bắc) là sinh viên Đại đội II của nhà trường. Ông đã phụ trách tổng kết chiến tranh của Cục Dân quân Bộ quốc phòng:
… Tôi là một trong số mười sinh viên được nhà trường chọn để đi theo thầy Sơn ra miền Bắc lập trường Võ bị II. Sau hôm khai giảng với trên 300 sinh viên, tối hôm ấy thầy Sơn triệu tập những sinh viên có giấy giới thiệu về sinh hoạt Đảng đều được mời đến họp tại văn phòng của thầy. Riêng nhóm sinh viên trường Võ bị Trần Quốc Tuấn thì chưa ai là đảng viên cả.
Ngồi trên chiếc chiếu dưới ngọn đèn dầu, thầy Sơn nhắc lại cương lĩnh của Đảng và năm bước công tác. Việc này chứng tỏ thầy rất chú trọng việc tổ chức và phát triển Đảng trong nhà trường. Một chuyện gây ấn tượng cho chúng tôi là thầy đã kể những sự gian khổ mà thầy đã trải qua trong cuộc vạn lý trường chinh để tiến lên phía Bắc lập căn cứ địa. Suốt dọc đường chống máy bay địch truy kích, chống đói, rét, bệnh tật với tinh thần sắt đá chiến đấu cho giai cấp vô sản, thầy đã chiến thắng trong chiến đấu góp phần quan trọng cho công cuộc thành công của cách mạng nước bạn. Những hình ảnh ấy đã động viên chúng tôi khi về công tác tại vòng đai thủ đô trong buổi đầu gặp nhiều khó khăn gian khổ nhưng chúng tôi đã vượt qua được. Có thể nói công tác tổ chức Đảng đối với thầy rất quan trọng. Trong khóa đó các sinh viên chúng tôi đã cố gắng tuyên truyền vận động và hai tháng sau chúng tôi đã phát triển được trên 50 chục đảng viên...
… Bằng việc làm trong những hành động cụ thể, bằng lý luận chuyên sâu, bằng lời nói có sức thuyết phục lòng người, bằng kho kinh nghiệm tích lũy nhiều năm trong sách vở và thực tế tại các chiến trường, với nguồn vốn dồi dào và nhiều khía cạnh phong phú trên mọi lĩnh vực với cuộc sống đầy sóng gió, trắc trở, oan trái trong cách mạng và đời thường đã hun đúc nên một vị tướng vừa kiên nghị, cứng rắn, vừa mềm dẻo đầy tình đồng chí, đồng đội, tình người đã cảm hoá cán bộ, chiến sĩ, nhân dân trong cuộc kháng chiến trường kỳ.
Một vị tướng văn võ song toàn mà sinh viên Hà Anh mô tả như là một thiên tài. Tôi cho là không quá đáng và đây có thể là bài học cho những thế hệ sau này noi theo.
4- Thiếu tướng Hồ Quang Hóa sinh viên Đại đội II trong Ban đại diện trường LQTH (nhóm C tại phía Nam ). Ông cũng là sĩ quan đã lấy khẩu cung đầu tiên của tù binh là Thiếu tướng Đe Castrie tư lệnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của Pháp.
… Nguyễn Sơn là một vị tướng khẳng khái dũng mãnh, oai phong nhưng rất chan hoà với cán bộ dưới quyền và dân chúng. Giới Văn nghệ sĩ rất thích ông vì lòng rộng rãi thương yêu giúp đỡ họ. Ông cũng là người sâu sắc, luôn có tư tưởng đúng đắn trong các môn thi ca, kịch nghệ, văn chương. Tôi đã đọc bản thảo của Hà Anh cũng là học trò thầy Sơn đã được sống gần thầy từ mặt trận An Khê, Hà Anh đã có một phần nào hiểu biết hơn các bạn khác. Việc người ta đồn thầy nhiều vợ, theo tôi thầy không phải là người đèo bồng, nhăng nhít. Các vợ đến với thầy đều có khoảng cách hợp lý, cho phép thầy có vợ nữa.
Thầy là người rất thương vợ, thương con không kể cả bên Tàu hay bên ta. Thầy chỉ có 5 năm để chỉ huy quân đội phía Nam trong hoàn cảnh khốc liệt với hai bàn tay trắng thầy đã tạo một đội ngũ cán bộ tin cẩn có trình độ dũng cảm quyết theo thầy ra sức chiến đấu xây dựng quân đội.
Năm năm đầy trí tuệ và mồ hôi thầy đã làm cho các quân khu 4, 5, 6, 15 từ yếu ớt trở nên vững mạnh. Thầy chú tâm dốc toàn lực đào tạo lực lượng dân quân các quân khu để có trình độ tự chiến đấu mặt đối mặt với quân thù. Thầy đã tạo một hậu bị quân với hậu cần dồi dào tiếp ứng cho các đơn vị trực chiến tại quân khu 4 về quân trang, quân lương, quân dụng, vũ khí...
Như Hà Anh nhận xét: du kích chiến là phương pháp tối ưu của các nước yếu chống đế quốc xâm lược cho nên thầy Sơn chú trọng rất nhiều về đào luyện dân quân. Cuộc đời thầy đầy lửa và ánh sáng để các sĩ quan noi theo trên đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chúng ta phải coi đây là “tinh thần Nguyễn Sơn”. Tinh thần sắt đá khắc phục mọi gian khổ khó khăn quyết vươn lên tới đích công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Còn nữa

Ký ức của “người đưa tin chiến dịch Thành cổ”

Hai nữ du kích Phan Thị Lệ và Lê Thị Hảo tình nguyện dẫn đường cho nhà báo Đoàn Công Tính vào Thành cổ Quảng Trị

Hàng trăm nhà báo của hai bên chực chờ bên ngoài “túi lửa” Thành cổ Quảng Trị trong chiến dịch 81 ngày đêm kinh hoàng của năm 1972 vì không thể tiếp cận với cái nơi kinh khủng này. Lúc đó, báo chí Sài Gòn đưa tin có hai nhà báo, một nhà quay phim tử trận khi tìm cách xâm nhập Thành cổ.
Máy bay Mỹ cho oanh kích tự do dù bên dưới binh lính của hai phía vẫn đan xen đánh giáp lá cà... Trong bối cảnh ác liệt ấy, có một nhà báo một mình vác máy ảnh đi vào nơi máu lửa. Đó là Đoàn Công Tính - phóng viên chiến trường duy nhất sống sót trở ra từ Thành cổ Quảng Trị. Ký ức lại sống dậy trong ông...
Đường vào cõi chết
Lệnh từ ban biên tập: “Chiến trường quá dữ dội, các đồng chí không được mạo hiểm để vào bên trong Thành cổ Quảng Trị”. Hàng trăm nhà báo chực chờ hàng tuần lễ vẫn không thể vào Thành cổ mà chủ yếu lấy tin bên ngoài, từ các chuyến chuyển thương ra.
Đó là ngày 15-8-1972, bên bờ bắc sông Thạch Hãn nhìn sang phía Thành cổ pháo từ hạm đội 7 của địch giội vào cứ như bắn pháo hoa. B52, trực thăng vũ trang… giội xuống, pháo lớn từ mặt đất bắn lên… tất cả là một bầu trời khói lửa tập trung trên khoảng hơn 1km Thành cổ. Mới ngày nào giải phóng, Thành cổ vẫn còn nguyên vẹn từng bờ tường, góc đất…
Phía bên địch, hai lực lượng tổng dự bị từ Sài Gòn ra, lính dù, lính biệt động lăm lăm khí thế chuẩn bị san bằng Thành cổ... Thương binh chuyển ra ùn ùn, có người bị bom napalm cháy hết da, chỉ còn thịt đỏ lòm, ai yếu bóng vía nhìn vào sẽ mất tinh thần ngay.
Tôi năn nỉ những cán bộ tải thương tìm đường vào trong, họ lắc đầu “không thể!”. Đường giao liên cứu thương chạy ra còn tắc huống hồ gì đường vào. Nhưng rồi tôi cũng tìm được hai o du kích mới từ trong “chảo lửa” ra, một người tên Lệ, 17 tuổi và một người tên Hảo, 20 tuổi. Sau một hồi ỉ ôi năn nỉ, hai cô liều mạng mở đường: “Thấy anh là nhà báo, chúng em tình nguyện đưa vào nhưng phải xin phép chỉ huy”. Tôi tìm gặp bí thư Đảng ủy xã Triệu Thượng, đầu tiên là cái lắc đầu.
Tôi lấy chuyện “chính trị” ra thuyết phục: “Thành cổ mình đang hồi quyết liệt, tôi muốn mô tả tư thế dũng cảm ngoan cường của ta, mà trong ảnh thiếu người nữ du kích sẽ không được hay lắm”. Tới đây thì hai cô Lệ, Hảo thấy tội quá, nói vào: “Chúng em xung phong đi mà, chỉ huy cứ cho anh ấy vào!”. Vậy là ổn rồi. Trước khi lên đường, tôi hỏi lại một lần nữa: “Quyết định dẫn tôi đi có thể là phải gian khổ và hi sinh nữa, các cô có sợ không?”. Hai cô lắc đầu: “Không!”.
Nụ cười chiến thắng dưới chân Thành cổ Quảng Trị
Tôi đã may mắn được gặp lại nguyên mẫu của bức ảnh Nụ cười chiến thắng dưới chân Thành cổ Quảng Trị, một cuộc gặp dù hơi muộn màng nhưng thật cảm động.
Bao nhiêu năm xa cách, tôi cứ ngỡ là người mà tôi chụp trên chiến trường đã chết, ngay cả khi tôi về thăm Quảng Trị, người hướng dẫn viên du lịch lúc giới thiệu bức ảnh người lính đẹp trai với nụ cười sống mãi của tuổi 20 cũng đi kèm với câu: “Thật tiếc, người lính ấy đã hi sinh”.
Chỉ đến khi một người quen phát hiện nhân vật trong ảnh chính là người cùng quê với anh và cho biết hiện anh ấy - Lê Xuân Chinh - đã lên Điện Biên làm kinh tế.
Hóa ra anh Chinh chỉ bị thương sau khi tôi chụp ảnh một ngày, phải chuyển ra tuyến sau điều trị, ngày về kẻ gian móc túi anh lấy hết giấy tờ, cuối cùng không được hưởng một chế độ gì. Đây cũng là một cuộc gặp ý nghĩa, bởi sau đó các giấy tờ của anh được xác minh lại, giờ cuộc sống của anh Chinh cũng tạm ổn.
Tôi thấy hạnh phúc vì đã góp phần nhỏ bé giữ lại hình ảnh của những người lính, một chút kỷ niệm trên đường hành quân hay một nụ cười.
Dù cái nụ cười hồn nhiên, yêu đời và chan chứa sức trẻ của Chinh năm nào - nụ cười chiến thắng dưới chân Thành cổ Quảng Trị, do một cuộc sống vất vả, éo le nên không thể còn được như xưa nữa, tôi vẫn tin rằng thời gian không làm khác đi sự tự tin yêu đời trong nụ cười của những con người ấy.
ĐOÀN CÔNG TÍNH
Dòng sông Thạch Hãn ban ngày trông hẹp nhưng đêm sao rộng quá, tôi mượn được hai phao cao su của công binh, quí như vàng, tôi đưa cả hai cho hai cô Lệ và Hảo, còn mình bọc balô, súng máy, máy ảnh... nói chung là toàn bộ gia sản vào trong tấm cao su, dốc ngược xuống làm phao bơi. Chúng tôi bơi qua sông cùng với một đại đội của đơn vị phiên hiệu 312 mới từ Bắc vào bổ sung chiến trường. Tôi cố sức đạp nước mà trên đầu đạn vẫn rít liên hồi...
Về bức ảnh Nụ cười Thành cổ
Qua tới bờ bên kia, lại tiếp tục chạy trong làn đạn pháo bắn xối xả vào bất cứ cái gì động đậy bên bờ sông. Tôi lao vào một tầng hầm mà sau này mới biết đó là dinh tỉnh trưởng. Đêm đó, chúng tôi nằm chịu đựng pháo và bom giội vào trong Thành cổ, chốc chốc từng vụn bêtông và khói bụi bay vào ngạt thở vô cùng. Có tiếng rên rỉ đâu đó trong hầm, tôi ngồi dậy lần bước đi tìm. Đó là những người thương binh đang chờ chuyển ra tuyến sau.
Có lẽ không có bất cứ từ ngữ nào để mô tả nỗi khủng khiếp của một nơi như vậy: tôi đã chứng kiến những ca đại phẫu do các y sĩ quân đội thực hiện mà không có một mũi thuốc tiêm gây tê nào, tiếng người gào thét còn to hơn cả tiếng bom. Một ai đó rên rỉ nửa mê nửa tỉnh: “Ôi, B52 lại đến kìa! Tôi đã chết chưa mà chụp hình đó?!”.
Buổi sáng, 6g tôi thức dậy và theo trinh sát ra khỏi hầm. Hai chiếc A 37 lao ra cắt bom gần cổng thành. Anh em lôi ngay tôi xuống hầm. Ngó lại những chiến sĩ không quen, tôi hỏi họ có sợ không, một anh còn rất trẻ cười tươi: “Chúng tôi đã tự nguyện viết quyết tâm thư bằng máu rồi, sợ gì nữa!”.
Một ý tưởng lóe lên trong đầu tôi làm sao để ghi lại một cách “thần” nhất của nụ cười nơi Thành cổ này - bởi ở đó, chỉ có sức mạnh tinh thần là chiến thắng được đạn bom và nỗi sợ hãi. Chụp dưới hầm thì lại không được. Tôi đề nghị anh em chuẩn bị để mình chạy ra ngoài canh máy, hễ tôi vừa canh máy xong, báo một tiếng, mọi người phải ùa lên ngay kẻo máy bay địch thả bom.
Tôi nhổm lên trên cửa hầm, bước ra cách 5m và canh máy rồi ra hiệu mọi người bước ra. Anh em từ từ, người trước người sau nhô lên, tất cả những nụ cười rạng rỡ ấy làm dâng lên trong tôi niềm cảm xúc lạ thường. Tôi run tay bấm máy tức thì... Vừa lúc đó bom địch cắt ngang nụ cười ngay trong khoảnh khắc. Anh em ôm súng xuất kích luôn, tôi ôm máy ảnh lao theo họ bấm liên tục.
Còn hai cô Lệ và Hảo, những nữ du kích dũng cảm đã mở đường đưa tôi vào đây, thì giờ tôi “trả ơn” họ bằng cách bấm mấy kiểu ảnh cho họ ở chân tường Thành cổ nham nhở vết đạn. Đạn vẫn rít trên đầu nhưng họ vẫn nở những nụ cười thật tươi và tự nhiên nhất.
Chụp ảnh xong họ lại hồn nhiên lao vào khói bom tìm kiếm thương binh, tôi cũng chạy hết hầm này đến hầm khác để bấm các kiểu ảnh chân dung chiến sĩ đang giành giật từng thước đất Thành cổ. Với tôi, họ đều là những người anh hùng và những bức ảnh mà tôi có được không thể gọi là bức ảnh thông thường mà là xương, là máu của những người lính.
Ngay tối hôm đó, tuy phải hứng chịu những trận bom, pháo ghê hồn hơn, nhưng đầu óc tôi chỉ tính làm sao chuyển những bức ảnh này ra ngoài, chuyển về Hà Nội để đưa tin cho thế giới biết sự tồn tại ngoan cường của những chiến sĩ anh hùng trong Thành cổ Quảng Trị. Những tấm ảnh này sẽ là những khoảnh khắc không bao giờ lặp lại và những con người trong ấy chưa chắc sẽ còn sống đến ngày mai...
Tôi cẩn thận lấy từng cuốn phim, gói riêng ra và ghi những dòng chữ bên ngoài: “Tôi là phóng viên chiến trường, đây là những cuốn phim chụp tại mặt trận Thành cổ Quảng Trị, nếu tôi có hi sinh, xin gửi về báo Quân Đội Nhân Dân...”.Vì chính tôi cũng không tin rằng mình có thể vượt qua lưới lửa mà trở ra an toàn…
NGUYỄN VĂN TIẾN HÙNG