Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

Những tội ác tày trời của "bạo chúa miền Trung" Ngô Đình Cẩn

Cuối tháng 4/1956, thời điểm mà tên lính viễn chinh cuối cùng của thực dân Pháp rút khỏi miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Cẩn được ông anh là Tổng thống Ngô Đình Diệm phong chức "Cố vấn chỉ đạo các đoàn thể chính trị trong và ngoài nước". Như vậy, chiêu bài dựa dẫm vào mẹ già để mè nheo các ông anh xa xứ của Cẩn đã thành công.
>> "Bạo chúa miền Trung" Ngô Đình Cẩn: Chân tướng của kẻ tàn độc

Thủ đoạn lập dự án tổ chức hoạt động tại Trung phần và Cao nguyên của Ngô Đình Cẩn cũng đã toại nguyện. Vì vậy mà nhiều người nhìn thấy Cẩn vui và ra chiều hoan hỉ lắm. Cẩn đã hạ lệnh cho đám tay chân tổ chức yến tiệc, chụm đầu với đám thuộc hạ thân tín để bàn mưu tính kế cho bước đường hoạt động tiếp theo, vẽ bản đồ để mở rộng địa bàn cai trị, và cũng từ đây, vai trò "cố vấn tối cao tại miền Trung" của Cẩn bắt đầu phủ trùm lên tất cả các cơ quan, đoàn thể đóng trên dải đất miền Trung khắc nghiệt với vô vàn tội ác dã man.
Với tư cách là "Bạo chúa miền Trung", Cẩn sở hữu trong tay quân đội, cảnh sát, mật vụ, vũ khí, nhà giam, văn phòng, trụ sở… Bên cạnh "ông cố vấn" còn có cả bộ máy chính trị của đảng Cần Lao miền Trung do Cẩn làm thủ lĩnh. Tất cả bộ máy và sự hoạt động ở khu vực Trung phần này đều nằm ngoài tầm kiểm soát của chính quyền Sài Gòn và Cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu.

  Nguyễn Thị Sách (Ảnh chụp năm 1988 tại Sài Gòn).


Cẩn đã sử dụng rất nhiều tên lưu manh, gian ác để làm việc trong hệ thống mật vụ của mình. Bọn này theo lệnh Cẩn có thể theo dõi tất cả mọi người, mọi giới, mọi ngành kể cả đó là tướng tá đương chức của quân đội hay cảnh sát quốc gia… Những tên mật vụ này đã cậy thế của Cẩn để thỏa sức thực hiện chuyện khủng bố, ám sát, bắt bớ, cưỡng đoạt tài sản của bất cứ người dân nào mà chúng muốn.
Đối với người dân sinh sống trong vùng từ bờ Nam sông Bến Hải (Vĩ tuyến 17) vào cho đến Rừng Lá (Bình Thuận) đều phải chịu sự cai trị và dòm ngó của Cẩn. Đối với các hạng công chức từ tỉnh trưởng, quận trưởng, cho đến trưởng nha, trưởng ty, trưởng phòng… Ngô Đình Cẩn đều có quyền lựa chọn, cất nhắc hoặc là bãi miễn mà không cần xem xét đến tài năng, quá trình cống hiến, đảng phái chính trị hay tôn giáo đang tham gia mà chỉ dựa vào mức độ tình cảm, của cải đút lót, những người bà con cùng họ đạo ở giáo xứ Phủ Cam, gia đình và những ai khôn khéo luồn lách để lấy được thiện cảm và tình thương của "ông cậu".
Rên xiết trước những hành vi bạo ngược và hành động bạo tàn của "Bạo chúa miền Trung" Ngô Đình Cẩn, đương thời, đã có rất nhiều người dùng các loại hình nghệ thuật truyền miệng để đả kích, trong đó có bài "Vịnh chuồng cọp" để ám chỉ "ông cậu" như sau: "Kìa xem chú cọp vẻ vang thay/ Sảnh rộng thềm cao ngự bấy nay/ Một kiếp tàn hung hùm xám đó/ Muôn dân ghê rợn ác ôn này/ Chầu hầu bao kẻ khôn gần mặt/ Thăm viếng nào ai dám bắt tay/ Mưa gió lầm than đâu đấy mặc/ Phòng riêng mộng ấm, tháng năm chày"…
Ngoài những việc làm ác nhân, thất đức, những thủ đoạn hết sức nham hiểm của Cẩn cùng bọn chó săn, mật vụ ở Trung phần và Cao nguyên, lúc bấy giờ, có không ít người còn phải rên xiết trước sự tàn độc của một người đàn bà thường hay xuất hiện bên cạnh "Bạo chúa miền Trung" Ngô Đình Cẩn. Người đàn bà đó tên là Nguyễn Thị Sách (những người trong gia đình Cẩn thường gọi là Bạch - NV) nhưng người dân xứ Huế thì gọi bà ta bằng một cái tên khác là Luyến.
Luyến là con gái của bà Phạm Thị Bích (chị ruột bà Phạm Thị Thân - tức là chị con bà dì ruột của anh em Diệm). Nguyễn Thị Sách có chồng là ông Nguyễn Văn Luyến, một người đàn ông xấu trai, khuôn mặt có phần ngờ nghệch với môi dưới chìa ra. Người đời kể lại rằng, ông Luyến là người biết an phận thủ thường nên rất hiền lành, chất phác. Ông này làm nghề đi bỏ rượu lẻ cho hàng quán trong vùng để kiếm hoa hồng sinh sống, nuôi con. Vợ chồng ông Luyến có với nhau 3 đứa con, được đặt tên thứ tự là: Ngãi, Ái, Tình.
Có chồng, có con, nhưng phần lớn thời gian bà ta lại sinh sống trong nhà Ngô Đình Cẩn. Vì có quan hệ chị em bạn dì, nên từ những năm tháng anh em nhà họ Ngô Đình còn chạy đôn, chạy đáo chờ thời, Út Cẩn còn say đá gà, câu cá, thì Luyến đã đến ở trong nhà Cẩn để làm người quản gia.
Nhiều người dân bị tra xét để tống giam.
Theo như lời thuật lại của ông Đỗ Mậu - một con người đầy duyên nợ với gia đình họ Ngô thì lúc xưa Luyến chỉ là một người đàn bà nghèo hèn, quê mùa, lam lũ, quanh năm suốt tháng chỉ đi chân đất, trên mình chỉ vận áo nâu với quần đen, lủi thủi ra vào dưới mái nhà quạnh quẽ để hầu hạ bà dì ruột của mình là "mệ cố" Phạm Thị Thân - người đã sinh ra anh em Ngô Đình Cẩn. Ấy vậy mà, từ khi Ngô Đình Diệm có quyền, Cẩn trở thành "cố vấn đặc biệt ở miền Trung", thì người trong, kẻ ngoài ai cũng thấy được sự lột xác thay hình một cách trơ trẽn của bà ta.
Người đàn bà quê kệch ấy mới ngày một ngày hai đã sai bảo người này người kia trong nhà với giọng điệu của một kẻ ăn trên, ngồi trốc. Tuyệt nhiên dưới mái nhà nhiều năm hiu quạnh, bỗng một ngày trở thành dinh thự chốn công đường kia, ai cũng phải "thưa bà", "bẩm bà". Người ta cũng bắt đầu thấy bà ta ăn diện một cách kệch cỡm, chân đi guốc hoa, quần là áo lượt, trên người đủ loại vòng vàng, nhẫn ngọc…
Mặc dù Luyến không có bất cứ một chức tước nào nhưng vì sinh sống chung trong gia đình Ngô Đình Cẩn nên bà ta cũng nắm quyền sinh sát trong tay. Ai đó làm trái ý bà ta, chỉ cần bà ta ca thán với ông Cẩn là cầm chắc người ấy phải "lên bờ xuống ruộng". Vì lẽ đó mà lúc bấy giờ ở Trung phần và Cao nguyên, viên chức chính quyền, tướng tá quân đội, cảnh sát quốc gia… đều phải cung kính, xu nịnh và đút lót cho bà ta để mua lấy sự bình yên. Những việc làm và cách hành xử với mọi người xung quanh của bà ta ghê gớm đến mức mà người dân xứ Huế hồi ấy đã đặt cho bà ta cái hỗn danh là "Đệ nhất phu nhân cố vấn miền Trung".
Có một chuyện mà cho đến sau này vẫn có nhiều người không biết, đó là chuyện bà ta thường xuyên tằng tịu, ăn nằm với Ngô Đình Cẩn và kết quả của câu chuyện tình của hai chị em bạn dì ruột này là bà ta đã sinh ra 3 người con. Tất nhiên là cả 3 người con này đều phải lấy họ của ông chồng chính danh Nguyễn Văn Luyến để làm họ của mình.
Ba người con của Cẩn với chị em bạn dì là Nguyễn Thị Oai, Nguyễn Văn Thanh và Nguyễn Văn Liêm (Thanh và Liêm là hai anh em sinh đôi). Cả 3 người con này đều có khuôn mặt và dáng đi rất giống với Ngô Đình Cẩn. Vì vậy mà sau này, người nhà họ Nguyễn và họ Ngô vẫn thường cật vấn ông Luyến rằng: "Vì răng mấy đứa nhỏ giống Út Cẩn rứa?". Ông Luyến là một con người chất phác, thật thà, nên mỗi khi được hỏi, ông thường hồn nhiên trả lời: "Bao nhiêu năm ni mụ nớ (đó) có cho tui mần ăn chi mô mà bảo mấy đứa nớ giống tui…".
Nhiều người có thế lực ở Huế sau này kể lại rằng: Vì chuyện ăn nằm với Cẩn có đến 3 mặt con nên quyền hành của bà ta lúc bấy giờ không khác chi Cẩn. Luyến cũng là một con người đã gây ra không biết bao nhiêu điều đắng cay, chua xót cho người dân xứ Huế thông qua bàn tay của "Bạo chúa miền Trung". Trước những việc làm trái ngược đó, đương thời, người dân xứ Huế có mấy câu vè để nguyền rủa bà ta như sau: "Mụ Luyến, thằng Thuyết (một kẻ hầu hạ của Ngô Đình Cẩn), một lũ ác ôn/ Giết chết không hồn, ô hô thằng Cẩn/ Ngày tàn đến nơi không đất mà chôn”…
Theo nữ tu Trương Thị Lý và bà Nguyễn Thị Huê thì sau cuộc đảo chính lật đổ chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963, Luyến đã đưa các con của mình vào Sài Gòn sinh sống ở một con hẻm nhỏ nằm phía sau khu chợ Tân Định. Nguyễn Thị Oai nay đã chết, Nguyễn Văn Thanh đang định cư tại Hoa Kỳ, Nguyễn Văn Liêm vẫn sống ở phía sau chợ Tân Định. “Đệ nhất phu  nhân cố vấn miền Trung” chết năm 1996 tại nhà của Liêm.
Chuyện Ngô Đình Cẩn ăn nằm có con với Luyến không những bị bà con họ hàng bên ngoại, bên nội, dân họ đạo ở giáo xứ Phủ Cam bàn tán, chửi rủa mà ngay cả ông Ma Duyệt là một người đầy tớ lâu năm, hết mực trung thành với gia đình ông Ngô Đình Khả, một người rất ít nói chỉ biết cung cúc làm những công việc bổ cau, têm trầu, nấu nước chè xanh, chăm lo quét dọn bàn thờ, kị giỗ cho gia đình Cẩn, lo cơm nước mỗi khi Diệm về Huế thăm gia đình. Một con người như vậy mà cũng không thể im lặng trước những việc làm vô liêm sỉ của Cẩn và mụ Luyến. Ông Ma Duyệt đã đem chuyện hú hí của Cẩn với Luyến ngay trong nhà thờ ông Ngô Đình Khả để trình với cha xứ Phủ Cam. Chuyện này có người nghe được và tâu lại với Ngô Đình Cẩn và Luyến làm Cẩn điên tiết nổi đóa tam bành.
Cẩn đã triệu tập ngay tại nhà riêng một cuộc họp khẩn cấp gồm có ông tỉnh trưởng Thừa Thiên, thẩm phán, cảnh sát… để xử tử Ma Duyệt vì dám xúc phạm đến phẩm hạnh và uy danh của "ông cố vấn chính trị miền Trung". Thế nhưng, những thành viên tham gia cuộc họp ấy đã không tán thành vì họ không biết phải ghép tội thế nào cho ông Ma Duyệt. Tuy nhiên, sau cuộc họp ấy, Cẩn vẫn âm thầm ra lệnh cho thuộc hạ của mình thi hành bản án tử hình đối với Ma Duyệt.
Vào một buổi chiều xứ Huế sụt sùi mưa bay, Cẩn hạ lệnh cho tay chân bắt Ma Duyệt trói lại bỏ vào trong bao bố mang ra cầu Bạch Hổ thả xuống sông Hương. Nhưng ơn trời là số ông Ma Duyệt chưa chết, vì người thi hành việc thả Ma Duyệt xuống sông Hương cũng là một người tỏ tường mọi việc làm tày trời của Cẩn và Luyến, nên đã báo trước cho Ma Duyệt biết để lận theo trong mình một con dao sắc, khi bị thả xuống sông thì tìm cách rạch bao bố để thoát thân. Ma Duyệt thoát ra khỏi bao bố, lặn thật sâu, bơi qua phía bờ bên kia rồi tìm cách bí mật vào Sài Gòn để trình báo sự việc với những người trong gia đình ông Cẩn. Nghe xong, ông Diệm đã cho giữ Ma Duyệt lại để lo việc cơm nước trong dinh Tổng thống.
Sau này, khi anh em ông Diệm bị tướng Dương Văn Minh đảo chính. Ông Ma Duyệt đã tìm đường quay lại Huế và sống ở dốc Mân Côi gần nhà thờ chánh tòa Phủ Cam và chỉ cách ngôi nhà của Cẩn vài trăm mét. Sau năm 1975, Ma Duyệt đưa cả gia đình đi vùng kinh tế mới ở Buôn Ma Thuột để làm ăn, vài năm sau ông Duyệt bị bệnh và mất ở vùng đất cao nguyên này.
Đối với xã hội, Ngô Đình Cẩn xếp những gia đình có chồng, con, anh em đi tập kết hoặc lên chiến khu, những trí thức, văn nghệ sĩ, tăng ni phật tử, những người có tư duy tiến bộ chống lại sự hà khắc, vô nhân đạo của "bạo chúa miền Trung" vào diện "Cộng sản nằm vùng" cần phải xử lý triệt để. Có thể bị giết hoặc buộc phải ký giấy ly hôn và phải lấy người phía "quốc gia" hoặc bị giam cầm cho đến chết. Cẩn dùng chính sách khủng bố "tố Cộng", "diệt Cộng", với những khẩu hiệu thâm độc như "tát nước bắt cá", "khuấy nước đọng bùn".
Với chính sách này, suốt dải đất miền Trung đã có hàng nghìn người đã bị tay chân của Cẩn bắt giam hoặc giết hại. Riêng ở Thừa Thiên từ tháng 8/1954 đến tháng 10/1958, chúng đã mở 53.710 lớp học tố Cộng với 230.977 người tham gia học tập, mở 314 lớp chỉnh huấn, bắt 2.907 cán bộ đảng viên phải học tập, 3.658 cán bộ đảng viên bị tố giác và bị bắt. Đó là thời kỳ máu lửa "Chỉ trong 2 năm chúng đã triệt hạ gần hết cấp ủy Thừa Thiên Huế, ở Quảng Nam, Quảng Trị cán bộ bị bắt cũng rất nhiều… có những người sau khi bị bắt đã đầu hàng chuyển sang hợp tác với địch để chống lại phong trào cách mạng, vì vậy trong thời điểm này quần chúng hết sức hoang mang.
Những chiến sĩ cách mạng đấu tranh cho hòa bình, thống nhất nước nhà, những cán bộ cách mạng nằm vùng bám dân, những nhà hoạt động tình báo chiến lược… nếu chẳng may sa vào tay Ngô Đình Cẩn thì chắc chắn phải trải qua một cuộc hành trình đến với các lò tra tấn hết sức man rợ để chúng tra khảo, khai thác như: lao xá Ty Công an Thừa Thiên, lầu Hòa Bình, Trại Tòa Khâm, Trại Thừa Phủ, nhà giam của sở Vôi Long Thọ, Đồn Mang Cá nhỏ và cuối cùng là tử ngục Chín Hầm

  Phan Bùi Bảo Thy

Liên Thành, kẻ sát nhân trong những ngày miền Trung biến động





Miền Trung Việt Nam trong giai đoạn từ đầu năm 1966 đến trước thời điểm ngày 30/4/1975 là những năm tháng vô cùng biến động. Thời gian này, dân chúng từ Đà Nẵng đến Huế rầm rộ xuống đường biểu tình để chống lại sự xâm lược của Mỹ và chế độ độc tài quân sự của VNCH.

Sau khi trung tướng Nguyễn Chánh Thi trở thành thủ lĩnh của quân ly khai chống lại chính quyền Sài Gòn. Đầu tháng 4/1966, Nguyễn Cao Kỳ cử trung tướng Phạm Xuân Chiểu ra miền Trung để điều đình với phe ly khai và đại diện các lực lượng đấu tranh đô thị nhưng ngay lập tức vị sứ giả này bị bắt giữ để làm con tin.
Giữa tháng 5/1966, thừa lệnh Thiệu - Kỳ, đại tá Nguyễn Ngọc Loan cùng với 5 tiểu đoàn nhảy dù, 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến và 1 biệt đoàn cảnh sát dã chiến bằng đường không vận của Mỹ đã có mặt ở miền Trung với sứ mệnh "dẹp loạn ly khai và phong trào đấu tranh đô thị".
Tại Huế, để đối phó với phong trào đấu tranh đòi hòa bình và tự quyết dân tộc của phật tử và sinh viên học sinh… Nguyễn Ngọc Loan đã chiêu dụ về cộng tác với mình khá nhiều những cộng sự mất hết lương tri, sẵn sàng đàn áp thẳng tay và nhả đạn vào đồng bào vô tội, sẵn sàng đạp đổ bàn thờ, dùng dùi cui, lựu đạn và còng số 8 để "trả nghĩa" cho mảnh đất đã sinh thành, nuôi dưỡng họ… Nổi bật trong số những kẻ vô luân đó là viên thiếu tá Liên Thành - Trưởng ty Cảnh sát Thừa Thiên.
BÀI I: LAI LỊCH CỦA MỘT KẺ SÁT NHÂN
Liên Thành có tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Liên Thành, sinh năm 1942,  là cháu nội của Kỳ ngoại hầu Cường Để. Liên Thành sinh ra và lớn lên ở Huế, thi không đậu tú tài 1, nên thay vì ông ta được theo học Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức thì phải đi theo ngành sĩ quan bảo an. Từng là phụ tá quận trưởng ở Chi khu Nam Hòa, Đại đội trưởng Đại đội nghĩa quân Nam Hòa, Đại đội trưởng Đại đội địa phương quân, Chi khu phó Chi khu Nam Hòa.
Năm 1966, cha của Liên Thành là ông Nguyễn Phúc Tráng Cử, một đảng viên có vị thế của đảng Đại Việt tại Huế tổ chức một cuộc họp bàn để đưa người của mình vào nắm chính quyền. Lúc này Ty Cảnh sát Thừa Thiên (bao gồm cả công an lẫn cảnh sát, công an gọi là cảnh sát đặc biệt, tức mật vụ), ghế trưởng ty đã có ông Đoàn Công Lập (đảng Đại Việt) nắm giữ, phó ty là ông Hà Nguyên Chi (đảng Đại Việt) phụ trách cảnh sát. Cuộc họp bàn nhằm tìm một người có thể cáng đáng chức phó ty Cảnh sát đặc biệt.
Liên Thành lúc này đang mang lon thiếu úy, vì vậy với áp lực đảng phái của mình cùng với sự ưng thuận của đại tá Nguyễn Ngọc Loan - Giám đốc Cảnh sát quốc gia, đang làm nhiệm vụ tại Huế. Chẳng mấy lâu sau, Liên Thành đã được bổ nhiệm làm Phó ty Cảnh sát đặc biệt tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế mà không hề trải qua bất cứ một khóa huấn luyện nào về kỹ thuật tình báo cũng như tư pháp.
Từ đây, Liên Thành bắt đầu những ngày tháng tác oai, tác quái của mình, bắt đầu những ngày tháng ông ta bước qua mọi rào cản của tình cảm, mọi lề lối của luân thường đạo lý, để từng ngày trở thành một kẻ côn đồ, vô hạnh và bất giáo nhằm khẳng định với thượng cấp của mình rằng: Liên Thành là một tay chống Cộng triệt để, luôn đặt lợi ích của đảng phái và thể chế VNCH lên trên.



Phật tử đưa bàn thờ Phật xuống đường tranh đấu
Người dân ở Huế ai cũng biết, Liên Thành xuất thân trong một gia đình phật tử vì có người anh ruột của bà nội là Đại lão hòa thượng Thích Tịnh Khiết - Đệ nhất tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất. Liên Thành còn có người anh tên là Nguyễn Phúc Liên Phú, sau vụ đảo chính Diệm - Nhu ngày 1/11/1963 đã xuất gia đi tu ở chùa Tường Vân, sau này trở thành Thượng tọa Thích Chơn Kim. Thế nhưng, khi đã leo lên vị trí chỉ huy lực lượng Cảnh sát đặc biệt ở Huế, Liên Thành cùng với thuộc hạ của mình đã ngày đêm lùng sục để bắt bớ và đàn áp bất cứ những ai có tư tưởng cấp tiến đấu tranh giành lấy hòa bình và quyền tự quyết dân tộc.
Một việc làm hèn hạ thể hiện bản chất vô đạo của Liên Thành mà đến nay nhiều người dân ở Huế vẫn còn nhớ là việc ông ta cùng với mấy chục viên cảnh sát thuộc cấp của mình vây ráp chùa Trà Am nằm gần dưới chân núi Ngự Bình để vu oan giá họa và bắt giữ Thượng tọa Thích Như Ý đem về trung tâm thẩm vấn để tra khảo hành hạ với lý do “chùa của thầy nuôi giấu Cộng sản”.
Việc làm tai quái này của Liên Thành đã tạo nên một cơn bão phẫn nộ trong giới phật tử và trí thức Huế lúc bấy giờ. Kết quả là chính quyền Sài Gòn phải cử một đoàn thanh tra đặc biệt do tướng Trần Thanh Phong - Tư lệnh Cảnh sát quốc gia dẫn đầu khẩn cấp bay ra Huế để điều nghiên và bắt buộc ông ta phải giải trình. Sau đó, Thượng tọa Thích Như Ý mới được trả tự do để trở lại với đời sống tu tập của mình.
Nói về những hành vi tàn độc, giết thầy, giết bạn không chùn tay của Liên Thành trong thời kỳ ông ta là chỉ huy Cảnh sát đặc biệt ở Huế thì nhiều không kể xiết. Bởi vậy, trong khuôn khổ bài viết này, người viết chỉ xin thuật lại một vài câu chuyện đã được rất nhiều người ở Huế chứng kiến một cách tường tận và sau này đã được nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa Nguyễn Đắc Xuân - một chứng nhân sát thực với giai đoạn lịch sử này ở Huế (hiện đang sống và nghiên cứu tại Huế) xác tín như sau: 
Liên Thành nguyên là học trò của nhà thơ - nhà giáo Ngô Kha - một hạt nhân của phong trào đấu tranh đô thị ở Huế. Ông Ngô Kha sinh ngày 2/3/1935, ở làng Thế Lại Thượng, phường Phú Hiệp, thành phố Huế. Ông tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 - Đại học Sư phạm Huế (1958 - 1959), cử nhân Luật khoa (1962), dạy văn và công dân ở các trường Quốc học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo (Huế) từ năm 1960. Ngô Kha đã dấn thân vào phong trào đấu tranh đô thị từ những ngày tham gia nhóm "Quán Bạn" với Trần Quang Long, "Tuyệt Tình Cốc" với anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan.
Năm 1966, sau khi bị động viên vào trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức của quân đội Sài Gòn và đóng quân một thời gian ở Đức Hòa, Đức Huệ, tỉnh Long An. Ngô Kha trở về Huế, ông tham gia đấu tranh và là một trong những thành viên nòng cốt lãnh đạo đơn vị quân đội Sài Gòn ly khai (sau đơn vị này lấy tên là chiến đoàn Nguyễn Đại Thức). Cuộc đấu tranh thất bại, Ngô Kha bị bắt lần đầu tiên vào năm đó và bị đày đi Phú Quốc một thời gian. Năm 1970, Ngô Kha chủ trương nhóm trí thức đấu tranh Tự Quyết cùng với Trịnh Công Sơn, Trần Viết Ngạc, Lê Khắc Cầm, Chu Sơn, Thái Ngọc San. Ông là người sáng lập và là Chủ tịch Mặt trận văn hóa dân tộc miền Trung, năm 1972 do Thành ủy Huế chỉ đạo.
Năm 1973, để lập công chống Cộng và đẩy lùi phong trào đấu tranh của trí thức với thượng cấp của mình, Liên Thành đã nhẫn tâm ra lệnh cho các mật vụ thuộc cấp theo dõi, để rồi bắt giữ và thủ tiêu Ngô Kha. Việc làm vô đạo này của Liên Thành sau này đã được một sĩ quan an ninh của Công an tỉnh Thừa Thiên - Huế kể lại thông qua bản khai cung của can phạm như sau: Khoảng đầu năm 1973, hai mật vụ Lê Đình Liên và Nguyễn Đình Cáp đi giám thị bằng xe Honda 67 thì gặp nhà thơ Ngô Kha mặc áo măng-tô trắng, đầu đội mũ phớt đi qua cầu Gia Hội. Liên và Cáp đón đầu Ngô Kha và yêu cầu Kha lên xe. Ngô Kha không chút ngạc nhiên bèn hỏi: "Lên xe nào?". Liên đáp: "Xe 67 này." Kha trèo lên xe.
Chiếc xe 67 chở ba người vụt chạy về gặp thiếu úy tổ trưởng tổ mật vụ đặc biệt Dương Văn Sỏ tại nhà riêng ở đường Nguyễn Thị Giang (bên cạnh quán Bar Why not, 21 Võ Thị Sáu, Huế ngày nay). Sỏ nói: "Để tau ăn cơm xong rồi sẽ đi báo cấp trên". Ăn xong Sỏ đi báo với Trương Công Ân và Ân báo với Liên Thành. Kết quả các nhân viên mật vụ vừa bắt Ngô Kha nhận được chỉ thị của Liên Thành là "1.000 năm mây bay".
Đến 4 giờ chiều Ngô Kha vẫn còn ở Ty thẩm vấn. Ân đến hỏi bọn Sỏ: "Sao chưa hành động?". Chúng nói trời chưa tối. Đến tối mấy tên Sỏ, Nghệ, Liên, Cáp chở Ngô Kha về hướng cửa biển Thuận An, lấy búa đánh Ngô Kha chết ngay tại Mỹ An rồi trùm bao bố thả xuống một con hói gần đó. Bọn chúng báo cáo với Liên Thành: "1.000 năm mây bay" đã xong và đã giải quyết ở Mỹ An. Liên Thành chửi: "Chúng bây quá ngu, như rứa dân chúng biết răng? Đi vớt lên, kiếm chỗ chôn cho thật kín đáo ngay".
Về cái chết của nhà yêu nước Ngô Kha, sau này được các ông bác trong họ Ngô, cùng tuổi với Ngô Kha và ở gần nhà Ngô Kha tại 30 Lê Đình Chinh - Huế ngày nay đã bổ sung thêm nhiều chi tiết cụ thể hơn.
Hai tên mật vụ Lê Đình Liên và Nguyễn Đình Cáp phát hiện Ngô Kha qua cầu Gia Hội và vào nhà 42 Bạch Đằng - nhà của bà quả phụ Ngô Du, chị dâu của Ngô Kha. Chúng sục vào nhà bắt Ngô Kha, nhưng vì bà Ngô Du là công chức rất rành về luật lệ nên chặn lại hỏi "các ông bắt người thì phải có lệnh của cấp có trách nhiệm chớ?". Hai tên mật vụ ú ớ một lúc rồi để một tên ngồi lại canh chừng Ngô Kha còn một tên chạy về lấy lệnh bắt Ngô Kha do Liên Thành ký.
Trong lúc chờ đợi, bà Ngô Du bảo với Ngô Kha rằng "Chú trèo tường phía sau nhà trốn đi, để chị đối phó với mấy người kia". Nhưng Ngô Kha đã trả lời với chị dâu của mình rằng: "Em làm việc quang minh chính đại thì việc chi phải trốn, cứ để cho chúng bắt". Quả nhiên, khi quay trở lại nhà bà Ngô Du với tờ lệnh bắt của Liên Thành, những tên mật vụ này đã đưa Ngô Kha đi và ông mất tích luôn từ đó.           
Những người họ hàng của Ngô Kha còn cho biết thêm: Theo lệnh của Liên Thành, xác của Ngô Kha được vớt lên khỏi bờ hói ở Mỹ An, rồi đem về bỏ nằm chết trần truồng trong phòng thẩm vấn. Không rõ từ nguồn tin nào, ông Phạm Bá Nhạc, Phó chi cảnh sát  quận Hương Thủy, biết chuyện ấy rất đau đớn. Ngô Kha có một người chị là mẹ kế của Phạm Bá Nhạc. Dù sao trên danh nghĩa Ngô Kha cũng là cậu của Nhạc. Nhạc liền lên Huế xin Liên Thành một ân huệ là cho phép Nhạc mua cho Ngô Kha một cái quan tài. Liên Thành đồng ý với điều kiện phải giữ tuyệt đối bí mật. Nếu để lộ, Nhạc sẽ bị giết ngay. Nhạc cam kết sẽ giữ bí mật tuyệt đối. Ngô Kha được táng ở cồn mồ phía nam Huế. Để giữ mạng sống của mình, Nhạc không dám hé môi ngay với bà Cao Thị Uẩn, thân mẫu của Ngô Kha.
Sau năm 1975, Phạm Bá Nhạc đi học tập cải tạo. Nhiều năm sau này, trước khi đi định cư tại Mỹ theo diện HO, Nhạc có tiết lộ cho gia đình biết Ngô Kha đã chết vào ngày 27 tháng Chạp năm Nhâm Tý (nhằm ngày 30/1/1973) chứ không phải ngày 25 tháng Chạp như gia đình và bạn bè của Ngô Kha thường tổ chức kị trong mấy chục năm qua. Còn xác Ngô Kha được táng cụ thể chỗ nào thì vẫn còn trong vòng bí mật.
Gần đây, đối chiếu từ nhiều nguồn tư liệu, Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã khoanh vùng được nơi táng nhà thơ Ngô Kha ở cồn mồ làng An Cựu. Sau năm 1975, cồn mồ đó đã bị giải tỏa san lấp để xây dựng Xí nghiệp Gỗ Hương Giang, nay là khu kho ngoại quan phía sau trạm xăng dầu gần Bến xe phía Nam thành phố Huế. Xác của giáo sư, nhà thơ Ngô Kha được vùi lấp cụ thể vào tọa độ nào, hay còn nằm dưới đất vùng kho ngoại quan, hay đã được dời đi đâu v.v… là những câu hỏi ám ảnh ông Xuân và những người bạn, những người học trò và gia đình Ngô Kha trong mấy chục năm qua.
Trong một lần trả lời phỏng vấn của báo chí, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có lời khẩn thiết gửi đến  những người từng làm việc dưới trướng Liên Thành trước đây biết rõ đầu đuôi cái chết của Ngô Kha như Lê Văn Thiện, Dương Văn Sỏ (có tin đã qua đời), Trương Công Ân,  Phạm Bá Đạt, Lê Đình Liên, Nguyễn Đình Cáp, Hồ Đình Chi v.v… đang ở Mỹ hãy chỉ giúp cho gia đình Ngô Kha, họ Ngô ở làng Thế Lại và những người bạn của Ngô Kha biết ông đã được chôn lấp nơi đâu. Biết nơi ông Ngô Kha gửi nắm xương tàn, mọi người sẽ dựng cho Ngô Kha một tấm bia và hằng năm đến ngày 27 Tết, đến thắp cho hương hồn Ngô Kha một nén hương tưởng tiếc…

  Phan Bùi Bảo Thy

Sự thật về đài phát thanh "Mặt trận gươm thiêng ái quốc"

Trong cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, bên cạnh đội quân viễn chinh mà có lúc lên đến hơn nửa triệu người, cùng những loại máy bay, tàu chiến, vũ khí tối tân, người Mỹ còn tiến hành một cuộc chiến tranh bí mật khác, gọi là "chiến tranh tâm lý".
Để phục vụ cho "chiến tranh tâm lý", Mỹ đã dựng lên nhiều đài phát thanh và một trong những đài này là đài "Mặt trận gươm thiêng ái quốc".

Cuối năm 1962, William Colby, trùm CIA tại miền Nam Việt Nam trở về Washington để nhận nhiệm vụ chỉ huy Nha Kế hoạch CIA khu vực Đông Nam Á. Trong một buổi họp với các quan chức chóp bu CIA sau đó, Tổng thống Kennedy ra lệnh cho Colby: "Một mặt, nghiên cứu và phân tích sự thất bại về các hoạt động bí mật của CIA tại miền Bắc". Mặt khác, Kennedy yêu cầu Colby: "Gấp rút tạo ra những bất ổn về tâm lý ở miền Bắc như Cộng sản đã làm ở miền Nam Việt Nam".
Theo nhận định của Colby, chính quyền miền Bắc đặt ưu tiên hàng đầu về các vấn đề nội an, gián điệp và phá hoại. Vì vậy, Colby chủ trương "cần làm cho xã hội của họ rối loạn bằng chiến tranh tâm lý" mà trọng tâm là lĩnh vực tuyên truyền với các phương tiện như phát thanh, truyền đơn, báo chí, túi quà tặng..., và những kỹ thuật khác, chẳng hạn như dựng ra những mặt trận hay những tổ chức đối kháng không có thật.
Kế hoạch OP39
Để thực hiện cuộc "chiến tranh tâm lý", Colby chọn Herb Weisshart, một sĩ quan CIA dày dạn kinh nghiệm, trước đây từng chỉ đạo các hoạt động bí mật ở một số quốc gia trong vùng Đông Bắc Á rồi sau đó, về phụ tá cho Colby ở Sài Gòn làm người trực tiếp chỉ huy - và đặt tên cho nó là "Kế hoạch OP39".
Theo Colby, mục tiêu của cuộc chiến tranh tâm lý này, là làm thế nào để buộc "Bắc Việt phải quay về bảo vệ hậu phương hơn là dồn mọi nỗ lực cho chiến trường miền Nam".
Một trong những nhiệm vụ phức tạp nhất của kế hoạch OP39 là tìm cách tạo cho người dân miền Bắc tin rằng có một tổ chức chống Cộng độc lập đã hình thành và đang hoạt động ngay tại miền Bắc. Tổ chức này không theo Mỹ, không theo Liên Xô, không theo Trung Quốc và cũng không theo Việt Nam Cộng hòa.
Để đặt cho nó một cái tên khả dĩ có thể chứng minh được sự "trung lập" của nó, Weisshart tìm đọc lịch sử Việt Nam, phỏng vấn nhiều người Việt và qua đó, ông ta biết chuyện "trả lại kiếm thần" của Vua Lê Lợi. Từ câu chuyện cổ sử ấy, một tổ chức mang tên "Mặt trận gươm thiêng ái quốc" (MTGTAQ), ra đời, bộ chỉ huy đầu não đặt tại số 7 đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1, Tp HCM). Đây cũng là nơi đặt trụ sở của Đài phát thanh mang tên “Mẹ Việt Nam”, được coi như đỡ đầu cho Đài phát thanh MTGTAQ.
Đường Hồng Thập Tự, nơi đặt Đài phát thanh Mặt trận gươm thiêng ái quốc (ảnh chụp trước năm 1975).
Bước tiếp theo, Weisshart tung những toán "Biệt hải" (biệt kích biển) gồm toàn người Bắc di cư hoặc người miền Trung, sử dụng thuyền gỗ để tránh bị radar Bắc Việt phát hiện, xâm nhập vùng biển các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, bắt cóc ngư phủ miền Bắc, bịt mắt họ rồi đưa về căn cứ Do Do ở Cù lao Chàm, Đà Nẵng - mà CIA đặt cho nó mật danh là "Đảo thiên đường".
Thiếu tá Roger Mc Elroy - là thành viên của kế hoạch OP39 và cũng là một trong số rất ít người Mỹ đã từng xâm nhập vùng biển Bắc Bộ, kể lại: "Những chiếc tàu ấy được đóng với kích thước, hình dáng như tàu của ngư dân miền Bắc nhưng trang bị động cơ cực mạnh. Trong chuyến xâm nhập, tôi mặc quần áo bà ba đen ngụy trang, đội lưới che mặt và không đem theo bất cứ loại giấy tờ tùy thân hay vật dụng gì có thể chứng tỏ tôi là người Mỹ".
Khi vào đến vùng biển miền Bắc Việt Nam, Elroy không được lên trên boong tàu mà phải ở dưới hầm. Nhiệm vụ của ông ta là liên lạc với lực lượng Hải quân Mỹ đang có mặt ngoài khơi vịnh Bắc Bộ để ứng cứu khi cần thiết.
Trên “đảo thiên đường”, một ngôi làng nhỏ được xây dựng không khác gì một làng chài ở miền Bắc. Dân trong làng - kể cả phụ nữ, trẻ con cũng đều là người Bắc di cư vào Nam năm 1954, và đã được huấn luyện đóng kịch rất bài bản. Nếu có khác thì chỉ khác trong làng không treo cờ miền Bắc, không treo cờ miền Nam mà treo cờ MTGTAQ! Trong suốt 3 tuần ở "đảo thiên đường", những ngư phủ bị bắt cóc được cho ăn uống đầy đủ, săn sóc sức khỏe chu đáo đồng thời được nghe những tin tức thất thiệt về tình hình miền Bắc, cũng như sự ra đời của MTGTAQ.
Sau đó, với lý do bảo đảm an toàn cho bản thân họ, "Biệt hải" lại bịt mắt họ, đưa họ trở về vùng biển nơi họ đã bị bắt với một túi quà gồm 1 radio đã cài sẵn băng tần Đài phát thanh MTGTAQ, quần áo, xà phòng, bật lửa, đá lửa, bánh kẹo, pin, cùng với một chiếc phao bằng ruột xe…, tất cả đều không có nhãn mác xuất xứ, rồi để họ tự tìm cách vào bờ. Ngoại trừ chiếc radio, còn thì tất cả đều được làm giống y như hàng hóa miền Bắc để họ có thể sử dụng thường ngày mà không bị người khác chú ý.
Sau tháng 4/1975, một biệt hải tên Linh di tản ra nước ngoài, kể lại: "Chúng tôi phải làm mọi cách để ngư phủ miền Bắc tin rằng họ vẫn đang ở miền Bắc, nhưng là ở trong một làng tự do của MTGTAQ. Tất cả mọi cố vấn Mỹ đều không được phép xuất hiện tại khu vực này. Hàng ngày, chúng tôi ăn, ngủ cùng họ và khéo léo khai thác thông tin tình báo từ họ. Như tôi chẳng hạn, vốn là dân Hải Phòng di cư, tôi kể cho họ nghe một số kỷ niệm về thành phố cảng, về những con người mà tôi quen biết. Sau đó, tôi khéo léo hỏi họ về quê hương bản quán, gia đình, bà con họ hàng, bạn bè… Bằng cách này, chúng tôi thu thập được tên tuổi, chức vụ của một số cán bộ cấp xã, cấp huyện, thậm chí cấp tỉnh nơi họ sống".
Theo báo cáo của CIA, năm 1963, có 353 ngư phủ Bắc Việt được đưa về tuyên truyền tại “đảo thiên đường”. Từ năm 1964 đến 1968, con số này là 1.003 người. Weisshart tin rằng những ngư phủ ấy sẽ đem chuyện MTGTAQ kể lại cho gia đình, cho bạn bè họ và sớm muộn gì nó cũng sẽ đến tai Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam. Và như vậy, Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam sẽ tốn nhiều nhân lực, thời gian, công sức để truy tìm cái không có thật.
Trùm CIA Colby động viên tinh thần một nhóm biệt hải tại Đảo Thiên đường - Cù Lao Chàm trước khi xâm nhập miền Bắc.
Tháng 12/1961, dưới sự dàn dựng của Colby và Weisshart, "đại hội" MTGTAQ được tổ chức. Trong "đại hội" này, một nhân vật "ma" là Lê Hưng Quốc được bầu làm chủ tịch. Bản tuyên ngôn của "mặt trận" nêu rõ tính "trung lập": "Chống sự can thiệp của tất cả các lực lượng nước ngoài vào nội tình Việt Nam. Yêu cầu mọi lực lượng vũ trang, cố vấn và các tổ chức nước ngoài khác phải rút khỏi hai miền Nam, Bắc".
Bên cạnh đó, "mặt trận" còn huênh hoang rằng: "Đã phát triển mạnh mẽ ở cả hai lĩnh vực chính trị lẫn quân sự. Đã thành lập nhiều tổ mặt trận ở miền Bắc với 10.000 đảng viên, trong đó 1.600  đã được vũ trang. Các cán bộ quân sự nòng cốt khi đến sinh hoạt với các tổ trên toàn miền Bắc đều có chứng minh thư mặt trận, do Ủy viên thường vụ Lê Hùng Cường ký tên, đóng dấu.
Tiến thêm một bước, tháng 4/1965, Đài phát thanh MTGTAQ, tự nhận là đặt tại vùng núi tỉnh Hà Tĩnh, phát sóng buổi đầu tiên trên hai dải tần số trung bình và sóng ngắn. Thực tế thì nó được phát đi từ số 7 đường Hồng Thập Tự, hoặc ở Quán Tre, Hóc Môn, Cát Lở, Vũng Tàu hoặc Thanh Lam, Huế rồi được một tàu kỹ thuật của CIA thường xuyên túc trực ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, trong vùng biển quốc tế thu lại, khuếch đại tín hiệu rồi phát chuyển tiếp về miền Bắc.
Trong chương trình phát thanh này và tất cả những chương trình về sau, ngoài việc xuyên tạc tình hình miền Bắc, gây mất lòng tin giữa nhân dân và chính quyền, đả kích Liên Xô, Trung Quốc, Đài MTGTAQ còn đưa ra những chiến thắng giả tạo, do các "tổ công tác của mặt trận" thực hiện, chẳng hạn như đã ám sát cán bộ này, đốt cháy đoàn xe quân sự kia.
Đặc biệt hơn, Weisshart đề nghị MACV (Bộ tư lệnh quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam) và Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa, ra lệnh cho tất cả các đơn vị tìm mọi cách thu thập giấy tờ cá nhân của bộ đội miền Bắc rồi sau đó, cho phát thanh trong chuyên mục được đặt tên là "sinh Bắc, tử Nam" nhằm mục đích làm cho thân nhân của những người được nêu tên trên sóng phát thanh, tin rằng con em mình đã chết.
Song song với những việc ấy, Weisshart thuê một số phi công Đài Loan, đã từng cộng tác với CIA trong thập niên 50,  dùng máy bay không số hiệu, ban đêm lén lút xâm nhập vùng trời miền Bắc để rải truyền đơn. Nội dung của những tờ truyền đơn này là: "Đã có một khu giải phóng nằm dưới vĩ tuyến 19 - nghĩa là thuộc phạm vi các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình".
Để chứng tỏ MTGTAQ là một tổ chức có thật, thỉnh thoảng Weisshart ra lệnh cho những toán "Biệt hải", ăn mặc quần áo của "Mặt trận", lén lút  xâm nhập vào các làng xóm ven biển miền Bắc để  tuyên truyền và tặng quà.
Mục tiêu riêng biệt
Bên cạnh Đài phát thanh MTGTAQ, kế hoạch OP39 còn sử dụng một số phương tiện truyền thông khác, phục vụ cho những mục tiêu riêng biệt. Chẳng hạn như để gây hoang mang cho người dân miền Bắc, CIA đã dùng "kỹ thuật đánh lừa" - gọi là snuggling. Nó được Colby và Weisshart thực hiện bằng cách cho dựng lên một đài phát thanh mà tần số của nó trùng với tần số phát sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam - và cũng mang tên là… Đài tiếng nói Việt Nam nhưng công suất mạnh hơn!
Trong các chương trình phát thanh của cái đài "dỏm" này, tin tức được bóp méo rất khéo léo, thí dụ như trong chuyên mục nông nghiệp phát vào đêm 11/4/1966, nó đã đưa tin: "Vụ đông xuân năm nay, toàn miền Bắc có 124 nghìn hécta lúa bị sâu bệnh, dẫn đến sản lượng lương thực bị tổn thất nghiêm trọng".
Theo Weisshart, những tin tức đại loại như vậy sẽ gây lo lắng cho người dân trong một xã hội mà lương thực được phân phát theo tem phiếu, cũng như tạo ra tâm lý hoang mang cho bộ đội miền Bắc ở chiến trường miền Nam. Lâu dài, sự lo lắng sẽ dẫn đến bức xúc, phẫn nộ, tạo tiền đề cho việc hình thành và lôi kéo người dân tham gia vào những tổ chức đối kháng sau này.
Không chỉ có Đài MTGTAQ, Đài tiếng nói Việt Nam "dỏm", Weisshart còn lập ra Đài Cờ đỏ, mệnh danh là tiếng nói của một nhóm chống đối trong  Đảng Cộng sản Việt Nam. Đài này không chỉ trích Liên Xô nhưng "tố" Trung Quốc kịch liệt nhằm gây chia rẽ nội bộ. Ăng ten phát sóng của nó đặt ở Quán Tre, Hóc Môn (nay là quận 12) và cũng được tàu kỹ thuật của CIA ở hải phận quốc tế thu lại, khuếch đại rồi phát chuyển tiếp ra miền Bắc.
Đội ngũ biên tập viên, phát thanh viên của nó hầu hết là những kẻ chiêu hồi, còn phụ trách kỹ thuật là những chuyên viên người Philippines. Chưa hết, vẫn từ miền Nam, Weisshart lập Đài phát thanh Sao đỏ nhằm chia rẽ cán bộ cách mạng miền Nam với miền Bắc.

Như đã nói trong bài trước, để người dân miền Bắc, bộ đội và dân sống trong vùng giải phóng tin rằng "có một tổ chức chống đối đang hoạt động ngay tại miền Bắc", những người cầm đầu kế hoạch OP39 đã cử những toán "biệt hải" lén lút xâm nhập ra miền Bắc để bắt cóc ngư dân, đưa về “đảo thiên đường”, tuyên truyền. Tuy nhiên, không phải ngư dân nào cũng tin vào điều này.

Vẫn "biệt hải" tên Linh, kể: "Có những ngư phủ dày dạn kinh nghiệm nên dù mắt họ bị bịt kín, nhốt dưới hầm tàu nhưng chỉ cần nghe tiếng tàu cưỡi sóng và thời gian tàu chạy, họ cũng biết bị đưa về phía Nam". Khi đến “đảo thiên đường”, ban đêm nhìn sao trên trời, họ lại càng không tin đó là "làng tự do MTGTAQ ở miền Bắc".
Không thuyết phục được họ, CIA ra lệnh tra tấn họ để khai thác rồi cuối cùng chuyển họ ra nhà tù đảo Phú Quốc như tù binh chiến tranh bởi lẽ ngoài nghề đánh cá, ở địa phương họ còn tham gia dân quân tự vệ!
"Biệt hải" Nguyễn Thà kể lại một chuyến xâm nhập miền Bắc như sau: "Trung thu năm 1967, chúng tôi được lệnh bí mật vào Thanh Hóa để làm nhiệm vụ tâm lý chiến, là phát cho người dân ở cửa biển Tĩnh Gia những gói quà của MTGTAQ, gồm vải vóc, áo quần, bánh kẹo và radio, đã được gói sẵn trong bọc nilon không thấm nước...
Đến ngày xuất phát, chúng tôi được chiến đỉnh PTF đưa từ Đà Nẵng ra vùng biển Thanh Hóa rồi dùng xuồng cao su chèo vào bờ. Trước đây đã có nhiều toán xâm nhập khi vừa vào đến bờ là bị bắt ngay tại chỗ nên chúng tôi dù không ai nói ra, nhưng tất cả đều nơm nớp lo sợ cho số phận của mình.
Mặc dù trên sa bàn cũng như trên bản đồ không ảnh, cách địa điểm chúng tôi đổ bộ khoảng 500m là một làng đánh cá. Nhưng khi chạm đất, xung quanh chỉ toàn rừng dương. Có lẽ những cơn sóng lớn đã đẩy chúng tôi đi lạc. Tìm kiếm một lúc nhưng không kết quả, toán trưởng Kha ra lệnh bỏ lại tất cả những gói quà xuống bờ cát rồi lên xuồng cao su tháo lui. Trên xuồng, Kha dặn anh em chúng tôi khi về báo cáo, thì đều phải nói "đã tiếp xúc với gần 30 người dân, phát quà. Dân rất hoan nghênh và tin tưởng MTGTAQ".
Một nhóm "biệt hải" ở Cù lao Chàm (quần áo bà ba đen) được chiêu đãi trước khi xâm nhập miền Bắc.
Với những thông tin thu thập được - kể cả thông tin "ma", đại loại như thông tin do nhóm "biệt hải" Nguyễn Thà báo cáo, cộng với những tin tức lấy từ tù binh hoặc những kẻ chiêu hồi, Weisshart chuyển sang bộ phận biên tập Đài MTGTAQ để xử lý. Vì thế, chẳng lấy làm lạ khi trong nhiều bản tin, Đài MTGTAQ nêu vanh vách họ tên của một số bí thư, chủ tịch xã, huyện, tỉnh ở Hà Tĩnh, Quảng Bình hay Sơn La, Hải Phòng...
Hàng đêm, tầm khoảng 22h, một giọng nữ lại rền rĩ trên Đài MTGTAQ với âm sắc thê lương: "Mẹ Việt Nam rất đau buồn khi thấy những đứa con của mẹ sinh ra ở miền Bắc và phải chết ở miền Nam", rồi sau đó là họ tên, ngày tháng năm sinh, quê quán của từng "người chết". Tuy nhiên, lắm khi cái trò tâm lý chiến này lại… phản chủ! Trong một cuộc hành quân ở phía bắc Củ Chi, lính Mỹ nhặt được một cuốn sổ tay bị bom đánh tan nát, chỉ còn lại một phần trang đầu với dòng chữ viết tên Nguyễn Công Lộc, Hải Hậu, Nam Định.
Thế là mấy hôm sau, trong mục "sinh Bắc tử Nam" của Đài MTGTAQ, cái tên Nguyễn Công Lộc cùng địa danh quê quán được xướng lên, nêu rõ Lộc "hy sinh tại mặt trận Củ Chi vì bom B52" trong lúc sự thật thì anh Lộc này, có người bạn thân đi bộ đội nên ngày bạn lên đường, anh đã tặng bạn cuốn sổ tay ghi tên mình như một vật kỷ niệm!
Chưa hết, trong những chuyến xâm nhập, nếu xảy ra đụng độ và nếu "biệt hải" bắt được tù binh thì họ sẽ bị đưa ra tòa án "Gươm thiêng ái quốc", bị khép vào tội "chống lại quê hương" và lãnh án tử hình. Tuy nhiên, do "chính sách khoan hồng" của MTGTAQ, tù binh được đưa đến Cù lao Chàm rồi được tuyên truyền, nhồi sọ. Trước khi trả về làng cũ, tù binh bị bắt buộc phải viết giấy thú tội rồi sau đó, những lời "thú tội" ấy được phát liên tục trên Đài MTGTAQ.
Trường hợp tù binh bị khuất phục, họ sẽ được đào tạo, huấn luyện kỹ năng gián điệp để làm việc cho "mặt trận". Khi trở về quê quán, họ sẽ hoạt động ngầm, tuyên truyền cho "mặt trận". Trong tay OP39, MTGTAQ không chỉ là chiến tranh tâm lý, mà thật sự là công cụ phá hoại, chống lại chế độ miền Bắc bằng việc xúi giục dân chúng miền Bắc vũ trang lật đổ chính quyền.
Chiến dịch "Đậu phụng" và chiến dịch "Những mảnh xà phòng"
Sau khi lập xong các đài phát sóng, vấn đề còn lại của kế hoạch OP39 là làm thế nào để người dân miền Bắc nghe được những bản tin, những bài bình luận của Đài MTGTAQ, Đài Tiếng nói Việt Nam "dỏm", Đài Cờ Đỏ, Đài Sao Đỏ, Đài Mẹ Việt Nam… Theo tài liệu của CIA đã giải mật, thì vấn đề này được giải quyết bằng "Chiến dịch những hột đậu phụng" (Peanuts Operation).
Trong hai năm 1966-1967, đã có khoảng 30 nghìn chiếc radio tí hon với tần số cài đặt sẵn, làm từ Nhật Bản nhưng không ghi xuất xứ, được thả xuống miền Bắc và những vùng giải phóng ở miền Nam bằng dù, hoặc cho vào túi nilon trong suốt, không thấm nước để người nhặt có thể thấy rõ chiếc radio rồi thả theo đường biển kèm với những món quà như pin, bút, sách, nến (đèn cầy), bật lửa, đá lửa, truyền đơn, để thủy triều đưa vào bờ.
Tàu kỹ thuật của CIA (bên trái) đang được tiếp nhiên liệu ở ngoài khơi vịnh Bắc bộ.
Giữa năm 1968, đại tá Bill Rydell - người chỉ huy kế hoạch OP39 nhận ra rằng vấn đề pin dùng cho radio là vấn đề sinh tử trong cuộc chiến tranh tâm lý. Trong một cuộc họp, ông ta nêu câu hỏi: "Nếu một người dân miền Bắc nhặt được túi quà rồi cất giấu để sử dụng. Sau một thời gian, pin hết, liệu ông ta có bị nghi ngờ khi đi mua pin hay không trong lúc An ninh Bắc Việt Nam đều biết túi quà có radio cài sẵn băng tần Đài MTGTAQ?".
Để giải quyết vấn đề này, Bill Rydell đặt hàng một công ty Nhật Bản, sản xuất cho OP39 loại radio chạy bằng dây cót. Cứ mỗi lần lên dây cót, điện năng sẽ được sản sinh ra, đảm bảo cho radio hoạt động trong nửa giờ. Tuy nhiên, khi loại  radio "dây cót" chưa kịp hoàn thành thì đầu tháng 11/1968, Tổng thống Lyndon Johnson ra lệnh chấm dứt kế hoạch OP39. Dù vậy, trong năm 1968 cũng đã có 10 nghìn chiếc radio dùng pin được thả xuống miền Bắc.
Song song với những việc này, nhiều bức thư giả mạo được gửi từ Paris, Hongkong, Tokyo, Bangkok... về địa chỉ của một số cán bộ cao cấp, trung cấp ở Hà Nội. Những bức thư ấy viết bằng loại mật mã đơn giản mà theo Weisshart, thì Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam sẽ dễ dàng bẻ khóa. Nội dung của nó cho thấy người nhận thư từ lâu đã là điệp viên ngầm của CIA, và CIA ra lệnh cho họ phải thực hiện nhiệm vụ XYZ nào đó.
Cũng trong chiến dịch này, những kẻ chiêu hồi được lệnh viết thư cho thân nhân ở miền Bắc, đề cao đời sống miền Nam, đề nghị gia đình tìm kiếm những "túi quà tâm lý chiến" và cất giấu kỹ lưỡng, bất cứ lúc nào thuận tiện thì lấy ra nghe Đài MTGTAQ, Đài Mẹ Việt Nam… Những lá thư ấy, thông qua một số điệp viên CIA cài cắm trong các tổ chức từ thiện phi chính phủ, hoặc một số cơ quan ngoại giao phương Tây, mang vào Hà Nội rồi điệp viên tìm cách mua phong bì, tem thư miền Bắc, gửi đến địa chỉ người nhận.
Những kẻ cầm đầu OP39 tin rằng người nhận thư sẽ bị Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam đặt vào vòng nghi vấn, và việc điều tra, xác minh phải mất một thời gian dài. Dĩ nhiên, khi đã bị nghi vấn thì người ấy sẽ không còn được giữ chức vụ cũ. Như thế, mầm mống bất mãn sẽ có cơ hội để phát triển.
Riêng chương trình "Những mảnh xà phòng" (Soap Chips), OP39 giao cho một số kẻ chiêu hồi, ngụy tạo những bức thư gửi về gia đình, sau đó lính biệt kích sẽ đặt nó vào túi áo, túi quần hoặc balô của những bộ đội tử trận. Nội dung thư kể lể cảnh sống cơ cực, thiếu thốn, bệnh tật, những cái chết của đồng đội trên đường từ Bắc vào Nam vì bom B52.
Bên cạnh đó, thư cũng không quên đề cao sức mạnh không quân, pháo binh, xe tăng, bộ binh quân đội Việt Nam Cộng hòa cùng sự bi quan về tương lai mờ mịt, không biết đến ngày nào mới chiến thắng. Theo Weisshart, những người thu dọn tử thi sẽ phải lục tìm giấy tờ để tìm hiểu họ tên, nhân thân người chết và chắc chắn họ sẽ đọc những bức  thư này. Nó sẽ gây ra những tác động không nhỏ về tâm lý.
Không chỉ tiến hành chiến tranh tâm lý, OP39 còn có chương trình “Anh trai cả” (Eldest Son). Thiếu tá David Thelm, thành viên của OP39, cho biết: "Thông qua những kẻ lái súng, CIA đặt mua từ một nước khác đạn B40, B41 và đạn súng cối 82 ly do Trung Quốc chế tạo rồi đem về tháo ra, nhồi vào bên trong chất nổ tức thì. Những loại đạn này, máy bay của CIA bí mật thả xuống vùng biên giới giữa Việt Nam, Campuchia, Lào để khi bộ đội thu được, đem ra sử dụng, nó sẽ nổ ngay trong nòng súng, giết chết người bắn và những người đứng xung quanh ngay lập tức.
Thất bại thảm hại
Trong suốt 7 năm (từ 1961 đến 1968), CIA đã đầu tư rất nhiều công sức và tiền bạc cho cuộc chiến tranh tâm lý. Tuy nhiên kết quả chỉ là những thất bại thảm hại. Tất cả những người dân miền Bắc, bộ đội hoặc dân ở vùng giải phóng miền Nam khi nhặt được những túi quà tâm lý chiến, đều tự giác đem nộp cho đơn vị, cho chính quyền. Trong một bản phúc trình vào tháng 2/1968 của nhóm MACV do Thiếu tướng AR. Brownfield Jr. chủ tọa, cho biết "Chương trình OP39 không rõ ràng và dàn trải quá rộng". Ba viên sĩ quan liên tiếp chỉ huy OP39 là Clyde Russell, Don Balckburn và Jack Singlaub cũng thú nhận rằng kế hoạch OP39 không đem lại kết quả mong muốn.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại, theo đại tá Bill Rydell, người cuối cùng chỉ huy OP 394, thì sự đánh giá không chính xác kết quả của những cuộc hành quân tâm lý chiến phát xuất từ bộ phận "sưu tầm và phân tích". Họ đã không tìm ra các điểm yếu về tâm lý của đối phương, cũng như không lường hết tinh thần cảnh giác của nhân dân miền Bắc. Tháng 6/1967, tờ tạp chí “Học tập” và báo Nhân Dân xuất bản tại Hà Nội đã cho đăng bài viết, công khai tố cáo MTGTAQ chỉ là  một tổ chức ma nên người dân miền Bắc lại càng thờ ơ với những chương trình phát thanh của đài này.
Đầu tháng 11/1968, Tổng thống Lyndon Johnson ra lệnh chấm dứt Kế hoạch OP39 vì "không thu được kết quả gì". Trại Do Do ở Cù lao Chàm - “đảo thiên đường” giải tán. Đài MTGTAQ và Đài Mẹ Việt Nam được giao cho Bộ Thông tin, Dân vận, Chiêu hồi của chính quyền Sài Gòn, do Vũ Quang Ninh làm giám đốc, và nó tiếp tục hoạt động cho đến gần cuối tháng 4/1975. Còn Đài Cờ Đỏ, Sao Đỏ thì… tắt tiếng vì không còn tiền của Mỹ để hoạt động.
Theo lời khai của một số nhân viên làm việc ở Đài Mẹ Việt Nam và căn cứ vào trang thiết bị còn lại sau ngày Sài Gòn giải phóng, thì các đài Gươm thiêng ái quốc, Cờ Đỏ, Sao Đỏ, Đài Tiếng nói Việt Nam "dỏm"…, chỉ có một cơ sở kỹ thuật chung là Đài Mẹ Việt Nam mà thôi…

Nỗi buồn No-U: Họ Lã là nhà độc tài số 1 của NO-U!


Không biết tương quan quyền lực giữa các admin thế nào, nhưng gần đây họ Lã nổi lên như một nhà độc tài chính hiệu, Không chỉ hot ở tuyên bố giật gân “NO-U không phải là sân chơi dân chủ”, họ Lã còn có hàng loạt hành động thể hiện sự “gây gổ”, áp đặt quyền lực của một siêu admin trong đội bóng NO-U, khiến các thành viên NO-U phải “khóa miệng”, “khép nép” nếu đen đủi có phát ngôn trái ý, hay “lỡ miệng”.


Bề ngoài thì luôn miệng “bảo vệ hình ảnh và giữ đoàn kết” trong NO-U nhưng thực ra đại gia họ Lã là biểu tượng thanh trừng nội bộ NO-U, kéo bè cánh theo kiểu “nhóm lợi ích”, không từ thủ đoạn nào để “loại bỏ” những thành viên “mầm mống” đòi hỏi dân chủ, để làm “trong sạch” NO-U theo ý mình.

Trước đây, họ Lã đã thẳng tay tống cổ Quang Minh Đỉnh ra khỏi NO-U chỉ vì cái tội anh này phản ứng gay gắt ông Tiến sỹ Hán Nôm đi núp váy cụ già, một hành động không thể tổn hại cho “hình ảnh của NO-U” hơn thế. Anh ta cho rằng, trong khi các thành viên NO-U đang đi ứng cứu ông Tiến sỹ Hán Nôm kia, thì Quang Minh Đỉnh “phá đám”. Một góp ý tuy khó nghe nhưng đúng đắn, có tinh thần xây dựng, nhưng chỉ vì “lợi ích nhóm” mà họ chà đạp lên cả hình ảnh, thể diện NO-U thì đối thoại, bình đẳng, dân chủ chẳng còn nghĩa lý gì. Bởi vậy, khi nghe bức xúc của số trẻ đang bị trèn ép trong NO-U FC,Quang Minh Đỉnh đã nói thẳng:

 
Quang Minh Đỉnh
Thằng BÉO Binh Nhì vào đây mà đọc, hôm qua mày bảo như thế thì bây giờ tao viết thẳng để mày hiểu nhá. Và viết tới thế này cũng không hiểu được thì hết cách luôn.
MẤY NGƯỜI ĐI ĐÒI TỰ DO DÂN CHỦ NHƯNG LẠI CẤM - KHÔNG THÍCH NGƯỜI KHÁC TỰ DO LÀM THEO Ý MÌNH MÀ PHẢI LÀM THEO Ý HỌ, THEO SỰ CHỈ ĐẠO CỦA HỌ
Thì tốt nhất mày và các bạn của mày cùng các em nhỏ chọn lối khác mà đi, dứt khoát một lần cho xong kẻo suốt ngày đi dọn rác cho mấy người đó rồi không có thời gian kiếm tiền nuôi thân đâu.
Tao thẳng thế á, không thích thì khỏi like.


Một người thẳng tính như Quang Minh Đỉnh phản ứng, lại bị chẹt họng, làm cớ tống ra khỏi NO-U, giờ lại còn đem chuyện này để so sánh với việc Aduku, Từ Anh Tú như là sự khập khiễng, cố tình áp đặt cho một sự thanh trừng những người không chịu khuất phục thứ luật lệ phi dân chủ, thao túng lòng yêu nước của anh em NO-U phục vụ cho một nhóm “lợi ích” như thế thì đúng như Quang Minh Đỉnh “dứt khoát một lần cho xong”!.

Để tranh trừng lớp trẻ nhiệt huyết nhưng bất kham trong NO-U FC, họ Lã cũng thật nhiều chiêu trò. Nào là cố cố ý xuyên tạc thiện ý lập thêm đội bóng trẻ trong NO-U FC của Aduku, Từ Anh Tú là  “một hành động có ý phá hoại”, rồi kích hoạt , thổi nống lên thành scandal trong NO-U, khiến nhiều người “ngỡ ngàng” như đang có “cuộc nổi loạn”. Ban đầu chỉ là công khai việc đưa mấy thành viên Aduku, Từ Anh Tù “tạm thời” ra khỏi để tránh thêm bất đồng, nhưng kỳ thực, xóa tên, khóa nick, đả phá họ tới tấp chặn mọi ngả đường về. Những người bị “tạm thời” đưa ra khỏi như Aduku vẫn bày tỏ nguyện vọng ra sân đá bóng cho NO-U nhưng trong thâm tâm họ Lã, may mà chúng mày “lỡ miệng” mới có cớ nhổ những cái gai trong mắt để làm “thanh sạch” NO-U, răn đe những ai khác dám không “tôn trọng” họ LãLã Việt Dũng

 Có lẽ sự “ép buộc”ra đi của một số anh em trẻ, cũng như sự ngầm ủng hộ Hoàng Sa FC của nhiều người trong NO-U FC cho thấy sự “phẫn uất” với nhà độc tài này. Một số admin vẫn “vui vẻ” với Hoàng Sa FC, thậm chí qua ủng hộ đội bóng mới, bày tỏ cho sự “đa dạng” ấy là phình phường, chỉ riêng họ Lã có vẻ triệt phải tru di tận gốc rễ mọi mầm mống. Biểu hiện rõ nhất qua việc họ Lã đưa chuyện ngoài lề đâu đó vào diễn đàn về việc Binh Nhì tự nhận mình đáng là admin vì là người sáng lập, rồi kéo bè đàn đánh hội đồng, đòi đuổi Binh Nhì như đuổi hủi khỏi NO-U FC!!! CÓ lẽ sự càng  níu kéo, nuối tiếc NO-U FC của các bạn trẻ tâm huyết, càng làm cho “nhóm lợi ích” ngứa tai gai mắt không “nhịn” và “kiên nhẫn” thêm được.

Vậy nên đừng ngạc nhiên khi thi thoảng thiên hạ nghe những câu nói nịnh bợ thối tha của các admin khác dành cho họ Lã kiểu “Sao mình thích thằng Lã thế”,”Mình yêu anh Lã lắm cơ”,… sao giống triều đại nhà Ủn - Triều Tiên đến thế! Nên họ Lã mới thường xuyên được đưa ra các tuyên bố kiểu “Thay mặt các admin” như một đặc quyền! Để rồi xem tập đoàn họ Lã này sẽ thao túng NO-U FC như thế nào? Chắc là không chỉ dừng lại để bảo vệ cho mấy tú ông như Xuân Diện, tú bà Bùi Hằng bôi lem “hình ảnh” NO-U FC?

Hoạt động dân chủ ngày càng lắm những “chiêu trò”

“Chiêu trò”, một cách thức PR bản thân thường dùng trong lĩnh vực nghệ thuật, dành cho giới nghệ sĩ, nhất là giới showbiz trẻ ngày nay bằng nhiều cách thức khác nhau nhưchửi bới, bôi xấu người khác, ỡm ờ chuyện giới tính để tạo scandal, tìm kiếm sự nổi tiếng. Việc sử dụng  các “chiêu trò” đang dần trở thành bội thực đối với công chúng, với việc tiếp cận nhiều luồng thông tin khác nhau, không khó để nhận biết những trò PR rẻ tiền để gây dựng tên tuổi và công chúng đã bắt đầu ném đá, cho đó là việc làm kém thông minh; đòi hỏi mọi thứ rồi phải trở về với đúng giá trị của nó bởi chỉ có tài năng và những cống hiến thực sự vì nghệ thuật mới được công chúng đón nhận và ủng hộ.

Phong trào dân chủ thời gian gần đây cũng xuất hiện khá nhiều người áp dụng kiểu “chiêu trò”  để đánh bóng bản thân và tìm kiếm lòng thương hại của mọi người và điều thật đáng buồn là những thông tin, phát ngôn từ những người cố tình sử dụng “chiêu trò” đã không được kiểm chứng, không cần biết tin tức đúng sai thế nào, lập tức nhiều nhà dân chủ tranh nhau viết bài mổ xẻ, phê phán, chửi bới.
Vụ Nguyễn Phương Uyên được mẹ ruột là bà Nhung qua thăm nuôi, đã đưa tin Uyên bị đánh đập dã man, đến ngất xỉu trong nhà giam, trên người có nhiều vết bầm tím, trầy xước ngay trước ngày diễn ra phiên tòa xét xử sư thẩm Uyên và Đinh Nguyên Kha không lâu. Sự việc này có vẻ không đúng sự thật cho lắm, bởi cơ quan công an Việt Nam không khờ dại đến mức đem trưng hình ảnh của Uyên ra trước bàn dân thiên hạ trong ngày xét xử để tự tát vào mặt mình, luật sự Hà Huy Sơn và những người được tham dự phiên tòa đã thấy một hình ảnh của Phương Uyên mạnh mẽ, sạch sẽ, hoàn toàn trái ngược với thông tin mà mà Nhung đã hoang tin trước đây.
Vụ Huỳnh Ngọc Chênh, được Tổ chức Phóng viên không biên giới RSF và tập đoàn Google trao giải “Công dân mạng” (Netizen) năm 2013, đã trực tiếp sang Pháp nhận giải thưởng, rồi nhiều lần xuất cảnh đi các nước; nhưng đùng một cái lại ra tuyên bố bị chính quyền Việt Nam không cho xuất cảnh đi Mỹ ngày 10/5/2013. Tuy không được đi Mỹ nhưng Huỳnh Ngọc Chênh lại tỏ ra rất bình tĩnh, thậm chí rất vui, ông Chênh nói: “tôi đoán trước sẽ không cho đi, chỉ đi thử xem thái độ chính quyền thế nào và đã có sự chuẩn bị cho việc quay về nhà, đã “làm công tác tư tưởng với con gái trước đó…” cảm ơn công an…”. Phải chăng ông Huỳnh Ngọc Chênh cố tình dựng lên kịch bản này nhằm mục đích đánh bóng bản thân và mong được Google tiếp tục trao giải “Công dân mạng” (Netizen) trong những năm tiếp theo để lại được ngao du trời Tây và tiêu đô la cho sướng bản thân
Bùi Thanh Hiếu (blog người buôn gió) cũng từng một thời la lối om xòm việc bị an ninh Việt Nam ngăn cấm không cho xuất cảnh, nhưng rồi đầu năm 2013 Hiếu lại xuất cảnh một cách bình thường sang Đức, không biết có phải do Hiếu cố tình tạo cách để PR bản thân hay đã khuất phục trước an ninh Việt Nam, được an ninh Việt Nam huấn luyện làm “chim mồi” nên mới được xuất cảnh dễ dàng như vậy, trong khi rất nhiều blogger khác như chị em Huỳnh Thục Vy, Huỳnh Trọng Hiếu thật khó có thể rời khỏi Việt Nam.
Vụ các tù nhân Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, cứ sau mỗi lần đi thăm nuôi về lại được người nhà tường trình trên mạng internet về việc họ bị đánh đập, phân biệt đối xử, chế độ giam giữ hà khắc; tù nhân Nguyễn Xuân Nghĩa được vợ là bà Nguyễn Thị Nga cứ vài ba tháng lại đưa tin chồng bị bệnh tật, nguy cấp đến tính mạng, xin mãi mới được trại giam cho đi chữa bệnh, nhưng khi được đi chữa bệnh tại bệnh viện lớn rồi thì lại không hài lòng về cách chăm sóc, đối xử của bác sĩ và lực lượng bảo vệ của trại giam, sau bao nhiêu lần hoang tin bệnh tật đến nay ông Nghĩa vẫn sống khỏe mạnh có thấy làm sao đâu. Điều này xin hỏi thân nhân của các vị tù nhân trên và thưa quý vị, các trại giam Việt Nam hiện nay có hàng chục ngàn tù nhân các loại, đây là những người có hành vi vi phạm pháp luật và đang chịu sự trừng phạt của pháp luật, họ đương nhiên bị hạn chế các quyền công dân; đồng thời đi kèm với đó đa phần tù nhân thuộc các thành phần dính các tệ nạ xã hội, bệnh tật đầy người, nếu ai cũng yêu cầu này nọ và phải được đáp ứng như vợ chồng ông Nghĩa- Nga thì  không chỉ có Việt Nam và cả thế giới phải đầu tư nhiều tiền của để xây dựng lại cơ sở giam giữ, ban hành các luật, quy định mới về cải tạo giam giữ để tù nhân khi chấp hành án được ăn sung mặc xướng, không cảm thấy run sợ khi nằm trong  nhà đá, để rồi khi ra tù lại thản nhiên vi phạm pháp luật, làm loạn xã hội.
Trên đây chỉ là vài vụ  việc điển hình, chúng ta đều biết phong trào đấu tranh dân chủ trong nước đã có khá nhiều nhà dân chủ bị bắt, giam giữ trong các nhà tù của Việt Nam, đa phần sau khi ra tù họ thường chỉ phản ánh việc trong quá trình cải tạo mặc dù thường xuyên phải viết bản kiểm điểm, nghiệm thu này nọ nhưng họ đều giữ được khí tiết, bản lĩnh, không khuất phục đầu hàng trước mớ lý luận, cảm hóa của công an cộng sản, không thấy họ phản ánh việc bị đánh đập, tra tấn trong trại giam. Vậy mục đích việc người thân của những tù nhân đưa tin người thân của họ như trên là nhằm làm gì: kêu gọi, nhờ  sự can thiệp của cộng đồng; tìm kiếm lòng thương hại của những người nhẹ dạ, có tấm lòng hảo tâm để qua đó nhận được những đồng đô la của bà con ở hải ngoại..., liệu việc làm của họ có làm đẹp thêm hình ảnh của những nhà dân chủ đang chịu khổ ải trong lao tù hay chỉ càng bôi bẩn hình ảnh của họ.
Công dân tự do Hà Nội- tháng 5/2013

Khi tội phạm được che đậy dưới mác “nhà dân chủ”

images
Người con đất Việt
“Nhà dân chủ” có thể được hiểu là người đấu tranh cho tự do, dân chủ, chống lại cường quyền, áp bức để đòi quyền tự do, dân chủ cho mọi người. Còn nhớ, ngày xưa khi tôi được học về các phong trào đấu tranh cho dân chủ của các nhà dân chủ Việt Nam, ấn tượng của tôi đó là những cuộc đấu tranh giai dẳng, gian khó nhưng cũng rất anh hùng. Có thể kể đến như Phan Bội Châu, Phan Châu Chinh, Trần Phú, Lề Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Lý Tự Trọng… những con người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, sự nghiệp đấu tranh cho tự do, dân chủ của đất nước. Họ đại diện cho nhân dân, chiến đấu, hy sinh vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, không chỉ được nhân dân trong nước kính trọng mà còn được bạn bè thể giới nể phục.
Trước chế độ cường quyền, áp bức của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, ngay cả những quyền cơ bản nhất của con người là quyền được sống, được làm người cũng không thể có huống gì là những quyền được tự do, được mưu cầu hạnh phúc. Trong bối cảnh ấy đã xuất hiện những con người dám đứng lên chống lại cường quyền, áp bức để đòi các quyền tự do, dân chủ của con người. Họ xứng đáng là những anh hùng của dân tộc, là những người đấu tranh cho dân chủ, hoà bình.
Ấy vậy mà, thời gian gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là trên mạng internet xuất hiện rất nhiều các bài viết, bài ca ngợi các “nhà dân chủ” mới, những người đấu tranh cho tự do, dân chủ trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Có thể kể đến như Nguyễn Văn Đài, Lê Quốc Quân, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Quốc Quân, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Phương Uyên, Nguyễn Văn Hải (Điếu cày), Nguyễn Văn Dũng (Aduku)… và rất nhiều, rất nhiều người nữa. Như một trò được sắp đặt sẵn, cứ sau mỗi lần họ vi phạm pháp luật Việt Nam thì trên các phương tiện thông tin đại chúng bên ngoài, trên các blog, diễn đàn trên mạng không có thiện chí với Việt Nam lại xuất hiện những ngôn từ, khẩu hiệu ca ngợi cho các “nhà dân chủ” này. Có lẽ giờ đây cái mác “nhà dân chủ” đã trở thành mốt. Ai cũng có thể cho mình cái quyền tự nhận là “nhà dân chủ”, đấu tranh cho dân chủ và ai cũng có thể luôn sẵn sàng để được nhận danh hiệu các “nhà dân chủ” tự phong.
Vậy những “nhà dân chủ” này là ai? có lẽ không cần phải nói nhiều thì chắc hẳn nhiều người cũng đã biết. Trước hết, phần lớn những người này ít hay nhiều cũng đã từng bị toà án Nhà nước Việt Nam tuyên phạt vì vi phạm pháp luật Việt Nam như: “Tội gián điệp”, “Tội tuyên truyền chống nhà nước”, “tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”… thậm chí là cả những tội thông thường như “trộm cắp”, “trốn thuế”, “gây rối trật tự công cộng”, “cố ý gây thương tích”… Thứ hai, phần lớn trong số này đều là những người có một lý lịch chẳng lấy gì làm sạch sẽ cho lắm, họ chẳng những là những người không chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn thường xuyên có những hành động, việc làm gây tổn hại cho gia đình, bạn bè và cho đất nước.
Có thể thấy, công việc chính của những “nhà dân chủ” này hiện nay là viết bài, trả lời phỏng vấn phóng viên, báo chí nước ngoài, nhất là những chương trình, đài phát thanh thù địch với Việt Nam kêu gọi thay đổi chế độ chính trị, xoá bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi đa nguyên chính trị, kêu gọi dân chúng biểu tình chống lại Đảng, Nhà nước… Mục đích của những hành động này suy cho cùng là nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, xoá bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam. Tức là phủ định, phản bác lại lịch sử mà cha ông ta đã xây dựng và vun đắp. Thế mà được gọi là các “nhà dân chủ” hay sao? Đấu tranh cho dân chủ mà lại kêu gọi lật đổ đất nước mình để cho những kẻ bên ngoài vào xâm chiếm đất nước mình hay sao?
Có lẽ cái mác “dân chủ” giờ đã không còn phù hợp, nó chỉ có thể lừa dối, che đậy được bản chất thực sự của những con người này đối với một vài người mà không thể che đậy được cái dã tâm xấu trước đông đảo mọi người, sẽ không ai nghe, không ai tin những lời kêu gọi, hô hào của những kẻ mặt ngoài là cái mác “nhà dân chủ” nhưng bên trong lại là những kẻ phạm tội, những kẻ chống lại nhân dân, đất nước mình này.
Nguồn: Vietnamdanchu2013.blgogspot.com

Sự tha hóa của con người và sức mạnh của những đồng đôla

Sự Thật – Trong thời gian gần đây liên tục xuất hiện những con người tha hóa, biến chất, có suy nghĩ sai lầm , tư tưởng lệch lạc bị các thế lực thù đich lợi dụng chống phá Đảng và Nhà nước ta.Họ liên tục có những hành động sai trái, xâm phạm đến an ninh quốc gia, nói xấu Đảng , xuyên tạc đường lối chính sách pháp luật của nhà nước.Có thể do từ trong tư tưởng họ đã có nhận thức sai lầm nhưng tôi tin chắc rằng đằng sau đó đang có bàn tay của các thế lực thù địch tác động hướng lái suy nghĩ cũng như hành động của họ.Chúng dựa vào những đồng đôla mà mình mang tới để tiếp tục làm tha hóa con người, tiếp tay cho những kẻ bất mãn chế độ chống phá chúng ta bằng mọi cách.
Từ khi Bác Hồ lập ra Đảng Cộng Sản và lãnh đạo nước ta thực hiện thành công 2 cuộc cách mạng thần kì để dành lại độc lập cho dân tộc thì kể từ đó các thế lực thù địch chưa phút nào ngơi nghỉ chống phá và âm mưu phá hoại con đường tiến lên CNXH của chúng ta.Các thế lực thù địch phương tây dùng mọi cách, đầu tư tiền bạc vật chất vào để thực hiện các âm mưu đen tối của chúng ở nước ta.Những con người bị tha hóa, bị cám dỗ của đồng tiền là những đối tượng mà chúng hướng đến tuyển lựa, lợi dụng để bôi nhọ ta.Thật đáng buồn khi cả dân tộc yêu nước lại có một vài người chịu từ bỏ dân tộc, từ bỏ đất nước để nhận những đồng đôla bẩn thỉu của chúng.Khi con người bị tha hóa thì dù cho còn đang là thế hệ trẻ hay những người đã từng trải cũng biến thành những con người hoàn toàn khác.Họ chấp nhận tất cả chỉ để nhận được những thứ vật chất phù phiếm mà kẻ địch đem lại.
Có thể giải thích cho những hoạt động chống Đảng, chống chính quyền của Phương Uyên, Nguyên Kha… và một số học sinh , sinh viên là do non nớt, thiếu kinh nghiệm sống bị lôi kéo, dụ dỗ nhưng còn những người như Lê Hiếu Đằng, Phan Đình Trọng – những người đã có quá nhiều kinh nghiệm từng trải, đã có thời gian hoạt động với Đảng thì chỉ có thể là do bị tha hóa, biến chất.Sự tha hóa biến chất đó kết hợp với lợi ích mà những đồng đôla đem lại cho họ đã tạo lên những con người có thể phản lại quê hương đất nước mình để nhận của “bố thí ” của các thế lực thù địch dành cho họ.
Sự tha hóa của con người và sức mạnh của những đồng đôla

Khi  lòng  yêu  tiền  thế  chỗ  lòng  yêu  nước

Gần đây Phương Uyên là một ví dụ điển hình cho sự tha hóa của con người và sức mạnh của những đồng đôla.Thế hệ trẻ của chúng ta, thế hệ học sinh, sinh viên – những chủ nhân tương lai của đất nước đang xuất hiện những con sâu bỏ rầu nồi canh.Vì không kiềm chế nổi mình mà đã đi vào con đường sai lầm, nói xấu Đảng, nhà nước, chính quyền và có những hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.Phương Uyên đã phải nhận cái giá phải trả cho hoạt động sai trái của mình. Vào ngày 16 tháng 8 năm 2013 tại tỉnh Long An, tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao Tp Hồ Chí Minh đã mở phiên tòa xét xử phúc thẩm với hai bị cáo Đinh Nguyên Kha (1988)  và Nguyễn Phương Uyên ( 1992) về tội “ tuyên truyền chống nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” chỉ vì không có lập trường vững vàng 2 đối tượng này đã làm quen với Nguyễn Thiện Thành sống ở Thái Lan( qua facebook) qua đó 2 người đã được Thành cho tham gia vào tổ chức “tuổi trẻ yêu nước”  một tổ chức phản động chống phá nhà nước cộng hòa xã hôi chủ nghĩa Việt Nam. Kha – Uyên đã nhận sự chỉ đạo từ Thành tiến hành các hoạt động rải truyền đơn… Kết quả 2 người đã phải chịu trách nhiệm hình sự.Nhưng với sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước thì thời gian vẫn còn đủ cho Phương Uyên sửa chữa lỗi lầm của mình.
Còn với Lê Hiếu Đằng lại là một trường hợp mà sự tha hóa ở đây còn nguy hiểm hơn rất nhiều.Lê Hiếu Đằng  là luật gia, Phó chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nguyên là phó Tổng Thư Ký Ủy ban Trung Ương Liên Minh các lực lượng Dân tộc, dân chủ và Hòa bình Việt Nam, Nguyên Tổng thư kí Uỷ Ban nhân dân Cách mạng khu Sài Gòn Gia Định, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam ở TP HCM. Tính tới 2013, ông 45 năm là Đảng viên Đảng CSVN.Ấy vậy mà đến cuối cuộc đời mình ông vẫn không thể tránh khỏi cám dỗ của những đồng đôla kia để bỏ đi tất cả, trở mặt lại với Đảng, với nhân dân , với đất nước.Ông trở mặt đến mức bạn bè ông, những người đã từng công tác cùng ông đã không còn nhận ra ông.Sự tha hóa sâu sắc trong tư tưởng của ông đã được các thế lực thù địch lợi dụng một cách triệt để bằng những đồng đôla của mình.Đối với ông giờ đây trước mắt dân tộc , đất nước đã không còn là gì khi ông đang bị lợi ích vật chất và những đồng đôla che mắt.Ông sẵn sàng phát ngôn bừa bãi, tùy tiện đến lố bịch tất cả cũng chỉ vì cái lợi ích vật chất mà ông nhận được từ các thế lực thù địch bên ngoài.Thật sự đáng buồn cho một con người đã ở bên kia của cuộc đời mà vẫn còn lầm đường lỡ bước.
Dân tộc ta, đất nước ta đã phải trải qua bao gian khổ khó khăn, các thế hệ đi trước đã phải hi sinh xương máu của mình để dành lại hòa bình, độc lập cho đất nước. Vậy thì giờ đây Đảng ta, nhân dân ta quyết bảo vệ sự độc lập tự do và ổn định đó bằng bất cứ giá nào.Những lợi ích phù phiếm, những đồng đôla kia sẽ chỉ mua chuộc được những kẻ tha hóa, phản động chứ không bao giờ mua chuộc được toàn thể nhân dân yêu nước của ta.Những kẻ đó sẽ sớm nhận được cái giá cho những đồng đôla mà chúng đã nhận để chống lại quê hương đất nước mình.

Đỗ Thị Minh Hạnh” bông hoa” hay kẻ có lỗi với dân tộc

Đỗ Thị Minh Hạnh sinh ngày 13/3/1985 ở Di Linh, Lâm Đồng trong một gia đình ông bà nội có truyền thống cách mạng. Bản thân cô sớm tham gia gia các hoạt động xã hội. Đã từng học tại trường cao đẳng kinh tế tại Sài Gòn với một nền tảng khá tốt nhưng cô đã không tận dụng được điều đó. Ngược lại đã tham gia vào các hoạt động khiếu kiện trái phép, vượt cấp, tổ chức, kích động công nhân đình công bãi công trái phép, ngoài ra cô ta còn xúi dục người dân biểu tình cũng như tham gia một số tổ chức có hoạt động chống đối Đảng và Nhà Nước ta. Thật đáng buồn cho một con người như vậy là người dân Việt Nam, “con Lạc Cháu Hồng”mà có những việc làm như vậy sao? Đã vậy còn dám hô to rằng mình yêu nước, yêu nước hay là “phá nước”.

Những việc làm của Đỗ Thị Minh Hạnh là điều mà chúng ta không thể nào chấp nhận được. Đỗ Thị Minh Hạnh đã trả lời phỏng vần nhiều đài báo cuả hải ngoại có những lời lẽ phản động nói xấu Đảng và nhà nước ta.Mặc dù Đỗ Thị Minh Hạnh đã từng được cơ quan an ninh gọi nói chuyện và răn đe về những hành vi cấu kết và quan hệ với những đối tượng phản động có hành vi chống đối ở trong nước nhưng vẫn chứng nào tật đấy, Hạnh vẫn tiếp tục hoạt động giữ mối liên hệ với một số tổ chức phản động ngoài nước.

Hạnh cùng hai đối tượng khác đã tiến hành đình công trái phép, kích đông mọi người đập phá rồi tiến hành quay phim chụp ảnh lại. Trong khi cuộc đình công đang diễn ra, thì rạng sáng ngày 31/1 và ngày 1/2/2010, trên Quốc lộ 60, trước cửa Nhà máy giày da Mỹ Phong, xuất hiện khoảng 2 nghìn tờ truyền đơn của một tổ chức mang tên "Phong trào lao động Việt", nội dung kêu gọi công nhân đình công, biểu tình. Chưa hết, cũng vào lúc rạng sáng ngày 9/2/2010, tại 24 điểm thuộc 8 phường, xã của 5 quận, huyện là quận Tân Bình, quận Bình Tân, quận 10, quận Tân Phú và huyện Bình Chánh, TP HCM, lực lượng dân phòng, quần chúng đã phát hiện và thu giữ rồi nộp cho cơ quan chức năng trên 3 nghìn tờ truyền đơn, in trên khổ giấy A5 với tiêu đề "Lời kêu gọi ngàn năm Thăng Long", nội dung kích động người dân chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi "đấu tranh để đòi dân chủ", do tổ chức mang danh "Ủy ban phối hợp hành động vì dân chủ", thực hiện. Điều đặc biệt hơn nữa, phía dưới tờ truyền đơn, có ghi tên 4 tổ chức khủng bố, phản động, gồm "Việt tân", "tập hợp vì công lý", "đảng dân chủ nhân dân" và "Ủy ban bảo vệ người lao động Việt Nam".đây là những tổ chức phản động hoạt động ở nước ngoài luôn có những hành vi chống phá Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .Trong cùng ngày hôm đó thì, tại Đồng Nai, Công an tỉnh cùng giáo dân Kim Thượng, Phát Hải - xã Gia Kiệm, và giáo xứ Bạch Lâm - xã Gia Tân 2, huyện Thống Nhất đã phát hiện, thu giữ trên 1.500 tờ truyền đơn phản động, với hình thức, nội dung giống y như những tờ truyền đơn đã được rải.

Và rồi Hạnh cũng đã phải trả giá cho những gì mình đã gây ra. Qua hoạt động điều tra cơ quan an ninh đã phát hiện những hành vi trên có sự tham gia của Đỗ Thị Minh Hạnh, mặc dù đã có hành vi bỏ trốn nhưng với sự giúp đỡ của người dân cùng với sự tài tình của cơ quan an ninh đến ngày 27/10/2010, Tòa sơ thẩm - Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh đã mở phiên xét xử Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đỗ Thị Minh Hạnh với tội danh "phá rối an ninh trật tự nhằm chống lại chính quyền nhân dân" theo điều 89 Bộ luật Hình sự, vì đã rải truyền đơn kích động công nhân biểu tình, đình công, phá hoại tài sản doanh nghiệp theo chỉ đạo của Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu tổ chức phản động "Ủy ban bảo vệ người lao động Việt Nam" do Trần Ngọc Thành lập ra ở Ba Lan.

Có thể bản chất của Hạnh không phải vậy nhưng do bị lôi kéo,do lập trường tư tưởng không vững vàng nên đã bị các thế lực thù địch ngoài nước lợi dụng “giật dây” dẫn đến có những hành vi sai trái lệch lạc.

Những đài báo của hải ngoại (công cụ của bọn phản động) liên tiếp có những bài viết ca ngợi Đỗ Thị Minh Hạnh những bài viết này với những lời lẽ đầy phản động, những điều sai sự thật, bịa đặt nhằm phần nào xóa đi những tội lỗi mà Hạnh gây ra. Làm người ta hiểu sai sự thật về một con người mà đáng ra phải lên án chê trách.

Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do, dân chủ của công dân. Mong rằng dưới sự khoan hồng của nhà nước ta Hạnh sẽ biết nhận ra những hành vi sai trái của mình .

- Kiên Định -

Đòi Xóa Bỏ Điều 4 Hiến Pháp – Một Luận Điệu Phản Động Trắng Trợn.

Sự Thật - Điều 4 Hiến Pháp năm 1992  quy định: Đảng Cộng Sản Việt Nam , đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và  xã hội. Mọi tổ chức của Đảng  hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Đòi Xóa Bỏ Điều 4 Hiến Pháp – Một Luận Điệu Phản Động Trắng Trợn.
Bọn phản động cứ mở mồm ra là đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng , đòi bỏ điều 4 Hiến pháp, đòi đa nguyên đa đảng, đòi thay đổi thể chế chính trị mà cả dân tộc ta đã lựa chọn, lịch sử đã lựa chọn. Chúng đưa ra đủ thứ lí luận ngụy biện trên trời dưới biển nhưng chẳng  có cái nào thực tiễn và xuất phát từ lợi ích của nhân dân của đất nước. Thời gian gần đây khi chúng ta chúng cầu dân ý để dự thảo sửa đổi Hiến pháp thì chúng lại tiếp tục lên tiếng đòi xóa bỏ điều 4, nói xấu Đảng ta vì những đồng bạc bẩn thỉu mà các thế lực thù địch bên ngoài bố thí cho.
Chúng to tiếng đòi Nhà nước ta phải xóa bỏ điều 4 vì đó là không dân chủ, vi phạm dân quyền, là không phù hợp với nguyên vọng của nhân dân.
Chúng thực sự quá trắng trợn trong luận điệu của mình khi chẳng mảy may nhìn vào thực tế mà cứ nói cho được, nói theo cái suy nghĩ phản động đi ngược với cả dân tộc mà chỉ mình chúng cho là đúng. Không những vậy mà chúng còn vô ơn bội nghĩa với dân tộc mình khi dân tộc cùng Đảng ta đã phải gồng mình qua bao gian khổ để đem lại cho chúng tự do và cả quyền tự do ngôn luận để chúng đứng đó phát ngôn bừa bãi , đi theo các thế lực thù địch bên ngoài phản lại dân tộc.
Chúng nói rằng Đảng ta không có năng lực lãnh đạo, kìm hãm đất nước phát triển. Đúng là những lời thật lực cười. Nhìn vào lịch sử khi đất nước đang gặp muôn vàn khó khăn thì bác Hồ kính yêu đã đứng ra hợp nhất 3 tổ chức cộng sản trong nước và thành lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đảng ta đã lãnh đạo đất nước đi qua muôn vàn khó khăn để tiến hành thành công hai cuộc kháng chiến thần kì dành lại độc lập dân tộc. Không những vậy Đảng ta còn tiếp tục lãnh đạo đất nước phát triển đất nước tiến lên phát triển. Trong thời gian gần đây khi cả thế giới lâm vào khủng hoảng kinh tế thì Đảng vẫn đang lãnh đạo nước ta phát triển đều trên con đường XHCN với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 5%/năm .Năng lực lãnh đạo của Đảng là không thể phủ nhận và cả dân tộc ta đều thấy chỉ có những kẻ phản động đã nhận tiền của vật chất từ các thế lực thù địch mới cố tình phủ nhận.
Chúng luôn mồm nói rằng chúng ta vi phạm dân quyền , nhân quyền và điều 4 Hiến pháp là không dân chủ mà không biết rằng Đảng là đại diện của cả dân tộc của toàn thể người dân. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của mình. Chủ nghĩa Mác – Lê Nin lấy toàn thể nhân dân lao động là lực lượng chủ đạo lãnh đạo xã hội và tiến hành cách mạng giải phóng con người. Bác Hồ của chúng ta đã vận dụng nó vào điều kiện dân tộc mình để giải phóng đất nước ta khỏi bọn xâm lược thực dân đế quốc. Và giờ đây ngay cả khi chúng ta đã có được độc lập thì chúng vẫn không ngừng chống phá, phá hoại chủ nghĩa xã hội ở nước ta và hướng lái ta đi theo chúng. Thật đáng buồn cho những kẻ vì lợi ích vật chất mà can tâm chống lại Đảng mình, nhà nước mình. Chúng ta đã quy định rõ ràng trong Hiến pháp là luôn tôn trọng nhân quyền, dân quyền và quyền làm chủ của nhân dân. Đảng ta là đại diện cho toàn thể nhân dân và dân tộc để lãnh đạo xã hội ,lãnh đạo đất nước cũng chính là nhân dân đang lãnh đạo đất nước. Trong điều 4 cũng đã thể hiện rõ điều này. Hơn nữa, mặc dù là lực lượng lãnh đạo nhưng Đảng vẫn luôn hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật và luôn luôn tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng là nơi tập trung những con người ưu tú nhất của dân tộc , đại diện cho dân tộc lãnh đạo đất nước đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Sự lãnh đạo của Đảng là không thể phủ nhận và nó phải được hiến định trong hiến pháp nước ta. Dù các thế lực thù địch có những luận điệu xuyên tạc gì thì sự thật Đảng ta vẫn là đảng của toàn dân và hoạt động tất cả vì lợi ích nhân dân, lợi ích dân tộc.