![]() Miền Trung Việt Nam trong giai đoạn từ đầu năm 1966 đến trước thời điểm ngày 30/4/1975 là những năm tháng vô cùng biến động. Thời gian này, dân chúng từ Đà Nẵng đến Huế rầm rộ xuống đường biểu tình để chống lại sự xâm lược của Mỹ và chế độ độc tài quân sự của VNCH. Sau khi trung tướng Nguyễn Chánh Thi trở thành thủ lĩnh của quân ly khai chống lại chính quyền Sài Gòn. Đầu tháng 4/1966, Nguyễn Cao Kỳ cử trung tướng Phạm Xuân Chiểu ra miền Trung để điều đình với phe ly khai và đại diện các lực lượng đấu tranh đô thị nhưng ngay lập tức vị sứ giả này bị bắt giữ để làm con tin. Giữa tháng 5/1966, thừa lệnh Thiệu - Kỳ, đại tá Nguyễn Ngọc Loan cùng với 5 tiểu đoàn nhảy dù, 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến và 1 biệt đoàn cảnh sát dã chiến bằng đường không vận của Mỹ đã có mặt ở miền Trung với sứ mệnh "dẹp loạn ly khai và phong trào đấu tranh đô thị". Tại Huế, để đối phó với phong trào đấu tranh đòi hòa bình và tự quyết dân tộc của phật tử và sinh viên học sinh… Nguyễn Ngọc Loan đã chiêu dụ về cộng tác với mình khá nhiều những cộng sự mất hết lương tri, sẵn sàng đàn áp thẳng tay và nhả đạn vào đồng bào vô tội, sẵn sàng đạp đổ bàn thờ, dùng dùi cui, lựu đạn và còng số 8 để "trả nghĩa" cho mảnh đất đã sinh thành, nuôi dưỡng họ… Nổi bật trong số những kẻ vô luân đó là viên thiếu tá Liên Thành - Trưởng ty Cảnh sát Thừa Thiên. BÀI I: LAI LỊCH CỦA MỘT KẺ SÁT NHÂN Liên Thành có tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Liên Thành, sinh năm 1942, là cháu nội của Kỳ ngoại hầu Cường Để. Liên Thành sinh ra và lớn lên ở Huế, thi không đậu tú tài 1, nên thay vì ông ta được theo học Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức thì phải đi theo ngành sĩ quan bảo an. Từng là phụ tá quận trưởng ở Chi khu Nam Hòa, Đại đội trưởng Đại đội nghĩa quân Nam Hòa, Đại đội trưởng Đại đội địa phương quân, Chi khu phó Chi khu Nam Hòa. Năm 1966, cha của Liên Thành là ông Nguyễn Phúc Tráng Cử, một đảng viên có vị thế của đảng Đại Việt tại Huế tổ chức một cuộc họp bàn để đưa người của mình vào nắm chính quyền. Lúc này Ty Cảnh sát Thừa Thiên (bao gồm cả công an lẫn cảnh sát, công an gọi là cảnh sát đặc biệt, tức mật vụ), ghế trưởng ty đã có ông Đoàn Công Lập (đảng Đại Việt) nắm giữ, phó ty là ông Hà Nguyên Chi (đảng Đại Việt) phụ trách cảnh sát. Cuộc họp bàn nhằm tìm một người có thể cáng đáng chức phó ty Cảnh sát đặc biệt. Liên Thành lúc này đang mang lon thiếu úy, vì vậy với áp lực đảng phái của mình cùng với sự ưng thuận của đại tá Nguyễn Ngọc Loan - Giám đốc Cảnh sát quốc gia, đang làm nhiệm vụ tại Huế. Chẳng mấy lâu sau, Liên Thành đã được bổ nhiệm làm Phó ty Cảnh sát đặc biệt tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế mà không hề trải qua bất cứ một khóa huấn luyện nào về kỹ thuật tình báo cũng như tư pháp. Từ đây, Liên Thành bắt đầu những ngày tháng tác oai, tác quái của mình, bắt đầu những ngày tháng ông ta bước qua mọi rào cản của tình cảm, mọi lề lối của luân thường đạo lý, để từng ngày trở thành một kẻ côn đồ, vô hạnh và bất giáo nhằm khẳng định với thượng cấp của mình rằng: Liên Thành là một tay chống Cộng triệt để, luôn đặt lợi ích của đảng phái và thể chế VNCH lên trên. ![]()
Một việc làm hèn hạ thể hiện bản chất vô đạo của Liên Thành mà đến nay nhiều người dân ở Huế vẫn còn nhớ là việc ông ta cùng với mấy chục viên cảnh sát thuộc cấp của mình vây ráp chùa Trà Am nằm gần dưới chân núi Ngự Bình để vu oan giá họa và bắt giữ Thượng tọa Thích Như Ý đem về trung tâm thẩm vấn để tra khảo hành hạ với lý do “chùa của thầy nuôi giấu Cộng sản”. Việc làm tai quái này của Liên Thành đã tạo nên một cơn bão phẫn nộ trong giới phật tử và trí thức Huế lúc bấy giờ. Kết quả là chính quyền Sài Gòn phải cử một đoàn thanh tra đặc biệt do tướng Trần Thanh Phong - Tư lệnh Cảnh sát quốc gia dẫn đầu khẩn cấp bay ra Huế để điều nghiên và bắt buộc ông ta phải giải trình. Sau đó, Thượng tọa Thích Như Ý mới được trả tự do để trở lại với đời sống tu tập của mình. Nói về những hành vi tàn độc, giết thầy, giết bạn không chùn tay của Liên Thành trong thời kỳ ông ta là chỉ huy Cảnh sát đặc biệt ở Huế thì nhiều không kể xiết. Bởi vậy, trong khuôn khổ bài viết này, người viết chỉ xin thuật lại một vài câu chuyện đã được rất nhiều người ở Huế chứng kiến một cách tường tận và sau này đã được nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa Nguyễn Đắc Xuân - một chứng nhân sát thực với giai đoạn lịch sử này ở Huế (hiện đang sống và nghiên cứu tại Huế) xác tín như sau: Liên Thành nguyên là học trò của nhà thơ - nhà giáo Ngô Kha - một hạt nhân của phong trào đấu tranh đô thị ở Huế. Ông Ngô Kha sinh ngày 2/3/1935, ở làng Thế Lại Thượng, phường Phú Hiệp, thành phố Huế. Ông tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 - Đại học Sư phạm Huế (1958 - 1959), cử nhân Luật khoa (1962), dạy văn và công dân ở các trường Quốc học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo (Huế) từ năm 1960. Ngô Kha đã dấn thân vào phong trào đấu tranh đô thị từ những ngày tham gia nhóm "Quán Bạn" với Trần Quang Long, "Tuyệt Tình Cốc" với anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Năm 1966, sau khi bị động viên vào trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức của quân đội Sài Gòn và đóng quân một thời gian ở Đức Hòa, Đức Huệ, tỉnh Long An. Ngô Kha trở về Huế, ông tham gia đấu tranh và là một trong những thành viên nòng cốt lãnh đạo đơn vị quân đội Sài Gòn ly khai (sau đơn vị này lấy tên là chiến đoàn Nguyễn Đại Thức). Cuộc đấu tranh thất bại, Ngô Kha bị bắt lần đầu tiên vào năm đó và bị đày đi Phú Quốc một thời gian. Năm 1970, Ngô Kha chủ trương nhóm trí thức đấu tranh Tự Quyết cùng với Trịnh Công Sơn, Trần Viết Ngạc, Lê Khắc Cầm, Chu Sơn, Thái Ngọc San. Ông là người sáng lập và là Chủ tịch Mặt trận văn hóa dân tộc miền Trung, năm 1972 do Thành ủy Huế chỉ đạo. Năm 1973, để lập công chống Cộng và đẩy lùi phong trào đấu tranh của trí thức với thượng cấp của mình, Liên Thành đã nhẫn tâm ra lệnh cho các mật vụ thuộc cấp theo dõi, để rồi bắt giữ và thủ tiêu Ngô Kha. Việc làm vô đạo này của Liên Thành sau này đã được một sĩ quan an ninh của Công an tỉnh Thừa Thiên - Huế kể lại thông qua bản khai cung của can phạm như sau: Khoảng đầu năm 1973, hai mật vụ Lê Đình Liên và Nguyễn Đình Cáp đi giám thị bằng xe Honda 67 thì gặp nhà thơ Ngô Kha mặc áo măng-tô trắng, đầu đội mũ phớt đi qua cầu Gia Hội. Liên và Cáp đón đầu Ngô Kha và yêu cầu Kha lên xe. Ngô Kha không chút ngạc nhiên bèn hỏi: "Lên xe nào?". Liên đáp: "Xe 67 này." Kha trèo lên xe. Chiếc xe 67 chở ba người vụt chạy về gặp thiếu úy tổ trưởng tổ mật vụ đặc biệt Dương Văn Sỏ tại nhà riêng ở đường Nguyễn Thị Giang (bên cạnh quán Bar Why not, 21 Võ Thị Sáu, Huế ngày nay). Sỏ nói: "Để tau ăn cơm xong rồi sẽ đi báo cấp trên". Ăn xong Sỏ đi báo với Trương Công Ân và Ân báo với Liên Thành. Kết quả các nhân viên mật vụ vừa bắt Ngô Kha nhận được chỉ thị của Liên Thành là "1.000 năm mây bay". Đến 4 giờ chiều Ngô Kha vẫn còn ở Ty thẩm vấn. Ân đến hỏi bọn Sỏ: "Sao chưa hành động?". Chúng nói trời chưa tối. Đến tối mấy tên Sỏ, Nghệ, Liên, Cáp chở Ngô Kha về hướng cửa biển Thuận An, lấy búa đánh Ngô Kha chết ngay tại Mỹ An rồi trùm bao bố thả xuống một con hói gần đó. Bọn chúng báo cáo với Liên Thành: "1.000 năm mây bay" đã xong và đã giải quyết ở Mỹ An. Liên Thành chửi: "Chúng bây quá ngu, như rứa dân chúng biết răng? Đi vớt lên, kiếm chỗ chôn cho thật kín đáo ngay". Về cái chết của nhà yêu nước Ngô Kha, sau này được các ông bác trong họ Ngô, cùng tuổi với Ngô Kha và ở gần nhà Ngô Kha tại 30 Lê Đình Chinh - Huế ngày nay đã bổ sung thêm nhiều chi tiết cụ thể hơn. Hai tên mật vụ Lê Đình Liên và Nguyễn Đình Cáp phát hiện Ngô Kha qua cầu Gia Hội và vào nhà 42 Bạch Đằng - nhà của bà quả phụ Ngô Du, chị dâu của Ngô Kha. Chúng sục vào nhà bắt Ngô Kha, nhưng vì bà Ngô Du là công chức rất rành về luật lệ nên chặn lại hỏi "các ông bắt người thì phải có lệnh của cấp có trách nhiệm chớ?". Hai tên mật vụ ú ớ một lúc rồi để một tên ngồi lại canh chừng Ngô Kha còn một tên chạy về lấy lệnh bắt Ngô Kha do Liên Thành ký. Trong lúc chờ đợi, bà Ngô Du bảo với Ngô Kha rằng "Chú trèo tường phía sau nhà trốn đi, để chị đối phó với mấy người kia". Nhưng Ngô Kha đã trả lời với chị dâu của mình rằng: "Em làm việc quang minh chính đại thì việc chi phải trốn, cứ để cho chúng bắt". Quả nhiên, khi quay trở lại nhà bà Ngô Du với tờ lệnh bắt của Liên Thành, những tên mật vụ này đã đưa Ngô Kha đi và ông mất tích luôn từ đó. Những người họ hàng của Ngô Kha còn cho biết thêm: Theo lệnh của Liên Thành, xác của Ngô Kha được vớt lên khỏi bờ hói ở Mỹ An, rồi đem về bỏ nằm chết trần truồng trong phòng thẩm vấn. Không rõ từ nguồn tin nào, ông Phạm Bá Nhạc, Phó chi cảnh sát quận Hương Thủy, biết chuyện ấy rất đau đớn. Ngô Kha có một người chị là mẹ kế của Phạm Bá Nhạc. Dù sao trên danh nghĩa Ngô Kha cũng là cậu của Nhạc. Nhạc liền lên Huế xin Liên Thành một ân huệ là cho phép Nhạc mua cho Ngô Kha một cái quan tài. Liên Thành đồng ý với điều kiện phải giữ tuyệt đối bí mật. Nếu để lộ, Nhạc sẽ bị giết ngay. Nhạc cam kết sẽ giữ bí mật tuyệt đối. Ngô Kha được táng ở cồn mồ phía nam Huế. Để giữ mạng sống của mình, Nhạc không dám hé môi ngay với bà Cao Thị Uẩn, thân mẫu của Ngô Kha. Sau năm 1975, Phạm Bá Nhạc đi học tập cải tạo. Nhiều năm sau này, trước khi đi định cư tại Mỹ theo diện HO, Nhạc có tiết lộ cho gia đình biết Ngô Kha đã chết vào ngày 27 tháng Chạp năm Nhâm Tý (nhằm ngày 30/1/1973) chứ không phải ngày 25 tháng Chạp như gia đình và bạn bè của Ngô Kha thường tổ chức kị trong mấy chục năm qua. Còn xác Ngô Kha được táng cụ thể chỗ nào thì vẫn còn trong vòng bí mật. Gần đây, đối chiếu từ nhiều nguồn tư liệu, Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã khoanh vùng được nơi táng nhà thơ Ngô Kha ở cồn mồ làng An Cựu. Sau năm 1975, cồn mồ đó đã bị giải tỏa san lấp để xây dựng Xí nghiệp Gỗ Hương Giang, nay là khu kho ngoại quan phía sau trạm xăng dầu gần Bến xe phía Nam thành phố Huế. Xác của giáo sư, nhà thơ Ngô Kha được vùi lấp cụ thể vào tọa độ nào, hay còn nằm dưới đất vùng kho ngoại quan, hay đã được dời đi đâu v.v… là những câu hỏi ám ảnh ông Xuân và những người bạn, những người học trò và gia đình Ngô Kha trong mấy chục năm qua. Trong một lần trả lời phỏng vấn của báo chí, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có lời khẩn thiết gửi đến những người từng làm việc dưới trướng Liên Thành trước đây biết rõ đầu đuôi cái chết của Ngô Kha như Lê Văn Thiện, Dương Văn Sỏ (có tin đã qua đời), Trương Công Ân, Phạm Bá Đạt, Lê Đình Liên, Nguyễn Đình Cáp, Hồ Đình Chi v.v… đang ở Mỹ hãy chỉ giúp cho gia đình Ngô Kha, họ Ngô ở làng Thế Lại và những người bạn của Ngô Kha biết ông đã được chôn lấp nơi đâu. Biết nơi ông Ngô Kha gửi nắm xương tàn, mọi người sẽ dựng cho Ngô Kha một tấm bia và hằng năm đến ngày 27 Tết, đến thắp cho hương hồn Ngô Kha một nén hương tưởng tiếc… ![]() |
|
| Phan Bùi Bảo Thy |
Hiển thị các bài đăng có nhãn CHUYỆN CŨ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CHUYỆN CŨ. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013
Liên Thành, kẻ sát nhân trong những ngày miền Trung biến động
Nhãn:
CHUYỆN CŨ,
CSĐB,
LIÊN THÀNH
Sự thật về đài phát thanh "Mặt trận gươm thiêng ái quốc"
Để phục vụ cho "chiến tranh tâm lý", Mỹ đã dựng lên nhiều đài phát thanh và một trong những đài này là đài "Mặt trận gươm thiêng ái quốc".
Cuối
năm 1962, William Colby, trùm CIA tại miền Nam Việt Nam trở về
Washington để nhận nhiệm vụ chỉ huy Nha Kế hoạch CIA khu vực Đông Nam Á.
Trong một buổi họp với các quan chức chóp bu CIA sau đó, Tổng thống
Kennedy ra lệnh cho Colby: "Một mặt, nghiên cứu và phân tích sự thất bại
về các hoạt động bí mật của CIA tại miền Bắc". Mặt khác, Kennedy yêu
cầu Colby: "Gấp rút tạo ra những bất ổn về tâm lý ở miền Bắc như Cộng
sản đã làm ở miền Nam Việt Nam".
Theo nhận định của Colby, chính
quyền miền Bắc đặt ưu tiên hàng đầu về các vấn đề nội an, gián điệp và
phá hoại. Vì vậy, Colby chủ trương "cần làm cho xã hội của họ rối loạn
bằng chiến tranh tâm lý" mà trọng tâm là lĩnh vực tuyên truyền với các
phương tiện như phát thanh, truyền đơn, báo chí, túi quà tặng..., và
những kỹ thuật khác, chẳng hạn như dựng ra những mặt trận hay những tổ
chức đối kháng không có thật.
Kế hoạch OP39
Để thực hiện cuộc "chiến tranh
tâm lý", Colby chọn Herb Weisshart, một sĩ quan CIA dày dạn kinh nghiệm,
trước đây từng chỉ đạo các hoạt động bí mật ở một số quốc gia trong
vùng Đông Bắc Á rồi sau đó, về phụ tá cho Colby ở Sài Gòn làm người trực
tiếp chỉ huy - và đặt tên cho nó là "Kế hoạch OP39".
Theo Colby, mục tiêu của cuộc
chiến tranh tâm lý này, là làm thế nào để buộc "Bắc Việt phải quay về
bảo vệ hậu phương hơn là dồn mọi nỗ lực cho chiến trường miền Nam".
Một trong những nhiệm vụ phức
tạp nhất của kế hoạch OP39 là tìm cách tạo cho người dân miền Bắc tin
rằng có một tổ chức chống Cộng độc lập đã hình thành và đang hoạt động
ngay tại miền Bắc. Tổ chức này không theo Mỹ, không theo Liên Xô, không
theo Trung Quốc và cũng không theo Việt Nam Cộng hòa.
Để đặt cho nó một cái tên khả
dĩ có thể chứng minh được sự "trung lập" của nó, Weisshart tìm đọc lịch
sử Việt Nam, phỏng vấn nhiều người Việt và qua đó, ông ta biết chuyện
"trả lại kiếm thần" của Vua Lê Lợi. Từ câu chuyện cổ sử ấy, một tổ chức
mang tên "Mặt trận gươm thiêng ái quốc" (MTGTAQ), ra đời, bộ chỉ huy đầu
não đặt tại số 7 đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai,
quận 1, Tp HCM). Đây cũng là nơi đặt trụ sở của Đài phát thanh mang tên
“Mẹ Việt Nam”, được coi như đỡ đầu cho Đài phát thanh MTGTAQ.
![]() |
| Đường Hồng Thập Tự, nơi đặt Đài phát thanh Mặt trận gươm thiêng ái quốc (ảnh chụp trước năm 1975). |
Bước tiếp theo, Weisshart tung
những toán "Biệt hải" (biệt kích biển) gồm toàn người Bắc di cư hoặc
người miền Trung, sử dụng thuyền gỗ để tránh bị radar Bắc Việt phát
hiện, xâm nhập vùng biển các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, bắt
cóc ngư phủ miền Bắc, bịt mắt họ rồi đưa về căn cứ Do Do ở Cù lao Chàm,
Đà Nẵng - mà CIA đặt cho nó mật danh là "Đảo thiên đường".
Thiếu tá Roger Mc Elroy - là
thành viên của kế hoạch OP39 và cũng là một trong số rất ít người Mỹ đã
từng xâm nhập vùng biển Bắc Bộ, kể lại: "Những chiếc tàu ấy được đóng
với kích thước, hình dáng như tàu của ngư dân miền Bắc nhưng trang bị
động cơ cực mạnh. Trong chuyến xâm nhập, tôi mặc quần áo bà ba đen ngụy
trang, đội lưới che mặt và không đem theo bất cứ loại giấy tờ tùy thân
hay vật dụng gì có thể chứng tỏ tôi là người Mỹ".
Khi vào đến vùng biển miền Bắc Việt Nam,
Elroy không được lên trên boong tàu mà phải ở dưới hầm. Nhiệm vụ của
ông ta là liên lạc với lực lượng Hải quân Mỹ đang có mặt ngoài khơi vịnh
Bắc Bộ để ứng cứu khi cần thiết.
Trên “đảo thiên đường”, một
ngôi làng nhỏ được xây dựng không khác gì một làng chài ở miền Bắc. Dân
trong làng - kể cả phụ nữ, trẻ con cũng đều là người Bắc di cư vào Nam
năm 1954, và đã được huấn luyện đóng kịch rất bài bản. Nếu có khác thì
chỉ khác trong làng không treo cờ miền Bắc, không treo cờ miền Nam
mà treo cờ MTGTAQ! Trong suốt 3 tuần ở "đảo thiên đường", những ngư phủ
bị bắt cóc được cho ăn uống đầy đủ, săn sóc sức khỏe chu đáo đồng thời
được nghe những tin tức thất thiệt về tình hình miền Bắc, cũng như sự ra
đời của MTGTAQ.
Sau đó, với lý do bảo đảm an
toàn cho bản thân họ, "Biệt hải" lại bịt mắt họ, đưa họ trở về vùng biển
nơi họ đã bị bắt với một túi quà gồm 1 radio đã cài sẵn băng tần Đài
phát thanh MTGTAQ, quần áo, xà phòng, bật lửa, đá lửa, bánh kẹo, pin,
cùng với một chiếc phao bằng ruột xe…, tất cả đều không có nhãn mác xuất
xứ, rồi để họ tự tìm cách vào bờ. Ngoại trừ chiếc radio, còn thì tất cả
đều được làm giống y như hàng hóa miền Bắc để họ có thể sử dụng thường
ngày mà không bị người khác chú ý.
Sau tháng 4/1975, một biệt hải
tên Linh di tản ra nước ngoài, kể lại: "Chúng tôi phải làm mọi cách để
ngư phủ miền Bắc tin rằng họ vẫn đang ở miền Bắc, nhưng là ở trong một
làng tự do của MTGTAQ. Tất cả mọi cố vấn Mỹ đều không được phép xuất
hiện tại khu vực này. Hàng ngày, chúng tôi ăn, ngủ cùng họ và khéo léo
khai thác thông tin tình báo từ họ. Như tôi chẳng hạn, vốn là dân Hải
Phòng di cư, tôi kể cho họ nghe một số kỷ niệm về thành phố cảng, về
những con người mà tôi quen biết. Sau đó, tôi khéo léo hỏi họ về quê
hương bản quán, gia đình, bà con họ hàng, bạn bè… Bằng cách này, chúng
tôi thu thập được tên tuổi, chức vụ của một số cán bộ cấp xã, cấp huyện,
thậm chí cấp tỉnh nơi họ sống".
Theo báo cáo của CIA, năm 1963,
có 353 ngư phủ Bắc Việt được đưa về tuyên truyền tại “đảo thiên đường”.
Từ năm 1964 đến 1968, con số này là 1.003 người. Weisshart tin rằng
những ngư phủ ấy sẽ đem chuyện MTGTAQ kể lại cho gia đình, cho bạn bè họ
và sớm muộn gì nó cũng sẽ đến tai Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam. Và như vậy, Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam sẽ tốn nhiều nhân lực, thời gian, công sức để truy tìm cái không có thật.
![]() |
| Trùm CIA Colby động viên tinh thần một nhóm biệt hải tại Đảo Thiên đường - Cù Lao Chàm trước khi xâm nhập miền Bắc. |
Tháng 12/1961, dưới sự dàn dựng
của Colby và Weisshart, "đại hội" MTGTAQ được tổ chức. Trong "đại hội"
này, một nhân vật "ma" là Lê Hưng Quốc được bầu làm chủ tịch. Bản tuyên
ngôn của "mặt trận" nêu rõ tính "trung lập": "Chống sự can thiệp của tất
cả các lực lượng nước ngoài vào nội tình Việt Nam. Yêu cầu mọi lực lượng vũ trang, cố vấn và các tổ chức nước ngoài khác phải rút khỏi hai miền Nam, Bắc".
Bên cạnh đó, "mặt trận" còn
huênh hoang rằng: "Đã phát triển mạnh mẽ ở cả hai lĩnh vực chính trị lẫn
quân sự. Đã thành lập nhiều tổ mặt trận ở miền Bắc với 10.000 đảng
viên, trong đó 1.600 đã được vũ trang. Các cán bộ quân sự nòng cốt khi
đến sinh hoạt với các tổ trên toàn miền Bắc đều có chứng minh thư mặt
trận, do Ủy viên thường vụ Lê Hùng Cường ký tên, đóng dấu.
Tiến thêm một bước, tháng
4/1965, Đài phát thanh MTGTAQ, tự nhận là đặt tại vùng núi tỉnh Hà Tĩnh,
phát sóng buổi đầu tiên trên hai dải tần số trung bình và sóng ngắn.
Thực tế thì nó được phát đi từ số 7 đường Hồng Thập Tự, hoặc ở Quán Tre,
Hóc Môn, Cát Lở, Vũng Tàu hoặc Thanh Lam, Huế rồi được một tàu kỹ thuật
của CIA thường xuyên túc trực ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, trong vùng biển
quốc tế thu lại, khuếch đại tín hiệu rồi phát chuyển tiếp về miền Bắc.
Trong chương trình phát thanh
này và tất cả những chương trình về sau, ngoài việc xuyên tạc tình hình
miền Bắc, gây mất lòng tin giữa nhân dân và chính quyền, đả kích Liên
Xô, Trung Quốc, Đài MTGTAQ còn đưa ra những chiến thắng giả tạo, do các
"tổ công tác của mặt trận" thực hiện, chẳng hạn như đã ám sát cán bộ
này, đốt cháy đoàn xe quân sự kia.
Đặc biệt hơn, Weisshart đề nghị
MACV (Bộ tư lệnh quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam) và Bộ Tổng
tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa, ra lệnh cho tất cả các đơn vị tìm
mọi cách thu thập giấy tờ cá nhân của bộ đội miền Bắc rồi sau đó, cho
phát thanh trong chuyên mục được đặt tên là "sinh Bắc, tử Nam" nhằm mục
đích làm cho thân nhân của những người được nêu tên trên sóng phát
thanh, tin rằng con em mình đã chết.
Song song với những việc ấy,
Weisshart thuê một số phi công Đài Loan, đã từng cộng tác với CIA trong
thập niên 50, dùng máy bay không số hiệu, ban đêm lén lút xâm nhập vùng
trời miền Bắc để rải truyền đơn. Nội dung của những tờ truyền đơn này
là: "Đã có một khu giải phóng nằm dưới vĩ tuyến 19 - nghĩa là thuộc phạm
vi các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình".
Để chứng tỏ MTGTAQ là một tổ
chức có thật, thỉnh thoảng Weisshart ra lệnh cho những toán "Biệt hải",
ăn mặc quần áo của "Mặt trận", lén lút xâm nhập vào các làng xóm ven
biển miền Bắc để tuyên truyền và tặng quà.
Mục tiêu riêng biệt
Bên cạnh Đài phát thanh MTGTAQ,
kế hoạch OP39 còn sử dụng một số phương tiện truyền thông khác, phục vụ
cho những mục tiêu riêng biệt. Chẳng hạn như để gây hoang mang cho
người dân miền Bắc, CIA đã dùng "kỹ thuật đánh lừa" - gọi là snuggling.
Nó được Colby và Weisshart thực hiện bằng cách cho dựng lên một đài phát
thanh mà tần số của nó trùng với tần số phát sóng của Đài Tiếng nói
Việt Nam - và cũng mang tên là… Đài tiếng nói Việt Nam nhưng công suất mạnh hơn!
Trong các chương trình phát
thanh của cái đài "dỏm" này, tin tức được bóp méo rất khéo léo, thí dụ
như trong chuyên mục nông nghiệp phát vào đêm 11/4/1966, nó đã đưa tin:
"Vụ đông xuân năm nay, toàn miền Bắc có 124 nghìn hécta lúa bị sâu bệnh,
dẫn đến sản lượng lương thực bị tổn thất nghiêm trọng".
Theo Weisshart, những tin tức
đại loại như vậy sẽ gây lo lắng cho người dân trong một xã hội mà lương
thực được phân phát theo tem phiếu, cũng như tạo ra tâm lý hoang mang
cho bộ đội miền Bắc ở chiến trường miền Nam.
Lâu dài, sự lo lắng sẽ dẫn đến bức xúc, phẫn nộ, tạo tiền đề cho việc
hình thành và lôi kéo người dân tham gia vào những tổ chức đối kháng sau
này.
Không chỉ có Đài MTGTAQ, Đài
tiếng nói Việt Nam "dỏm", Weisshart còn lập ra Đài Cờ đỏ, mệnh danh là
tiếng nói của một nhóm chống đối trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Đài này
không chỉ trích Liên Xô nhưng "tố" Trung Quốc kịch liệt nhằm gây chia rẽ
nội bộ. Ăng ten phát sóng của nó đặt ở Quán Tre, Hóc Môn (nay là quận
12) và cũng được tàu kỹ thuật của CIA ở hải phận quốc tế thu lại, khuếch
đại rồi phát chuyển tiếp ra miền Bắc.
Đội ngũ biên tập viên, phát
thanh viên của nó hầu hết là những kẻ chiêu hồi, còn phụ trách kỹ thuật
là những chuyên viên người Philippines. Chưa hết, vẫn từ miền Nam, Weisshart lập Đài phát thanh Sao đỏ nhằm chia rẽ cán bộ cách mạng miền Nam với miền Bắc.
Vẫn
"biệt hải" tên Linh, kể: "Có những ngư phủ dày dạn kinh nghiệm nên dù
mắt họ bị bịt kín, nhốt dưới hầm tàu nhưng chỉ cần nghe tiếng tàu cưỡi
sóng và thời gian tàu chạy, họ cũng biết bị đưa về phía Nam". Khi đến “đảo thiên đường”, ban đêm nhìn sao trên trời, họ lại càng không tin đó là "làng tự do MTGTAQ ở miền Bắc".
Không thuyết phục được họ, CIA
ra lệnh tra tấn họ để khai thác rồi cuối cùng chuyển họ ra nhà tù đảo
Phú Quốc như tù binh chiến tranh bởi lẽ ngoài nghề đánh cá, ở địa phương
họ còn tham gia dân quân tự vệ!
"Biệt hải" Nguyễn Thà kể lại
một chuyến xâm nhập miền Bắc như sau: "Trung thu năm 1967, chúng tôi
được lệnh bí mật vào Thanh Hóa để làm nhiệm vụ tâm lý chiến, là phát cho
người dân ở cửa biển Tĩnh Gia những gói quà của MTGTAQ, gồm vải vóc, áo
quần, bánh kẹo và radio, đã được gói sẵn trong bọc nilon không thấm
nước...
Đến ngày xuất phát, chúng tôi
được chiến đỉnh PTF đưa từ Đà Nẵng ra vùng biển Thanh Hóa rồi dùng xuồng
cao su chèo vào bờ. Trước đây đã có nhiều toán xâm nhập khi vừa vào đến
bờ là bị bắt ngay tại chỗ nên chúng tôi dù không ai nói ra, nhưng tất
cả đều nơm nớp lo sợ cho số phận của mình.
Mặc dù trên sa bàn cũng như
trên bản đồ không ảnh, cách địa điểm chúng tôi đổ bộ khoảng 500m là một
làng đánh cá. Nhưng khi chạm đất, xung quanh chỉ toàn rừng dương. Có lẽ
những cơn sóng lớn đã đẩy chúng tôi đi lạc. Tìm kiếm một lúc nhưng không
kết quả, toán trưởng Kha ra lệnh bỏ lại tất cả những gói quà xuống bờ
cát rồi lên xuồng cao su tháo lui. Trên xuồng, Kha dặn anh em chúng tôi
khi về báo cáo, thì đều phải nói "đã tiếp xúc với gần 30 người dân, phát
quà. Dân rất hoan nghênh và tin tưởng MTGTAQ".
![]() |
| Một nhóm "biệt hải" ở Cù lao Chàm (quần áo bà ba đen) được chiêu đãi trước khi xâm nhập miền Bắc. |
Với những thông tin thu thập
được - kể cả thông tin "ma", đại loại như thông tin do nhóm "biệt hải"
Nguyễn Thà báo cáo, cộng với những tin tức lấy từ tù binh hoặc những kẻ
chiêu hồi, Weisshart chuyển sang bộ phận biên tập Đài MTGTAQ để xử lý.
Vì thế, chẳng lấy làm lạ khi trong nhiều bản tin, Đài MTGTAQ nêu vanh
vách họ tên của một số bí thư, chủ tịch xã, huyện, tỉnh ở Hà Tĩnh, Quảng
Bình hay Sơn La, Hải Phòng...
Hàng đêm, tầm khoảng 22h, một
giọng nữ lại rền rĩ trên Đài MTGTAQ với âm sắc thê lương: "Mẹ Việt Nam
rất đau buồn khi thấy những đứa con của mẹ sinh ra ở miền Bắc và phải
chết ở miền Nam", rồi sau đó là họ tên, ngày tháng năm sinh, quê quán
của từng "người chết". Tuy nhiên, lắm khi cái trò tâm lý chiến này lại…
phản chủ! Trong một cuộc hành quân ở phía bắc Củ Chi, lính Mỹ nhặt được
một cuốn sổ tay bị bom đánh tan nát, chỉ còn lại một phần trang đầu với
dòng chữ viết tên Nguyễn Công Lộc, Hải Hậu, Nam Định.
Thế là mấy hôm sau, trong mục
"sinh Bắc tử Nam" của Đài MTGTAQ, cái tên Nguyễn Công Lộc cùng địa danh
quê quán được xướng lên, nêu rõ Lộc "hy sinh tại mặt trận Củ Chi vì bom
B52" trong lúc sự thật thì anh Lộc này, có người bạn thân đi bộ đội nên
ngày bạn lên đường, anh đã tặng bạn cuốn sổ tay ghi tên mình như một vật
kỷ niệm!
Chưa hết, trong những chuyến
xâm nhập, nếu xảy ra đụng độ và nếu "biệt hải" bắt được tù binh thì họ
sẽ bị đưa ra tòa án "Gươm thiêng ái quốc", bị khép vào tội "chống lại
quê hương" và lãnh án tử hình. Tuy nhiên, do "chính sách khoan hồng" của
MTGTAQ, tù binh được đưa đến Cù lao Chàm rồi được tuyên truyền, nhồi
sọ. Trước khi trả về làng cũ, tù binh bị bắt buộc phải viết giấy thú tội
rồi sau đó, những lời "thú tội" ấy được phát liên tục trên Đài MTGTAQ.
Trường hợp tù binh bị khuất
phục, họ sẽ được đào tạo, huấn luyện kỹ năng gián điệp để làm việc cho
"mặt trận". Khi trở về quê quán, họ sẽ hoạt động ngầm, tuyên truyền cho
"mặt trận". Trong tay OP39, MTGTAQ không chỉ là chiến tranh tâm lý, mà
thật sự là công cụ phá hoại, chống lại chế độ miền Bắc bằng việc xúi
giục dân chúng miền Bắc vũ trang lật đổ chính quyền.
Chiến dịch "Đậu phụng" và chiến dịch "Những mảnh xà phòng"
Sau khi lập xong các đài phát
sóng, vấn đề còn lại của kế hoạch OP39 là làm thế nào để người dân miền
Bắc nghe được những bản tin, những bài bình luận của Đài MTGTAQ, Đài
Tiếng nói Việt Nam "dỏm", Đài Cờ Đỏ, Đài Sao Đỏ, Đài Mẹ Việt Nam… Theo
tài liệu của CIA đã giải mật, thì vấn đề này được giải quyết bằng "Chiến
dịch những hột đậu phụng" (Peanuts Operation).
Trong hai năm 1966-1967, đã có
khoảng 30 nghìn chiếc radio tí hon với tần số cài đặt sẵn, làm từ Nhật
Bản nhưng không ghi xuất xứ, được thả xuống miền Bắc và những vùng giải
phóng ở miền Nam bằng dù, hoặc cho vào túi nilon trong suốt, không thấm
nước để người nhặt có thể thấy rõ chiếc radio rồi thả theo đường biển
kèm với những món quà như pin, bút, sách, nến (đèn cầy), bật lửa, đá
lửa, truyền đơn, để thủy triều đưa vào bờ.
![]() |
| Tàu kỹ thuật của CIA (bên trái) đang được tiếp nhiên liệu ở ngoài khơi vịnh Bắc bộ. |
Giữa năm 1968, đại tá Bill
Rydell - người chỉ huy kế hoạch OP39 nhận ra rằng vấn đề pin dùng cho
radio là vấn đề sinh tử trong cuộc chiến tranh tâm lý. Trong một cuộc
họp, ông ta nêu câu hỏi: "Nếu một người dân miền Bắc nhặt được túi quà
rồi cất giấu để sử dụng. Sau một thời gian, pin hết, liệu ông ta có bị
nghi ngờ khi đi mua pin hay không trong lúc An ninh Bắc Việt Nam đều
biết túi quà có radio cài sẵn băng tần Đài MTGTAQ?".
Để giải quyết vấn đề này, Bill
Rydell đặt hàng một công ty Nhật Bản, sản xuất cho OP39 loại radio chạy
bằng dây cót. Cứ mỗi lần lên dây cót, điện năng sẽ được sản sinh ra, đảm
bảo cho radio hoạt động trong nửa giờ. Tuy nhiên, khi loại radio "dây
cót" chưa kịp hoàn thành thì đầu tháng 11/1968, Tổng thống Lyndon
Johnson ra lệnh chấm dứt kế hoạch OP39. Dù vậy, trong năm 1968 cũng đã
có 10 nghìn chiếc radio dùng pin được thả xuống miền Bắc.
Song song với những việc này, nhiều bức thư giả mạo được gửi từ Paris, Hongkong, Tokyo, Bangkok...
về địa chỉ của một số cán bộ cao cấp, trung cấp ở Hà Nội. Những bức thư
ấy viết bằng loại mật mã đơn giản mà theo Weisshart, thì Cơ quan An
ninh Bắc Việt Nam
sẽ dễ dàng bẻ khóa. Nội dung của nó cho thấy người nhận thư từ lâu đã
là điệp viên ngầm của CIA, và CIA ra lệnh cho họ phải thực hiện nhiệm vụ
XYZ nào đó.
Cũng trong chiến dịch này,
những kẻ chiêu hồi được lệnh viết thư cho thân nhân ở miền Bắc, đề cao
đời sống miền Nam, đề nghị gia đình tìm kiếm những "túi quà tâm lý
chiến" và cất giấu kỹ lưỡng, bất cứ lúc nào thuận tiện thì lấy ra nghe
Đài MTGTAQ, Đài Mẹ Việt Nam… Những lá thư ấy, thông qua một số điệp viên
CIA cài cắm trong các tổ chức từ thiện phi chính phủ, hoặc một số cơ
quan ngoại giao phương Tây, mang vào Hà Nội rồi điệp viên tìm cách mua
phong bì, tem thư miền Bắc, gửi đến địa chỉ người nhận.
Những kẻ cầm đầu OP39 tin rằng
người nhận thư sẽ bị Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam đặt vào vòng nghi vấn,
và việc điều tra, xác minh phải mất một thời gian dài. Dĩ nhiên, khi đã
bị nghi vấn thì người ấy sẽ không còn được giữ chức vụ cũ. Như thế, mầm
mống bất mãn sẽ có cơ hội để phát triển.
Riêng chương trình "Những mảnh
xà phòng" (Soap Chips), OP39 giao cho một số kẻ chiêu hồi, ngụy tạo
những bức thư gửi về gia đình, sau đó lính biệt kích sẽ đặt nó vào túi
áo, túi quần hoặc balô của những bộ đội tử trận. Nội dung thư kể lể cảnh
sống cơ cực, thiếu thốn, bệnh tật, những cái chết của đồng đội trên
đường từ Bắc vào Nam vì bom B52.
Bên cạnh đó, thư cũng không
quên đề cao sức mạnh không quân, pháo binh, xe tăng, bộ binh quân đội
Việt Nam Cộng hòa cùng sự bi quan về tương lai mờ mịt, không biết đến
ngày nào mới chiến thắng. Theo Weisshart, những người thu dọn tử thi sẽ
phải lục tìm giấy tờ để tìm hiểu họ tên, nhân thân người chết và chắc
chắn họ sẽ đọc những bức thư này. Nó sẽ gây ra những tác động không nhỏ
về tâm lý.
Không chỉ tiến hành chiến tranh
tâm lý, OP39 còn có chương trình “Anh trai cả” (Eldest Son). Thiếu tá
David Thelm, thành viên của OP39, cho biết: "Thông qua những kẻ lái
súng, CIA đặt mua từ một nước khác đạn B40, B41 và đạn súng cối 82 ly do
Trung Quốc chế tạo rồi đem về tháo ra, nhồi vào bên trong chất nổ tức
thì. Những loại đạn này, máy bay của CIA bí mật thả xuống vùng biên giới
giữa Việt Nam, Campuchia, Lào để khi bộ đội thu được, đem ra sử dụng,
nó sẽ nổ ngay trong nòng súng, giết chết người bắn và những người đứng
xung quanh ngay lập tức.
Thất bại thảm hại
Trong suốt 7 năm (từ 1961 đến
1968), CIA đã đầu tư rất nhiều công sức và tiền bạc cho cuộc chiến tranh
tâm lý. Tuy nhiên kết quả chỉ là những thất bại thảm hại. Tất cả những
người dân miền Bắc, bộ đội hoặc dân ở vùng giải phóng miền Nam
khi nhặt được những túi quà tâm lý chiến, đều tự giác đem nộp cho đơn
vị, cho chính quyền. Trong một bản phúc trình vào tháng 2/1968 của nhóm
MACV do Thiếu tướng AR. Brownfield Jr. chủ tọa, cho biết "Chương trình
OP39 không rõ ràng và dàn trải quá rộng". Ba viên sĩ quan liên tiếp chỉ
huy OP39 là Clyde Russell, Don Balckburn và Jack Singlaub cũng thú nhận
rằng kế hoạch OP39 không đem lại kết quả mong muốn.
Một trong những nguyên nhân dẫn
đến thất bại, theo đại tá Bill Rydell, người cuối cùng chỉ huy OP 394,
thì sự đánh giá không chính xác kết quả của những cuộc hành quân tâm lý
chiến phát xuất từ bộ phận "sưu tầm và phân tích". Họ đã không tìm ra
các điểm yếu về tâm lý của đối phương, cũng như không lường hết tinh
thần cảnh giác của nhân dân miền Bắc. Tháng 6/1967, tờ tạp chí “Học tập”
và báo Nhân Dân xuất bản tại Hà Nội đã cho đăng bài viết, công khai tố
cáo MTGTAQ chỉ là một tổ chức ma nên người dân miền Bắc lại càng thờ ơ
với những chương trình phát thanh của đài này.
Đầu tháng 11/1968, Tổng thống
Lyndon Johnson ra lệnh chấm dứt Kế hoạch OP39 vì "không thu được kết quả
gì". Trại Do Do ở Cù lao Chàm - “đảo thiên đường” giải tán. Đài MTGTAQ
và Đài Mẹ Việt Nam được giao cho Bộ Thông tin, Dân vận, Chiêu hồi của
chính quyền Sài Gòn, do Vũ Quang Ninh làm giám đốc, và nó tiếp tục hoạt
động cho đến gần cuối tháng 4/1975. Còn Đài Cờ Đỏ, Sao Đỏ thì… tắt tiếng
vì không còn tiền của Mỹ để hoạt động.
Theo lời khai của một số nhân
viên làm việc ở Đài Mẹ Việt Nam và căn cứ vào trang thiết bị còn lại sau
ngày Sài Gòn giải phóng, thì các đài Gươm thiêng ái quốc, Cờ Đỏ, Sao
Đỏ, Đài Tiếng nói Việt Nam "dỏm"…, chỉ có một cơ sở kỹ thuật chung là
Đài Mẹ Việt Nam mà thôi…

Đăng ký:
Nhận xét (Atom)





