Sư ông Thích
Nhất Hạnh. Chào đời ngày 11/10/1926 tại Thừa Thiên - Huế, Sư ông Thích
Nhất Hạnh có thế danh là Nguyễn Xuân Bảo. Năm 16 tuổi, ông xuất gia vào
tu tại chùa Từ Hiếu, Huế. Sau khi tốt nghiệp Viện Phật học Bảo quốc, ông
theo phái tu thiền rồi trở thành thiền sư.
Năm 1966, ông bị chính quyền Sài Gòn buộc phải rời miền Nam Việt Nam. Sang Pháp, đầu năm 1982, ông thành lập Tu viện Làng Mai ở vùng Dordogne, miền Nam
nước Pháp (còn gọi là Đạo tràng Mai thôn). Trong suốt thời gian ở nước
ngoài, Sư ông Thích Nhất Hạnh đã đi thuyết giảng ở nhiều nơi, tổ chức
nhiều khóa tu tập và trở thành một nhân vật tôn giáo có uy tín quốc tế.
![]() |
|
Cổng vào Tu viện Bát Nhã
|
Sau ngày đất nước thống nhất, từ năm 1997 đến 2003, Sư
ông Thích Nhất Hạnh nhiều lần đặt vấn đề trở lại Việt Nam để hoạt động
tôn giáo - nhưng ông lại không muốn thông qua Giáo hội Phật giáo Việt
Nam (GHPGVN). Mãi đến năm 2004, khi thấy có cơ hội ông mới về theo lời
mời của GHPGVN, và được Nhà nước đồng ý.
Ngày 12/1/2005, Sư ông Thích Nhất Hạnh cùng một đoàn
gồm 190 người với gần 30 quốc tịch khác nhau, xuống Sân bay Quốc tế Tân
Sơn Nhất. Mục đích của chuyến đi này được ông giới thiệu, là thuần túy
hoạt động tôn giáo, thăm các công trình Phật giáo, thăm các danh thắng
văn hóa, lịch sử ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam, tổ chức các lễ nghi tôn
giáo. Vẫn theo ông, chuyến đi ấy tuyệt nhiên không đề cập đến các vấn
đề chính trị, cũng như không đề cập đến cái gọi là "Giáo hội Phật giáo
Việt Nam thống nhất" - là tổ chức không được pháp luật Việt Nam thừa
nhận.
Ngày 11/4/2005, đoàn Sư ông Thích Nhất Hạnh rời Việt Nam.
Trong suốt 90 ngày, ông cùng đoàn đã được Nhà nước Việt Nam, GHPGVN tạo
mọi điều kiện thuận lợi, để tận mắt nhìn thấy, tận tai nghe thấy không
khí sinh hoạt tôn giáo - đặc biệt là Phật giáo. Những phát biểu công
khai của Sư ông Thích Nhất Hạnh thời điểm ấy đã tác động tích cực đến dư
luận người Việt hải ngoại, tạo ra những quan hệ thuận lợi giữa Làng Mai
và GHPGVN.
Tuy nhiên, có điều phía sau lưng mà ít ai biết, là
thông qua chuyến về Việt Nam, Sư ông Thích Nhất Hạnh có ý tranh thủ Nhà
nước, tranh thủ GHPGVN để tạo chỗ đứng cho Pháp môn Làng Mai. Hơn nữa, ý
đồ chính trị của ông còn được thể hiện khi ông trao cho lãnh đạo Nhà
nước Việt Nam bản kiến nghị 7 điểm.
Để tạo chỗ đứng cho Pháp môn Làng Mai ở Việt Nam, sau
chuyến về nước lần thứ nhất, Sư ông Thích Nhất Hạnh thường xuyên cử
người về dưới danh nghĩa thăm thân nhân, du lịch, để giảng dạy và hướng
dẫn các khóa tu thiền cho các tu sinh tại nhiều cơ sở trong nước. Bên
cạnh đó, để thu phục giới trẻ, Sư ông Thích Nhất Hạnh đặt ra một chương
trình, gọi là "Hiểu và Thương". Chỉ trong 3 năm, "Hiểu và Thương" đã quy
tụ được vài trăm thanh, thiếu niên, với 60 người tham gia giảng dạy.
Và những ý đồ của sư ông Thích Nhất Hạnh
Ngày 20/2/2007, Sư ông Thích Nhất Hạnh cùng đoàn gồm
150 người với gần 30 quốc tịch khác nhau về Việt Nam lần thứ hai. Lần
này, ý đồ mượn tôn giáo để làm chính trị của ông bắt đầu thể hiện rõ nét
qua việc ông tổ chức "trai đàn chẩn tế" ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Lợi dụng GHPGVN, Sư ông Thích Nhất Hạnh cho phát tán tài liệu, đề cao,
khuếch trương Pháp môn tu tập Làng Mai, phủ nhận những đóng góp rất
nhiệt tình và tích cực của GHPGVN trong việc tổ chức "trai đàn chẩn tế",
cứ y như không có ông, thì "trai đàn" chẳng bao giờ được hình thành.
Có lẽ ai đã xem hình ảnh Sư ông Thích Nhất Hạnh xuất
hiện tại các "trai đàn chẩn tế" trên báo chí, truyền hình, hoặc xem trực
tiếp, cũng đều thấy chướng. Chỉ là một "thiền sư", đứng đầu một môn
phái, mà ông đi dưới lọng vàng, cạnh ông là sư nữ Thích Nữ Chân Không - y
như vua và hoàng hậu! Thiên hạ đồn rằng ông với bà Chân Không có “quan
hệ” rất gần gũi, chẳng biết thật hay không, nhưng năm 2006, khi một phái
đoàn của GHPGVN sang Pháp, thăm Làng Mai, đã phải gửi Sư ông Thích Nhất
Hạnh một bức thư, trong đó đề nghị: "Xin sư ông về ở với tăng, sư nữ
Chân Không về ở với ni để tránh dư luận".
Và mặc dù ông tuyên bố không can thiệp, không phát
biểu những vấn đề liên quan đến chính trị, nhưng khi được lãnh đạo Nhà
nước Việt Nam tiếp kiến, Sư ông Thích Nhất Hạnh liền đưa ra đề nghị 10
điểm, trong đó có những điểm như: "Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam, giải
thể Ban Tôn giáo chính phủ...". Nhìn nét mặt tự mãn của ông, hầu hết
tăng ni thuộc GHPGVN - xưa kia vẫn kính nể ông qua những cuốn sách ông
đã viết, như “Đường xưa mây trắng”, "Nói với tuổi hai mươi", "Bông hồng
cài áo", "Nẻo về của Ý", hoặc những bài thuyết giảng của ông ở Trường
đại học Vạn Hạnh bao nhiêu thì bây giờ, tăng, ni lại càng cảm thấy thất
vọng về ông bấy nhiêu, nhất là khi ông tuyên bố: "Pháp môn Làng Mai tự
bổ nhiệm truyền giới, tấn phong, bầu trụ trì, viện chủ, phó viện chủ mới
mà không cần phải thông qua Nhà nước và GHPGVN".
Sau khi được lãnh đạo Nhà nước Việt Nam giải thích
thỏa đáng về kiến nghị 10 điểm do Sư ông Thích Nhất Hạnh đưa ra, ngày
9/5/2007, Sư ông Thích Nhất Hạnh cùng đoàn tăng thân Làng Mai rời Việt
Nam, về Pháp. Trước lúc lên máy bay, ông công khai tuyên bố, khẳng định
"Pháp môn Làng Mai là một giáo hội độc lập với GHPGVN, việc nội bộ của
Làng Mai không thuộc thẩm quyền của Nhà nước và GHPGVN". Ôi trời! Ông
đưa người của ông vào nhà người ta, ông quây lấy một góc, nấu nướng, ăn
uống, ngủ nghê, tắm giặt... rồi ông bảo "góc" của ông là góc độc lập,
chuyện sinh hoạt của ông là chuyện "nội bộ", chủ nhà không có quyền can
thiệp thì ai chịu nổi!
![]() |
|
Đoàn sư ông Thích Nhất Hạnh lần đầu về Việt Nam
|
Ngày 22/4/2008, Sư ông Thích Nhất Hạnh về Việt Nam
lần thứ ba để tham dự Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc. Cùng đi với ông
là 450 người, gồm 41 quốc tịch. Lần này, ông công khai tổ chức nhiều
khóa tu tập tại chùa Bằng, Hà Nội, Tu viện Bát Nhã, Lâm Đồng. Điều đáng
nói là trước lúc về, Sư ông Thích Nhất Hạnh cho tán phát "Lá thư Làng
Mai số 31", nội dung nêu ra những vấn đề không đúng sự thật về tình hình
Việt Nam, đồng thời bộc lộ ý đồ xin lại ngôi chùa cũ, là nơi xưa kia
ông ta tu hành. Lúc ấy, vì chưa nhận ra chân tướng của Sư ông Thích Nhất
Hạnh, nên Thượng tọa Thích Đức Nghi, trụ trì Tu viện Bát Nhã đã đồng ý
cho Sư ông Thích Nhất Hạnh dùng Tu viện Bát Nhã làm nơi tu tập Pháp môn
Làng Mai, đồng thời ký đơn bảo lãnh cho gần 400 tu sinh đăng ký tạm trú
với chính quyền.
Sự thật về những chuyện xảy ra ở Tu viện Bát Nhã
Được sự bảo lãnh của Thượng tọa Đức Nghi, số tăng sinh
tu tập theo Pháp môn Làng Mai tại Tu viện Bát Nhã từ năm 2005 đến tháng
6/2009, khoảng 400 người - trong đó có một số Giáo thọ là người quốc
tịch nước ngoài, và hơn 2/3 là những người từ các địa phương khác đến.
Để tạo thuận lợi cho tu sinh, Tu viện Bát Nhã đã đồng ý
cho tu sinh thành lập những "xóm", gọi là "Mây đầu núi", "Bếp lửa
hồng", "Rừng phương bối"... Tại những "xóm" này, mọi sinh hoạt riêng tư
đều được tôn trọng mặc dù Nhà nước Việt Nam chỉ công nhận khóa tu theo Pháp môn Làng Mai, chứ chưa công nhận Giáo hội Làng Mai - Pháp quốc tại Việt Nam.
Riêng GHPGVN, Hòa thượng Thích Hiển Pháp - là Phó chủ tịch kiêm Tổng
thư ký, Trưởng ban Phật giáo quốc tế Trung ương Giáo hội, chỉ ký cho
phép tổ chức khóa tu theo giới hạn của từng khóa tu là 3 tháng, hết hạn
phải xin phép tổ chức lại, chứ không phải đến năm 2010 như Pháp môn Làng
Mai đã tuyên truyền.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét