Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Không “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang

“Phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, tách lực lượng vũ trang ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động đối với cách mạng nước ta.
Thời gian gần đây, lợi dụng việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, một số người đã đưa ra quan điểm lực lượng vũ trang “chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân”; “phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải  trung thành với bất kỳ tổ chức nào”(?!)...
Đây là những luận điệu vô căn cứ, phản khoa học và không đúng với thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam.
Dưới góc độ lý luận, lịch sử ra đời và phát triển của lực lượng vũ trang trên thế giới cho thấy, lực lượng vũ trang bao giờ cũng có mối quan hệ hữu cơ với giai cấp và Nhà nước sinh ra nó, mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội.
Lực lượng vũ trang là lực lượng chính trị đặc biệt của Nhà nước để bảo vệ sự tồn tại của Nhà nước đó. Lực lượng vũ trang xuất hiện và tồn tại gắn liền với chính trị, phụ thuộc vào chính trị, chính trị quy định bản chất, chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ cơ bản và mọi hoạt động của lực lượng vũ trang. Bất cứ giai cấp, Nhà nước nào khi tổ chức ra lực lượng vũ trang cũng đều quan tâm xây dựng, củng cố bản chất giai cấp của nó và làm cho lực lượng này phục tùng, bảo vệ quyền lợi chính trị, kinh tế của giai cấp tổ chức ra nó.
Có thể khẳng định, mọi giai cấp, mọi nhà nước tổ chức ra lực lượng vũ trang đều tập trung chăm lo xây dựng mặt chính trị, đều hướng việc xây dựng lực lượng vũ trang theo chính trị của giai cấp thống trị. Từ đó, hình thành các kiểu lực lượng vũ trang khác nhau với các hình thức chính trị khác nhau. Song, chính trị của kiểu lực lượng vũ trang nào cũng đều phản ánh lợi ích cơ bản của giai cấp và Nhà nước đã sinh ra, nuôi dưỡng nó. Không thể có lực lượng vũ trang “siêu giai cấp”, “đứng ngoài chính trị”.
Trong bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào, lực lượng vũ trang không bao giờ tách rời chính trị, vì chính trị quyết định sự thành bại của giai cấp thống trị; những mưu toan đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang về thực chất là nhằm chuyển hóa bản chất giai cấp của lực lượng vũ trang sang lập trường của giai cấp khác.
Dưới góc độ thực tiễn, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Bảo vệ và giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lịch sử gần 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cho thấy, Đảng lãnh đạo là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, được nhân dân thương yêu, đùm bọc và giúp đỡ, lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân ngày càng phát triển và trưởng thành, luôn một lòng, một dạ tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đoàn kết, tận tụy trong công tác; dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu, đập tan mọi âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã thực sự là chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm tốt vai trò tham mưu với Đảng, Nhà nước về các chủ trương, đường lối, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; chủ động phòng ngừa, tấn công làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch, phản động, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước.
Vì những lý do nêu trên, tôi đồng tình với quy định nêu tại Điều 70 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng Nhà nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, đảm bảo vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân.
Với niềm tin sâu sắc vào sức mạnh và ý chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, vào tương lai tươi sáng của đất nước, lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân nguyện sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, kiên định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; kiên quyết đập tan mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động hòng “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Vài nét về pháp môn làng Mai

Sư ông Thích Nhất Hạnh. Chào đời ngày 11/10/1926 tại Thừa Thiên - Huế, Sư ông Thích Nhất Hạnh có thế danh là Nguyễn Xuân Bảo. Năm 16 tuổi, ông xuất gia vào tu tại chùa Từ Hiếu, Huế. Sau khi tốt nghiệp Viện Phật học Bảo quốc, ông theo phái tu thiền rồi trở thành thiền sư.
Năm 1966, ông bị chính quyền Sài Gòn buộc phải rời miền Nam Việt Nam. Sang Pháp, đầu năm 1982, ông thành lập Tu viện Làng Mai ở vùng Dordogne, miền Nam nước Pháp (còn gọi là Đạo tràng Mai thôn). Trong suốt thời gian ở nước ngoài, Sư ông Thích Nhất Hạnh đã đi thuyết giảng ở nhiều nơi, tổ chức nhiều khóa tu tập và trở thành một nhân vật tôn giáo có uy tín quốc tế.
Cổng vào Tu viện Bát Nhã
Sau ngày đất nước thống nhất, từ năm 1997 đến 2003, Sư ông Thích Nhất Hạnh nhiều lần đặt vấn đề trở lại Việt Nam để hoạt động tôn giáo - nhưng ông lại không muốn thông qua Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN). Mãi đến năm 2004, khi thấy có cơ hội ông mới về theo lời mời của GHPGVN, và được Nhà nước đồng ý.
Ngày 12/1/2005, Sư ông Thích Nhất Hạnh cùng một đoàn gồm 190 người  với gần 30 quốc tịch khác nhau, xuống Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất. Mục đích của chuyến đi này được ông giới thiệu, là thuần túy hoạt động tôn giáo, thăm các công trình Phật giáo, thăm các danh thắng văn hóa, lịch sử ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam, tổ chức các lễ nghi tôn giáo. Vẫn theo ông, chuyến đi ấy tuyệt nhiên không đề cập đến các vấn đề chính trị, cũng như không đề cập đến cái gọi là "Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất" - là tổ chức không được pháp luật Việt Nam thừa nhận.
Ngày 11/4/2005, đoàn Sư ông Thích Nhất Hạnh rời Việt Nam. Trong suốt 90 ngày, ông cùng đoàn đã được Nhà nước Việt Nam, GHPGVN tạo mọi điều kiện thuận lợi, để tận mắt nhìn thấy, tận tai nghe thấy không khí sinh hoạt tôn giáo - đặc biệt là Phật giáo. Những phát biểu công khai của Sư ông Thích Nhất Hạnh thời điểm ấy đã tác động tích cực đến dư luận người Việt hải ngoại, tạo ra những quan hệ thuận lợi giữa Làng Mai và GHPGVN.
Tuy nhiên, có điều phía sau lưng mà ít ai biết, là thông qua chuyến về Việt Nam, Sư ông Thích Nhất Hạnh có ý tranh thủ Nhà nước, tranh thủ GHPGVN để tạo chỗ đứng cho Pháp môn Làng Mai. Hơn nữa, ý đồ chính trị của ông còn được thể hiện khi ông trao cho lãnh đạo Nhà nước Việt Nam bản kiến nghị 7 điểm.
Để tạo chỗ đứng cho Pháp môn Làng Mai ở Việt Nam, sau chuyến về nước lần thứ nhất, Sư ông Thích Nhất Hạnh thường xuyên cử người về dưới danh nghĩa thăm thân nhân, du lịch, để giảng dạy và hướng dẫn các khóa tu thiền cho các tu sinh tại nhiều cơ sở trong nước. Bên cạnh đó, để thu phục giới trẻ, Sư ông Thích Nhất Hạnh đặt ra một chương trình, gọi là "Hiểu và Thương". Chỉ trong 3 năm, "Hiểu và Thương" đã quy tụ được vài trăm thanh, thiếu niên, với 60 người tham gia giảng dạy.
Và những ý đồ của sư ông Thích Nhất Hạnh
Ngày 20/2/2007, Sư ông Thích Nhất Hạnh cùng đoàn gồm 150 người với gần 30 quốc tịch khác nhau về Việt Nam lần thứ hai. Lần này, ý đồ mượn tôn giáo để làm chính trị của ông bắt đầu thể hiện rõ nét qua việc ông tổ chức "trai đàn chẩn tế" ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Lợi dụng GHPGVN, Sư ông Thích Nhất Hạnh cho phát tán tài liệu, đề cao, khuếch trương Pháp môn tu tập Làng Mai, phủ nhận những đóng góp rất nhiệt tình và tích cực của GHPGVN trong việc tổ chức "trai đàn chẩn tế", cứ y như không có ông, thì "trai đàn" chẳng bao giờ được hình thành.
Có lẽ ai đã xem hình ảnh Sư ông Thích Nhất Hạnh xuất hiện tại các "trai đàn chẩn tế" trên báo chí, truyền hình, hoặc xem trực tiếp, cũng đều thấy chướng. Chỉ là một "thiền sư", đứng đầu một môn phái, mà ông đi dưới lọng vàng, cạnh ông là sư nữ Thích Nữ Chân Không - y như vua và hoàng hậu! Thiên hạ đồn rằng ông với bà Chân Không có “quan hệ” rất gần gũi, chẳng biết thật hay không, nhưng năm 2006, khi một phái đoàn của GHPGVN sang Pháp, thăm Làng Mai, đã phải gửi Sư ông Thích Nhất Hạnh một bức thư, trong đó đề nghị: "Xin sư ông về ở với tăng, sư nữ Chân Không về ở với ni để tránh dư luận".
Và mặc dù ông tuyên bố không can thiệp, không phát biểu những vấn đề liên quan đến chính trị, nhưng khi được lãnh đạo Nhà nước Việt Nam tiếp kiến, Sư ông Thích Nhất Hạnh liền đưa ra đề nghị 10 điểm, trong đó có những điểm như: "Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam, giải thể Ban Tôn giáo chính phủ...". Nhìn nét mặt tự mãn của ông, hầu hết  tăng ni thuộc GHPGVN - xưa kia vẫn kính nể ông qua những cuốn sách ông đã viết, như “Đường xưa mây trắng”, "Nói với tuổi hai mươi", "Bông hồng cài áo", "Nẻo về của Ý", hoặc những bài thuyết giảng của ông ở Trường đại học Vạn Hạnh bao nhiêu thì bây giờ, tăng, ni lại càng cảm thấy thất vọng về ông bấy nhiêu, nhất là khi ông tuyên bố: "Pháp môn Làng Mai tự bổ nhiệm truyền giới, tấn phong, bầu trụ trì, viện chủ, phó viện chủ mới mà không cần phải thông qua Nhà nước và GHPGVN".
Sau khi được lãnh đạo Nhà nước Việt Nam giải thích thỏa đáng về kiến nghị 10 điểm do Sư ông Thích Nhất Hạnh đưa ra, ngày 9/5/2007, Sư ông Thích Nhất Hạnh cùng đoàn tăng thân Làng Mai rời Việt Nam, về Pháp. Trước lúc lên máy bay, ông công khai tuyên bố, khẳng định "Pháp môn Làng Mai là một giáo hội độc lập với GHPGVN, việc nội bộ của Làng Mai không thuộc thẩm quyền của Nhà nước và GHPGVN". Ôi trời! Ông đưa người của ông vào nhà người ta, ông  quây lấy một góc, nấu nướng, ăn uống, ngủ nghê, tắm giặt... rồi ông bảo "góc" của ông là góc độc lập, chuyện sinh hoạt của ông là chuyện "nội bộ", chủ nhà không có quyền can thiệp thì ai chịu nổi!
Đoàn sư ông Thích Nhất Hạnh lần đầu về Việt Nam
Ngày 22/4/2008, Sư ông Thích Nhất Hạnh về Việt Nam lần thứ ba để tham dự Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc. Cùng đi với ông là 450 người, gồm 41 quốc tịch. Lần này, ông công khai tổ chức nhiều khóa tu tập tại chùa Bằng, Hà Nội, Tu viện Bát Nhã, Lâm Đồng. Điều đáng nói là trước lúc về, Sư ông Thích Nhất Hạnh cho tán phát "Lá thư Làng Mai số 31", nội dung nêu ra những vấn đề không đúng sự thật về tình hình Việt Nam, đồng thời bộc lộ ý đồ xin lại ngôi chùa cũ, là nơi xưa kia ông ta tu hành. Lúc ấy, vì chưa nhận ra chân tướng của Sư ông Thích Nhất Hạnh, nên Thượng tọa Thích Đức Nghi, trụ trì Tu viện Bát Nhã đã đồng ý cho Sư ông Thích Nhất Hạnh dùng Tu viện Bát Nhã làm nơi tu tập Pháp môn Làng Mai, đồng thời ký đơn bảo lãnh cho gần 400 tu sinh đăng ký tạm trú với chính quyền.
Sự thật về những chuyện xảy ra ở Tu viện Bát Nhã
Được sự bảo lãnh của Thượng tọa Đức Nghi, số tăng sinh tu tập theo Pháp môn Làng Mai tại Tu viện Bát Nhã từ năm 2005 đến tháng 6/2009, khoảng 400 người - trong đó có một số Giáo thọ là người quốc tịch nước ngoài, và hơn 2/3 là những người từ các địa phương khác đến.
Để tạo thuận lợi cho tu sinh, Tu viện Bát Nhã đã đồng ý cho tu sinh thành lập những "xóm", gọi là "Mây đầu núi", "Bếp lửa hồng", "Rừng phương bối"... Tại những "xóm" này, mọi sinh hoạt riêng tư đều được tôn trọng mặc dù Nhà nước Việt Nam chỉ công nhận khóa tu theo Pháp môn Làng Mai, chứ chưa công nhận Giáo hội Làng Mai - Pháp quốc tại Việt Nam. Riêng GHPGVN, Hòa thượng Thích Hiển Pháp - là Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký, Trưởng ban Phật giáo quốc tế Trung ương Giáo hội, chỉ ký cho phép tổ chức khóa tu theo giới hạn của từng khóa tu là 3 tháng, hết hạn phải xin phép tổ chức lại, chứ không phải đến năm 2010 như Pháp môn Làng Mai đã tuyên truyền.

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Những hành vi độc hại của một khuynh hướng tư tưởng sai lầm

Thứ ba, 27/08/2013, 07:02 (GMT+7)
Trong khi đảng viên, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ở thành phố chúng ta đang hân hoan chuẩn bị đón chào 68 năm ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, ngày Quốc khánh thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ngày mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp thần thánh lần thứ 2 của nhân dân Nam bộ; thế mà đáng phẫn nộ biết bao, ông Lê Hiếu Đằng đã dội lên một thùng nước bẩn về chính trị giữa những ngày mùa thu cách mạng thiêng liêng. Đó là bài viết được tung lên mạng với nhan đề “Sự suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh”. Đây hoàn toàn không phải là “bản tuyên ngôn về con đường nhất thiết phải đi để đưa dân tộc thoát khỏi số phận chàng Sisyphe” như ông Nguyễn Huệ Chi đã tán tụng một cách mơ hồ trong lời đề dẫn.
Xem nội dung bài viết của ông Lê Hiếu Đằng, tôi nhận ra ngay đây là con đường bế tắc của sự nhận thức lệch lạc về chính trị và lý luận. Cách đây hơn 50 năm khi cùng làm việc với ông Hoàng Minh Chính, Viện trưởng Viện Triết học, tôi đã được tận mắt chứng kiến toàn bộ cái bi kịch của một thời nông nổi mà ông phải trả giá quá đắt để chôn vùi tiêu tan sự nghiệp của mình trên nẻo đường lạc lối về tư tưởng.
Có phải chăng ông Lê Hiếu Đằng nhiều năm tham gia công tác giảng dạy bộ môn triết học ở Trường Đảng Nguyễn Văn Cừ, giờ đây đang quay lại đường xưa lối cũ của ông Hoàng Minh Chính, để tái diễn lại những sai lầm đáng tiếc của ông ta trong cái gọi là để “bảo lưu tính độc lập, tự chủ” trong việc nhận thức về chính trị và lý luận?
Qua những lời tự bạch, độc giả được biết ông Lê Hiếu Đằng có thâm niên 45 năm tuổi Đảng. Thế nhưng, sau khi đọc bài viết của ông, mọi người chẳng thấy tính tư tưởng, tính chiến đấu và tính tiên phong trong người đảng viên đâu cả. Cả nhiệt tình cách mạng và tính đảng trong tư duy triết học của ông cũng đều bị đóng băng. Bởi, Lê Hiếu Đằng đã thẳng tay công kích và thóa mạ Đảng, đòi quyết liệt “thanh toán” và “tính sổ” với Đảng, kêu gọi quần chúng dùng áp lực để tẩy chay và giải tán Đảng, phủ nhận ý thức hệ của Đảng Cộng sản, đòi đa nguyên, đa đảng và muốn được thành lập lại cái gọi là đảng xã hội dân chủ mà từ thời Quốc tế thứ II, đã từng bị Ph.Ăngghen và V.Lênin nặng lời phê phán.
Thật ra đối với chúng tôi, ông Lê Hiếu Đằng chẳng phải là người xa lạ. Năm tháng đi qua nhưng không thể làm cho tôi quên được cái tên “sinh viên Lê Hiếu Đằng” cùng với một số sinh viên miền Nam tiêu biểu, đã từng được tôi giới thiệu trên báo chí của đất nước Xô Viết. Đó là những năm 1955 - 1956, tôi đang làm phóng viên thường trú của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Mátxcơva. Còn Lê Hiếu Đằng là một sinh viên giàu nhiệt huyết đã cùng với các bạn đồng môn rời giảng đường trường đại học và từ giã đô thành để vào chiến khu Bắc Tây Ninh tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chỉ mới cách đây vài ngày khi xem tin trên mạng, thấy có người giới thiệu: “Ông Lê Hiếu Đằng là một đảng viên cộng sản kỳ cựu”. Trong một thoáng tôi bỗng giật mình, thật không ngờ thời gian trôi nhanh đến vậy.
Bốn năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước khi được trực tiếp giúp việc cho đồng chí Bí thư Thành ủy TPHCM Võ Văn Kiệt, tôi biết rõ hơn về ông Đằng. Là lớp người trong đội ngũ “cán bộ cách mạng mùa thu”, tuy cao tuổi Đảng hơn ông nhiều, song chúng tôi thành tâm vui mừng trước những thành tích của ông trong công tác cũng như sự ưu ái của Đảng đã sử dụng và đãi ngộ ông với tình cảm “chiêu hiền đãi sĩ”. Thế nhưng, ở trên đời này, có mấy ai học được chữ ngờ.
Điều hoàn toàn bất ngờ đối với chúng tôi, là việc ông Lê Hiếu Đằng đã quay lưng lại lịch sử, chống báng Đảng và đã bị trượt chân xuống vực trong sự tha hóa về tư tưởng. Nhằm gạt gẫm những người nhẹ dạ non gan, ông nhắm mắt viết bừa: “Hiện nay xu hướng chạy theo chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội đã lạc điệu, không còn phù hợp và đã bị sụp đổ tan tành”. Thật ra, chỉ có giọng lưỡi của Lê Hiếu Đằng là lạc điệu và cũng chỉ có cái đầu nguội lạnh nhiệt tình, phai nhạt lý tưởng của ông cùng với những cái đầu của bọn đầu hàng, phản biến Goócbachốp, Iacốplép, Xêvạcnátze... đã bị sụp đổ mà thôi. Còn chủ nghĩa xã hội giàu sinh lực đã được đổi mới và trẻ hóa, vẫn đang đứng vững và tỏa sáng như ngọn hải đăng từ sông Áp Lục xuống tận vùng đất mũi của bán đảo Cà Mau trù phú, từ cánh đồng Chum nổi tiếng của xứ “Triệu voi” nối dài tới hòn đảo tự do của đất nước Cuba, tới châu Mỹ Latinh và vùng biển Caribê mênh mông bát ngát.
Thêm một điều khiến cho tôi hết sức ngỡ ngàng ở ông Lê Hiếu Đằng là sự tự giải giáp toàn bộ vũ khí tư tưởng của một chiến binh. Thật không ai trong chúng ta có thể hiểu nổi được rằng, sau 38 năm miền Nam đã được hoàn toàn giải phóng và đất nước thống nhất, nay ông không biết nhục dám mở miệng nói rằng: “Thật sự là miền Nam đã giải phóng miền Bắc trên tất cả các lĩnh vực”. Ô hay, như vậy là cả quãng đời tươi đẹp của tuổi thanh xuân quyết định bước chân vào “R” tham gia kháng chiến, trong thực tế ông đã đi theo tiếng kèn gọi lính của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Nguyễn Văn Thiệu... để đi “giải phóng miền Bắc” hay sao?
Lê Hiếu Đằng còn đi xa hơn nữa trong việc lừa mị quần chúng khi hạ bút viết rằng: “Trong chế độ này không có chỗ cho người trung thực mà chỉ dành cho những người nói láo”. Đừng nên quên rằng, “người nói láo” đã được xếp vào loại biệt hạng, đó chính là Lê Hiếu Đằng. Ông ta đã nói dối mọi người rằng “Hiện nay nhiều đảng viên đang muốn ra khỏi Đảng, giấy sinh hoạt Đảng đã bị bỏ vào ngăn kéo”. Tôi dám quả quyết với bạn đọc rằng, ngay trong tổ chức cơ sở Đảng nơi ông Lê Hiếu Đằng tham gia sinh hoạt chi bộ, chắc chắn không có chuyện này. Đây chỉ là sự bịa đặt.
Một điều cực kỳ nguy hiểm là ông Đằng đã kích động đảng viên ly khai khỏi Đảng để tiến hành thành lập cái gọi là đảng đối lập và xúi giục quần chúng gây động loạn về chính trị. Ông ta viết: “Tại sao tình hình đã chín muồi mà chúng ta... không tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một đảng mới, chẳng hạn như Đảng Dân chủ xã hội... Đây là cách chúng ta phá vỡ một mảng yếu nhất của một nhà nước độc tài toàn trị hiện nay... Không chần chừ, do dự được nữa... Không sợ hãi các thế lực tàn bạo, không sợ bắt bớ, tù đày... Giờ hành động đã đến!”.
Đọc kỹ những dòng này, hẳn độc giả sẽ thấy rõ được sự phát lộ nguyên dạng chân tướng đích thực của cái gọi là ông “đảng viên kỳ cựu Lê Hiếu Đằng”.
Giờ đây, lòng tự hào, tự tôn dân tộc và ý thức giác ngộ về chính trị của ông gần như đã bị xóa sổ, còn thua cả những người công dân bình thường của đất nước Thái Lan. Thật vậy, bất cứ một du khách nước ngoài nào tới thăm thành phố Bangkok cũng đều nghe câu nói thốt ra từ cửa miệng của người dân: “Trên đất nước chúng tôi có 3 điều cấm kỵ - chống Tổ quốc, chống đạo Phật và chống Nhà vua. Còn ông Lê Hiếu Đằng thì sao? Ông hung hãn kêu gọi “lập Đảng đối lập”, “phá vỡ nhà nước”, “thay đổi thể chế”. Công khai kêu gọi bỏ ngày truyền thống báo chí cách mạng Việt Nam vào ngày 21-6, Lê Hiếu Đằng ngang nhiên viết rằng: “Năm sau chúng tôi sẽ tổ chức ngày báo chí Việt Nam vào ngày 15-4 là ngày phát hành số báo đầu tiên của Gia Định báo. Còn Đảng Cộng sản và các tổ chức của mình cứ lấy ngày 21-6 làm ngày báo chí cách mạng cũng không sao. Việc ai nấy làm. Thế thôi”. Thật là lố bịch! Thật là trắng trợn!
Một số người nói với tôi rằng Lê Hiếu Đằng là kẻ điếc không sợ súng, là người mù ngớ ngẩn đang sờ tay lên vó ngựa. Không đâu! Con người này không điếc mà cũng chẳng mù. Ông ta là “con ngựa thành Troa”, là “kẻ đốt đền” trong thời cổ đại, là người bạn đường của các thế lực chống đối đang rắp tâm tổ chức thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn… thâm độc trên đất nước ta.
TRẦN HỮU PHƯỚC

Thư gửi anh Lê Hiếu Đằng - “Đằng ấy… đằng mình”!!!

Thứ hai, 26/08/2013, 07:20 (GMT+7)
L.T.S: Những ngày qua, bài viết Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh của ông Lê Hiếu Đằng (Phó Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ - Pháp luật Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ TPHCM) trên các diễn đàn, báo mạng được dư luận quan tâm. Nội dung bài viết không mới, với quan điểm cho rằng, Việt Nam cần phải “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Những quan điểm trên vốn đã xuất hiện đầy rẫy trên các diễn đàn, được một số cá nhân và tổ chức khoác lên chiêu bài “dân chủ”. Điều đáng nói ở đây, ông Lê Hiếu Đằng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; đã từng tham gia phong trào học sinh - sinh viên chống chiến tranh tại Sài Gòn từ trước năm 1975; đã từng tham gia xây dựng TPHCM, xây dựng đất nước một cách tự nguyện, lại có thể phủ nhận mọi thành quả của cách mạng Việt Nam, nhìn nhận qua lăng kính cá nhân một cách phiến diện, ấu trĩ và lệch lạc. Đáng lẽ ra, nếu thật sự tâm huyết với đất nước, ông Lê Hiếu Đằng phải cùng chung tay với Đảng để xây dựng đất nước ổn định, hòa bình, phát triển…

Dịp này, chúng tôi đã nhận được nhiều ý kiến từ những nhân sĩ, trí thức… xung quanh bài viết của ông Lê Hiếu Đằng. Bắt đầu từ số báo hôm nay 26-8, Báo SGGP xin trân trọng giới thiệu những ý kiến tâm huyết trên.

Kính thưa anh Lê Hiếu Đằng,

Ở Sài Gòn, anh hướng về cách mạng (đằng mình) góp phần vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Quá khứ dấn thân đó của anh, chúng tôi rất trân trọng nhưng tiếc thay, khi ở độ tuổi “xưa nay hiếm” anh lại không tiếp tục theo con đường đã chọn, đi đến cùng mà “thanh toán”, “tính sổ” lại tất cả sự nghiệp gắn bó với nhân dân của đời mình.

Anh - như tôi được biết qua nghiên cứu và những lần hợp tác trong biên soạn Lịch sử Mặt trận (UBMTTQ TPHCM), nơi anh gắn bó công tác từ chiến khu đến ngày hưu trí - luôn là người nhiều lý lẽ có tính phản biện, song vẫn thể hiện sự mực thước trong tổ chức với nhiệm vụ được phân công.

Ấy thế mà, anh bị lung lay, dao động đi đến phản bội mục tiêu, lý tưởng, con đường cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Anh Lê Hiếu Đằng (Đằng ấy), đảng viên 45 năm tuổi Đảng trở thành “nhà bất đồng chính kiến”, bắt đầu hoạt động chống Đảng với cái anh cho là suy nghĩ để xã hội “tốt hơn, dân chủ hơn”?! Anh học lý luận và từng dạy môn Chủ nghĩa xã hội khoa học ở Trường Đảng Nguyễn Văn Cừ. Thời anh giảng dạy ấy, nếu nghiên cứu tới nơi, có thể anh đã không chuyển hướng thế này. Gần đây, trên giường bệnh anh kêu gọi lập đảng mới gọi là Đảng Dân chủ xã hội đối lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Anh bệnh mà không thể an dưỡng, “bận” lo “việc nước”, nhưng rõ ràng là đang tự huyền hoặc mình với những nhận định hàm hồ, phiến diện… Bây giờ “Đằng ấy” nói năng rất liều mạng, tư duy có sâu sắc chi đâu?

Bài viết của “Đằng ấy” phủ định Chủ nghĩa Mác, và nặng lời với Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội hiện nay ở nước ta, đòi thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam thành lập một đảng phái khác - Đảng Dân chủ xã hội. Kịch bản mà “Đằng ấy” đưa ra là cái trò bóp méo sự thật về tình hình ở Việt Nam, tự biến mình thành con rối chính trị cho bọn phản động giật dây trong vở kịch đó.

“Đằng ấy” trả lời phỏng vấn của Đài BBC: “Về phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin mà tôi hiểu được có một điều cơ bản là cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế...) như thế nào thì phản ảnh lên thượng tầng kiến trúc như thế đó”. Làm căn cứ cho luận điểm sau khi cải cách cho phép nhiều thành phần kinh tế, anh cho rằng: “Một khi cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong xã hội sẽ có nhiều tầng lớp với lợi ích khác nhau, thì tất yếu họ phải có tổ chức để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của họ” và “đó là quy luật tất yếu, vì vậy không thể không đa nguyên đa đảng được…”.

Nếu nghiên cứu kỹ hơn, chắc “Đằng ấy” biết rằng: Một chế độ đa đảng chưa hẳn đã là chế độ đa nguyên về chính trị. Trung Quốc hiện nay có 9 đảng chính trị thì 8 đảng thừa nhận Đảng Cộng sản Trung Quốc là người duy nhất lãnh đạo nước Trung Hoa, lấy chung mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là chế độ đa đảng mà nhất nguyên về chính trị. Ở Mỹ, tuy có 2 đảng nhưng có đúng là chế độ đa nguyên về chính trị không? Bởi 2 đảng này chỉ đối lập nhau trên một số phương diện không cơ bản còn xét về bản chất giai cấp - xã hội, 2 đảng này là đồng nhất, có mục tiêu căn bản giống nhau: củng cố và phát triển thể chế chính trị đầy bất công ở Mỹ. Ở Anh và Nhật Bản, hiến pháp lại thừa nhận vai trò của nhà vua, họ là những nhà nước quân chủ lập hiến. Không ai có thể đòi hỏi các quốc gia ấy xóa bỏ thể chế riêng có của họ. Ở nước Nga thời hậu Xô-viết, người ta cũng thành lập chế độ cộng hòa tổng thống theo cách thức của người Nga chứ không theo cách thức của người Anh để tái thiết lập chế độ Sa hoàng…

Thưa anh Lê Hiếu Đằng, hẳn anh cũng biết rằng, một chế độ nhất nguyên hay đa nguyên về chính trị là do một loạt nhân tố quy định, trong đó tương quan lực lượng xác lập vị trí vai trò lãnh đạo, cầm quyền của đảng, những thành tựu mà nhân dân đạt được trong thực tiễn phát triển xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng đó. Việt Nam trong thời kỳ lịch sử cận – hiện đại, xác lập vai trò duy nhất cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1946, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận sự tồn tại hợp pháp của 2 đảng đối lập (Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mạng đảng) và trao cho 2 đảng này 72 ghế trong Quốc hội, anh phải hiểu thực chất là sách lược. Khi tương quan lực lượng cho phép nhất nguyên về chính trị mà lại chủ động tạo ra thể chế chính trị đa nguyên là sai lầm, góp phần làm suy yếu và tan rã đảng cầm quyền, có thể dẫn tới rối loạn xã hội, hạn chế phát triển toàn diện.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hệ thống chính trị toàn cõi Việt Nam là tất yếu lịch sử vì ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Thế nhưng muốn giữ vững được vai trò của đảng cầm quyền, Đảng phải là đảng trí tuệ đề ra đường lối chủ trương đúng; tổ chức ra bộ máy khả dĩ thực hiện các chính sách thể chế hóa chủ trương với đội ngũ cán bộ, đảng viên gương mẫu, tiên phong… Một Đảng như vậy sẽ thực sự là một đảng lãnh đạo một nhà nước dân chủ mới: Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân!

Tóm lại, những điều căn bản như vậy lẽ ra “Đằng ấy” nghiên cứu sâu sắc thì sẽ không tự huyễn hoặc mình và không mắc mưu những kẻ thọc gậy bánh xe đầy ác ý. Giờ đây “Đằng ấy” không còn là người của “đằng mình”, song chúng ta mong rằng qua cơn mê, “Đằng ấy” sẽ suy nghĩ nghiêm chuẩn hơn. Cánh cửa của Đảng không phải dễ vào, nhưng với những người như “Đằng ấy”, có lẽ sự tiếp nhận không khó lắm.

Mong anh khỏe và mong “Đằng ấy” sẽ vẫn là “đằng mình” mãi vững bước trên con đường Đảng và dân tộc ta đã chọn!

TPHCM ngày 23-8-2013.
TS HOÀNG VĂN LỄ


Đôi điều trao đổi cùng ông Lê Hiếu Đằng

Thứ tư, 28/08/2013, 05:44 (GMT+7)
LTS: Trong những ngày qua, nhiều bạn đọc là các chuyên gia, nhà khoa học, lão thành cách mạng… đã gửi đến Báo SGGP các bài viết, ý kiến thể hiện sự đồng tình với loạt bài của báo trao đổi cùng ông Lê Hiếu Đằng và nói rõ quan điểm của mình về những luận điểm lệch lạc của ông trong bài viết “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh”. Báo SGGP xin trích đăng 2 ý kiến của các bạn đọc trên để khép lại loạt bài này.
  • LÊ VĂN HOÀNG, nguyên Phó Chủ tịch UBMTTQ TPHCM: Phấn đấu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam
Những ngày gần đây có nhiều anh em hỏi tôi, ông Lê Hiếu Đằng đề xướng, kêu gọi, vận động thành lập đảng mới để đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi thật sự bất ngờ. Tôi nghe anh ấy bệnh, có báo tin cơ quan UBMTTQ TPHCM để thăm anh và được biết lãnh đạo MTTQ TP đã thăm anh rồi.

Tôi chuyển công tác về cơ quan UBMTTQ TPHCM năm 1998 và cộng tác làm việc với anh Lê Hiếu Đằng hơn 10 năm. Qua thời gian làm việc, tôi thấy anh là người có tâm huyết với việc anh thấy cần nói, cần làm theo ý kiến độc lập để được việc chung, nhưng có việc, có lúc thiếu tính thuyết phục tập thể và thường đánh giá người khác không mạnh dạn phản biện chủ trương của Đảng và Nhà nước… Trong làm việc, tôi cho đó cũng là điều bình thường.

Nhưng tôi bất ngờ! Anh Lê Hiếu Đằng tự xưng là một đảng viên cộng sản lâu năm, lại khởi xướng kêu gọi thành lập một đảng mới, đối lập Đảng Cộng sản Việt Nam được đưa lên trang mạng BBC và trả lời phỏng vấn. Đây là sự biểu hiện tính cá nhân chủ nghĩa, đi quá xa nguyên tắc của tổ chức Đảng.

Tôi không phân tích vị trí, vai trò lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc Việt Nam, điều ấy anh đã hiểu và nhiều người đã phân tích trong những ngày qua. Tôi tin rằng anh đã đọc. Nhân đây, tôi nhắc lại anh, năm 1999 hoặc 2000 (không nhớ rõ) có những vấn đề anh phát biểu chưa đồng tình cách giải quyết của lãnh đạo TPHCM, anh Trương Tấn Sang, lúc ấy là Bí thư Thành ủy, mời anh đến để nghe anh trình bày, trao đổi những vấn đề anh chưa đồng tình và mời anh lúc nào cần gặp, anh báo Văn phòng Thành ủy sẽ xếp lịch tiếp. Để chứng minh lời những người cho rằng các đảng viên cộng sản kỳ cựu như ông Lê Hiếu Đằng đã hết sức “kiên nhẫn” nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng tỏ ra “độc đoán, độc tài, chuyên chế”. Đảng đối với anh như thế sao nay anh lại phủ nhận một cách chủ quan, gây hiểu lầm cho những người trí thức khác.
Tôi xin trích một đoạn bài viết của chị Cao Thị Quế Hương, ở Lâm Đồng, nói về anh: “Từng là đồng chí, đồng đội, lại là chỗ bạn bè thân thiết, nhưng tôi không đồng ý với anh, bởi bài viết thiếu khách quan và thiếu tính xây dựng”. Chị khẳng định: “Nhờ sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta mới giành được độc lập, người dân mới được tự do. Sau ngày giải phóng, đặc biệt là những năm gần đây, chúng ta được chứng kiến những thành tựu to lớn về kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước; bộ mặt nông thôn, đời sống của nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số có những bước tiến vượt bậc so với trước đây” và “Vì vậy, đến bây giờ tôi và các đồng chí, đồng đội vẫn tin sự lựa chọn của mình là đúng và không bao giờ hối hận về điều đó”. Tôi biết, những vấn đề anh đặt ra như tự do, dân chủ… đã có nhiều ý kiến phân tích, xây dựng sâu sắc, anh cần đọc, nghiên cứu, soi rọi lại và anh cứ yên tâm để sớm hồi phục sức khỏe.

Còn anh cho rằng, bây giờ Nhà nước Việt Nam đã bị tha hóa; vai trò của nhân sĩ trí thức Việt Nam do “thụ động và thủ tiêu đấu tranh nên tình hình mới tồi tệ như hiện nay và Đảng Cộng sản muốn làm gì thì làm” là nhận định phiến diện và thiếu khách quan. Nếu như nhận định của anh thì làm sao có quan hệ quốc tế rộng mở như ngày nay, làm sao có Tuyên bố chung, được đăng trên trang web Nhà Trắng, giữa Tổng thống Mỹ Obama và Chủ tịch nước ta Trương Tấn Sang “Quyết định xác lập quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ để đem lại khuôn khổ tổng thể cho việc thúc đẩy quan hệ dựa trên các nguyên tắc tôn trọng Hiến chương Liên hiệp quốc, luật pháp quốc tế, hệ thống chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”…

Là anh em, cùng làm công tác MTTQ, luôn kêu gọi và phấn đấu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mong anh nghĩ lại và làm đúng vậy.
  • PGS-TS NGUYỄN TRỌNG PHÚC, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng: Cần nhận thức đúng vai trò của Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội trong lịch sử cách mạng Việt Nam
Với sự phát triển mạnh mẽ của cao trào giải phóng dân tộc, để mở rộng thành phần của Mặt trận Việt Minh, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, với sự giúp đỡ trực tiếp của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày 30-6-1944, Đảng Dân chủ Việt Nam được thành lập nhằm tập hợp những người trí thức yêu nước. Đảng Dân chủ Việt Nam là thành viên của Mặt trận Việt Minh do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng Dân chủ đã đóng góp vào thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945. Trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có sự tham gia của Đảng Dân chủ Việt Nam.

Để tiếp tục mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp kháng chiến, cứu quốc, theo sáng kiến của Đảng Cộng sản cầm quyền và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 5-1946 thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt) - một tổ chức mặt trận mới cùng hoạt động với Mặt trận Việt Minh và ngày 22-7-1946 thành lập Đảng Xã hội Việt Nam tập hợp những thương gia, kỹ nghệ gia, cả những viên chức của chế độ cũ và những trí thức.

Cần nhấn mạnh rằng, trước lúc thành lập và suốt quá trình hoạt động, Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam là những tổ chức yêu nước chân chính, thành viên của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam được Đảng Cộng sản giúp đỡ thành lập và tạo mọi điều kiện để hoạt động vì mục tiêu cách mạng của dân tộc. Các đảng đó đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những năm 1945 - 1946 có sự hoạt động chống phá của một số đảng đối lập (Việt Quốc, Việt Cách), Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội chưa bao giờ là lực lượng đối lập, trái lại luôn là đồng chí chân thành của Đảng Cộng sản cầm quyền, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản và Mặt trận Dân tộc thống nhất (Việt Minh, Liên Việt và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) đề ra. Cả Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam đều phấn đấu theo đuổi mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong suốt hơn 40 năm hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam, chưa bao giờ Đảng Cộng sản cầm quyền và các đảng đó xuất hiện ở Việt Nam có chế độ đa đảng. Chưa bao giờ, Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam hoạt động với tư cách một đảng đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam. Tên các nhà lãnh đạo Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội Việt Nam như Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Xiển đã được đặt tên phố ở thủ đô Hà Nội.

Nhắc lại điều đó cốt để góp phần giúp mọi người nhận thức rõ ràng và đúng đắn vai trò của Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam trong lịch sử cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đó là sự thật lịch sử rất rõ ràng, không thể phủ nhận. Mọi sự hiểu chưa đúng thì cần nhận thức lại cho đúng. Nếu cố tình hiểu sai hoặc xuyên tạc lịch sử là thể hiện ý đồ xấu về chính trị, hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, cổ vũ cho chế độ đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập, gây mất ổn định chính trị và đưa đất nước đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

Từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tới nay, hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm: Đảng Cộng sản cầm quyền, Nhà nước, Quốc hội và Mặt trận. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta hiện nay và vừa là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên và là người lãnh đạo Mặt trận. Từ trước tới nay, Đảng đã sáng lập và liên tục lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận chưa bao giờ và càng không thể là tổ chức đối trọng với Đảng. Đảng tôn trọng tính dân chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có những chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội. Làm tốt những nhiệm vụ đó là góp phần tích cực đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Trung ương VII khóa XI (tháng 5-2013).

Đất nước đang đổi mới, ổn định, phát triển và hội nhập quốc tế thành công. Mọi mưu đồ phá hoại con đường phát triển đó là có tội với lịch sử, chống lại lợi ích của nhân dân, đất nước và dân tộc.

 http://tim.vietbao.vn/B%C3%A1o_S%C3%A0i_G%C3%B2n_Gi%E1%BA%A3i_Ph%C3%B3ng/

Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

Những con bò và luận điệu cũ rích

Sắp đến ngày Quốc Khánh, ngày mà nếu ai là một công dân bình thường nhất cũng thấy vui và tự hào, nhưng ngược lại cũng có những "công dân không bình thường" chỉ chờ đến ngày để chọc phá người khác ăn mừng.

Những con bò và luận điệu cũ rích
Những con bò và luận điệu cũ rích
Tiên phong của những "công dân không bình thường" ấy là các nhà "dân chủ", các nhà Bốc Đồng Chánh Kiến, một trong luận điệu được lặp đi lặp lại trong mỗi dịp Tết Độc Lập đó là :


<< Việt Minh giành chính quyền từ tay chính phủ "trung lập" Trần Trọng Kim và vua Bảo Đại, chứ không phải từ tay Nhật, Pháp. >>


Những con bò, loài động vật nhai lại, ngày chúng đi ăn, đêm đến ợ ra nhai lại số thức ăn đó. Đám người này cũng vậy, lúc cả nước hân hoan cháo đón ngày lễ trọng đại của dân tộc, cũng là lúc họ ợ ra những luận điệu cũ rích.

Câu chuyện về Trần Trọng Kim, Bảo Đại, phàm những người đã bỏ chút thời gian để tìm hiểu lịch sử thì ai cũng biết. Nhà Nguyễn đã là bù nhìn sau thời vua Duy Tân, Bảo Đại cũng không ngoại lệ, Trần Trọng Kim là chính phủ bù nhìn do Nhật dựng lên, điều đó chẳng còn gì mới mẻ nữa.

Năm nay, có một chút "mơi mới" đến từ một fanpage trên facebook là Nhật Ký Yêu Nước (một trang của tàn dư Ngụy VNCH núp danh "dân chủ" mà chúng ta thường gọi là Nhật Ký Yêu Nước Mỹ), cùng nội dung trên nhưng với cái tít "NHỮNG ĐIỀU UẨN KHÚC VỀ "CÁCH MẠNG THÁNG 8"".

Uẩn khúc, nghe như một bí mật lịch sử động trời vừa mới được phát giác, mà bí mật vừa được phát giác thì dễ gây niềm tin lắm. Mà niềm tin ở thế giới mạng hỗn loạn này (nơi mà người ta cảm tính hơn là lý tính), rẻ hơn cả bèo trên sông Sài Gòn, một cái tít báo không đầu không đuôi cũng tạo cho người ta cái niềm tin như bàn thạch rồi. 

Bài viết này tôi không dành cho họ, những con bò, vì kiểu gì năm sau họ lại ợ ra để nhai lại. Tôi viết dành cho các bạn trẻ khác, như thể một bài phân tích lịch sử nho nhỏ, trước là để các bạn hiểu rõ vấn đề này, sau là khuyến khích các bạn chủ động tìm hiểu lịch sử đất nước để không bị những "uẩn khúc" tào lao bí đao đánh lừa. 

Quay lại với vấn đề trên, chúng ta lưu ý 3 điểm sau :

I. Quá trình đấu tranh của Đảng Cộng Sản và nhân dân trước 1945

Cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp xâm lược của nước ta, diễn ra theo đúng truyền thống từ ngàn đời, từ Nguyễn Tri Phương đến Hoàng Hoa Thám rồi Tôn Thất Thuyết ... và sau này là Đảng Cộng Sản với sự lãnh đạo của Bác Hồ.

Khi Đảng Cộng Sản lãnh đạo cách mạng, quy tụ được nhân dân trên cả nước, thực hiện bao nhiêu cuộc khởi nghĩa, từ Xô Viết Nghệ Tĩnh Khởi nghĩa Bắc Sơn, Khởi nghĩa Nam Kỳ, Binh biến Đô Lương, Khởi Nghĩa Ba Tơ , Phong trào Việt Minh lớn mạnh cùng Cao Trào Kháng Nhật .

Đảng Cộng Sản
Bao nhiêu máu xương của nhân dân và chiến sỹ Cộng Sản đã đổ xuống, lúc đó Trần Trọng Kim và Bảo Đại ở đâu ?

Theo như lập luận của "những con bò" thì Đảng Cộng Sản phải từ "trên trời rơi xuống" giả bộ Kháng Pháp, Kháng Nhật trong 1 tuần lễ, sau đó nhân cơ hội giành chính quyền. Nực cười. 

II. Vai trò lịch sử của Trần Trọng Kim và Bảo Đại

Sự thật Trần Trọng Kim là ai? Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập như thế nào? Và có vai trò gì trong nền chính trị Việt Nam?

Sách lịch sử Việt Nam hiện nay nói rất ít về nhân vật này, sách giáo khoa hiện này của chúng ta thì không hề đề cập, nhưng không khó để tìm hiểu nếu bạn bỏ chút thời gian đọc sách hoặc tìm hiểu trên mạng với những website lịch sử uy tình như Lichsuvietnam.vn 

+ TRẦN TRỌNG KIM (chữ Hán: 陳仲金; 1883–1953) là một học giả danh tiếng, thủ tướng của Đế quốc Việt Nam (1945) và là thủ tướng đầu tiên của Việt Nam. Ông là tác giả của tác phẩm Việt Nam Sử Lược.

+ ĐẾ QUỐC VIỆT NAM là một quốc gia trong lịch sử Việt Nam tồn tại 5 tháng (từ 17 tháng 4, 1945 - 23 tháng 8, 1945) được Nhật Bản hậu thuẫn sau khi triều đình Nhà Nguyễn tuyên bố xóa bỏ Hiệp ước Patenôtre.

Một điều chúng ta phải ý thức rõ ràng rằng NHẬT ĐẦU HÀNG ĐỒNG MINH CHỨ CHƯA ĐẦU HÀNG VIỆT NAM, khi Nhật rút quân, tuyên bố "trao trả độc lập cho Việt Nam" đã thiết lập mô hình chính trị quan chủ lập hiến giống như Nhật Bản đương thời, với bù nhìn Bảo Đại và bù nhìn Trần Trọng Kim. 

Đứng trong bối cảnh thế chiến thứ 2, sau khi Nhật thất bại, lực lượng thay thế phải là Việt Minh ( Việt Nam Độc lập Đồng minh ) một tổ chức của người Việt đứng về Phe Đồng Minh trong cuộc chiến chống Phát Xít, đã thực hiện rất nhiều phong trào, khởi nghĩa ... để kháng Nhật. 

Việc Việt Minh xóa bỏ chính phủ Trần Trọng Kim - Bảo Đại, cũng là xỏa bỏ hoàn toàn sự hiện diện chính trị của Nhật tại Việt Nam. 

III. Ý Nghĩa của Cách Mạng Tháng 8.

Ý nghĩa của một cuộc cách mạng, cụ thể là Cách Mạng Tháng 8 , không chỉ dừng lại ở việc giành chính quyền, mà còn là thay đổi tận gốc rễ xã hội, mang lại lợi ích cho toàn thể nhân dân cần lao. 

Phải dẹp bỏ chế độ phong kiến lạc hậu, cởi bỏ ách đô hộ Nhật - Pháp (một cổ 2 tròng), xây dựng thể chế dân chủ, thiết lập nhà nước thực của người Việt, mang lại cơm gạo cho nhân dân.

Và để thực hiện điều đó, tiên phong phải là một lực lượng được đông đảo nhân dân ủng hộ, vừa vặn thay, lúc đó 99% người dân Việt Nam là công nông, Đảng Cộng Sản cũng từ công nông mà sinh ra, đấu tranh giành quyền lợi cho người thân, đồng bào của mình. 

Và vì thế, mới có được Tổng Khởi Nghĩa, và ngày 2-9 khi Bác Hồ đọc Tuyên Ngôn Độc Lập ở quảng trường Ba Đình cả nước mới hân hoa đến nhường ấy, cơ hoa ngợp trời đến như thế.

Trần Trọng Kim và Bảo Đại làm được gì khi mang thân Bù Nhìn, không quân đội, không lòng dân ?

IV. Thay cho lời kết, xin đăng lại nguyên văn "Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa" của Chủ Tịch Hồ Chí Minh:

Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa


Hỡi đồng bào yêu quý!
Bốn nǎm trước đây, tôi có thư kêu gọi đồng bào ta đoàn kết. Vì có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới giành được Độc Lập, Tự Do.
Hiện nay quân đội Nhật đã tan rã, phong trào cứu quốc lan tràn khắp nước. Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) có hàng chục triệu đội viên, gồm đủ các tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh, gồm đủ các dân tộc Việt, Thổ, Nùng, Mường, Mán. Trong Việt Minh đồng bào ta bắt tay nhau chặt chẽ, không phân biệt trai, gái, già, trẻ, lương, giáo, giàu, nghèo.
Vừa đây Việt Minh lại triệu tập “Việt Nam quốc dân đại biểu Đại hội”, cử ra Uỷ ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam để lãnh đạo toàn quốc nhân dân kiên quyết đấu tranh kỳ cho nước được độc lập.
Đó là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay.
Đó là một điều khiến cho đồng bào ta phấn khởi và riêng tôi hết sức vui mừng.
Nhưng chúng ta chưa thể cho thế là đủ. Cuộc tranh đấu của chúng ta đương còn gay go, dằng dai. Không phải Nhật bại mà bỗng nhiên ta được giải phóng, tự do. Chúng ta vẫn phải ra sức phấn đấu. Chỉ có đoàn kết, phấn đấu, nước ta mới được độc lập.
Việt Minh là cơ sở cho sự đoàn kết, phấn đấu của dân tộc ta trong lúc này. Hãy gia nhập Việt Minh, ủng hộ Việt Minh, làm cho Việt Minh rộng lớn mạnh mẽ.
Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam cũng như Chính phủ lâm thời của ta lúc này. Hãy đoàn kết chung quanh nó, làm cho chính sách và mệnh lệnh của nó được thi hành khắp nước.
Như vậy thì Tổ quốc ta nhất định mau được độc lập, dân tộc ta nhất định mau được tự do.
Hỡi đồng bào yêu quý!
Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ.
Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!

Cương lĩnh Đảng dân chủ xã hội - Một văn bản bất hợp pháp

Lê Hiếu Đằng - Con người theo chủ nghĩa cơ hội
Lê Hiếu Đằng - Con người theo chủ nghĩa cơ hội

          Cương lĩnh của đảng dân chủ xã hội được xây dựng trên nền tảng khi người khởi xướng nó là Lê Hiếu Đằng, nhân vật bị phê phán rât nhiều trong thời gian gần dây. Đã có rất nhiều ý kiến đóng góp của các phần tử quá khích trong việc xây dựng cương lĩnh của “dân chủ xã hội”. Đảng “dân chủ xã hội” thành lập đi ngược lại với lợi ích của nhân dân Việt Nam, “đang dân chủ xã hội” gồm những thành viên là những người bị Đảng Cộng Sản Việt Nam khai trừ những con người bị mua chuộc hay là những phần tử cơ hội chính trị. Lê Hiếu Đằng từng là: Nguyên phó TTK Ủy ban TƯ LM các lực lượng Dân tộc, dân chủ và Hòa bình Việt Nam, Nguyên phó CT Ủy ban MTTQ VN TP.HCM (từ 1989-2009), Đại biểu HĐND TP HCM khóa 4, khóa 5”. Thế nhưng sau những thành tích đó và hơn 45 năm đứng trong hang ngũ của Đảng bây giờ quay lưng lại với Đảng và với chính mình. Lê Hiếu Đằng xây dựng nên đảng “dân chủ xã hội” với mục đích là đảng đối lập với Đảng Cộng Sản Việt Nam, hơn thế nữa giọng điểu của ông ta luôn là muốn trả thù lại, tính sổ lại với ĐCS VN.
          Đảng “dân chủ xã hội” lập ra với cac nguyên tắc hoạt động
-         Không lật đổ chính quyền: có nghĩa là lập ra để đối kháng với DCS VN, sẽ không lật đổ DCS VN mà mục đích làm suy yếu DCS, trường hợp khi Đảng Cộng Sản suy yếu sẽ là cơ hội tốt cho các thế lực thù địch xâm nhập kích động quần chúng nhân dân tình đoàn kết giữa nhân dân và Đảng Cộng Sản.
-         Bảo tồn những giá trị lịch sử, thay đổi thể chế: đã cho thấy mục đích xấu xa của bọn phản động, thay đổi hệ thống chính trị tại Việt Nam, dần dần thay đổi nó sang con đường đa nguyên đa đảng. Bề ngoài thì luôn tuyên bố bảo vệ những giá trị lịch sử mà sự hi sinh của dân tộc. Gỡ bỏ giá trị pháp lý của cương lĩnh của đảng dân chủ xã hội là góp phẩn vào con đường làm trong sạch các phần tử chống đối lại DCS VN. Đa nguyên, Đa đảng tuy nó là xu thế nhưng nó không phù hợp với chế độ chính trị ở Việt Nam, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của nhân dân Việt Nam.
-         Thành lập “dân chủ xã hội” không thể bảo vệ được Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ làm xấu hơn tình hình xã hội trong nước, kích động bạo lực đi ngược lại chủ trương chính sách tuân thủ luật pháp quốc tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
-         Trong các ý kiến góp ý xây dựng cương lĩnh còn có ý kiến về dân chủ và nhân quyền: nó đã đục khoét các thiếu sót ở luật về quyền bình đẳng (điều 52 hiến pháp nước Việt Nam). Cụ thể chúng đã lấy những lý lẽ luận điệu của chúng chỉ là xuyên tạc mà không có căn cứ pháp luật quy định rõ rang, việc thành lập đảng đối lập chỉ là nguyện vọng của những phần tử phẩn động, đường lối của chúng là:  “Hình thành và phát triển lực lượng ban đầu từ những nhân tố trong nước, hoan nghênh những đảng viên đảng CSVN gia nhập đảng Dân chủ xã hội bằng ý thức tự nguyện. Vừa đấu tranh vừa phối hợp với Đảng CSVN cùng chính quyền để chuẩn bị tiền đề hòa nhập sâu sắc, đàm phán thành công với các cường quốc và các liên minh quốc tế. Tạo thế trận vững chắc để phát triển chiều sâu và bảo vệ tổ quốc” những luận điệu xảo trá vừa đấm vừa xoa của kẻ địch, thé nào là “vừa đấu trang vừa phối hợp với Đảng Cộng Sản”. ấu cũng chỉ là muôn xóa bỏ Đảng Cộng Sản Việt Nam.
-         Phương pháp đấu tranh của chúng là bất bạo động: chủ yếu tấn công trên các lĩnh vực văn hóa xã hội, làm thay đổi lệch lạc tư tưởng của nhân dân, chia rẽ sự đoàn kết nhân dân với Đảng Cộng Sản Việt Nam, lôi kéo những con người bất mãn với ĐCS VN, những đối tượng cơ hội chính trị, kích động quần chúng nhân dân biểu tình chống đối chính quyền. Chúng xuyên tạc luật, coi hội và Đảng cùng là tổ chức chính trị.
Sự khác nhau giữa hội và Đảng.
Hội chủ là một nhóm người có người đứng đầu, tuân theo những nguyên tắc và hoạt động do những người đứng đầu đề ra, bắt buộc các thành viên phải tham gia, điều đó cho thấy vai trò của các nhân không được phát huy, mà nó bị trừ dập khi đi ngược lại với lợi ích của người đứng đầu.
Đảng là tổ chức chính trị do nhân dân bầu ra, đại diện quyền lợi của nhân dân, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân “do dân và vì dân”, dân làm dân bàn dân kiểm tra. Đảng có luận cương rõ ràng, xác định con đường đúng đắn nhất với đất nước, Đảng được công nhận và quyền tự quyết khi tham gia quan hệ quốc tế.

Từ những sự khác nhau trên cho thấy quan điểm coi nhóm tổ chức được gọi là “dân chủ xã hội” tương đương với Đảng Cộng Sản Việt Nam là một ý kiến hoàn toàn sai lầm và không thể chấp nhận luận điểm đó.

Kinh Vân Bộ