MỪNG NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Hiển thị các bài đăng có nhãn QĐND. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn QĐND. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Bảy, 28 tháng 12, 2013
HOẠT ĐÔNG CỦA CỰU CHIẾN BINH Ở KHU PHỐ 1
Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013
Không “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang
“Phi
chính trị hóa” lực lượng vũ trang, tách lực lượng vũ trang ra khỏi sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những âm mưu, thủ đoạn
trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản
động đối với cách mạng nước ta.
Thời
gian gần đây, lợi dụng việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa
đổi Hiến pháp năm 1992, một số người đã đưa ra quan điểm lực lượng vũ
trang “chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân”;
“phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành
với bất kỳ tổ chức nào”(?!)...
Đây là những luận điệu vô căn cứ, phản khoa học và không đúng với thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam.
Dưới góc độ lý luận, lịch sử ra đời và
phát triển của lực lượng vũ trang trên thế giới cho thấy, lực lượng vũ
trang bao giờ cũng có mối quan hệ hữu cơ với giai cấp và Nhà nước sinh
ra nó, mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội.
Lực lượng vũ trang là lực lượng chính
trị đặc biệt của Nhà nước để bảo vệ sự tồn tại của Nhà nước đó. Lực
lượng vũ trang xuất hiện và tồn tại gắn liền với chính trị, phụ thuộc
vào chính trị, chính trị quy định bản chất, chức năng, nhiệm vụ, các mối
quan hệ cơ bản và mọi hoạt động của lực lượng vũ trang. Bất cứ giai
cấp, Nhà nước nào khi tổ chức ra lực lượng vũ trang cũng đều quan tâm
xây dựng, củng cố bản chất giai cấp của nó và làm cho lực lượng này phục
tùng, bảo vệ quyền lợi chính trị, kinh tế của giai cấp tổ chức ra nó.
Có thể khẳng định, mọi giai cấp, mọi
nhà nước tổ chức ra lực lượng vũ trang đều tập trung chăm lo xây dựng
mặt chính trị, đều hướng việc xây dựng lực lượng vũ trang theo chính trị
của giai cấp thống trị. Từ đó, hình thành các kiểu lực lượng vũ trang
khác nhau với các hình thức chính trị khác nhau. Song, chính trị của
kiểu lực lượng vũ trang nào cũng đều phản ánh lợi ích cơ bản của giai
cấp và Nhà nước đã sinh ra, nuôi dưỡng nó. Không thể có lực lượng vũ
trang “siêu giai cấp”, “đứng ngoài chính trị”.
Trong bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào,
lực lượng vũ trang không bao giờ tách rời chính trị, vì chính trị quyết
định sự thành bại của giai cấp thống trị; những mưu toan đòi “phi chính
trị hóa” lực lượng vũ trang về thực chất là nhằm chuyển hóa bản chất
giai cấp của lực lượng vũ trang sang lập trường của giai cấp khác.
Dưới góc độ thực tiễn, trong suốt quá
trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định
nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân
đội nhân dân và Công an nhân dân. Bảo vệ và giữ vững nguyên tắc Đảng
lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là vấn đề có ý nghĩa
quyết định bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lịch sử gần 70 năm xây dựng, chiến đấu
và trưởng thành của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cho thấy,
Đảng lãnh đạo là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh kính yêu, được nhân dân thương yêu, đùm bọc và giúp đỡ, lực
lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân ngày càng phát triển và trưởng
thành, luôn một lòng, một dạ tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ
quốc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử
thách, đoàn kết, tận tụy trong công tác; dũng cảm, mưu trí, sáng tạo
trong chiến đấu, đập tan mọi âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ
vững hòa bình, ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự,
an toàn xã hội.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
đã thực sự là chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm tốt
vai trò tham mưu với Đảng, Nhà nước về các chủ trương, đường lối, chiến
lược bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn
xã hội; chủ động phòng ngừa, tấn công làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động
“diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch, phản
động, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đối
ngoại của đất nước.
Vì những lý do nêu trên, tôi đồng tình
với quy định nêu tại Điều 70 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992: “Lực
lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản
Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự,
an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ
nghĩa, cùng toàn dân xây dựng Nhà nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, đảm
bảo vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với
lực lượng vũ trang nhân dân.
Với niềm tin sâu sắc vào sức mạnh và ý
chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, vào tương lai tươi sáng
của đất nước, lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân nguyện sẵn
sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, kiên định mục
tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; kiên quyết
đập tan mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động hòng
“phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2013
Những vũ khí Liên Xô bảo vệ biên giới Việt Nam
Cuối thập niên 1970 và trong suốt thập niên 1980, Việt Nam phải gồng mình bảo vệ biên giới ở cả hai đầu tổ quốc.
Ở hoàn cảnh khó khăn này, Liên Xô đã giúp đỡ Việt Nam trên nhiều phương diện, trong đó, không thể không kể tới sự viện trợ vũ khí rất đáng kể cho cả ba lực lượng hải - lục - không quân.
![]() |
|
Xe tăng chủ lực T-55 là biến thể cải
tiến của xe tăng T-54 được sản xuất ở Liên Xô từ 1958-1963. Xe có trọng
lượng 36 tấn, kíp lái 4 người, trang bị pháo chính D-10T cỡ 100mm, đại
liên phòng không DShK 12,7mm và đại liên đồng trục PKT 7,62mm. So với
T-54, những thay đổi quan trọng nhất của T-55 là xe có khả năng chống vũ
khí hạt nhân, sinh học và hóa học (NBC), cơ số đạn pháo được tăng từ 34
lên 43 viên và đại liên cho lái xe được loại bỏ.
|
![]() |
|
Xe tăng chủ lực T-62 được sản
xuất ở Liên Xô từ 1961-1975. Xe có trọng lượng 40 tấn, kíp lái 4 người,
trang bị pháo chính U-5TS cỡ 115mm với cơ số đạn 40 viên, đại liên
phòng không DShK 12,7mm và đại liên đồng trục PKT 7,62mm. Mặc dù ra đời
sau nhưng T-62 không thực sự có nhiều điểm vượt trội so với dòng
T-54/55, thay đổi đáng kể nhất ở các phiên bản về sau là pháo nòng trơn
115mm có uy lực lớn hơn và khả năng bắn tên lửa chống tăng có điều khiển
(ATGM) qua nòng.
|
![]() |
|
Xe chiến đấu bộ binh BMP-1 được thiết kế
từ 1961-1965 và sản xuất ở Liên Xô từ 1966-1982. Xe có khả năng lội
nước với trọng lượng 13,2 tấn, kíp lái 3 người và có thể chở theo một
tiểu đội bộ binh. Hỏa lực của BMP-1 bao gồm pháo bán tự động 2A28 cỡ
73mm với cơ số đạn 40 viên, bệ phóng tên lửa chống tăng có điều khiển
9M14 Malyutka với cơ số đạn 4 quả và đại liên đồng trục PKT 7,62mm.
Trong năm 1979, Liên Xô đã viện trợ 3 đợt với 111 xe BMP-1 trang bị cho
sư đoàn bộ binh cơ giới đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam. Trong
các năm tiếp theo hàng trăm xe khác tiếp tục được chuyển giao để xây
dựng các đơn vị bộ binh cơ giới khác. Trong ảnh là hai xe chiến đấu
BMP-1 tham gia duyệt binh trên quảng trường Ba Đình.
|
![]() |
|
Xe chiến đấu bộ binh BMP-2 là
thế hệ thứ hai được phát triển trên cơ sở BMP-1 và đưa vào sử dụng từ
cuối thập niên 1970. Tương tự BMP-1, BMP-2 có khả năng lội nước với
trọng lượng 14,3 tấn, kíp lái 3 người và có thể chở theo một tiểu đội bộ
binh. Hỏa lực trên xe gồm pháo tự động 2A42 cỡ 30mm với cơ số đạn 500
viên, bệ phóng tên lửa chống tăng có điều khiển 9K111 Fagot (phiên bản
dành cho nước ngoài) và đại liên đồng trục PKT 7,62mm. Việt Nam được
viện trợ một số BMP-2 trong thập niên 1980, trang bị cho một số đơn vị
bộ binh cơ giới.
|
![]() |
|
Xe bọc thép trinh sát BRDM-2
do Liên Xô thiết kế và sản xuất hàng loạt từ 1962-1989. Xe được bọc thép
từ 2-14mm, nặng 7,7 tấn, có khả năng lội nước, biên chế kíp lái 4
người, trang bị vũ khí gồm đại liên KPVT 14,5mm và PKT 7,62mm. Khi sang
Việt Nam, BRDM-2 được trang bị cho các đơn vị cảnh vệ hoặc trinh sát của
bộ binh cơ giới, pháo binh, phòng hóa…
|
![]() |
|
Xe
bọc thép chở quân BTR-152 được thiết kế từ 1946-1949 và sản xuất ở
Liên Xô từ 1950-1962 dựa trên cơ sở khung gầm xe tải ZiS-151 được bọc
thép từ 4-15mm. Xe có trọng lượng 9,91 tấn, trang bị đại liên DShK
12,7mm hoặc SGMB 7,62mm, kíp lái 2 người và có thể chở theo 2 tiểu đội
bộ binh. Việt Nam được Liên Xô viện trợ số lượng lớn BTR-152 với đợt
đầu gồm 100 xe biên chế cho Sư đoàn 308 Quân đoàn 1 đầu năm 1979. Một
số được Việt Nam nghiên cứu cải tiến thêm như gắn đại liên phòng không
KPV 14,5mm, thay động cơ và hộp số mới, lắp thêm tấm giáp, đèn và kính
quan sát để thuận tiện chiến đấu trên nhiều địa hình…
|
|
Pháo chống tăng tự hành SU-85
được sản xuất từ 1943 và được Hồng quân Liên Xô sử dụng rộng rãi trong
Chiến tranh Vệ quốc. SU-85 thiết kế dựa trên khung gầm cơ sở của xe tăng
T-34, trọng lượng chiến đấu 29,6 tấn, kíp lái 4 người và trang bị pháo
chính D-5T cỡ 85mm với cơ số đạn 48 viên. Ảnh minh họa.
|
![]() |
|
Pháo chống tăng tự hành
SU-100 được sản xuất từ cuối 1944 để thay thế cho vai trò của SU-85.
SU-100 cũng dựa trên khung gầm cơ sở của xe tăng T-34, trọng lượng chiến
đấu 31,6 tấn, kíp lái 4 người và trang bị pháo chính D-10S cỡ 100mm với
cơ số đạn 60 viên. Năm 1979, một số lượng lớn SU-85 và SU-100 được Liên
Xô viện trợ cho Việt Nam.
|
![]() |
|
Lựu pháo D30 122mm được đưa
vào biên chế quân đội Liên Xô từ năm 1963, thay thế cho lựu pháo M30
122mm trong các đơn vị pháo binh cấp sư và quân đoàn. D30 có trọng lượng
chiến đấu 3,2 tấn, tầm bắn hiệu quả 15,4 km, tốc độ bắn 5-6 phát/phút.
Điểm nổi bật của D30 là nhờ thiết kế đặt trên 3 càng nên có thể nhanh
chóng thay đổi hướng bắn 360 độ. Vào thập niên 1980, Việt Nam tiếp nhận
một số pháo D30 trang bị cho nhiều đơn vị pháo binh, bộ binh cơ giới và
đã sử dụng trong nhiều trận chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc.
|
![]() |
|
Pháo nòng dài D20 152mm được
đưa vào biên chế quân đội Liên Xô từ đầu thập niên 1950. Pháo có trọng
lượng chiến đấu , tầm bắn hiệu quả 17,4 km, tốc độ bắn 5-6 phát/phút.
Khi sang Việt Nam D20 chủ yếu được trang bị cho các đơn vị pháo binh
chiến dịch.
|
![]() |
|
Lựu pháo tự hành 2S1
Gvozdika 122mm là phiên bản cơ giới hóa của pháo lựu D30 122mm đặt
trên khung xe cơ sở MT-LB, được đưa vào biên chế quân đội Liên Xô đầu
thập niên 1970. 2S1 có trọng lượng chiến đấu 16 tấn và kíp xe 4 người,
cơ số đạn khoảng 30-40 viên. Trong thập niên 1980, một số 2S1 được
chuyển giao cho Việt Nam, biên chế cho các đơn vị pháo binh thuộc bộ
binh cơ giới và mang định danh “SU-122”.
|
![]() |
|
Lựu pháo tự hành 2S3 Akatsiya 152mm là
phiên bản cơ giới hóa của pháo D22 152mm đặt trên khung xe cơ sở
GM-123/124, được đưa vào biên chế quân đội Liên Xô đầu thập niên 1970.
2S3 có trọng lượng chiến đấu 28 tấn và kíp xe 4 người, cơ số đạn tối đa
46 viên và còn được trang bị đại liên PKT 7,62mm. Cuối thập niên 1980,
một số 2S3 được chuyển giao cho Việt Nam, biên chế cho một vài đơn vị
pháo binh cơ giới và mang định danh “SU-152”.
|
|
Pháo phản lực bắn loạt BM-13 Katyusha
được sản xuất từ năm 1939 và là một trong những biểu tượng của Hồng quân
Liên Xô trong cuộc chiến chống phát xít Đức. BM-13 được trang bị dàn
phóng đặt trên khung xe tải có khả năng mang 16 đạn phản lực cỡ 132mm
với tầm bắn 8-12 km. Sau 1979, Việt Nam được viện trợ nhiều hệ thống
BM-13, trang bị cho một số đơn vị pháo binh hoặc sư đoàn bộ binh tuyến 1
và đã sử dụng trong nhiều trận chiến đấu trên chiến trường K hoặc biên
giới phía bắc. Ảnh minh họa
|
![]() |
|
Pháo phản lực bắn loạt BM-21 Grad được
sản xuất và đưa vào biên chế quân đội Liên Xô từ năm 1963. BM-21 được
trang bị dàn phóng 40 ống cỡ 122mm đặt trên khung xe Ural-4320 6x6 với
tầm bắn 15-20 km tùy loại đạn. Từ sau năm 1979, BM-21 được Liên Xô viện
trợ với số lượng lớn cho Việt Nam, trang bị cho các đơn vị pháo binh
cấp quân khu, quân đoàn hoặc trực thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh với định
danh “H78”.
|
![]() |
|
Hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển 9K11 Malyutka
cải tiến sử dụng đạn 9M14P Malyutka-P điều khiển bằng dây dẫn với đầu
đạn 2,6 kg và tầm bắn hiệu quả 500-3.000m, xuyên được 200mm thép
nghiêng 60 độ. Điểm vượt trội của phiên bản cải tiến này so với phiên
bản đời đầu từng được Quân đội nhân dân Việt Nam sử dụng trong kháng
chiến chống Mỹ là khả năng chỉ huy bám mục tiêu bán tự động (SACLOS)
thay vì thủ công (MCLOS). Hệ thống Malyutka cải tiến được trang bị cho
Việt Nam năm 1987 và được mang định danh “B87”.
|
![]() |
|
Hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển 9K111 Fagot được phát triển từ năm 1962 và đưa vào biên chế quân đội Liên Xô năm
1970. Hệ thống Fagot có tầm bắn hiệu quả 70-2.000m, tên lửa được điều
khiển bằng dây dẫn và chỉ huy bám bắt mục tiêu bán tự động (SACLOS) và
có khả năng xuyên 400mm thép đồng nhất (RHA) hoặc 200mm thép nghiêng 60
độ. Hệ thống Fagot được trang bị cho Việt Nam năm 1989 (gồm cả bản mang vác và gắn trên xe chiến đấu bộ binh BMP-2) và được mang định danh “B89”.
|
Vũ khí giúp VN 'chắn bão giông, ngăn nắng lửa'
Từ đầu thập niên 80, tình hình biên giới Việt Nam chịu nhiều áp lực. Hoàn cảnh đất nước khi đó khó khăn, đúng như lời bài hát đất nước "sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa".
Trong thời gian này, Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam nhiều vũ khí hiện đại, đặc biệt là hệ thống phòng không – không quân.
Dưới đây là một số hệ thống vũ khí điển hình:
![]() |
|
Máy bay tiêm kích MiG-21bis
là thế hệ MiG-21 cuối cùng do Liên Xô thiết kế và đưa vào sử dụng từ năm
1972. So với các phiên bản cũ từng được Việt Nam sử dụng trong kháng
chiến chống Mỹ, MiG-21bis được trang bị động cơ có lực đẩy lớn hơn, các
hệ thống điện tử, radar… được cải tiến đảm bảo khả năng hoạt động khi
thời tiết xấu. Về vũ khí, MiG-21bis mang một pháo 23mm loại GSh-23L với
cơ số đạn 200 viên, 4 giá treo có thể mang tối đa 2 tấn vũ khí gồm tên
lửa không đối không R-3S/R-3M/R-3R/R-60, rocket và bom... Giữa năm 1979,
những chiếc MiG-21bis đầu tiên do Liên Xô viện trợ được trang bị cho
Trung đoàn không quân 921 và dần dần trở thành tiêm kích đánh chặn chủ
lực của Không quân nhân dân Việt Nam suốt hơn 30 năm.
|
![]() |
|
Máy bay tiêm kích bom Su-22
là phiên bản xuất khẩu của Su-17 trong biên chế Không quân Liên Xô, được
sản xuất từ 1969-1990. Su-22 được trang bị động cơ turbojet AL-21F3, vũ
khí gồm 2 khẩu pháo 30mm loại NR-30 với cơ số đạn 80 viên/khẩu, 2 giá
phóng tên lửa và 10 điểm treo cứng trên cánh và thân có thể mang tối đa
4,2 tấn vũ khí gồm tên lửa không đối không R-60, tên lửa không đối đất
Kh-23/Kh-25ML/Kh-29T, tên lửa chống radar Kh-28, rocket và bom các
loại... Giữa năm 1979, những chiếc Su-22 đầu tiên do Liên Xô chuyển giao
được trang bị cho Trung đoàn không quân 923. Su-22 đóng vai trò chủ yếu
trong nhiệm vụ tác chiến đối đất và đối biển của Không quân nhân dân
Việt Nam trong một thời gian dài và là loại máy bay chiến đấu đầu tiên
thực hiện tuần tiễu trên quần đảo Trường Sa. Ở Việt Nam, các phiên bản
Su-22 được biết đến với định danh C-52 (Su-22M3) và C-54 (Su-22M4).
|
![]() |
|
Trực thăng vũ trang Mi-24A là
phiên bản được sản xuất hàng loạt giai đoạn đầu từ cuối thập niên 1960
với đặc điểm dễ nhận diện là mũi và buồng lái vuông với tổ bay 2 người
phi công và xạ thủ hỏa lực ngồi song song. Mi-24A có tầm hoạt động 450
km, trần bay 4,5 km. Hệ thống vũ khí gồm đại liên Yak-B 12,7mm ở mũi, 6
giá vũ khí ở 2 cánh mang được 4 tên lửa chống tăng có điều khiển 9M17M
Skorpion-M, 4 thùng rocket 57mm UB-32 và còn có thể chở theo một tiểu
đội bộ binh. Tháng 1/1980, phi đội trực thăng vũ trang Mi-24A đầu tiên
được thành lập ở Trung đoàn không quân 916. Từ tháng 11/1984, Mi-24A
tham gia nhiều trận chiến đấu hiệu suất cao trên chiến trường K, hỗ trợ
đắc lực cho bộ binh truy quét tàn quân Khmer Đỏ.
|
![]() |
|
Trực thăng chống ngầm Ka-25
được sản xuất hàng loạt và đi vào biên chế Hải quân Liên Xô từ giữa thập
niên 1960. Ka-25 có tầm hoạt động 400 km, trần bay 3,3 km, tổ lái 4
người, được trang bị radar, sonar cùng nhiều khí tài định vị và dò tìm,
mang được 1,9 tấn bom hoặc ngư lôi chống ngầm. Tháng 3/1979, những chiếc
Ka-25 đầu tiên được chuyển giao cho Việt Nam, biên chế thuộc Trung đoàn
không quân 916.
|
![]() |
|
Trực thăng chống ngầm Ka-28
là phiên bản xuất khẩu của trực thăng Ka-27 do Liên Xô phát triển từ năm
1973 để thay thế cho Ka-25. Ka-28 có tầm hoạt động khoảng 980 km, trần
bay 5 km, tổ lái 1-3 người, được trang bị khí tài định vị, dò tìm, mang
được 4 tấn vũ khí gồm bom hoặc ngư lôi chống ngầm. Việt Nam tiếp nhận
Ka-28 trong thập niên 1980 và biên chế cho Trung đoàn không quân hải
quân 954.
|
![]() |
|
Thủy phi cơ Be-12 được sản
xuất hàng loạt và đi vào biên chế Hải quân Liên Xô từ đầu thập niên
1960. Be-12 có tầm hoạt động 3.300 km, trần bay 8 km, tổ lái 4 người,
được trang bị radar, sonar cùng nhiều hệ thống định vị và dò tìm, mang
được 1,5 tấn bom hoặc ngư lôi chống ngầm. Tháng 4/1982, phi đội Be-12
đầu tiên được trang bị cho Việt Nam, biên chế thuộc Trung đoàn không
quân 933. Trong ảnh là thủy phi cơ Be-12 của Ukraine.
|
![]() |
|
Máy bay vận tải An-26 được
sản xuất hàng loạt và trang bị cho quân đội Liên Xô từ đầu thập niên
1970. An-26 có tầm bay tối đa 2.500 km, trần bay 7,5 km, tổ lái 5 người
và có khả năng mang khoảng 9 tấn hàng. Cuối năm 1980, Liên Xô viện trợ
cho Việt Nam 2 máy bay AN-26 đầu tiên làm nhiệm vụ chuyển tiếp chỉ huy
trên không và từ đầu 1981, hàng chục chiếc khác được chuyển giao, trang
bị cho Trung đoàn không quân 918. An-26 đã được Không quân nhân dân Việt
Nam sử dụng tích cực vào các nhiệm vụ vận tải phục vụ các chiến trường.
Đặc biệt từ tháng 3/1984, các tổ bay An-26 đã trực tiếp tham gia nhiều
trận ném bom, hỗ trợ bộ binh truy quét tàn quân Khmer Đỏ trên chiến
trường K.
|
![]() |
|
Hệ thống tên lửa phòng không
vác vai tầm thấp 9K38 Igla-1M là phiên bản xuất khẩu của hệ thống 9K18
Igla được trang bị cho quân đội Liên Xô năm 1983. Igla-1M sử dụng đạn
tên lửa tầm nhiệt 9M39 có tầm xa 5,2 km và tầm cao 3,5 km. Hệ thống
Igla-1M được trang bị cho Việt Nam năm 1987 với định danh “A87”.
|
|
Hệ thống tên lửa phòng không
cơ động tầm thấp 9K31 Strela-1 được đưa vào biên chế quân đội Liên Xô từ
năm 1968. Strela-1 được trang bị 4 ống phóng đặt trên xe thiết giáp
trinh sát BRDM-2 với 4 đạn tên lửa tầm nhiệt 9M31/9M31M có tầm xa 4,2 km
và tầm cao 3,5 km.
|
![]() |
|
Hệ thống tên lửa phòng không
cơ động tầm thấp 9K35 Strela-10 được đưa vào biên chế quân đội Liên Xô
từ năm 1969 để thay thế cho hệ thống Strela-1. Strela-10 sử dụng hệ
thống dẫn bắn quang học/hồng ngoại và được trang bị 4 ống phóng đặt trên
xe lội nước MT-LB với 4 đạn 9M37 có tầm xa 5 km và tầm cao 3,5 km. Hệ
thống Strela-10 được trang bị cho Việt Nam năm 1989 với định danh “A89”.
|
![]() |
|
Hệ thống tên lửa phòng không
cơ động tầm trung 2K12 Kub được phát triển từ 1958 và đưa vào trang bị
cho quân đội Liên Xô từ năm 1976. Hệ thống Kub được trang bị radar 1S91
có khả năng bắn mục tiêu và điều khiển tên lửa ở cự ly 28 km, dàn phóng
được đặt trên khung xe GM-578 mang 3 đạn tên lửa 3M9 với đầu đạn 59 kg,
tầm xa 24 km và tầm cao 14 km.
|
Đông Ngạc
Theo Infonet
Hải quân đánh bộ Việt Nam 'lột xác' với vũ khí mới
Tờ Thời báo Hoàn Cầu đăng tải một số hình ảnh về đơn vị tên lửa phòng không tầm cao S-300 của Việt Nam.
![]() |
| Trong vài năm trở lại đây, báo chí Trung Quốc dành nhiều sự quan tâm tới vũ khí hiện đại của Việt Nam như tiêm kích Su-30, các hệ thống tên lửa hiện đại. Mới đây, Hoàn Cầu đăng chùm ảnh về hệ thống tên lửa hiện đại S-300 của Việt Nam. |
![]() |
| “Năm 2003, lực lượng phòng không Việt Nam đã nhập khẩu các hệ thống tên lửa đối không tầm xa S-300 PMU-1 (16 bệ phóng) và trang bị cho 2 tiểu đoàn”, Thời báo Hoàn Cầu chú thích dưới bức ảnh. Những bức ảnh có khả năng được lấy từ trang tin của nghệ sĩ nhiếp ảnh Bùi Đăng Thanh. |
![]() |
| Nội dung của chùm ảnh tập trung vào đơn vị phòng không lắp đặt tên lửa S-300 lên bệ phóng di động. |
![]() |
| S-300PMU-1 là hệ thống tên lửa phòng không hiện đại nhất của Việt Nam hiện nay. Đáng lưu ý, Trung Quốc đang sở hữu một vài tiểu đoàn trang bị biến thể S-300 PMU-2 với một số cải tiến về khả năng chống tên lửa đạn đạo. |
![]() |
| Trong ảnh là bệ phóng tự hành S-300PMU-1 ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu. |
![]() |
| Trong phòng điều khiển hệ thống tên lửa S-300PMU-1. |
![]() |
| S-300PMU-1 có khả năng tiêu diệt mục tiêu ở tầm xa tới 150km, độ cao từ 5 m tới 27.000 m. |
Theo Kiến Thức
Hải quân đánh bộ Việt Nam 'lột xác' với vũ khí mới
Là lực lượng tinh nhuệ thuộc quân chủng hải quân, Hải quân đánh bộ Việt Nam gần đây thực sự chuyển mình với các loại vũ khí, thiết bị mới và hiện đại.
![]() |
| Hải quân đánh bộ trực thuộc quân chủng hải quân được thành lập từ giữa những năm 1970 với nhiệm vụ đóng quân bảo vệ các đảo; hoặc tấn công, đổ bộ bằng đường biển lên đất liền hoặc đảo đánh chiếm lại. Hiện biên chế lực lượng này gồm 2 lữ đoàn mang phiên hiệu 126 và 147. |
![]() |
| Hải quân đánh bộ Việt Nam được biên chế một số phương tiện cơ giới và pháo. Các loại xe cơ giới của hải quân đánh bộ gồm: xe tăng hạng nhẹ PT-76 và xe bọc thép chở quân lội nước BTR-60. |
![]() |
| Trong đổ bộ, xe tăng lội nước PT-76 sẽ làm nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực cho lính hải quân đánh bộ đánh chiếm bờ biển, đảo. |
![]() |
| BTR-60 có khả năng chở 16 lính cùng đầy đủ trang bị, tất nhiên xe cũng có khả năng bơi (trên mặt nước) tốt. Trong tương lai gần, BTR-60PB và PT-76 vẫn là những phương tiên cơ giới chủ lực của Hải quân đánh bộ Việt Nam. |
![]() |
| Về trang bị và vũ khí cá nhân người lính, quân đội ta đang bước đầu hiện đại hóa. Một số đơn vị trong các lữ đoàn đã được cấp quân phục dã chiến cùng nhiều loại vũ khí hiện đại xuất xứ từ Israel. |
![]() |
| Ngoài mẫu chuẩn TAR-21, Hải quân đánh bộ còn có biến thể CTAR-21 với nòng ngắn hơn (ảnh), chuyên dùng cho lực lượng đặc biệt. |
![]() |
| Trên thao trường. |
![]() |
| Luyện tập cùng với trang bị vũ khí hiện đại. |
![]() |
| Làm chủ trang thiết bị, vũ khí hiện đại. |
![]() |
| Súng máy Israel được trang bị cho lực lượng Hải quân đánh bộ. |
![]() |
| Súng bắn tỉa hạng nặng tầm xa trang bị cho Hải quân đánh bộ. |
![]() |
| Trước giờ ra thao trường luyện tập. |
![]() |
| Hỏa lực hạng nặng Matador với sức công phá lớn. |
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)











































