Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc tt

 15
Hôm khai mạc trường Lục quân trung học Quảng Ngãi, đồng chí Nguyễn Sơn giới thiệu thành phần tham dự có thủ tướng Phạm Văn Đồng đại diện Nhà nước tại miền trung, đồng chí Hoàng Quốc Việt - ủy viên Trung ương Đảng, đồng chí Nguyễn Chánh (Chính trị viên đội du kích Ba Tơ) làm ủy viên UBKC và ba là Ủy trưởng quốc phòng Trung bộ. Trần Hữu Dực UBHC Trung Bộ và Nguyễn Duy Trinh, Ủy viên, đồng chí Trương Quang Giao, Bí thư tỉnh, đồng chí Trần Toại (tức Phương) -  Chủ tịch UBNDCM tỉnh Quảng Ngãi.
Đồng chí Nguyễn Sơn nói mục đích của Bác Hồ và Bộ Tổng tham mưu chủ trương lập một trường quân sự chính quy ở miền Trung và miền Bắc để cung cấp cán bộ trước mắt cho các tỉnh trong toàn quốc.
Đồng chí nhắc lại lời nói của Bác Hồ với quân đội: “Trung với nước, hiếu với dân” là bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta và những lời dặn dò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về huấn luyện quân đội1.
Đồng chí Sơn nói về thực tế của chiến trường miền trung. Giặc Pháp lấn ra Củng Sơn, Đèo Cả với manh tâm chiếm tỉnh Phú Yên. Cách đây 4 hôm chúng đã tấn công An Khê. Phía ta, tương quan lực lượng yếu hơn chúng về vũ khí và kỹ thuật chiến đấu rất nhiều. Ta chỉ với tinh thần yêu nước dũng cảm chưa đủ, phải học cách đánh giặc cho có hiệu quả. Vì lý do đó trường Trung học lục quân ra đời mặc dù chỉ cách mặt trận 100 cây số.
Trong buổi lễ này, Nguyễn Sơn đã đả phá luận điệu của bọn phản động gán cho trường Lục Quân này là trường cộng sản, cộng vợ, cộng con, cộng của cải.
Ông nói:
- Còn có người ngộ nhận bị bọn phản động lừa bịp cố tình chia rẽ mặt trận đoàn kết dân tộc. Chúng cho đây là trường Hồng quân của cộng sản “có lẽ vì tôi là người của Hồng Quân từ bên Tầu về đây”. Nhưng trường này toàn là người của mặt trận Việt minh yêu nước.
Trước mắt bọn Pháp đang lăm le hòng chiếm lại ba nước Đông Dương. Ta cần phải xây dựng đào tạo một đội ngũ chỉ huy quân sự có trình độ gồm những thanh niên yêu nước có học vấn, có sức khỏe. Trong số học viên có mặt hôm nay đâu chỉ là Việt Minh và Cộng Sản mà gồm đủ các thành phần trong xã hội kể cả con em phú hào và quan lại (Trong số học viên có hai thầy phán2 trên ba mươi tuổi. Có cả dòng Tôn thất nhà Nguyễn và các thành phần dân tộc ít người như dân tộc Mường, Mán, Êđê, Bana, Chăm và Hoa Kiều.)
Về phần các huấn luyện viên Nhật, chúng ta không nên coi họ giống như quân Phát Xít. Đây là các đồng chí tiến bộ chúng ta gọi là người “Việt Nam mới”, họ tình nguyện cùng chúng ta chống Pháp, tranh đấu cho lẽ phải cho hạnh phúc của nhân loại. Còn các huấn luyện viên người Pháp, người Đức cũng vậy: Hồ Chí Long, Hồ Chí Dân đều là những người tự nguyện mang họ của Bác Hồ hoặc cháu Bác Hồ với ý chí noi theo Bác cùng đi làm cách mạng. Chúng ta phải tôn trọng và hoan nghênh thiện chí của những người “Việt Nam mới” này3
Tôi mong rằng tất cả chúng ta, giảng viên, sinh viên và tất cả các cơ quan, ban ngành, các đoàn thể trong các tỉnh miền Nam góp sức lại để cùng diệt giặc bằng cách làm tốt công việc của mình.
Giọng ông oang oang hùng hồn đã gây trong sinh viên, ấn tượng và tin tưởng ở vị hiệu trưởng tài ba, lỗi lạc của mình.
Đồng chí Lê Văn Kiện, sinh viên đại đội 1 trước khi đi học là đại đội trưởng đã từng chiến đấu ở Phú Yên, Khánh Hoà4. Đồng chí thay mặt các sinh viên toàn trường lên phát biểu đại ý hoan nghênh chủ trương lập trường của Trung ương cùng sự nỗ lực xây dựng nhà trường và yểm trợ mọi mặt của chính quyền địa phương và đoàn thể. Ông hứa hẹn các sinh viên sẽ cố gắng học tập trao dồi đạo đức để xứng đáng là sĩ quan quân đội Việt Nam và không phụ lòng sự ưu ái giúp đỡ của quân dân chính đảng cũng như thầy Hiệu trưởng Nguyễn Sơn.
Trước khi bế mạc, ông Nguyễn Sơn đã mời các sĩ quan Nhật lên tập trung trước cột cờ đứng hàng ngang cùng ông và các sinh viên tưởng niệm sĩ quan Ikawa đã hy sinh tại An Khê vì tổ quốc Việt Nam và cũng vì hoà bình thế giới.
Tất cả sinh viên: 480 người theo chương trình huấn luyện 6 tháng bắt đầu học từ 01/6 đến 01/12/1946 thì mãn khoá. Lúc đầu trường lục quân thuộc Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam quản lý cho đến tháng 12 Ủy ban này giải thể theo quyết định của trung ương sau tháng 12 chuyển thành Ủy ban kháng chiến trung bộ. Trường đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quảng Ngãi Trần Toại giúp đỡ trường mọi việc trong xây cất trường kể cả huy động các bà mẹ, các chị chiến sĩ lo nấu ăn, cải thiện đời sống sinh viên. Ngoài ra trường còn có bộ phận dịch thuật, thông ngôn, ấn loát tài liệu học tập phổ biến các đại đội toàn trường. Mỗi học sinh được cấp một mũ sắt mũ cối, mũ ca lô, 2 bộ đồ vải xám (Sita do hãng Phú Phong dệt), 1 đôi giầy da. Mỗi chủ nhật sinh viên được nghỉ để xả hơi và tham quan thị xã Quảng Ngãi.
Ông luôn lái xe vào các mặt trận miền Nam . Khi trở về theo thường lệ bất cứ ở nơi nào đồng chí Nguyễn Sơn cũng dậy sớm đôn đốc các đơn vị chạy đều với ba lô (quần áo, sách vở). Khi ông dẫn đầu đại đội này, qua ngày khác ông lại dẫn đầu đại đội khác. Các sinh viên phải đeo ba lô vác súng trường, đạn dược chạy từ trường đến núi Bút hoặc núi Thiên Ấn khoảng 4-5 cây số và trở về. Khi vào thành phố cách trường một cây số sinh viên bắt đầu hát bài: “Dân Nam ơi nhớ ơn Bác Hồ”, “Đoàn giải phóng quân”, “Lục quân Việt Nam”, “Quyết chiến”, “Cảm tử quân”, “Cương quyết ra đi”, “Xếp bút nghiên”...
Anh em sinh viên tập luyện rất nhịp nhàng, hùng dũng lại đẹp trai, hát hay nên có một số cô gái Quảng rất khâm phục và cảm tình. Khi đoàn sinh viên đi tập về ngang thị xã, các thiếu nữ, thiếu nhi đã ùa ra cửa trầm trồ khen ngợi. “Các anh diễn hành khéo quá”.
_____________________________________
1. Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp 1945-1954 (BTTM 1991)
2. Thầy phán là chức vụ cao hơn Thầy ký trong tổ chức chính quyền Pháp (Sécrétaire résidence)
3. Sau này Hồ Đệ và Trần Đình Mai đánh giá chủ trương đại đoàn kết của tướng Nguyễn Sơn ví như tỉnh Quảng Ngãi là cái nôi, Nguyễn Sơn là bà đỡ cho người “Việt Nam mới”.
4. Đại đội trưởng Lê Văn Kiện có gởi 2 cán bộ trung đội đi thi vào trường lục quân nhưng đều bị trượt (rớt).
Ngoài sự tập luyện gian khổ với các giáo sư Nhật hết lòng dạy dưới nắng gắt hoặc mưa sa. Thao trường là những nơi đồng ruộng, sông rạch, núi Ân, núi Búi, Ba La, Thu Xà, Vạn Tượng. Sinh viên vẫn cố gắng với tâm niệm sẽ được đem sở học của mình thi thố tại chiến trường. Họ đại đa số là trí thức, có rất nhiều tài. Đại đội 1 với tiếng đàn Hạ uy di réo rắt của Hà Thúc Cần, câu ca Văn Thọ. Thọ là sinh viên trong thành nội Quảng Ngãi. Anh là con bà Ưng Đoá, dòng dõi nhà vua. Trong các cuộc biểu diễn văn nghệ tại rạp chiếu bóng (Cinéma) anh giới thiệu các tiết mục rất hấp dẫn và có duyên (Sau này anh ra ngoài miền Trung làm Trung đoàn phó một đơn vị)
- Đại đội 2 có Papa Kỳ1 với những câu vọng cổ mùi mẫn và số bài thơ hùng hồn của Tống Sĩ Uyên - Riêng đại đội 3 nổi bật là tờ bích báo Búa do Nguyễn Tố (Thiết Vũ) cùng Ngụy Trường Sanh, Trần Đình Mai nằm gần nhau và Cát Tường là ban biên tập mạnh nhất trường với chủ trương “Búa từ ban huấn luyện, xuống sinh viên, đến nhà bếp v.v… Nó cũng biểu hiện được phong cách thẳng thắn, hiên ngang của thầy Sơn hiệu trưởng. Tố giỏi về tiếng Pháp. Anh thường được mời lên phiên dịch những bài về mác xít do cháu Bác Hồ người Đức là Hồ Chí Dân giảng dạy. Ngoài ra còn có Nguyễn Văn Tuấn trong nhóm Hoàng Mai Lưu (Nam Bộ) là sinh viên số 230 học tú tài một, giỏi guitare đã phối âm nhiều bài với 3 bè như 'Tiếng gọi sinh viên” và “Mau về Nam” của Lưu Hữu Phước. Sinh viên Cát Tường (một thời nổi tiếng chủ hiệu may Le Mur ở Hà Nội) đã vẽ vài nét là xong Bác Hồ. Sinh viên Quốc Tài đã sáng tác bài Sinh viên lục quân hành khúc. Hai người này luôn cùng đi chơi với nhau và hay bị phạt vì về trễ, nên anh em gọi là Cát Tài.
Nội dung bài hát: Sinh viên lục quân hành khúc:
Cùng nhau sinh viên ta mau tiến lên, kìa...
Chim hót trên cành đem bao phút vui mừng
Lục quân ta mong tương lai sáng trong hồng
Chung sức ta cùng bền chí bước lên đường
Còn đâu thu qua với ngày tàn qua.
Nào cùng bước! cùng nhau vang hát
Rền khắp phương trời Nam
Ngày mai Lục Quân bước
Theo Bác Hồ xây đời sáng trong
Bài hát này chỉ phổ biến một số người trong trung đội 2 đại đội 3.
Một số anh em sinh viên khác cũng có những sáng tác thơ về tâm tình giữa sinh viên cũng như về thầy.
Đây là bài thơ của Trần Đình Mai - Trung đội 1 - Đại đội 3:
Cờ khởi nghĩa thúc hùng binh
Hồn thiêng sông núi chúng mình nối tay
Cẩm Thành2 hội tụ từ đây
Lục Quân khai giảng, cờ bay rợp trời
Tướng Nguyễn Sơn râu hùm, hàm én
Dậy cầm quân diệt giặc hiên ngang
Bút Sơn, Thiên Ấn kỳ quan
Chạy đều rèn luyện thân mình vì dân
Trong kháng chiến không nài gian khổ
Học tại đây, vui chuyện mày, tao
Sống cho đáng mặt anh hào
Sinh viên luôn nhớ công lao của thầy.
Một bài khác có tên “Vị tướng lĩnh”:
Một ngày mộ Xuân
Vị tướng lĩnh áo bạc phong trần
Đối với nụ cười khô, lạnh
Của những ngày xưa
Mấy mươi năm bôn tẩu giang hồ.
Có đêm vui thân mật
Người kể chuyện tâm tình
Ngoài muôn dặm chén nồng cũng lạt
Nước mất còn vui gì tuổi xanh
Lần lữa tháng năm cằn mái tóc
Mộng vàng dệt mãi vẫn chưa thành
Đêm đêm nặng trĩu sầu chinh khách
Nằm vọng quê nhà qua bức tranh
Bâng khuâng biết đền bao giờ nhỉ
Có thể đem về vạn chiến binh.
Dương Viết Nuôi - Đại đội 1 (sau này là Thiếu tướng) có bài:
Ta đã ra đi khắp mọi miền
Ngôi sao trên mũ, dạ trung kiên
Chiến trường vẫy gọi cùng hăng bước
Gác chuyện riêng tư, lỡ tình duyên
Thương những chàng trai đã một lần
Xông pha chiến trận chẳng tiếc thân
Nắm xương gửi lại ngoài tiền tuyến
Nhiệm vụ vinh quang quyết hoàn thành
Cùng nhau gặp gỡ trong luyện tập
Ba hướng về đây kết tình thương
Miền Trung Quảng Ngãi ngày khai giảng
Cố học, mai sau lập chiến công
Sinh viên Tống Sĩ Uyên (sau là Đại tá, thương binh) có những câu thơ:
“Đời lính trẻ chỉ quen mùi thuốc súng,
Góp công lao xây dựng cho trường
Thắm tình “cá nước” thân thương
Lục Quân ghi tạc cội nguồn từ đây”
… 3
_____________________________________
1. Papa Kỳ là chiến sĩ từ mặt trận Đất Đỏ tại Bà Rịa bị vỡ. Ông đi theo cánh quân của Trung đoàn trưởng Hiền trôi dạt ra miền Trung cùng với Nhàn (Hoàng Thành) Tuyết Minh và Tuấn...
2. Cẩm Thành là tên thành Quảng Ngãi năm 1946 đã bị dân quân phá.
3. Xem phụ trang.

17
Các huấn luyện viên người Nhật dạy rất chăm chỉ, nghiêm túc. Sau khi hết giờ tập đại đội trở về trường nếu hàng ngũ học viên không ngay thẳng hoặc hát không to, thì bị huấn luyện viên phạt. Khi tới trường, huấn luyện viên hô: Mục tiêu sân bay... chạy đều... có nghĩa là chạy thẳng lên sân bay cách ba cây số rồi mới trở về trường cũng có nghĩa là bị phạt phải chạy thêm sáu cây số.
Giữa trưa nắng chang chang của mùa hè có người chạy tới trường mệt quá không ăn được cơm. Nhưng tới giờ học cũng vẫn phải cố gắng lên lớp học. Toàn đại đội chịu phạt huấn luyện viên chạy theo cùng chịu phạt chung với sinh viên. Có thể nói quân phong, quân kỷ, các sinh viên Lục quân thi hành rất nghiêm chỉnh.
Các huấn luyện viên người Nhật tuy nghiêm nhưng đôi khi cũng kể vài chuyện để sinh viên thư giãn. Huấn luyện viên Minh Ngọc nói: Khi ông học trường Võ bị Hoàng gia Nhật Bản, trong giờ tập bắn sinh viên thấy vài thiếu nữ xuất hiện gần bia ngắm, họ vội hô mục tiêu xuất hiện: nhắm bắn... Các sinh viên mình cũng đều cười ồ lên vì cùng là học trò cả, bên Nhật hay bên ta cũng thế. Ta cũng hô mục tiêu áo hồng... nhắm bắn... ấy là “nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”.
Thiếu tướng Hồ Đệ (sinh viên Đại đội 3) nhớ lại: Tập kiếm phải hét to với tiếng “Sát” quan trọng là đôi tay phải vận lực thật cứng, chém thẳng tới trước đúng theo bí truyền của võ sĩ đạo. Vì vậy các sinh viên đã luyện cổ tay bằng khúc tre ngắn. Lúc nào rảnh rang họ cũng tập. Kể cả khi chờ đợi ăn cơm anh nào anh nấy cũng nắn bóp khúc tre. Cảnh này làm cho các chị em nhà bếp tò mò.
Các chị nói:
- Các anh chỉ cho bọn em tập bóp với!
Các sinh viên đều cười ồ. Lúc ấy các chị mới hiểu mình đã nói hớ. Con gái xứ Quảng không ngán ai, họ mặc quần soọc ngắn, mang dao găm bên lưng, cắt tóc “cua” 1 như đàn ông lúc này lại phải một phen thẹn thò trước các chàng sinh viên quỷ quái...
Mỗi tuần đều có hai lần lên giảng đường tại rạp chiếu bóng Quảng Ngãi về các môn học Mác - Lênin2, quân sự, chiến lược chiến thuật, triết lý, xã hội học và cũng có hôm nói rộng về tôn giáo và chiến sự v. v...
Chúng tôi không ngờ thầy Sơn đã mời được các đức cha bên Tin lành, Thiên chúa giáo, Phật giáo, các giáo sĩ trong đạo Cao đài cùng đến dự buổi nói chuyện về tôn giáo của thầy. Buổi nói này đều được mở rộng chung cho cả đồng bào đều được nghe. Chúng tôi không nhớ kỹ sự trình bày chi tiết của thầy nhưng chỉ thấy các vị tôn giáo khả kính kia thỉnh thoảng lại phá lên cười hoặc thích thú vỗ tay. Sự trình bày của thầy quả là giản dị nhưng thâm thúy. Lối diễn tả duyên dáng hóm hỉnh, cách trình bày dẫn chứng sáng sủa mạch lạc lôi cuốn được cả những vị chân tu có tiếng là nghiêm nghị cũng phải bật cười.
Nhận xét về thuyết trình với một vấn đề cụ thể nào ông Nguyễn Sơn là một nhà hùng biện hơn hẳn các thuyết trình viên khác. Để tạo cho học viên có được sự chăm chú ông chen vào những mẩu chuyện lấy từ trong cuộc chiến đấu trường kỳ chống quân Nhật và quân Tưởng trên 20 năm tại Trung Quốc. Ông kể lại có lần ông chỉ huy một đại đội, được tin quân Tưởng thất trận đang rút lui. Ông đã kéo quân đuổi theo và tước khí giới một sư đoàn quân Tưởng Giới Thạch - ông diễn tả hùng hồn y như đang lâm trận. Ông chạy chỗ này hô: “Giơ tay lên, bỏ súng xuống, tiến thẳng về phía trước” - Ông chạy qua bụi mía hô to: “Ai chống cự bắn chết liền”. Trong đêm trăng sương mờ bọn lính quốc dân đảng không biết Hồng quân có bao nhiêu người vì đại đội ông giăng hàng hai bên cùng hô - Chúng bỏ súng và đi luôn về phía trước cứ thế hết đại đội này đến đại đội khác đều bỏ súng. Đêm ấy ông phải huy động dân chúng đem hơn 10 xe bò mới chở hết súng đạn.
Giọng ông sang sảng hợp với khổ người cứng rắn giống pho tượng đồng đen - Khi ông tả những cảnh dã man của bọn Pháp lê dương chém giết hoặc hãm hiếp dân lành. Ông đã làm các sinh viên sởn ốc và sục sôi căm thù.
Ông là người nghiện thuốc lá, nhưng khi nói chuyện cả ba bốn tiếng đồng hồ ông không cần bản thảo, không cần hút thuốc và không cần uống nước. Cứ thế thao thao bất tuyệt rất lưu loát, hùng hồn.
Chúng tôi học lý thuyết thường thường vào buổi chiều 4 tiếng và cứ 2 tiếng lại nghỉ xả hơi 15 phút - Một lần tôi đã chứng kiến ông nói tại sân vận động Quảng Ngãi trước 10 nghìn khán giả suốt hơn 4 tiếng đồng hồ. Ly nước để trước mặt vẫn không vơi tí nào. Người nói hấp dẫn, người nghe say mê. Sân vận động tuy rộng nhưng im phăng phắc. Có thể khoa nói của ông được hình dung như thác lũ tuôn trào như dầu sôi lửa bỏng làm cho người nghe phải phấn khởi, phải sục sôi lửa hận và tức khắc cầm súng, cầm gươm lao về phía trước tiêu diệt quân xâm lăng dã man tàn bạo.
Hôm ấy ông nói về tình hình đất nước, ông vạch mặt bọn phản động mà trên chủ trương đoàn kết: Bác Hồ buộc phải nhường cho chúng những Bộ trong nội các của ta. Cách nói của ông xem ra đơn giản nôm na, ví von nhưng lại rất hấp dẫn người nghe. Bọn phản động Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, “đã được đàng chân lân đàng đầu” ông coi họ là “ngu như bò”. Trong các cuộc nói chuyện với công chúng hoặc sinh viên ông thường nói “ngu như bò” để chỉ bọn phản động. Những kẻ kêu gào đòi lật đổ Chính phủ Hồ Chí Mình, chúng cho là chính phủ cộng sản thì quả đúng la “ngu như bò” bởi vì trong chính phủ có vua Bảo Đại là cố vấn, Nguyễn Hải Thần là Phó chủ tịch nước, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh đều là Bộ trưởng. Chính bọn chúng đã vả vào miệng chúng. Còn những vị như Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, Bùi Kỷ, Phan Anh, Linh mục Phạm Bá Trực... nếu các ông này là cộng sản thì lừa bịp được ai kể cả trẻ con. Luận điệu xuyên tạc này giống như người nằm ngửa nhổ nước bọt lên nhưng bao nhiêu nước bọt lại rơi xuống mặt, như thế có phải là chúng “ngu như bò không?”. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ mới thành lập. Tiền trong ngân khố do chế độ cũ để lại chỉ còn hai ngàn bạc rách không tiêu được. Ta lại để tang hai triệu đồng bào chết đói vì bọn phát xít Nhật dùng lúa để chạy máy nên các kho lúa đều hết cả. Chúng ta lại còn diệt giặc dốt, giặc đói và diệt giặc ngoại xâm. Vậy thì làm gì ta có “sản” để mà “cộng” quả thật chúng “ngu như bò” và hơn cả bò nữa. Với khoa nói của ông rất nôm na, giản dị nhưng trong sáng, các tầng lớp nào cũng hiểu được. Những ví dụ lý thú đã gây nhiều ấn tượng cho người nghe.
______________________________________
1. Cua (tiếng Pháp là court) có nghĩa là cắt tóc ngắn cỡ 3 phân.
2. Vì tình hình trong nước & thế giới lúc đó, Bác Hồ tạm thời tuyên bố giải tán Đảng cộng sản Việt Nam - Đảng được nghi trang là Hội nghiên cứu Mác xít. Về dạy Mác xít tại trường có: Nguyễn Sơn, Đào Văn Trường, Nguyễn Chính Giao, Hà Huy Giáp, Lê Duẩn v.v...

Nguyễn Sơn 17 tuổi là một trong số người ngoại quốc học trường Võ bị Hoàng Phố1 đầu tiên của nước Trung Hoa. Trong thời kỳ tham gia Bát lộ quân (tức là Hồng Quân) ông là giáo sư giảng dạy về chính trị, về chiến lược chiến thuật, về công tác tổ chức vận động quần chúng thành từng đoàn thể để đi theo phục vụ cách mạng - Qua kinh nghiệm giảng dạy tại đại học kháng Nhật phân hiệu 2 trường đảng cục 2 trung ương và một số trường khác do trung ương đảng tổ chức, ông rất mong muốn tại Việt Nam được thành lập trường đào tạo cho cán bộ có đầy đủ trình độ, kinh nghiệm để chỉ huy và tổ chức quần chúng thành một hậu phương vững chắc chống xâm lăng.
Trong thời gian luyện tập cũng có những lúc gây cho anh em nhiều ấn tượng. Sau khi được nghỉ 5 phút trên đỉnh núi Thiên Ấn, chúng tôi thấy một chiếc xe hòm đen2 leo lên đồi. Xe này do ông Nguyễn Sơn lái vòng quanh núi và dần dần tiến vào chỗ tập. “Thầy hiệu trưởng đã đến”. Đại đội trưởng Đào Văn Trường tập họp các sinh viên để chào thầy, “Nghiêm” chào tư lệnh “Chào”, Nguyễn Sơn khoát tay và bảo anh em cứ tiếp tục học. Sau 10 phút quan sát ông cho tập hợp để giảng về sự phối hợp của bộ binh với các loại vũ khí nặng.
Thường thường ông hay đến chỗ tập của các đại đội khi ở núi Thiên Ấn, hay núi Bút, khi sông Trà hay Ba La, Thu Xà để góp ý cho sinh viên thu thập rõ ràng về bài đang học. Trần Đình Mai nói với tôi: Xưa kia chỉ có tên công sứ Pháp đi xe Limousin lên núi ngoạn cảnh. Nay tướng Nguyễn Sơn lái xe jeep lên núi này để dạy ta đánh Pháp. Sự kiện đó không những riêng anh mà các sinh viên khác đều lấy đó làm niềm tự hào được tướng Nguyễn Sơn làm thầy.
Có một lần, phòng Thông tin Quảng Ngãi tổ chức đêm văn nghệ để chào mừng ngày khai giảng trường Sĩ quan Quảng Ngãi. Ban tổ chức có mời các giáo sư và sinh viên tham dự các tiết mục có đơn ca song ca, vũ khúc và kịch - Cô Duyên Hường, một ca sĩ cũng là một hoa khôi của tỉnh và cũng là chị ruột tôi đã lên hát bài: “Thiên Thai” - Một tuần sau, cũng tại rạp này, ông Nguyễn Sơn nói:
- Chúng ta ở cách mặt trận hơn 100 cây số. Mọi người đang chuẩn bị tinh thần để chiến đấu từ bên trong địch đổ ra và dưới biển Thu Xà cách thị xã 10 cây địch có thể đổ bộ tấn công ta. Ta phải xếp bài Thiên Thai lại một bên và sau khi chiến thắng quân xâm lược chúng ta giở ra hát cũng không muộn - Chuyện đó đến bây giờ các sinh viên Lục quân vẫn còn nhớ - Hơn nữa anh Trường đại đội trưởng đại đội 3 của trường lại là người nhớ dai nhất vì anh đã lại nhà tôi đánh đàn Hạ uy Di cho chị tôi nghe. Nếu nhà trường kéo dài thêm 6 tháng nữa, anh Trường có thể là anh rể của tôi vì những ngày nghỉ anh thường đến nhà tôi chơi đàn.
Một lần khác tại sân vận động Quảng Ngãi có cuộc đấu võ Ăng Lê (boxe) 3. Họ đấu hăng đến nỗi sứt miệng chảy máu mũi. Ông Nguyễn Sơn leo lên đài và bắt buộc các võ sĩ ngừng tay không được đánh “Hiện giờ không phải lúc chúng ta gây thù hận giữa nhau. Lúc này nên tập trung hết sức lực đi vào hàng ngũ Vệ quốc đoàn để đánh giặc ngoại xâm. Tạm thời các anh em hãy dẹp lối chơi này qua một bên để đầu quân bảo vệ Tổ quốc đang cần đến sức lực các anh để giữ nước”. Nói xong ông yêu cầu Ban tổ chức dẹp liền cuộc đấu này.
______________________________________
1. Trường này do Tôn Trung Sơn mở. Ông là vị lãnh đạo Quốc dân đảng thục hiện cuộc cách mạng tân dân chủ tại Trung Quốc.
2. Xe hòm đen: Loại xe du lịch của Pháp tên Traction quinze
3. Ăng lê: tiếng Pháp là Anglais: người Anh. Xưa kia ta thưòng gọi là đánh bốc (tiếng Pháp là boxe)
19
Khi đợt 1 thi xong. Tôi qua bên Văn phòng Ủy ban kháng chiến miền Nam tại phía bên trái trước mặt trường. Tôi vào văn phòng bất ngờ gặp ông Nguyễn Sơn. Ông hỏi:
- Đồng chí Tài đi đâu đấy!
- Thưa Chủ tịch tôi xin cấp giấy phép dùng súng lục.
- Đánh sẵn chưa? Ông hỏi.
- Dạ có và có dán ảnh với nội dung được dùng súng tại khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam
- Đưa tôi ký.
Chủ tịch liếc sơ và ký liền.
Tôi cám ơn và nói:
- Đồng chí Chủ tịch có thể tiếp tôi trong 15 phút về vấn đề tình báo được không?
- Được, chiều 2 giờ đồng chí đến gặp tôi.
Đúng hẹn tôi đến và trình bày về tổ chức tình báo không biết ta có để ý chưa chẳng hạn - Guépiou của Nga, Scoland Yard của Mỹ, Zestapo của Đức, Intelligent service của Anh, 2 e bureau của Pháp. Ông giơ tay ngắt ngang.
- Tốt! Hiện giờ tôi và đồng chí Thanh Sơn đang nghĩ đến việc đó nhưng chưa có người huấn luyện.
Tôi nói liền:
- Chủ tịch yên chí! Tôi có người quen ở Sài Gòn làm trong sở nghiên cứu mật thám, anh ấy là bạn với anh tôi, hồi năm 1938, 1939, khi cha tôi là chủ bưu điện ở Phước Long, tỉnh Rạch Giá (Kiên Giang). Tôi học ở Long Mỹ và anh tôi học ở Collège Bassac - Cần Thơ. Sau anh lên Sài Gòn học và quen anh Đức. Hiện nay anh ấy đang ở trong bộ đội Bà Rịa thất trận trôi dạt ra ngoài này, Chủ tịch cần, tôi giới thiệu - Tôi tin anh ấy điều khiển lớp tốt.
- Bon! Sava , merci!1 Nói xong ông vỗ vai tôi.
- Cho anh ta gặp tôi vào 9 giờ 30 sáng mai.
Tôi trở về rất hân hoan và đi gặp Đức để cho biết cuộc hẹn này. Sau đó Đức đã đến đúng hẹn.
Cách hai tháng sau ông Thanh Sơn đã lập phòng Tình báo Điệp báo miền Nam Việt Nam và anh Đức người tôi giới thiệu là thầy huấn luyện cho khoá đầu tiên cho các học viên ở tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Phan Rang về học tại Phong Niên thuộc tỉnh Phú Yên trong thời gian 6 tháng vào đầu tháng 3 năm 1947. Sau đó rút lại còn bốn tháng vì tình hình chiến sự căng thẳng.
Ông Thanh Sơn đã cho người ra trường Võ bị Sơn Tây rút Phạm Ngọc Thảo mới học có 2 tháng ở Võ bị về. Sau đó là sinh viên Nguyễn Thống cũng ở trường Võ bị này được chuyển vào Nam Bộ năm 1948 làm phó khoa Tình báo Quân khu 9. Phòng Tình báo2, Điệp báo miền Nam Việt Nam được thành lập vào tháng 10, Phạm Ngọc Thảo làm Phó phòng3, Nguyễn Duy Khâm làm Trưởng phòng, anh Chi làm Chánh văn phòng.
Khi rời Tư lệnh Bộ, tôi gặp cô Nội vợ ông Nguyễn Sơn ở chung với một cô trong căn nhà gần Bộ Tư lệnh.
Trong dịp này Thiếu tướng Lê Thiết Hùng đại diện Bộ Tổng tham mưu đi thanh tra các trường quân chính tại miền trung. Ông có ghé thăm trường lục quân đang học giai đoạn đầu. Nhà trường được tin đã chuẩn bị thật chu đáo về mọi mặt.
Hiệu trưởng Nguyễn Sơn đã đón tiếp Thiếu tướng với nghi thức long trọng cùng các đại đội ngay hàng thẳng lối. Sau khi Thiếu tướng được hướng dẫn đi thăm trang trại kể cả nhà bếp và giếng nước, Thiếu tướng khen nhà trường tổ chức có quy củ, ngăn nắp tuy nhiên ông nhấn mạnh quân đội đi lên chính quy phải đầu tư nhiều hơn nữa. Nguyễn Sơn hoan nghênh sự đóng góp của Thiếu tướng đồng thời ông “phản pháo”. Ông vuốt râu và chỉ vào những trang trại che lá trong hoàn cảnh thiếu thốn, ông nói:
- Thiếu tướng ạ! (vì hai ông đều là bạn cùng học một trường Võ bị Hoàng Phố) đây là trường ở rất gần mặt trận nên cách huấn luyện dựa vào nhu cầu thực tế của chiến trường. Trường đóng ở một tình nghèo nên gặp rất nhiều khó khăn. Đây là một trường kháng chiến, các sinh viên vừa học vừa chuẩn bị luôn luôn sẵn sàng để chiến đấu khi địch tấn công. Vừa qua quân Pháp đã chiếm An Khê, nhà trường đã mở cuộc mít tinh và đã có đa số sinh viên tình nguyện ra mặt trận.
Trường Lục Quân bước qua giai đoạn đầu, Nhà trường đã mở kỳ thi sát hạch trình độ quân sự, chính trị của các sinh viên sau hai tháng học tập. Số sinh viên bị loại khoảng gần 50 người với một số lý do, sức khoẻ kém, học tập kém và vô kỷ luật. Sau khi thông báo kết quả thầy hiệu trưởng quyết định cho sinh viên tham gia cuộc luyện tập dã ngoại trong một tháng. Các sinh viên được đi thâm nhập các đơn vị từ Thanh Hoá vào tới Khánh Hoà. Đây là chuyến công tác vào thực tế chiến trường để sinh viên tham gia huấn luyện và sâu sát với đời sống bộ đội.
Tại mặt trận Đèo Cả, Củng Sơn đã có 2 sinh viên bị thương khi lâm trận. Một chuyến đi đầy bổ ích cho số sinh viên non trẻ mới bước khỏi ngưỡng cửa trường học phổ thông trung học được tập dượt để làm quen với không khí mặt trận.
Phòng Nam bộ đã kịp thời lập Đài tiếng nói Nam Bộ do các đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn, Huỳnh Văn Tiểng, Cao Hồng Lĩnh phụ trách đóng tại đình Thọ Lộc huyện Sơn Tịnh gần sông Trà Khúc - Đài đã loan nhiều tin chiến thắng của quân khu 5 quân khu 6, các hoạt động chống Pháp bằng mưu trí tại đồng bằng Sông Cửu Long và tố cáo tội ác của giặc tại miền Nam. Đài có nhiều chương trình phát thanh, ngâm thơ rất sinh động. Bọn Pháp cố tìm địa điểm này để phá hoại nhưng chúng không tìm ra được nơi đài hoạt động.
_______________________________________
1. Thế là tốt đấy! Cám ơn! Hồi ấy ai cũng sợ nói tiếng Pháp vì chính quyền quy là thân Pháp. Họ cho là Việt gian. Nhưng ông Sơn biết ai là người có học thức, đào tạo trường Tây, ông hay nói vài câu tiếng Pháp... cho vui với người đối thoại.
2. Nhân viên Tình báo phải là người có học thức để nghiên cứu các tài liệu tình báo các nước và các chủ trương của quân Pháp.
3. Phạm Ngọc Thảo là người công giáo, dòng Roma đậu tú tài làm kỹ sư công chính. Sau khi sinh viên Tài học xong lớp tình báo vào tháng 5/1947 Tài đã được phòng tình báo phân công làm phụ tá cho đồng clú Thảo với nhiệm vụ mở các đường bộ và thủy đưa cán bộ Trung ương, tài liệu và vàng để mua vũ khí ở Thái Lan đem viện trợ Nam bộ
 

Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc (23-26) tt


20
Quảng Ngãi cũng là trung tâm nhận các thương binh trên các chiến trường từ miền Nam ra dưỡng bệnh và dưỡng thương. Các chiến sĩ từ miền Bắc vào được nghỉ ngơi trước khi được phân phối ra mặt trận - Tỉnh Quảng Ngãi cũng là trung tâm văn hoá, văn nghệ miền trung để các chiến sĩ về nghỉ được giải trí trước khi đi nhận công tác. Tại rạp chiếu bóng đều có trình diễn văn nghệ dịp cuối tuần.
Trường Quân chính Đại đội đã mãn khoá vào tháng 7 do tình hình chiến trường miền Nam căng thẳng. Căn cứ vào tình hình chiến sự phía nam trung bộ, Nguyễn Sơn đã đề nghị được rút ngắn thời gian luyện tập của trường lục quân. Bác Hồ và Quân ủy Trung ương đã chấp thuận. Ngày 20/11/1946 trường Lục quân trung học cũng bế mạc.
Buổi lễ diễn long trọng và chứa chan tình cảm giữa thầy trò, quân dân. Sau khi tuyên bố kết quả học tập của các sinh viên, thầy Nguyễn Sơn căn dặn: sinh viên phải cố gắng khắc phục mọi trở ngại luôn học tập trong chiến đấu để làm rạng danh trường.
Các sinh viên phải hiểu vị trí mình trong hoàn cảnh lực lượng ta còn non yếu hơn địch rất nhiều, phải cùng đồng đội, đồng bào nuôi lấy lòng căm thù giặc và bọn Việt gian bán nước. Phải khắc phục mọi khó khăn, gian khổ sáng tạo trong chiến thuật, quyết đoán mau và dốc toàn lực diệt quân thù.
Cuối cùng đồng chí Lê Văn Kiện đại diện cho sinh viên toàn trường đã cảm ơn thầy Nguyễn Sơn cùng toàn thể Ban Giám hiệu và các huấn luyện viên ngoại quốc đã giảng dạy. Đồng chí Kiện không quên cám ơn đồng chí Bí thư, đồng chí Chủ tịch cùng các ban ngành, đoàn thể, nhất là các mẹ, chị chiến sĩ đã giúp đỡ về hậu cần cho trường trong khi tỉnh nhà phần đông ăn cơm sắn, khoai để nhường cơm sẻ áo cho sinh viên. Đồng chí đánh giá: chúng tôi xem đây là một mối tình đẹp nhất giữa địa phương và tiền tuyến, giữa quân và dân như cá với nước.
Sau lễ bế mạc, chúng tôi ra trường sớm hơn một tháng để kịp thời trường tung cán bộ về các địa phương. Tuy nhiên nhà trường cũng cho các sinh viên nghỉ 10 ngày phép để chuẩn bị hành trang, sau này lên đường ra mặt trận với sự phân công của nhà trường.
Riêng phần tôi, nhờ dịp này tôi đã được về thăm mẹ ở Gia Lâm sau 10 năm xa cách. Khi tôi lên 5 tuổi mẹ tôi đã đi tu nhưng năm sau bà được ông chánh tổng Gia Quất huyện Gia Lâm rước về làm vợ. Dịp này tôi đã gặp bà ở một căn nhà lá riêng biệt trong đất nhà ông Chánh tổng. Bà được sống độc lập nhưng vì ham buôn bán, gánh gạo nhiều quá nên bị cụp xương sống làm cho bà gù lưng. Bà vẫn còn mạnh khỏe khi tôi trở về trường. Đó là điều làm tôi rất mừng và yên chí vào tiểu đoàn Ba Dương thực hiện “Nam Tiến”.
Thế mà hơn 30 năm sau khi hoà bình lặp lại tôi mới gặp mẹ tôi, như thế cũng là điều may mắn hơn một bạn sinh viên trường này sau hiệp định Giơnevơ1 đáng lẽ được về nhà gặp mẹ nhưng vì có lệnh đi học Trung Quốc gấp trong 3 năm. Đến khi trở về nhà thì mẹ đã mất rồi...
Việc nghỉ phép 10 ngày riêng đối với tôi thật quý. Đây cũng là một quyết định rất tình cảm và khoa học của thầy Sơn đã dành cho các sinh viên được sum họp với gia đình trước giờ xuất phát và chuẩn bị từ tinh thần đến vật chất thật dứt khoát, gọn nhẹ trước khi trở về trường nhận nhiệm vụ phục vụ mặt trận tại 3 miền trung, nam, bắc. Họ đã rũ bỏ hết những vấn vương trong lòng trước khi ra đi với tinh thần sung mãn được vinh dự hiến thân cho Tổ quốc. 
21
Nhận được quyết định số 214 ngày 20 tháng 11 năm 1946 ông Nguyễn Sơn đã bàn giao với Thiếu tướng Lê Thiết Hùng sẽ thay ông làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam và ông sẽ về trung ương làm Tham mưu trưởng. Đi theo ông có 17 người gồm 1 cần vụ, 1 y tá, 1 thư ký và 2 bảo vệ với 10 sinh viên lục quân Quảng Ngãi, bà Nội vì mang thai 4 tháng nên ông để ở lại khi nào yên sẽ ra Bắc sau.
Ông cho biết trước đường đi ra Bắc rất gian nan phải xuyên rừng vượt núi. Ông ra lệnh mỗi người phải chuẩn bị một ruột tượng 5kg gạo - Và lương khô cùng đồ gia vị muối vừng (muối tiêu) muối đậu. Mỗi người được cấp 1 võng, 1 tấm ny lông che mưa và để đắp, 1 hộp mùng tròn dùng khi đứng gác, hộp này trồng vào đầu để tránh muỗi, một khăn mặt, một đôi giầy da và hai đôi tất, 30 viên thuốc cảm, ỉa chảy và kiết, một gói nhỏ bông băng với lọ thuốc đỏ - Ông giao la bàn cho thư ký quản lý.
Các đồng chí Nguyễn Chánh, Phạm Kiệt, Hoàng Quốc Việt đã tổ chức một bữa cơm tiễn đưa ông Nguyễn Sơn và đoàn đi về trung ương có mặt cả cô Nội. Trong bữa ăn ông nhắc nhở các vị chỉ huy nên chú ý vùng biên giới Trung Lào, địch có thể xâm nhập bất cứ lúc nào kể cả các cửa biển Mỹ Khê, Thu Xà, Sa Huỳnh - nhất là Sa Huỳnh nên có những phòng tuyến chống địch đổ bộ - Nơi đây là đường huyết mạch, núi lại sát biển nếu địch chiếm được chúng sẽ uy hiếp vùng Đức Phổ, Mộ Đức làm trở ngại cho hoạt động quân sự của ta.
Hiện lại tỉnh Buôn Ma Thuột đã thành lập 3 đại đội độc lập, 3 đội vũ trang tuyên truyền và 3 ban xung phong công tác gồm:
- Đại đội độc lập 29 phụ trách Cheo Leo và tả ngạn sông Ba.
- Đại đội độc lập 79 hoạt động ở M’Drak
- Đại đội độc lập 49 hoạt động ở Buôn Hồ2
Phải liên lạc với 2 ban xung phong công tác ở bản Đôn và một ban hoạt động ở phía Tây đường 14 (từ Buôn Ma Thuột đến Buôn Trắp) để chỉ đạo chiến đấu.
Tình hình lúc này thuận lợi cho ta vì các cán bộ, đảng viên các cấp, bộ đội du kích, bắt đầu bám vào dân, bám đất, vào cơ sở cách mạng. Tuy nhiên các đồng chí phải theo sát tình hình để tìm cách tạo cho địa phương những thuận lợi trong chiến đấu và xây dựng. Đây cũng chứng tỏ về mặt chiến lược khi ông mới bước chân vào miền Nam ông đã lên liền An Khê để chỉ đạo việc bố phòng mạn sườn của Trung bộ là Buôn Ma Thuột, Pleiku, Kontum chống lại dã tâm lấn chiếm của thực dân Pháp.
Mãi 8 giờ tối mới chia tay. Theo thường lệ, sau buồi cơm chiều ông nghỉ chừng 15 phút và sau đó là giờ đọc sách của ông tối thiểu cũng phải mất 2 giờ. Đây xem như kỷ luật ông đã áp dụng suốt thời gian ở nước bạn.
Đặc biệt tối nay, ông bỏ việc đọc sách, và lái xe đưa cô Nội đi vào Sa Huỳnh vì biển Mỹ Khê cô Nội đã đến tắm biển ở đó rồi.
Trước khi đi ra bắc ông cũng có chuyện cần bàn với cô
_______________________________________
1. Hiệp định đình chiến tại Genève (Thụy Sĩ) giữa Pháp và Việt Nam ký kết vào tháng 7/1954.
2. Trích cuốn Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc tập 2 năm 1992.







22
Biển Sa Huỳnh nằm hai bên ngọn núi nhỏ gần bờ. Ánh trăng bàng bạc khắp trời - Hai người leo ngồi trên tảng đá phẳng lì. Cô Nội ngả người vào vai ông - Ông lại nhớ phảng phất mùi hoa bưởi khi mới gặp nhau - Cô Nội nói:
- Về đây nhiều khi em nhớ Huế nhất là ngày đầu tiên gặp nhau chúng mình rong chơi cả ngày quên ăn...
- Em lãng mạn còn hơn anh! Chỉ khi nào em cười anh mới thấy đấy là Nội của Huế năm xưa, và những lúc...
Cô Nội cướp lời:
- Những lúc mình cãi nhau, là anh không nhớ phải không? Nói rồi cô véo vào đùi ông. Ông suýt xoa nói nhỏ: Đừng thế!
Ông xoay mặt cô hôn cô và bảo:
- Bao giờ anh cũng yêu quý em kể cả hòn máu đang nhúc nhích trong bụng em! Em cũng biết thời giờ đối với anh rất quý vì thế có khi em buồn vì thời gian gần bên em ít ỏi và anh lại là người tham công tiếc việc anh phải luôn xuống chỉ đạo tại các tỉnh, huyện và những điểm anh cảm thấy còn yếu kém. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến cán bộ, chiến sĩ phải được chăm sóc cũng như ta trồng cây. Giống cây tốt đã đành nhưng nếu ta không bón phân và luôn tưới nước thì cây, cũng không thể nẩy mầm ra hoa kết quả mau chóng được.
Hai người tâm sự với nhau một hồi lâu. Trăng vừa ló trên ngọn núi trước mặt. Họ đã thỏa thuận ông Sơn đi ra bắc và sau khi sinh đẻ xong vài tháng cô Nội sẽ ra sau.
Hai vợ chồng lên xe ra về khi trăng lên khỏi đỉnh núi. Biển vẫn im lìm dưới bầu trời xanh lơ - Không ngọn gió, không tiếng sóng dạt dào. Không một bóng người - Ánh sáng mờ mờ của biển và trời nhập nhòa. Cảnh biển lùi dần phía sau xe...
6 giờ sáng ngày 02 tháng 01 năm 1947. Đoàn được một xe ô tô lớn chở ra Tam Kỳ. Tại đây bắt đầu cuộc đi bộ xuyên rừng vì đường sá đã bị phá hủy. Các địa phương triệt để “Tiêu thổ kháng chiến” 1 vườn không, nhà trống, đường quốc lộ đào thành những hố ngang dọc để đề phòng quân Pháp không thể dùng đường để đi ruồng bố, dùng nhà để ở dễ dàng.
Đoàn đã phải vất vả khi qua các khu vườn hoang, dân chúng di tản xa thành thị tất nhiên đoàn phải tự chuẩn bị nấu nướng để giải quyết bữa ăn dọc đường. Qua ba ngày đi trong núi rừng, đoàn đã lên được đỉnh đèo Hải Vân.
Ngồi trên tảng đá Nguyễn Sơn thấy mây bay là là dưới chân như những dải bông gòn - Khí lạnh núi rừng làm tê buốt mặt. Sau khi ăn cơm nóng sốt anh em phải tìm những cành khô nhóm lửa sưởi tay. Lúc anh em vào ngủ trong lều vải Nguyễn Sơn vẫn ngồi trầm ngâm bên bếp lửa sắp tàn. Ông nhìn màn đêm mờ mờ dưới trăng đã gợi ông nhớ đến Ngũ Hành Sơn, đến thôn Đông Dã nhà của người vợ trẻ Trần Kiếm Qua, cái tên do ông đặt và nàng đã vui lòng chấp nhận. Kiếm Qua có nghĩa là gươm, giáo hợp với bản chất cứng rắn của nàng thay vì tên Ngọc Anh. Nàng là người năng động, quả cảm, cứng rắn, nói là phải làm cho được. Mọi việc quyết định mau lẹ, tính tình như đàn ông. Nàng đã dám cắt tóc ngắn trong khi phụ nữ Trung Hoa lúc ấy để tóc dài và thắt bím của thời phong kiến. Ông đã cưới nàng bất chấp luật lệ của Hồng Quân vì sự kiện này ông đã bị kỷ luật “khai trừ khỏi đảng”.
____________________________________
Tiêu thổ kháng chiến là tất cả đường sá, cầu cống, nhà gạch kiên cố, thành quách đều phá để quân địch khi tiến chiếm không có chỗ ở, không vườn rau để ăn...

Trăng vẫn mờ mờ thấp thoáng sau những làn mây đang lững lờ trôi trên khắp núi đồi. Ông nhớ lần lượt hồi mới gặp Kiếm Qua, nàng đã chấp thuận cùng ông sinh cùng một ngày (1/10) Ông nhớ ông nắm tay nàng, ông lắc lắc và nói:
- Em hãy ghi nhớ không cần biết năm nào tháng nào ta chết, hãy cứ quyết định chúng ta sinh ra cùng tháng cùng ngày. Ngày ấy là ngày 1/10 và ta tôn thờ chủ nghĩa cộng sản mãi mãi. Ông nhớ cả bữa tiệc cưới chỉ có ông nội của Kiếm Qua đứng chủ hôn. Ông đã hứa trước ông nội và anh em: “Thưa ông nội! Xin ông cứ yên tâm, cháu và Ngọc Anh trên trời như đôi chim liền cánh, dưới đất như hai cành lý liền cành sẽ theo cách mạng cho đến chết, cháu nguyện cùng kết bạn với Ngọc Anh suối đời”. Nói xong ông uống hết chén rượu đầy không còn sót một giọt. Cảnh tượng đêm động phòng ông nhớ rõ như in.
Khi vừa tiến vào “phòng hoa chúc” 1, tửu hứng của Hồng Thủy vẫn còn. Ông bỗng nổi hứng vừa đi lại vừa cao giọng ngâm bài thơ đã làm rung động Hoa Hạ của thi sĩ Vương Bột đầu đời Đường. Bài thơ “Đằng Vương Các” bất hủ. Khi ông đang say sưa ngâm đến câu: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi; Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” là 2 câu thơ hay tuyệt trần, Kiếm Qua nhịn không được, cười rũ ra:
- “Anh vừa làm rể của Trung Hoa, lại vừa muốn làm “thiếu niên tài tử” của Trung Quốc nữa cơ đấy!”
Hồng Thủy dừng lại hỏi Kiếm Qua:
- “Kiếm Qua, em có biết Vương Bột là nhân sĩ đất nào không?”
- “Tất nhiên là em biết! Ông ta là người Hà Tân, Sơn Tây, là “thiếu niên tài tử” của quê em. Ông được coi là người đứng đầu “Tứ kiệt” thời đầu nhà Đường”.
- “Thế em có biết ông ta chết chôn ở đâu không?”
Cô lắc đầu im tịt.
Ông từ từ thong thả đáp:
- “Vương Bột chết chôn ở Việt Nam ”.
Cô nghĩ rằng có lẽ trong khi vui mừng ngày cưới, Hồng Thủy lại da diết nhớ về Việt Nam chăng, nên cô không dám hỏi.
Hồng Thủy bỗng nhiên cười phá lên “Người Sơn Tây và Việt Nam có duyên với nhau đấy!”
Bấy giờ Kiếm Qua mới rõ là Hồng Thủy chúc mừng hai người thành đôi thành lứa.
Về vấn đề Vương Bột cha là Vương Phúc Kỳ, một huyện lệnh của quận Giao Chỉ thời đó (nay là Việt Nam ). “Đằng Vương Các tự” là tác phẩm của Vương Bột sáng tác tại Nam Dương, Sơn Tây.
Trên đường về nam, sang Giao Chỉ thăm người thân vào mùa thu năm 676 (sau công nguyên). Vương Bột cùng gia đình cả thảy 7 người đi thuyền vượt biển gần tới bờ thì biển nổi bão lớn, thuyền chìm. Tất cả đều chết hết. Theo truyền thuyết thì sau khi thuyền chìm, chỉ duy nhất xác Vương Bột nổi lên và trôi dạt vào bờ bắc sông Lam (ở Trung Bộ Việt Nam ). Thời ấy Vương Phúc Kỳ làm quan được lòng dân, nên dân chúng tổ chức chôn cất Vương Bột tử tế. Người dân địa phương thường đồn đại: cứ nửa đêm ở hai ven sông lại vang lên tiếng Vương Bột ngâm hai câu thơ tuyệt cú:
“Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”.
Tạm dịch:
Ráng chiều theo cánh chim cô đơn
Nước mùa thu lẫn trời một sắc.
Dân chúng bèn lập đền thờ Vương Bột để cầu cho vong hồn của một thiếu niên từ miền Bắc Trung Quốc đến đây gặp nạn tại Việt Nam . Ít lâu sau người cha của Vương Bột là Vương Phúc Kỳ tạ thế. Dân chúng địa phương cũng đem chôn ông cạnh mộ của con, và thành kính thờ. Trải hơn một nghìn năm đã trôi qua, hương khói của đền vẫn luôn nghi ngút cho đến bây giờ.
“A! Anh còn là một nhà Trung Quốc học”. Kiếm Qua mỉm cười khen ông.
- Em còn nhớ 2 câu thơ khác của Vương Bột cũng đã được lưu truyền thiên cổ không?”
“Hải nội tồn tri kỷ
Thiên nhai nhược tỉ lân”
Tạm dịch:
“Bốn bể còn tri âm
Chân trời xa mà gần”
Kiếm Qua và Hồng Thủy thực sự hợp ý nhau. Khi ấy hai trái tim của hai người đã hoà cùng nhịp đập. Người này mới mở miệng người kia lại đáp liền.
Đây cũng thể hiện tính hiếu học của ông đã nghiên cứu về cả văn chương cổ đại Trung Quốc.
________________________________________
1.      Phòng hoa chúc có nghĩa là phòng ngủ của đôi tân hôn.
                                                                               24
Một hôm, bí thư Đặc ủy Tấn Đông Bắc, Vương Dật Quần, mời Kiếm Qua lên phòng làm việc của ông. Ông mặc một chiếc áo bông dài, hai tay đút vào hai ống tay áo, đi đi lại lại, mặt có vẻ đăm chiêu. Kiếm Qua nghi ngại không hiểu ra sao. Ông ngừng lại và hỏi thẳng:
“Nghe nói cô và Hồng Thủy kết hôn rồi, có phải không?”
Kiếm Qua gật đầu, cảm thấy có điểu bí ẩn.
“Cô có biết Bát lộ quân có một điều quy định, không cho phép quan binh kết hôn trong thời gian kháng Nhật không?”
Cô lắc đầu “Không biết ạ”
Lúc đó mặt cô đỏ bừng lên. Bản tính cô rất bướng, thế mà lúc ấy vì chuyện kết hôn bị phê bình, thật chẳng biết làm thế nào cho phải.
Thấy thái độ phản ứng của cô, Vương Dật Quần dịu giọng hơn:
“Việc này không trách cô được, điều này do Bát lộ quân quy định. Cô cũng lớn tuổi rồi, ở huyện Ngũ Đài, người tuổi như cô thì đã có con bồng, con mang”
Vương Dật Quần không phê bình cô nữa, song trong lòng cô rất không yên. Điều quy định chỉ áp dụng với người trong Bát lộ quân, thế nhưng “sai lầm” đó đều do hai người gây nên. Nghĩ lại cô vô cùng lo lắng cho Hồng Thủy. Vì việc lấy vợ này, Hồng Thủy bị phê bình, song ông không nói nửa lời cho cô hay. Hồng Thủy là người tính tình quả cảm, chỉ cần thấy đúng là ông dám làm và cũng dám chịu. Trời có sập, thì một mình chịu, quyết không để ai bị liên luỵ, và nét mặt vẫn bình thản như không có gì xẩy ra.
Cô hiểu rõ tính cách của Hồng Thủy. Việc ông Vương gọi cô lên nói, cô cũng không kể lại. Cô nghĩ Hồng Thủy đã chịu đả kích quá nhiều, lẽ nào cô lại gây thêm nỗi đau lòng cho ông! Hồng Thủy đã ba mươi tuổi rồi, thời gian ở trong Bát lộ quân đâu có ngắn. Hàng ngày anh vẫn vui vẻ, nói nói, cười cười, không lúc nào thấy anh lộ vẻ buồn rầu. Một người chịu nhiều đả kích như thế, nếu không có ý chí cách mạng kiên cường thì sao còn luôn giữ được niềm lạc quan.
Việc Hồng Thủy và cô lấy nhau, nghe nói trong Bát lộ quân thời đó là việc xảy ra đầu tiên và vang dội khắp nơi. Một số cán bộ lớn tuổi đều cười:
- Hồng Thủy đã có vợ, chúng ta lớp lớn tuổi chắc có thể được cấp trên lưu ý và thay đổi chính sách đối với cán bộ lớn tuổi chưa vợ chăng!
Tin Hồng Thủy cưới vợ và bị khai trừ khỏi Đảng đã được truyền về Diên An, đến tai Mao Chủ tịch và Chu Tổng tư lệnh. Hai người cảm khái nói: “Đây là lòng quân rồi! Con đường cách mạng Trung Quốc quá dài. Rất nhiều chú bé ngày nào vào bộ đội, súng đeo dài lê thê gần quét đất, tham gia chống bao vây dũng cảm, xông pha trận mạc, đánh rồi lại tiếp tục đánh nữa, luôn hăng hái trung thành với cách mạng. Nay đã quá tuổi. Yêu cầu lấy vợ ngày càng bức thiết. Địa bàn của khu giải phóng có hạn con gái vốn dĩ đã thiếu, nay lại về đóng thêm bao nhiêu quân, tỷ lệ nam nữ chênh lệch rất lớn. Tại Diên An tỷ lệ đó đã đạt tới mười tám nam trên một nữ. Tranh dành với đàn bà con gái địa phương, thì làm sao còn được lòng dân! Chúng ta phải nghĩ ra một giải pháp hợp lý để hạn chế việc bộ đội kết hôn, chứ không nên cấm hẳn.
Cấp lãnh đạo quân đội bàn đi tính lại rồi ra một quy định gọi là “28 + 7 + đoàn” (Đoàn: trung đoàn), tức là người đã đủ hai mươi tám tuổi, có bẩy tuổi quân, là cán bộ cấp trung đoàn, phù hợp với điều kiện trên thì được phép kết hôn.
Tuy có quy định nghiêm như vậy, song số lượng nữ đồng chí quá ít. Vì vậy bộ đội chiến đấu có thêm một nhiệm vụ nữa: mỗi khi đến một nơi nào, hết sức thu nạp nữ thanh niên tham gia quân đội, làm cán bộ hậu cần.
Khi nói đến chuyện này, các đồng chí lớn tuổi đã dự đoán đúng và hả hê nói với nhau:
“Phải cảm ơn Hồng Thủy đã nã phát súng đầu tiên tạo điều kiện cho chúng ta lấy vợ”.
Sự việc cô và Hồng Thủy kết hôn đã làm Mao Chủ tịch và Chu Tổng tư lệnh phải thay đổi chính sách hợp lý khoa học đối với các cán bộ trong quân đội.
25
Trăng le lói trên dải Trường Sơn. Đêm này ông lại liên tưởng đến người vợ đầu tiên đã có một cháu gái mới vài tháng. Bà tên Hoàng Thị Diệm người Hà Nội, học lớp 5 sau bỏ học bán hàng xén1, là người xinh đẹp thùy mị của đường Quán Thánh. Lúc bấy giờ khi quen nhau ông mới 16 kém bà 4 tuổi. Mỗi lần đi học ngang qua quán, ông đều tìm một lý do để mua hàng của bà. Có lần ông mua gói thuốc lào, ông để lá thư tỏ tình trong gói thuốc và trả lại bảo là thuốc hỏng. Bà giở gói thuốc và biết là thư của ông. Nội dung muốn nói gì, bà nhìn ông và cười. Sau đó bố ông đã sắm lễ vật xin cưới bà Diệm cho con mình.
Trong vòng 1 năm giữa 2 bà thông gia có chuyện bất đồng. Chiều theo ý mẹ, vợ ông ôm bé Võ Thanh Các về bên ngoại. Sẵn dịp đồng chí Thụ đón ông qua Trung Hoa gặp Bác Hồ để tham gia cách mạng, ông giả vờ gây gổ đập tan cửa kính, chửi bới om sòm cho láng giềng biết để tối hôm đó ông, cùng đ/c Thụ và một người nữa đi tàu hỏa lên Bắc Giang. Bắt đầu từ đây ba người phải đi bộ qua Trung Quốc đến Quảng Châu.
Thuở ấy nếu thực dân Pháp biết nhà nào có người làm cách mạng, là chúng đầy đọa gia đình người ấy khổ sở điêu đứng - Vì tránh tình trạng liên luỵ đến gia đình bên vợ, ông đã tạo một màn kịch giả trước khi đi để tránh con mắt soi mói của mật thám Pháp. Ông cố hét to cho hàng xóm nghe để lấy cớ trước khi ông đi bọn mật thám không chú ý. Đoàn ông đi trong 3 ngày bằng đường bộ lên đến biên giới vì khi đó đường tàu hỏa bị phá nên phải băng núi rừng về Quảng Châu rất vất vả vì phải luồn tránh những đồn của Quốc dân đảng.
Tại đây ông đã gặp lại Bác Hồ lần thứ 2. Ông ở với Bác một tuần, sau đó ông được vào học trường Hoàng Phố2. Khi ra trường Bác giữ ông lại bên Bác để làm sĩ quan liên lạc với các cán bộ cao cấp của Hồng Quân.
______________________________________
1. Hàng xén: hàng tạp hoá.
2. Trường sĩ quan đầu tiên của Quốc dân đảng - Lê Thiết Hùng trong đội ngũ quân Tưởng cũng học trong này.
26
Trên đỉnh Hải Vân, ánh trăng khi mờ khi tỏ. Gió lạnh từng đợt lùa vào lều vải. Ông bỏ thêm củi cho to ngọn lửa để xua đuổi khí lạnh đang bao vây quanh người. Xa xa dưới dãy núi chỉ thấy một dải trắng xám mờ mờ. Trời lẫn lộn với biển và thỉnh thoảng có đám mây từ từ bay qua dưới chân ông. Ông lại nhớ Kiếm Qua sau thời gian động phòng 2 người đều không có mái nhà để ở và cả hai đều ở cách nhau 4, 5 cây số. Lúc đó ông từ Cục chính trị được điều về tại báo Kháng Địch nên ít gặp Kiếm Qua. Tờ báo này đã ra được 20 lần và viết chữ ngược lên đá litho1 để in báo. Khi ông ra thêm 1 số thì tòa báo bị máy bay Nhật đánh phá sập trụ sở. Ông được Ủy ban huyện cấp cho 1 máy in với số chữ chì. Những máy móc này rất lạ đối với ông nhưng ông quyết mấy mò cùng anh em xếp chữ tranh thủ ra báo lần thứ 22 - Sức làm việc của ông suốt ngày đêm đã cuốn hút các nhân viên cán bộ, nhà in và toà soạn cùng làm như ông. Từ đấy ông viết truyện ngắn, xã luận và thơ. Thời gian ông phụ trách đã ra được 5 lần báo thì ông được chuyển công tác.
Tư lệnh Bát lộ quân đã công nhận tờ báo của biên khu do ông làm chủ nhiệm đã tạo nội dung tốt và trình bày phong phú hơn trước. Song song trong thời gian này ông cũng đã thành lập Ban kịch nói với 5 người và 1 nữ là vợ ông. Sau lần ấy vợ ông đã lôi kéo bạn bè trong hội phụ nữ được thêm 4 người làm ca sĩ trong Ban kịch2.
Năm 1939 do sự phát triển của Bát lộ quân yêu cầu phải thành lập thêm trường huấn luyện đông của giặc Nhật. Sau đó Sư đoàn Hạ Long lại thắng 1 trận lớn tại Trần Gia Trang gần nhà trường. 
 cấp bách, Hồng Thủy được điều về làm Phân hiệu phó phân hiệu 2 trường đại học kháng Nhật do La Thụy Khanh phụ trách. Đây là trường đại học đầu tiên tại khu căn cứ địa. Các giáo viên đều có trình độ tú tài trở lên, Hồng Thủy phụ trách chủ nhiệm khoa chính trị.
Thu đông 1939 Bát lộ quân đánh 3 trận lớn tại Trấn Đông Bắc đập tan chiến dịch vây quét mùa đông của giặc Nhật. Sau đó Sư đoàn Hạ Long lại thắng 1 trận lớn tại Trần Gia Trang gần nhà trường.