Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam


Giuse Phạm Hữu Tạo


     tháng Tư 1975, nhiều người nghe nói đến Việt Cộng hay Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam rất ớn. Có chúng tôi trong đó!
     Bởi vì nói đến Việt Cộng, MTGP/MN lúc đó là nói đến những gì gớm ghiếc, ghê tởm vô cùng. Đến nỗi ngoài này, có một tác giả bị báo chí “quốc gia” tấn công rách như cái mền, vì dám viết về quân đội hào hùng say sưa và hãm hiếp, thì phải hiểu nói về VC hay tổ chức ấy không hãi hùng dễ sợ sao được! Nhưng phải bình tĩnh và nhìn vào thực tế. Bác sĩ có Hội Đồng Kỷ Luật Y Khoa (Medical Board Examiners), gồm một số bác sĩ hợp thành một ủy ban để điều tra những trường hợp vi phạm của đồng nghiệp. Luật sư có luật sư đoàn vv … Đại khái là ngành nghề nào cũng có ủy ban điều tra, kỷ luật. Thường dân thì có tư pháp, và nhà giam. Cho nên vì khác chiến tuyến nên VC hay MTGP/MN đều là xấu, và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), nhất là quân lực thì khỏi chê. Binh hùng, tướng mạnh, nói đến những gì không tốt hay sai quấy là phản tuyên truyền phá hoại của địch. Tốt đẹp thế sao lại phải có Nha Quân Pháp Bộ Quốc Phòng và Quân Lao? Chẳng lẽ Nha Quân Pháp và Quân Lao do địch xúi chính quyền VNCH lập ra để nói xấu, làm xấu quân binh chủng “hào hùng”.
     Việt Cộng và MTGP/MN đều là những kẻ đại thắng sau tháng Tư 75. Họ không cần phải ca ngợi kiểu khen phò mã tốt áo. Nhưng phải ngay thẳng công bình. Nghĩa là tận cùng bằng số có sao nói vậy.

     Bài này, trước hết, xin nói đến MTGP/MN.
     Phải gạt bỏ hận thù và thành kiến hay  tuyên truyền, đây là cái tênđep. Rất đẹp, muốn sửa hay thêm bớt không được. Cũng như những câu “đánh Pháp cứu nước, đánh Mỹ cứu nước”, hay “đánh Giặc áo đen bán nước” thêm ra sao và bớt thế nào? Trong dân tộc ai không muốn đánh đuổi ngoại xâm cứu quốc hay không muốn phát hiện nguyền rủa bọn nấp bóng đạo để bán nước; như những Nguyễn Văn Lý. Tám năm tù, quá nhẹ ngày xưa là phanh thây xé xác. Bộ tên linh mục này đui hay sao khi y không thấy Bênêdictô XVI đón tiếp TT Nguyễn Tấn Dũng, hay trình diễn ngủ gục trước màn ảnh truyền hình là Gioan Phaolồ II đã sang yết kiến quỷ vương Fidel Castro, chúa chùm loài quỷ đỏ của nước Cuba. Thôi thì giáo dân quèn không thấy cũng bỏ qua được, mặc dù không ngừng nghỉ :“Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển thế gian”; chứ linh mục Tađéo Nguyễn Văn Lý, lý đoán cùng mình, tranh đấu cùng mình, lại không thấy hai ngôi sao sáng cấp cao hơn trung ương đảng là thánh cha, cha thánh xiết tay thân hữu, hóa ra con mắt cha Lý là con mắt trâu luộc à? Hay là sách lược trên đàm dưới đánh? Hai ngàn năm cuội mà La Mã qua cầu trót lọt được hết, nên cũng phải thận trọng dù còn yếu tố ngờ vực (benefit of the doubt). 
     Trở lại với MTGP/MN phải công nhận hai điểm son, điểm sáng là :
     Thực sự chiến đấu gian khổ, cho đến lúc hoàn tất và chấm dứt nhiệm vụ.
      Và là một kế sách tuyệt vời nhất của cụ Hồ, không sơ xuất để Mỹ lấy cớ tấn công miền Bắc, gây xáo trộn hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam. Thử hỏi nếu Mỹ đánh ra Bắc nước ta, như chiến tranh Cao Ly thì nước ta còn bị tan hoang và tàn phế đến mức thảm thiết nào? Biết rằng chiến tranh chống ngoại xâm lại bị nội tuyến áo đen, thì gian khổ, hy sinh mấy cũng không sờn lòng!
     Với hai nhiệm vụ để hoàn thành sự nghiệp cứu quốc, MTGP/MN quả thật đã chết cho Việt Nam được sống.
     Nói đến MTGP/MN phải nói đến Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Việt Nam tức là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh (MT/HCM). Sao có thể cùng viết và ca ngợi hai mặt trận đối nghịch nhau như vậy? Thưa được, vì một mặt trận đánh giặc trong thù ngoài, một Mặt Trận mở mắt Việt kiều hải ngoại. Có thể vì vậy mà đề đốc có một người cháu là bác sĩ nhãn khoa!
     Không kể thường dân không nhìn thấy hay không ý thức được việc làm, chứ ngay cả các trí thức, lớp tinh hoa của miền Nam, các viên chức cao cấp chính quyền quân dân sự mà cũng làm thầy bói mù, nên lênh từ lúc ra khơi là đúng rồi. Đồng chí đồng tình không có. Thành lập theo cách đẻ dễ, đẻ không đau và nhất là ngay tại nơi chắc chắn làm mồi cho chính quyền bản xứ, vì chính quyền, lúc đó đang tiến tới và nay đã bang giao với Việt Nam. Trên thế giới có hai thế và thần quyền mạnh nhất, lớn nhất là Mỹ và La Mã; một bên đổ đô-la vào một bên ban phép lành tòa thánh; đạp vào mặt bọn chống Cộng đến nỗi chúng lịm người và lịm tắt, không lóe lên được một ánh sáng leo lắt bên kia đường hầm. Như vậy phải biết rõ, biết chắc những chính quyền bản xứ mọi nơi không bao giờ cho phép một đảng chính trị, một tổ chức không dưới sự kiểm soát của họ. Tại miền Nam không nói đến đối lập bị giết như Vũ tam Anh, Nguyễn Phan Châu vv … mà chỉ là đảng ngoài đảng cầm quyền cũng không sống nổi. Do đó, khi tố cáo hay nguyền rủa mặt trận của đề đốc buôn bán kháng chiến là sai, làm tiền là sai, vì làm gì hợp pháp khi chính quyền ở đâu  nhất là ở Mỹ không cho phép gì ngoài làm ăn, làm tiền? Như thế, chúng tôi xin thành thật minh oan cho tổ chức của đề đốc và cho đề đốc. Nên khi đề đốc hy sinh, ông Đạo Tôn, thờ đề đốc là đúng. Còn đồng bào đóng tiền là hoàn toàn tự nguyện, Mặt Trận kêu gọi và đồng bào đồng ý thuận lòng. Còn lời qua tiếng lại, ở đâu thời nào cũng thế. Ngay Tòa Thánh mà sách báo còn đụng tóe lửa ngay mặt (head-on collusion), huống chi Mặt Trận là tổ chức quần chúng công khai, tránh sao khỏi lời ong tiếng ve. Nên không gì hơn là ghi nhận sự thực của hai MT. Một đánh đuổi ngoại xâm, một triệt để tuân hành luật pháp Hoa Kỳ; làm ăn buôn bán, để đóng tiền vào ngân hàng có kiểm soát chặt chẽ, thử hỏi còn gì bằng! Chính quyền Mỹ chỉ muốn vậy thôi, còn tổ chức những ngày vinh danh, sách báo tung hô chỉ là những hành vi lịch sự xã giao; phải cân bằng bằng đóng góp, như góp phần làm cho «nền kinh tế thêm mạnh, tham gia vào giòng chính, tốn tiền và thời giờ; chứ không phải là nói xuông.
     Vậy xin trả lại sự thật cho hai mặt trận và nhất là kế sách tuyệt vời không để Mỹ có cớ đánh vào hậu phương Bắc Việt của miền Nam thành đồng vách sắt. Còn xây tượng đài chiến sĩ, hay treo cờ, nếu phạm luật, chính quyền bản xứ hiển nhiên không để yên. Xây tượng và treo cờ đều phải bỏ tiền ra, ai lọt vào “Thị Trường Chung” người đó hưởng. Ai bỏ ra thì cũng là tiền, làm cho đồng tiền luân chuyển, đúng sách vở của kinh tế tư bản! Còn chuyện đi Mỹ, chúng ta cũng phải nhận ra một thực tế nữa là phải nói đến hai chữ “du học!” Vậy mà đã thua trận, không cứu nước lại chống Mỹ, mà Mỹ vẫn cho đi du học, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, không cần bằng cấp, không cần thi tuyển mà từ đàn bà con nít, qúy vị cao niên, không phân biệt kỳ thị, đến nỗi thi quốc tịch cũng bằng tiếng Việt, muốn gì nữa, kẻo mang tiếng mẹ chồng độc ác khắt khe! Sang đến Mỹ, chưa học gì hết, lại đẻ con ngay, Mỹ đúng là quý nhân :”Tu thân là sửa mình, người dậy ta là thầy ta, người giúp ta là bạn ta”. Cùng một lúc vừa là bạn vừa là thầy, khỏi chê!
     Tóm lại, trước thành tích của MTGP/MN và bài học giải phẫu mắt của MT Đề Đốc, ngoan cố xác định: “Chúng tôi không công nhận cờ đỏ ”, nhưng chính quyền Mỹ không thèm trả lời, họ kiên nhẫn đợi những thế hệ tới được khai tâm của nền giáo dục Mỹ, thoát khỏi căn bệnh ấu trĩ! 
Phạm Hữu Tạo, ngày 2/8/07
ĐDTB. ngày 30/9/07

Thứ Năm, 4 tháng 4, 2013

NHỮNG BÓNG ĐÈN KHÔNG ĐƯỢC SÁNG

MẤY NĂM GẦN ĐÂY  Ở THỊ XÃ QUẢNG TRỊ CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG CÔNG ĐƯỢC MỌC LÊN, ĐÃ THAY ĐỔI DIỆN MẠO CỦA MỘT THỊ XÃ BỊ TÀN PHÁ TRONG NĂM 1972.
NẾU AI ĐẾN ĐÂY HÔM NAY SẼ NGỠ NGÀNG TRƯỚC NHỮNG THAY ĐỔI VÔ CÙNG LỚN LAO CỦA THỊ XÃ.
VẬY MÀ, TRONG NHỮNG CÁI ĐỔI THAY ẤY CÓ MỘT SỐ ĐIỀU CẦN PHẢI LƯU TÂM, CÁI ĐẦU TIÊN LÀ TÍNH KHẢ DỤNG CỦA CÁC CÔNG TRÌNH.
ĐI DỌC THEO BỜ SÔNG THACH HÃN TỪ CHỢ LÊN PHÍA CẦU THẠCH HÃN, CÓ LẺ KHÔNG AI KHÔNG TRÁCH MÓC AI ĐÓ ĐÃ VÔ TÌNH QUÊN LÃNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG DỌC SÔNG.
KÈ CHỐNG LỞ THÌ DỠ DANG  ĐÃ ĐÀNH, NHƯNG CÁC TRỤ ĐÈN  NGHIÊNG NGÃ, CỎ MỌC NGÚT NGÀN DƯỚI CHÂN  , NƠI NÀO KHÔNG CÓ LAU LÁCH, CỎ DẠI LÀ NHỮNG VỒNG RAU LANG, CÁC BÓNG ĐÈN THÌ KHÔNG ĐƯỢC MỘT LẦN SÁNG TỪ CUỐI NĂM 2009 CHO ĐẾN NAY.
CHƯA NÓI ĐẾN CÁC CỐNG THOÁT NƯỚC ĐƯỢC THIẾT KẾ THEO DẠNG XI PHÔNG LÒN DƯỚI ĐƯỜNG DÂN SINH BẰNG BÊ TÔNG, MIỆNG CỐNG CAO HƠN PHẦN ĐẤT PHÍ TRƯỚC, ĐẦU RA LẠI THẤP HƠN, NHIỀU NGƯỜI NÓI VUI , XÂY 2 CÁI CỐNG THOÁT NƯỚC NẦY ĐỂ CHO DÂN NHỐT VỊT.ĐÚNG LÀ TRÌNH ĐỘ CỦA MỘT KỶ SƯ XÂY DỰNG ĐƯỢC HỌC VET. SAU ĐÂY LÀ MỘT SỐ HÌNH ẢNH ĐỂ MINH HỌA CHO NHỮNG Ý KIẾN KHÔNG ĐAU VÀO ĐÂU TRÊN:

 DÙNG ĐỂ TREO LỐP XE ĐẠP
 XIÊU VẸO HAY TẠO DÁNG CHO TRỤ ĐÈN
CỎ DẠI VÀ LUỐNG RAU DƯỚI CHÂN TRỤ ĐÈN
 KÍNH MONG NHỮNG NGƯỜI CÓ TRÁCH NHIỆM CẦN MỘT LẦN ĐẾN XEM

Thứ Tư, 3 tháng 4, 2013

Khí phách kỳ diệu

Qua các cuộc chiến tranh vệ quốc, cùng với biết bao vùng đất quả cảm, kiên cường của đất nước, tỉnh Quảng Trị huyền thoại là minh chứng hùng hồn cho đỉnh cao khí phách và trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Bắt đầu từ trưa ngày 30-3-1972, sau hai cuộc tiến công bất ngờ và quả cảm, với binh chủng hợp đồng quy mô lớn của quân ta, ngày 2-5-1972, thị xã Quảng Trị được giải phóng, sau 18 năm, bị Mỹ-ngụy chiếm đóng. Trong chiến dịch này, ta đã đánh tan tập đoàn phòng ngự mạnh nhất của địch ở Quảng Trị. Hơn ba vạn quân giặc bị loại khỏi vòng chiến đấu; 178 máy bay, 11 tàu chiến, 320 xe tăng, 237 khẩu đại bác và nhiều vũ khí đạn dược của địch bị phá hủy hoặc lọt vào tay Quân giải phóng.
Sau những giờ phút hoàn hồn, để lấy lại tinh thần và nhằm gây sức ép với ta tại Hội nghị Pa-ri, họp lại vào ngày 13-7-1972, đã nhiều lần trì hoãn, địch dốc toàn bộ lực lượng, mở cuộc phản kích, tái chiếm Quảng Trị, mà mục tiêu số 1 là chiếm lại tòa Thành cổ. Chúng gọi tên cuộc hành quân này là “Lam Sơn 72” và bắt đầu từ ngày 28-6-1972.
Địch huy động máy bay phản lực, bình quân mỗi ngày 150-170 lần (có ngày 220 lần), 70-90 lần chiếc B-52; 12-16 tàu khu trục hạm và tuần dương hạm, thuộc Hạm đội 7; 2 sư đoàn dự bị chiến lược là sư dù và sư thủy quân lục chiến, một liên đoàn biệt động, 4 trung đoàn thiết giáp (mỗi trung đoàn có 79 xe tăng và xe bọc thép), cùng hàng chục tiểu đoàn khác.
Đây là cuộc hành quân cực kỳ tàn bạo mà kẻ thù không từ một hành động tội ác nào: Ném đủ các loại bom bi, bom 7 tấn, bom điều khiểu bằng la-de; bắn đủ các loại pháo chụp, pháo khoan; thả chất độc hóa học, hơi độc và hơi ngạt... Số bom đạn chúng ném xuống đây khoảng 328 nghìn tấn, tương đương với sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống hai thành phố Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki (Nhật Bản), năm 1945.

Thanh niên, sinh viên nhập ngũ vào chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị năm 1972. Ảnh tư liệu.
 
Trong lịch sử chiến tranh thế giới, chưa hề có một cuộc hành quân nào mà mục tiêu chủ yếu chỉ đánh vào một tòa Thành cổ, có chu vi 2.080m, rộng chưa đầy 3km2, khiến đối phương có thể huy động một lực lượng hải, lục, không quân đông và sử dụng một khối lượng chất nổ khổng lồ như vậy.
Chính trong chiến dịch phản kích mang tính hủy diệt đó của kẻ thù, Thành cổ Quảng Trị đã mở đầu trang sử vô cùng oanh liệt, hào hùng bằng cuộc chiến đấu cực kỳ gian khổ, hiểm nguy và dũng cảm qua 81 ngày đêm mùa hè rực lửa, rung chuyển cả nước và toàn cầu từ ngày 28-6-1972 đến ngày 16-9-1972.
Lực lượng ta ở vòng trong thị xã, lúc đầu có Trung đoàn 48, Sư đoàn 320B và hai tiểu đoàn bộ đội địa phương. Khi cao điểm, có thêm Trung đoàn 95, Sư đoàn 325 và Tiểu đoàn 8 của Trung đoàn 64. Chỉ huy sở của Mặt trận thị xã đặt tại hầm trong dinh Tỉnh trưởng ngụy, bên bờ sông Thạch Hãn. Lực lượng vòng ngoài có Sư đoàn 320B ở cánh Đông, Sư 308 ở cánh Nam, cùng các đơn vị xe tăng, pháo cao xạ và lực lượng du kích các xã phụ cận. Các chốt quan trọng như: Long Quang, nhà thờ Trí Bưu, ngã ba Long Hưng, trường Bồ Đề, ngã ba Cầu Ga... là những nơi, quân ta bất chấp mọi nguy hiểm, gian khổ, hy sinh, kiên quyết đập tan các đợt phản kích của địch. Đặc biệt, trong Thành cổ Quảng Trị, là tiêu điểm ác liệt nhất và cũng là nơi thể hiện tinh thần chiến đấu phi thường, huyền thoại, cực kỳ dũng cảm, hy sinh của quân dân ta. Tại đây, trung bình, một chiến sĩ phải hứng chịu hơn 100 quả bom và 200 quả đạn pháo. Có ngày như ngày 25-7-1972, kẻ thù bắn vào Thành Cổ 5.000 quả đạn. Bốn dãy tường thành ở bốn phía đông, tây, nam, bắc, dày 12m, đều bị vỡ dần; đến một viên gạch nơi đây cũng không còn nguyên vẹn.
Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra như một huyền thoại. Và cách đánh địch nhiều khi cũng vượt ra khỏi những quy ước thông thường: Súng cối 60mm, được các chiến sĩ kẹp nách, bắn ứng dụng liên tục mấy chục quả một lần; lựu đạn sau khi rút chốt, phải tính toán sao cho khi nó vừa bay tới mục tiêu là nổ. Có lúc, chiến sĩ bò sát miệng hầm của địch rồi mới tung lựu đạn vào. Trong một trận đánh, có chiến sĩ bắn tới 14 quả đạn B40, diệt 32 tên địch. Tại mặt trận, nhiều chiến sĩ bị thương một, hai, thậm chí ba lần, vẫn chiến đấu, không chịu về tuyến sau. Các chiến sĩ bộ binh, công binh, quân y, thông tin, đều cầm súng đánh địch. Bằng tính kỷ luật tuyệt vời, tinh thần dũng cảm, ý chí ngoan cường và sự hy sinh vô bờ, ai nấy kiên quyết giữ vững trận địa trong suốt 81 ngày đêm. Đó là 81 ngày đêm lịch sử bi tráng, ác liệt, hào hùng, đầy hy sinh và mãi mãi bất tử.
Đại đội 1, Tiểu đoàn 25 vận tải, Sư đoàn 320B nhận thấy, nếu chỉ dùng sức người mang vác vũ khí vào thị xã và dùng võng cáng thương binh ra, với quãng đường dài hàng chục cây số, dưới làn bom đạn của máy bay, pháo mặt đất và pháo hạm của địch thì khá vất vả, hiểm nguy mà hiệu quả thấp. Còn như dùng thuyền, vận chuyển qua sông Thạch Hãn, sẽ được nhiều hơn. Ban chỉ huy đại đội bàn bạc và thống nhất với phương án của Đại đội trưởng Nguyễn Thanh Mai (sau này, đồng chí là giảng viên của Học viện Lục quân Đà Lạt), vận động địa phương cho dùng thuyền máy của bà con ngư dân đi sơ tán, để lại ở các thôn, xóm ven sông, làm phương tiện vận chuyển. Được cấp trên chuẩn y, các chiến sĩ khẩn trương tìm những chiếc thuyền có máy móc còn tốt và một số thùng dầu ma-dút để chạy máy.
Nhớ lại những ngày ấy, các chiến sĩ không thể quên sự giúp đỡ tận tình, có hiệu quả và tình cảm chân thành của nhân dân cũng như du kích bốn thôn: Nhĩ Hạ, Vĩnh Quang, Mai Xá, Lâm Xuân... Những chiếc thuyền đánh cá, đầu máy xe tải nhỏ, máy bơm nước, máy xay xát thóc gạo, các thùng nhiên liệu chạy máy... đều là tài sản lớn mà bà con chắt chiu, dành dụm trong nhiều năm để làm ăn sinh sống. Nhưng khi bộ đội xin được trưng dụng thì ai cũng sẵn sàng ủng hộ và nói: “Mấy chú từ miền Bắc vô đây chẳng tiếc máu xương để giải phóng cho bà con, thì tụi tôi tiếc chi các thứ đó...”.
Thôn Nhĩ Hạ có o Hồng, du kích, mới 17 tuổi, mặt tròn, da trắng, mắt bồ câu. Hồng đang dẫn đường cho bộ đội thì bị pháo địch bắn dữ dội. Một số chiến sĩ mới vào chiến trường, chưa quen trận mạc nên hốt hoảng, lúng túng. Giữa lúc ấy, o bình tĩnh hướng dẫn anh em xuống trú ẩn vào các hố bom vừa nổ, bảo toàn lực lượng.
Có thuyền và nhiên liệu chạy máy, phân đội vận tải thủy của đơn vị được thành lập, kèm theo một tổ bảo đảm kỹ thuật mà nòng cốt là mấy chiến sĩ quê ở hai huyện Giao Thủy và Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ngay trong 5 đêm đầu tiên, đơn vị đã vận chuyển được 8 tấn vũ khí vào thị xã Quảng Trị và đưa gần 100 thương binh về tuyến sau an toàn. Nhưng rồi địch phát hiện ra, nên cuộc chiến ác liệt trên sông Thạch Hãn bắt đầu...
Để tìm diệt thuyền tiếp tế của ta, đêm đêm, chúng cho máy bay thả đèn dù sáng rực và rải bom từ trường trên sông, nhiều nhất là đoạn từ cầu Quảng Trị, thôn Nhan Biều đến căn cứ Ái Tử. Với ánh sáng đèn dù, các chiến sĩ cứ nghe tiếng máy bay và tiếng nổ “bụp” trên trời, liền cho thuyền đã ngụy trang, tắt máy, áp sát vào bờ; đợi đèn dù tắt, máy bay đi xa, lại tiếp tục công việc. Nhưng đối phó với bom từ trường thì không dễ, bởi bom chìm sâu dưới lòng sông, rất khó phát hiện. Nếu thuyền đi qua, tác động của chân vịt, bom sẽ phát nổ, gây thương vong, nhấn chìm vũ khí, đạn dược.
Thời gian đầu, bom từ trường của địch đã phá hủy nhiều thuyền của ta và làm hàng chục cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Đồng chí Phạm Vụ, Chính trị viên đại đội, dẫn một tổ đi tìm kiếm thi hài đồng đội để chôn cất, đã phải thu nhặt từng mảnh thi thể liệt sĩ bị bom địch hất lên bờ sông. “Cái khó ló cái khôn”, phải tìm cách chế ngự sự hiểm nguy này.
Đơn vị cử một tổ được tăng cường ba chiến sĩ công binh của Sư đoàn 320B và có du kích địa phương giúp đỡ, thực hiện rà phá bom từ trường bằng phương pháp thủ công: Dùng dây ni-lông, buộc các thùng đạn đại liên của địch (cách 5m một thùng), với độ sâu từ 1,5 đến 2m, có cây chuối làm phao; rồi chăng ngang sông và kéo xuôi dòng chảy để kích cho bom nổ. Trong quá trình rà phá bom, anh chị em phát hiện nhiều thi thể bộ đội ta hy sinh trong lúc vượt sông sang Thành cổ Quảng Trị, trôi theo dòng nước khiến anh chị em sục sôi căm thù giặc. Đêm đêm, khi đưa thuyền ngang qua các đoạn sông có bom từ trường, để hạn chế thương vong, ta tắt máy, chỉ để một người trên thuyền cầm sào giữ hướng, số còn lại, buộc dây vào mũi thuyền, lội theo mép nước, kéo qua đoạn nguy hiểm.
Trong 81 ngày đêm diễn ra chiến dịch bảo vệ thị xã, Thành cổ Quảng Trị, thì có đến gần 40 đêm, thuyền của Đại đội 1, vận chuyển vũ khí, đạn dược, thương binh cho các đơn vị bộ đội. Thường thì, mỗi đêm từ một đến ba chiếc qua sông và hầu như, đêm nào cũng có đồng đội hy sinh. Khó khăn, gian khổ và hiểm nguy như vậy, nhưng với khẩu hiệu “Đoàn Quang Sơn còn thì thị xã, Thành cổ Quảng Trị còn”, “Đại đội 1 còn thì Đoàn Quang Sơn còn được cung cấp vũ khí, đạn dược”. Anh em trong đơn vị đã đoàn kết một lòng, kiên quyết vượt qua mưa bom, bão đạn của quân thù để đưa những chuyến hàng tới đích.
Trong 81 ngày đêm, ngược xuôi dòng Thạch Hãn làm nhiệm vụ, một phần ba số quân của Đại đội 1 đã mãi mãi hóa thân vào dòng sông đầy máu lửa. Cùng với những con thuyền, hài cốt liệt sĩ của đơn vị còn nằm dưới lòng sông này. Linh hồn của các anh trở thành hồn thiêng sông nước.
... Đò lên Thạch Hãn ơi... chèo nhẹ
Đáy sông còn đó, bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm
(Thơ Lê Bá Dương)
Cuộc chiến đấu anh hùng trong 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, kết thúc bằng thất bại của một đội quân xâm lược đông hơn 5 vạn tên, với thừa thãi vũ khí, bom đạn hiện đại, một lần nữa làm sáng ngời chân lý: Kẻ thù dù có vũ khí tối tân đến đâu cũng phải khuất phục trước những con người có ý chí kiên cường, một lòng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Đúng như cố Tổng bí thư Lê Duẩn tôn vinh về cuộc chiến đấu trong Thành cổ Quảng Trị: “Chúng ta đã chịu được không phải chúng ta là gang thép; vì gang thép cũng chảy với bom đạn địch; mà chúng ta là những con người thực sự, con người Việt Nam với truyền thống hàng nghìn năm, đã giác ngộ sâu sắc trách nhiệm trọng đại trước Tổ quốc, trước thời đại”.
Thành cổ cùng với thị xã Quảng Trị đã được Nhà nước ta tuyên dương danh hiệu: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Lập nên những chiến công vang dội đó, nơi đây đã thấm đẫm máu của 18 nghìn cán bộ, chiến sĩ, đồng bào Quảng Trị và cả nước. Dưới lớp cỏ non Thành cổ, ngã ba Long Hưng, được gọi là “ngã ba bom”, “ngã ba lửa”, dòng sông Thạch Hãn... bao nhiêu người con yêu nước đã mãi mãi nằm lại. Đời đời, con cháu luôn luôn tưởng nhớ một thời máu lửa, một thời oanh liệt, hào hùng mà cha anh đã làm tất cả để đánh đuổi giặc ngoại xâm, đem lại cuộc sống hòa bình, tươi đẹp như hôm nay.

Thả 10.000 hoa đăng trên dòng Thạch Hãn

"Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm."
Tối 10/7, tại bờ Bắc và Nam sông Thạch Hãn đã diễn ra lễ thả hoa đăng nhằm tri ân, tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong chiến dịch 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972.
Trên dòng Thạch Hãn
Phút mặc niệm
Đây là hoạt động kỷ niệm 64 năm ngày thương binh liệt sĩ 27/7/1947 - 27/7/2011 và đáp ứng ước nguyện cháy lòng của đông đảo các gia đình thân nhân liệt sĩ và đồng đội của các chiến sĩ đã hy sinh tại Thành cổ năm 1972.
Dòng sông sáng rực bởi những chiếc hoa đăng.
Các cựu chiến binh, thanh niên xung phong và khách thập phương cùng nhau thả hoa đăng.
Hàng nghìn ngọn nến được thắp lên trong đêm lễ.
Đông đảo tăng ni, phật tử tham gia buổi lễ cầu siêu
Điểm nhấn của chương trình là buổi lễ ra mắt cuốn sách trong đó lần đầu công bố danh sách hơn 4.000 dòng tên các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong 81 ngày đêm chiến đấu ở Thành cổ Quảng Trị và từ các hướng bảo vệ Thành cổ Quảng Trị.
Với kích thước 1m x 0,7m, cuốn sách  “Huyền thoại Thành cổ Quảng Trị” đã xác lập kỷ lục Việt Nam “Cuốn đại sách lớn nhất lưu danh tên tuổi liệt sĩ hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.”
àng ngàn ấn bản “Huyền thoại Thành cổ Quảng Trị” được in để trao tặng cho thân nhân liệt sĩ, Ban liên lạc Chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị và hệ thống thư viện trên cả nước… để lưu danh đời đời dòng tên liệt sĩ.
Một em bé 6 tuổi mải mê thắp nến và thả hoa đăng cùng gia đình
 

Ông Hoàng Kiều và hoa hậu - Kỳ 1: Tuổi thơ một chiếc quần tà lỏn

Ông Hoàng Kiều và hoa hậu - Kỳ 1: Tuổi thơ một chiếc quần tà lỏn


Sự kiện vòng chung kết cuộc thi Hoa hậu Thế giới (HHTG) năm 2010 không diễn ra ở Nha Trang như dự kiến ban đầu, một lần nữa lại khiến dư luận “nóng” lên với ông Hoàng Kiều. Hàng loạt những câu hỏi lại được đặt ra. Ông là ai? Đưa HHTG về VN thì bản thân ông và Tập đoàn RAAS được lợi gì? Ông lấy đâu ra nhiều tiền để chi cho các hoạt động từ thiện... và liệu đây có phải là câu chuyện “đại gia với người đẹp?”.
Trước Tết Nguyên đán năm ngoái, sau cuộc hành trình xuyên Việt theo chân đoàn HHTG và Tập đoàn RAAS đi lì xì cho người nghèo trở về TP.HCM, ông Hoàng Hữu Hạch - Nhà giáo Ưu tú - là chú ruột của ông Hoàng Kiều, dành cho tôi một cuộc hẹn buổi chiều ở nhà riêng tại P.13, Q.Tân Bình, TP.HCM.
Ông Hoàng Hữu Hạch nay đã 74 tuổi, nhưng “đẹp trai” và minh mẫn khiến người mới quen phải bất ngờ. Thành thật mà nói, lúc đầu tôi không nghĩ ông cao tuổi như vậy, vì hầu hết những chuyến đi tặng quà từ thiện của ông Hoàng Kiều đến các vùng nông thôn xa xôi, lầy lội, ông đều có mặt. Ông chẳng những ngồi xe giỏi, không thua gì lớp thanh niên tráng kiện, mà khi cần cũng đi bộ và lội sình như ai.
Hôm ấy tôi được ông Hoàng Hữu Hạch kể nhiều chuyện về ông Hoàng Kiều, từ lúc còn lẫm chẫm tuổi thơ, mồ côi cả cha lẫn mẹ đến lúc phát tài, trở thành doanh nhân tầm cỡ quốc tế. Trong số những chuyện ấy có chuyện tôi đã biết và cũng có tài liệu kiểm chứng. Có chuyện chỉ là lời tâm sự riêng của ông Hoàng Kiều với chú ruột của mình. Với tư cách là “đại diện họ Hoàng tại TP.HCM”, ông Hạch giữ cả kho tư liệu cùng hình ảnh tư liệu của họ Hoàng, trong đó có ông Hoàng Kiều.
Tại cuốn gia phả, ở trang đầu tiên, lời “cáo trình về việc tu chỉnh và ấn hành” có đoạn: “Họ Hoàng Bích Khê chúng ta đã tồn tại gần nửa thiên niên kỷ và đã phát triển phồn thịnh trên quê hương Quảng Trị vào giữa thế kỷ 20. Nhưng ngày nay, theo với sự phát triển của dòng họ và biến đổi thăng trầm của Tổ quốc, con cháu đã tản đi khắp đất nước và thế giới...”.
Tiếp cận tư liệu gia tộc, tôi bắt gặp câu chuyện thất thủ thành Hà Nội ngày 25.4.1882, với sự kiện lịch sử về Tổng đốc Hoàng Diệu và bi kịch tuyệt thực của quan Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng. Quan Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng chính là thành viên đời thứ 13 của họ Hoàng làng Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Và cũng là người đã chấp bút biên soạn gia phả dòng họ từ năm Tự Đức thứ 15 (1862). Phải chăng vì lẽ đó mà trong nhiều chuyến ra Hà Nội thời gian vừa qua, mọi người đều thấy ông Hoàng Kiều tỏ ra rất quan tâm tới sự kiện 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội?


Ông Hạch bảo Hoàng Kiều đóng góp rất nhiều tiền của, công sức cho việc tôn tạo di tích, xây dựng nơi thờ phụng... tổ tiên. Ở Quảng Trị và Huế, Hoàng Kiều đã góp chi phí trùng tu lại một số di tích liên quan đến lịch sử dòng họ, trong đó có di tích Nghĩa Trũng nổi tiếng nằm bên bờ sông Thạch Hãn. Tại di tích này cách đây 13 năm, đích thân nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, với tư cách là hậu duệ đời thứ 16, đã viết văn bia nói rõ: “Vị sáng lập Nghĩa Trũng là ngài Hoàng Hữu Lợi, tước Trung Nghị Đại Phu Phó Đô Ngự Sử, tiền nhân đời 12 của Hoàng tộc làng Bích Khê, Quảng Trị. Nguyên thường năm chứng kiến nhiều mộ phần vô chủ dọc sông Thạch Hãn bị lũ lụt xói lở rất thương tâm, Ngài cùng phu nhân liền phát nguyện, mua khu đất này của làng Thạch Hãn làm nơi quy táng. Nghĩa Trũng được kiến lập năm Tự Đức thứ 25 (1872). Trưởng nam ngài Hữu Lợi là Hiệp Biện Đại Học Sĩ Hoàng Hữu Xứng, thời làm Tuần phủ Hà Nội, nhân thấy nhiều di chỉ mộ hoang ở vùng quản hạt hỏi kỳ lão được biết đều là của nghĩa quân Tây Sơn hồi chinh phạt quân Thanh. Thiết nghĩ, đến xương tàn của giặc còn được quy táng thành gò, huống đây là di hài của các chiến sĩ vì nước quên mình, bèn thu tập đưa về an táng ở Nghĩa Trũng này. Trước sau, Nghĩa Trũng là nơi yên nghỉ của hơn nghìn vong linh vốn dĩ bơ vơ trong trời đất, hơn phân nửa lại là liệt sĩ vô danh của đoàn quân áo vải cờ đào”.
 Trong lớp hậu duệ đời sau tôi còn gặp một người ơn nghĩa của làng báo Sài Gòn là ông Hoàng Ngọc Biên. Ông là người mà nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan nhận định: “Có nhiều đóng góp trong việc thúc đẩy thay đổi hình thức của báo chí, tạp chí thành phố kể từ những năm 1980...”.
Tôi cũng gặp ở đây những tài năng trẻ thuộc thế hệ 7X, 8X như Hoàng Thanh Trang (đời thứ 16), đạt danh hiệu đại kiện tướng quốc tế môn cờ vua năm 12 tuổi; hay Hoàng Dạ Thi, nữ thi sĩ “nhí” từng xuất bản tập thơ khi mới 10 tuổi...
Riêng đối với ông Hoàng Kiều, trong rất nhiều lần tặng quà cho trẻ em nghèo ở các địa phương vùng sâu ai nấy đều nghe ông tâm sự thành thật: “Tuổi thơ của anh chỉ có một chiếc quần tà lỏn để mặc, không bằng các em bây giờ”. Theo gia phả, cha ông là Hoàng Hữu Nam (đời thứ 14), sinh năm 1919, tham gia cách mạng, là cán bộ tuyên truyền xung phong huyện Triệu Phong trước khi mất vào năm 1947. Lúc đó ông chỉ mới 3 tuổi. Còn mẹ ông là bà Võ Thị Yêm, con gái của Bà mẹ VN anh hùng Nguyễn Thị Trữ ở làng Thi Ông, thuộc huyện Hải Lăng, cũng tỉnh Quảng Trị.
Sau khi ông Nam chết, bà Yêm lâm vào cảnh nghèo túng, một nách 4 con nhỏ, phải lần lượt gửi đi từng đứa. Ông Hoàng Kiều may mắn được gửi vào Sài Gòn cho chú là nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ nuôi dưỡng và một thời gian sau thì ở quê nhà mẹ ông cũng qua đời vì bạo bệnh.
Vì sao Hoàng Kiều sống với cha nuôi là nhạc sĩ, bầu sô... mà lớn lên có thể “thoát” được ánh đèn sân khấu, trở thành ông chủ tập đoàn giàu có như ngày nay? Đó là một cuộc hành trình dài với nhiều éo le. 
Võ Khối
 

Bức thư 'thiêng' ở Thành cổ Quảng Trị



http://www.todaytv.vn/images/spacer.gif
“Nguyên bức thư 'thiêng' ở Thành cổ Quảng Trị ngày thống nhất, em hãy vào Nam tìm anh. Đường đi như sau: Đi tàu vào thị xã Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn là nơi anh hy sinh... Nếu tính xuôi theo dòng nước thì mộ anh ở cuối làng”.
Không ai có thể ngờ rằng, bức thư định mệnh đó là manh mối để đồng đội tìm thấy mộ người chiến sĩ, tác giả của bức thư sau ngày giải phóng... 


 Sau mấy chục năm, dưới sâu trong lòng đất người dân vẫn thường tìm được những bức thư thiêng của những người lính chưa kịp gửi về gia đình trước ngày bước vào trận đánh cuối cùng. 

Đến với Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị trong những ngày tháng 7 cả nước đang tổ chức các hoạt động hướng về kỷ niệm 65 năm ngày Thương binh liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2012), mọi người sẽ được đọc những dòng thư của người chiến sĩ trẻ chưa kịp gửi về cho người thân vẫn còn vẹn nguyên. Những câu từ trong bức thư thật giản dị nhưng cũng cho chúng ta biết rằng, những người lính cầm súng vì họ khát khao được hạnh phúc, đất nước được hòa bình.
Cuộc chiến đấu 81 ngày đêm mùa hè đỏ lửa năm 1972 bảo vệ Thành cổ Quảng Trị diễn ra vô cùng khốc liệt. Thành cổ lúc bấy giờ phải gánh lấy hàng chục vạn tấn bom đạn của kẻ thù đổ xuống, nhằm biến nó về thời kỳ đồ đá. Nhưng quân và dân ta đã chiến đấu ngoan cường giành lại từng tấc đất thiêng cho Thành cổ. Những ngày tháng 7/2012, Quảng Trị vinh dự được thay mặt cho nhân dân cả nước thắp sáng Thành cổ với vô vàn ánh nến hồng và trải đầy Thạch Hãn bởi ngàn vạn hoa đăng để tri ân công lao to lớn của các Anh hùng đã ngã xuống bảo vệ Thành cổ. 
 40 năm qua, Thành cổ mãi khắc ghi trong lòng dân tộc như một “Bảo tàng chiến tranh” vô cùng phong phú và sinh động, có giá trị về lịch sử, quân sự và nhân văn. Ngoài những chứng tích về những đoạn tường thành đổ nát còn sót lại, tại đây đang trưng bày hàng trăm di vật và nhiều ảnh tư liệu có giá trị lịch sử về cuộc chiến đấu của quân và dân ta trong 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ năm 1972.





Phút xúc động bên những bức thư thiêng tại Thành cổ, Quảng Trị.
 
Mỗi hiện vật, di vật gắn liền với một chiến công và sự hy sinh cao cả của hàng ngàn chiến sĩ. Trong đó, đặc biệt là lá thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh, quê ở xóm Một, xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, sinh viên năm thứ tư Khoa Xây dựng, khóa 13 của ĐH Bách khoa Hà Nội được tìm thấy ngày 28/10/2002.
Bức thư đã để lại cho người đọc biết bao cảm xúc. Lời lẽ trong thư thể hiện bao tâm tư tình cảm, hoài bão đành gác lại phía sau để quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. “Toàn thể gia đình kính thương... Con viết mấy dòng cuối cùng trước khi “đi nghiên cứu bí mật trong lòng đất”. Xin mẹ đừng buồn để sống đến ngày tin mừng chiến thắng. Con đi, mẹ ở lại trăm tuổi bạc đầu, coi như con lúc nào cũng ở bên mẹ, coi như con đã sống trọn đời cho Tổ quốc mai sau…”. Người lính trẻ Lê Văn Huỳnh viết bức thư cuối cùng vào ngày thứ 77 của chiến dịch 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, khi sự khốc liệt của đạn bom lên đến tột cùng. Bức thư anh không kịp gửi bởi anh cùng những đồng đội cuối cùng trong tiểu đội đã ngã xuống ở trong Thành cổ. 

Bức thư viết vội trước trận đánh là tâm tư của anh dành cho người mẹ già yếu, cho người vợ mới cưới bảy ngày, cho anh trai, chị dâu, cho cha mẹ vợ, cho đứa cháu đích tôn, cho người bạn thân thuở nhỏ và cho bà con lối xóm. Đặc biệt, bức thư có đoạn: “Ngày thống nhất, em hãy vào Nam tìm anh. Đường đi như sau: Đi tàu vào thị xã Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn là nơi anh hy sinh. Từ thị xã, qua cầu ngược trở lại hỏi thăm đường về thôn Nhan Biều I. Nếu tính xuôi theo dòng nước thì mộ anh ở cuối làng”. Không ai có thể ngờ rằng, đó là manh mối để đồng đội tìm thấy anh sau ngày giải phóng. Hơn ba mươi năm, miền quê từng bị hủy diệt tàn khốc nhất trong cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đổi thay, thanh bình và trù phú. Và đúng như bức thư, mọi người không khỏi ngạc nhiên khi tìm thấy anh…
Có lẽ, đó chỉ là một trong số hàng vạn lá thư mà những người lính Thành cổ Quảng Trị chưa kịp gửi đi trước trận đánh cuối cùng.
40 năm trôi qua, những lá thư như thế tiếp tục được gửi về cho những người đang sống hôm nay và cho cả mai sau. Nhưng có một điều thật kỳ diệu là những dòng chữ viết dưới làn bom đó dù chưa kịp gửi đi thì người ở hậu phương năm xưa, những người đang sống hôm nay và các thế hệ mai sau đã, đang và sẽ còn cảm nhận được nhịp đập của trái tim các anh. Bom đạn có thể giết chết sinh mệnh con người, nhưng không thể tiêu diệt được ý chí những người chiến đấu vì một lý tưởng đã chọn. Hàng ngàn người đã ngã xuống, xương máu đã lẫn vào đất, vào sông, hóa thành cây cỏ, thành phù sa bờ bãi. Vì thế mỗi người hôm nay thấm hơn sự hy sinh cao cả của quân dân Quảng Trị cùng biết bao chiến sĩ trên mọi miền đất nước. Cuộc chiến đã qua đi mấy chục năm nhưng nỗi đau thương mất mát đó vẫn hằn sâu trong lòng của người ở lại.
Lê Dương- Infonet
http://www.todaytv.vn/images/spacer.gif

Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

NHỮNG HÌNH ẢNH VỀ THỊ XÃ QUẢNG TRỊ NGÀY NAY

 TƯỢNG ĐÀI MAI QUỐC CA

 HOÀNG HÔN

 CẦU THẠCH HÃN

 NHÀ HÀNH LỄ BÊN BỜ THẠCH HÃN

 SÔNG THẠCH HÃN NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 2012

 NGHĨA TRUNG ĐÀN
 TRÊN SÔNG THACH HÃN
 CỔNG THÀNH CỔ
TRÊN SÔNG THACH HÃN
 NƠI YÊN NGHỈ CỦA CÁC ANH HÙNG LIỆT SĨ

THẮP MỘT NÉN NHANG CHO NGƯỜI NẰM DƯỚI MỘ

 BẢO TÀNG THÀNH CỔ
 CỔNG TIỀN THÀNH CỔ
 CẦU THẠCH HÃN
 CẦU ĐƯỜNG SÁT
 SÔNG THẠCH HÃN
 THÁP CHUÔNG
THÁP CHUÔNG

 CHỢ QUẢNG TRỊ
 TRƯỜNG BỒ ĐỀ
TRỤ SỞ UBND THỊ XÃ QUẢNG TRỊ