Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2015

"Nhận thức lại" hay xuyên tạc và phủ nhận lịch sử ?



Nhân những ngày lễ lớn của đất nước trong năm 2015, trên in-tơ-nét lại xuất hiện một số ý kiến xuyên tạc và phủ nhận lịch sử. Như vừa qua trên BBC, đã có người cho rằng Cách mạng Tháng Tám là "việc không nên làm" vì "khi thay thế Pháp, Nhật đã có chính quyền Trần Trọng Kim" (?).
Thực ra ý kiến coi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là "việc không nên làm" vì "khi thay thế Pháp, Nhật đã có chính quyền Trần Trọng Kim" của ông tiến sĩ nọ cũng không có gì mới. Trước đó đã có một vài giọng điệu lạc lõng khác cho rằng "ngày độc lập của Việt Nam là 11-3-1945" (11-3-1945 là ngày vua bù nhìn Bảo Đại ký đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập" sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và tuyên bố "trao lại độc lập cho Việt Nam")! Nói cách khác thì ý kiến của ông tiến sĩ chỉ là nối dài việc "đánh lận con đen" để tảng lờ thực chất việc phát-xít Nhật giành quyền kiểm soát Đông Dương chỉ là cố gắng tuyệt vọng khi thất bại là không tránh khỏi, thêm nữa cũng để chặn trước nguy cơ bị quân đội Pháp ở Đông Dương tiến công. Tư liệu lịch sử cho thấy các sự kiện (như: hành động quân sự, lựa chọn nhân vật chính trị, thành lập chính quyền bù nhìn...) diễn ra theo kịch bản đã được tình báo của hải quân Nhật ở Đông Dương chuẩn bị kỹ lưỡng.
Sau cuộc tập kích bất ngờ vào quân Pháp đêm 9-3-1945, vấn đề quan trọng nhất đối với quân Nhật là duy trì bằng được "trật tự và ổn định" nhằm tìm nguồn cung ứng vật chất tại chỗ cho gần 100.000 lính Nhật và để phòng thủ. Tuy nhiên, đúng lúc đó, bộ máy hành chính thực dân mà Nhật muốn kế thừa từ Pháp đã tan rã, vì thế việc lập một bộ máy cai trị tay sai bản xứ đặt ra như một đòi hỏi cấp bách. "Chính phủ" Trần Trọng Kim ra đời trong bối cảnh đó.
Đánh giá về sự kiện này, trong bài báo nhan đề Trần Trọng Kim, chính khách bất đắc dĩ? đã đăng trên tiasang.com.vn ngày 18-2-2014, sau khi khái quát các sự kiện liên quan, tác giả Trần Văn Chánh viết: "có thể thấy ngày càng rõ hơn việc đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại trước sau đều do người Nhật đạo diễn một cách khéo léo để dẫn dụ Trần Trọng Kim vào "tròng"..."! Sáng 10-3-1945, trên đường đi săn, Bảo Đại bị một toán quân Nhật áp giải về kinh thành. Đại sứ Nhật ở Huế là Masayuki Yokoyama (Ma-xa-y-u-ki Y-ô-kô-y-a-ma) đề nghị ông ra tuyên bố độc lập và sớm thành lập chính phủ để hợp tác với Nhật. Ngày 11-3, Bảo Đại ban bố một đạo dụ cam kết "... hợp tác toàn tâm toàn ý với đế quốc Nhật Bản". Bảo Đại hai lần gửi điện tín vào Sài Gòn mời Ngô Đình Diệm ra Huế lập nội các, nhưng rồi người được Nhật chọn vào vai trò này là Trần Trọng Kim. Ngày 30-3-1945, Trần Trọng Kim đang ở Băng-cốc được Nhật đưa về Sài Gòn, sau đó ra Huế thành lập "chính phủ" vào ngày 17-4 với bản tuyên cáo bày tỏ sự tri ân: "... không thể quên ơn nước Đại Nhật Bản đã giải phóng cho ta" và tin tưởng: "trên nhờ lòng tin cậy của đức Kim Thượng (Bảo Đại), dưới nhờ sự ủng hộ của quốc dân, ngoài tin vào lòng thành thực của nước Đại Nhật Bản" để "mong nền móng xây đắp được vững vàng để cơ đồ nước Việt Nam ta muôn đời trường cửu" (Dẫn theo Phạm Hồng Tung - Nội các Trần Trọng Kim, bản chất, vai trò và vị trí lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, H.2009, tr.191, tr.193).
Không biết khi viết tuyên cáo, ông Trần Trọng Kim có thành thực tin như vậy không, nhưng trong hồi ký Một cơn gió bụi, ông viết: "Nhật Bản trước vốn là một nước đồng văn đồng hóa ở Á Đông, nhưng về sau đã theo Âu hóa, dùng những phương pháp quỷ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ, trước đã thôn tính Cao Ly và Mãn Châu, sau lại muốn xâm lược nước Tàu và các nước khác ở Á Đông đã bị người Âu châu chiếm giữ. Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu "đồng minh cộng nhục" và lấy danh nghĩa "giải phóng các dân tộc bị hà hiếp" nhưng thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình.
Bởi vậy chính sách của họ thấy đầy những sự trái ngược, nói một đằng làm một nẻo" (Phạm Hồng Tung, Sđd)? Tồn tại trong thời gian ngắn từ ngày 17-4-1945 đến ngày 23-8-1945, "chính phủ" Trần Trọng Kim tập hợp được một số trí thức có uy tín thời đó với nhiệt thành, thực tâm yêu nước như Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Trịnh Đình Thảo... và cũng cố gắng làm một số công việc hữu ích như: thống nhất về danh nghĩa phần đất Nam kỳ vào lãnh thổ Việt Nam; quy định chữ quốc ngữ và tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức ở công sở, trường học; triển khai chương trình giáo dục bằng tiếng Việt; thành lập lực lượng "thanh niên tiền tuyến" (bộ phận thanh niên yêu nước trong tổ chức này sau được "Việt Minh hóa" đã hoạt động tích cực trong khi giành chính quyền ở Huế và trong kháng chiến sau này)... Dù vậy, "chính phủ" Trần Trọng Kim thực chất vẫn được Nhật Bản bảo hộ.
Không phải ngẫu nhiên ngay buổi đầu ông Trần Trọng Kim trình danh sách nội các với Bảo Đại lại có sự hiện diện "tình cờ" và phê duyệt của viên cố vấn tối cao Nhật Bản tại Huế là Masayuki Yokoyama. Cũng nên chú ý tới một sự kiện là ngày 5-8-1945, "chính phủ" Trần Trọng Kim đã trình Bảo Đại một văn bản xin từ chức, được Bảo Đại chấp nhận nhưng lại yêu cầu ở lại tạm thời làm việc, chờ tìm người lập nội các mới.
Tuy ít nhiều nắm bắt được nguyện vọng độc lập của quốc dân, và nhận thức được ý nghĩa của khối đoàn kết dân tộc, đề ra được một số chủ trương cải cách tiến bộ, ích quốc lợi dân, nhưng "chính phủ" Trần Trọng Kim lại không quy tụ, phát huy được ý chí, sức mạnh của dân tộc. Bởi đây thực chất chỉ là một tổ chức bù nhìn, bất lực trước các nhiệm vụ tự nó đặt ra lúc đầu. Ngay một công việc cấp bách khi đó là vận chuyển gạo từ miền nam ra miền bắc để cứu đói mà "chính phủ" này cũng không thực hiện nổi. Nhưng với khẩu hiệu "Phá kho thóc Nhật" của Việt Minh đã đáp ứng nguyện vọng, quy tụ sức mạnh đấu tranh của đông đảo quần chúng.
Đeo bám vào biểu tượng quân chủ đã lỗi thời và một ông vua bù nhìn, công khai xác nhận mối gắn bó, sự phụ thuộc nặng nề vào thế lực xâm lược ngoại bang, gây chiến tranh phi nghĩa và đang trên đường bị tiêu diệt, "chính phủ" Trần Trọng Kim không thể là biểu tượng quy tụ ý chí độc lập của dân tộc Việt Nam; do đó việc "được Nhật trao độc lập" không phản ánh tính chính danh chính trị của "chính phủ" này, chính vì thế nó đã tự đặt mình vào thế đối lập với xu thế thời đại. Dù tập hợp được một số trí thức có uy tín và muốn giương lên ngọn cờ yêu nước nhưng "chính phủ" Trần Trọng Kim, với hình hài và tinh thần thân Nhật, với sự ra đời và chịu sự bảo trợ, chi phối của Nhật,... chỉ là sản phẩm trực tiếp của chính sách chiếm đóng, cai trị của phát-xít Nhật trước thất bại không tránh khỏi, nên việc "chính phủ" đó sớm cáo chung là điều tất yếu.
Ngược lại với sự hình thành, bất lực rồi nhanh chóng tan rã của "chính phủ" Trần Trọng Kim, Mặt trận Việt Minh thành lập theo sáng kiến của Hồ Chí Minh (tháng 5-1941, khi Nhật Bản còn chưa tham chiến) đã nhanh chóng phát huy được vai trò của mình, nhanh chóng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong xã hội. Với quyết tâm "làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do", Mặt trận Việt Minh giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tập hợp đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đông đảo các tầng lớp nhân dân được tổ chức trong những Hội Cứu quốc là thành viên của Việt Minh, như: Nông dân cứu quốc; Công nhân cứu quốc; Thanh niên cứu quốc; Phụ nữ cứu quốc; Phụ lão cứu quốc; Văn hóa cứu quốc... đã làm cho Mặt trận ngày càng phát triển trên khắp các địa bàn từ nông thôn, thành thị, tới miền núi, từ bắc vào nam đã hình thành nên phong trào Việt Minh sôi nổi, đưa tới các chuyển biến mạnh mẽ, tạo nên thế và lực của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tiếp cận từ nhãn quan chính trị khác nhau cho nên còn có khác biệt trong đánh giá nguyên nhân, bản chất của Cách mạng Tháng Tám, nhưng trong nghiên cứu của phần lớn sử gia phương Tây đều thừa nhận vai trò to lớn của Mặt trận Việt Minh, tinh thần dân tộc phù hợp với xu thế thời đại, cũng như tầm tư tưởng vượt trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thí dụ trong cuốn sách Hồ Chí Minh - một cuộc đời (Ho Chi Minh - a life), tác giả Wiliam Duiker (Uy-li-am Điu-cơ) bình luận về vai trò Hồ Chí Minh trong cách mạng: "... những đánh giá như vậy (xu hướng hạ thấp ý nghĩa của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 - TP) không thể che giấu sự thật rằng cuộc Cách mạng Tháng Tám là một thành tựu phi thường... trong khi những nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa khác bằng lòng ở lại nam Trung Quốc và đợi đến khi quân Nhật bị quân Đồng minh đánh bại, ông Hồ và các đồng sự của ông mới chứng tỏ khả năng có thể đối phó với thách thức và đặt cả thế giới trước sự đã rồi" (bản dịch của Phòng phiên dịch Bộ Ngoại giao, năm 2000, tr.332).
Sự thật lịch sử đã rõ như ban ngày. Chính sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc, ý chí của toàn dân khi được phát huy đến cao độ dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành động lực làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Về điều này, theo tác giả Trần Văn Chánh trong tiểu luận nhan đề Tản mạn về nhân vật lịch sử Trần Trọng Kim qua những trang hồi ký (đã được một số trang mạng đăng tải) thì trong thư viết ngày 8-5-1947 tại Sài Gòn - nay là TP Hồ Chí Minh, gửi học giả Hoàng Xuân Hãn, ông Trần Trọng Kim bàn về tình hình chính trị Việt Nam năm 1945 và vai trò của Việt Minh như sau: "Còn về phương diện người mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng nhăng chẳng đâu vào đâu cả.
Ai cũng nói vì lòng ái quốc, nhưng cái lòng ái quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa vị và quyền lợi, thành ra tranh giành nhau, nghi kỵ nhau rồi lăng mạ lẫn nhau... Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà mình thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái địa vị bàng quan mà thôi... Tôi vẫn biết việc chống Pháp chỉ có Việt Minh mới làm nổi... Nay Việt Minh đứng vào cái địa vị chống Pháp, tất là có cái thanh thế rất mạnh...". Không rõ trước khi "nhận thức lại", ông tiến sĩ có đọc những dòng này?
THIÊN PHƯƠNG

ĐIẾU CÀY – KẺ PHỤ TÌNH ?

Việc Điếu Cày và Hồng Ánh hiện đang sống với nhau như vợ chồng ở Mỹ ngay sau khi Điếu Cày đáp xuống sân bay, tôi đã biết từ lâu. Thực ra, Điếu Cày và Hồng Ánh đã bồ bịch từ trước khi Điếu Cày đi tù đi Mỹ, nên khi ra tù Điếu Cày lập tức đoàn tụ với người tình trong mộng âu cũng là dễ hiểu. Việc Điếu Cày phải đối phó, lên giọng đạo đức giả an ủi vợ con, âu cũng thông cảm được, nhưng dựng lên câu chuyện ly kỳ tưởng che mắt người đời với quá nhiều động cơ giả dối, cách thức phụ tình (tình vợ, tình con, tình đồng đội) thì thực Điếu Cày khiến người ta thấy thật đáng sợ.
Dương Thị Tân: Sao anh nỡ đành quên?
Ngay khi biết mình được Mỹ can thiệp cho định cư nhân đạo, ra khỏi nhà tù nhỏ, Điếu Cày chuẩn bị sẵn cho mình một kịch bản hoàn hảo vừa đến với người tình trong mộng vừa tạo được hình ảnh một anh hùng bất khuất bị rơi vào thế bị động, đẩy ra khỏi nhà tù- đất nước. So sánh với trường hợp Cù Huy Hà Vũ sẽ thấy ngay kịch bản “rùng rợn” này của Điếu Cày. Cù HUy Hà Vũ còn “mặc cả” chán chê, đưa cả vợ, thậm chí đòi đưa cả con đi theo nhưng do con Vũ đã trưởng thành, Mỹ không có nguyên tắc đặc cách nào cho diện này, còn nhà cửa, gia sản thì sắp xếp đâu vào đấy, nhưng Vũ không phải là chính trị gia, ngoài la to ra thì đầu rỗng tuếch. Điếu Cày thì khác, có quá nhiều thời gian cân nhắc trong tù về quyết định đi hay ở, thậm chí còn bàn bạc với bạn tù về hoạch định ra tù, động viên, an ủi nhau, chuẩn bị thư từ và kế hoạch hậu tù, gấp và giấu giếm tài tình tài liệu trong manh áo mỏng qua tất cả dàn con mắt xoi mói, kiểm tra kỹ lưỡng của đám mật vụ, hải quan VN mang đến Mỹ….
Điếu cày luôn nhận sự chỉ đạo của lãnh đạo tổ chức khủng bố “Việt Tân”
Từ đó có thể thấy, việc Điếu Cày tuyên bố ngay khi xuống sân bay là bị trục xuất đi Mỹ (khiến Bộ Ngoại giao Mỹ phản pháo) không kịp nhắn nhủ gì với vợ con (cũ), đi bằng đôi dép tổ ong, mặc manh áo mỏng khi có đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ tháp tùng ra tận sân bay, đưa từ Việt Nam sang Mỹ, transit qua sân bay Hồng Kong vẫn giữ nguyên hình hài “tố cáo tội ác cộng sản” và “chính sách nhân đạo của Chính phủ Mỹ”…cho thấy một kế hoạch não luyện của một chuyên gia truyền thông đẳng cấp.
Nhưng trời phụ mưu Gia Cát Lượng của Điếu Cày khi không thể lường hết diễn biến ngoài tưởng tượng. Điếu Cày giờ đây lộ sạch bách là thành viên Việt Tân lâu năm, chung tình với Việt Tân như với chính người tình trong mộng của ông ta. Ai đó than thở CLB NBTD bị Điếu Cày đặt vào tay Việt Tân mà không biết rằng chẳng qua trước đây nó chỉ là “thân hữu” gì gì đó của Việt Tân thì nay nó công khai ra là Việt Tân mới là chính chủ mà thôi.

ĐIẾU CÀY NGUYỄN VĂN HẢI ĐANG BỊ HẠ NHỤC TẠI MỸ

Không ai ngạc nhiên khi Điếu Cày, sau khi được xuất khẩu sang Mỹ bị ghẻ lạnh, nghi hoặc, thậm chí bị đe dọa bởi cộng đồng những người chống cộng cực đoan tại đây.
Ngay khi tới Mỹ, những tưởng màn đón tiếp ồn ĩ từ cộng đồng người Việt sẽ hứa hẹn cho một tương lai khá khẩm hơn đối với Điếu Cày. Ấy thế nhưng, niềm vui chưa tày gang, ngay tại phi trường LA, Điếu Cày đã buộc phải lựa chọn cờ đỏ hay cờ vàng ba sọc đỏ (người Việt Nam gọi đó là cờ ba que) của chế độ VNCH trong dĩ vãng để minh định con đường của mình.
1. Lươn lẹo
Một lần nữa, những người quan tâm lại chứng kiến sự gian manh, xảo trá của con người này khi ứng xử với hành động trao cờ của một người tham dự bằng động tác ngó lơ và gạt lá cờ sang một bên như không có gì. Từ đây, Điếu Cày trở thành tâm điểm của những những lời miệt thị, nghi kỵ về quan điểm chính trị của cộng đồng. Đặc biệt là những lời chỉ trích, phỉ báng từ những người có tư tưởng chống cộng cực đoan.
Thật ngạc nhiên, sự phỉ báng Điếu Cày không đến từ những người Việt trong nước, mà lại đến từ xứ sở mà trước đó, anh ta tôn thờ. Hành động của họ, quyết liệt tới mức, Điếu Cày không thể được yên, và buộc phải có buổi “điều trần” để giải thích cho hành động của mình.
Tại buổi “điều trần“, một lần nữa, anh ta lộ rõ là kẻ lươn lẹo khi tuyên bố, anh ta chỉ chấp nhận lá cờ nào mà cả người dân trong nước lẫn nước ngoài chấp nhận. Dĩ nhiên, lời tuyên bố này không làm hài lòng những người chống cộng giả hiệu (lừa đảo chống cộng để kiếm tiền của người Việt trên đất Mỹ) và cả những người chống cộng cực đoan. Đã có nhiều bài viết, dày đặc trên các trang mạng là những lời xỉ vả, kêu gọi tẩy chay Điếu Cày.
Hơn ai hết, Điếu Cày hiểu rõ, mạng sống, sự sinh tồn của mình đang bị đe dọa, và rằng không như anh ta nghĩ, khác với buổi ban đầu đến Mỹ, anh ta sẽ không thể có chỗ đứng trong cộng đồng và trở nên cô độc, lạc lõng. Chính vì điều này, chúng ta không hề ngạc nhiên khi thấy Điếu Cày buộc phải tham dự cái gọi là “lễ chào cờ VNCH” tại Washington DC với chiếc khăn làm biểu tượng cho cờ ba que quàng trên cổ.
Tất nhiên, buổi chào cờ và chụp ảnh này là một sự sắp đặt có chủ ý, và người đạo diễn cũng không bỏ lỡ cơ hội này để kéo Điếu Cày về hẳn phe của mình. Hình ảnh người phụ nữ già có tên Kim Oanh trực tiếp quàng khăn lên cổ Điếu Cày một cách ân cần làm cho người ta liên tưởng tới một sự khống chế, cắt đường về của đối tượng.
Có người đã hỏi, vì sao Điếu Cày không quàng hẳn một chiếc cờ ba que mà lại là chiếc khăn mang tính biểu tượng?
Câu trả lời vẫn là sự lươn lẹo của anh ta và nhóm người ủng hộ. (1) Chọn lá cờ, Điếu Cày sẽ vĩnh viễn trở thành kẻ phản bội đất nước và con đường trở về quê hương coi như chấm hết. (2) Trong khi đó, chọn chiếc khăn biểu tượng, anh ta sẽ phần nào làm hài lòng những người chống cộng cực đoan, và có thể xóa bỏ nghi kỵ trong cộng đồng người Việt tại đây, nhất là với những người nhẹ dạ cả tin. Mặt khác, anh ta vẫn có thể nói với bạn bè trong nước rằng, đó chỉ là một chiếc khăn ấm chứ đâu phải lá cờ (?!). Quả là một sự lươn lẹo đến khó tin.
2. Hậu quả
Ông Trần Nhật Phong, một nhà báo tự do từ Quận Cam, California, Hoa Kỳ, trong một bài viết có tựa “Điếu Cày và phép thử cờ vàng” đăng trên BBC đã phân tích rằng, Điếu Cày đã buộc phải lựa chọn cờ ba que, vì lá cờ này chính là phép thử quan điểm chính trị, và lựa chọn lá cờ nào sẽ quyết định đến khả năng tồn tại của anh ta trên đất Mỹ.
Giải thích cho hành động khống chế Điếu Cày, ông Phong cho rằng, “do các yếu tố từ quá khứ chiến tranh, từ những trò “chống cộng” giả hiệu để gạ gẫm tiền bạc, cho đến những bất đồng quan điểm giữa các thành phần trong cộng đồng”, và “sự cực đoan của một số người, luôn nhân danh lá cờ vàng ba sọc đỏ, hay nhân danh VNCH, nhân danh “đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền” để áp đặt những quan điểm của họ lên người khác, và nếu ai đó có ý kiến khác biệt sẽ bị qui chụp “Việt gian”, “tay sai Việt cộng” hay “làm lợi cho Cộng sản. Và kết quả sẽ là những cuộc biểu tình mang tính “áp đảo”, tẩy chay, đôi khi còn tệ hại hơn như các trường hợp đã bị sát hại ở thập niên 80 và đầu thập niên 90“.
Với các người quan tâm, thì Điếu Cày đã thực sự thất bại (ít nhất là để sinh tồn) kể từ khi anh ta phát biểu tại Washington DC, rằng “nhập gia tùy tục”, và chấp nhận quàng lên cổ một chiếc khăn biểu tượng cho cờ ba que.
Không ít người cho rằng, những người chống cộng cực đoan đang sỉ nhục Điếu Cày, bởi hình ảnh Điếu Cày ngồi yên để một phụ nữ thòng chiếc khăn vào cổ rồi cuốn lại, đã bác bỏ những hành động và phát ngôn trước đó của anh ta.
Có lẽ, lúc này đây, Nguyễn Văn Hải Điếu Cày đã thấm thía rằng, không đâu bằng quê hương, và không có nơi đâu anh ta lại nhận được sự tôn trọng như ở Việt Nam. Và có lẽ, trong tâm khảm mình, Điếu Cày cũng không thể ngờ được rằng, ngay tại miền đất mà anh ta hằng ngưỡng mộ, người ta lại có thể hạ nhục anh ta bằng lối hành xử phi dân chủ của những kẻ luôn mồm đòi dân chủ đến vậy.
Và đây là những nhận xét của một người có tên Hà Lu trên trang CXN: “Anh Hải vẫn chỉ nói chung chung nghe qua tưởng hợp lý, nếu suy xét kỹ lại có ý như moi tiền đồng bào hải ngoại bằng những câu: “Hải ngoại qua đấu tranh, kết hợp với anh em dân chủ trong nước. Trong ngoài liên kết hỗ trợ đoàn kết. Ủng hộ tiền tài, quyên góp từ thiện. Mở rộng Blog”. Và đây là gáo nước lạnh cho Điếu Cày: “Theo tôi anh Điếu Cày là cái thá gì? Trình độ hiểu biết học vấn có bấy nhiêu thôi sao cứ ép anh ta vào hàng ngũ người quốc gia chống cộng và mang cờ vàng? Dùng chữ nhập gia tùy tục nó chối tỷ quá cho cái gọi là đấu tranh chống cộng sản độc tài”.
Câu nói của người Việt, “kẻ gieo gió sẽ phải gặt bão” lại vẫn đúng ngay cả trên đất Mỹ.
Thật đáng đời.
Đáng tiếc, khi nhận ra thì đã quá muộn.

Lại thêm mấy "trò nhố nhăng" trong làng "dân chủ"!



Như là có sự phối hợp trong - ngoài, đầu năm 2015, sau khi một số kẻ chống cộng ở hải ngoại tổ chức cái gọi là "We march for Freedom" (chúng ta tuần hành vì tự do) thì ở trong nước, một số người cũng hè nhau phát động cái gọi là "chiến dịch tranh đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền". Và như nhận xét của người từng đứng chung hàng ngũ cùng mấy "nhà dân chủ" thì đây vẫn tiếp lục là... "trò nhố nhăng"!
Năm 2014, sau ngày Nguyễn Văn Hải đến Mỹ, trong bài viết có nhan đề Ông Nguyễn Văn Hải (Ðiếu cày) sẽ đi về đâu? đăng trên một trang mạng của người Việt ở nước ngoài, từ thực tế: "Trần Khải Thanh Thủy sau khi Việt tân khai thác hết giá trị thì lập tức bị tổ chức Việt tân tẩy chay, đã thành người dư thừa, bị Việt tân xem như kẻ gây bệnh dịch cho tổ chức. Cù Huy Hà Vũ cũng chẳng sáng sủa gì, nay cũng chỉ là "diễn viên chống cộng" khi các tổ chức thấy cần thuê", tác giả Kiến Phước cho rằng vì "trình độ không có, tiếng Anh mù tịt" nên có thể ngày nào đó "Nguyễn Văn Hải cũng bị lãng quên, chìm xuồng như Cù Huy Hà Vũ, bị chính tổ chức vứt bỏ một cách không thương tiếc như Trần Khải Thanh Thủy". Và tác giả còn đề cập giả thuyết: mấy người như Nguyễn Văn Hải có "mục đích hoạt động dân chủ là đến với đất nước tự do Mỹ, khi có cơ hội thì chộp ngay"!
Ðiều mà Kiến Phước đưa ra là có cơ sở, vì để sống ở Mỹ và tiếp tục duy trì "tiếng tăm người hùng", Nguyễn Văn Hải đã bị ép phải choàng lên cổ cái "khăn cờ vàng", phải nhập vào cộng đồng như trong bài Ðiếu cày và "phép thử cờ vàng" đăng trên BBC tháng 11-2014, Trần Nhật Phong đã viết: "Từ nhiều năm nay, do các yếu tố từ quá khứ chiến tranh, từ những trò "chống cộng" giả hiệu để gạ gẫm tiền bạc, cho đến những bất đồng quan điểm giữa các thành phần trong cộng đồng, đã dẫn đến một thực trạng tiêu cực trong cộng đồng mà ai cũng lắc đầu ngán ngẩm, đó là sự phân hóa và mất niềm tin lẫn nhau... Bên cạnh đó là sự cực đoan của một số người, luôn nhân danh lá cờ vàng ba sọc đỏ, hay nhân danh VNCH (Việt Nam Cộng hòa - người viết), nhân danh "đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền" để áp đặt những quan điểm của họ lên người khác, nếu ai đó có ý kiến khác biệt sẽ bị quy chụp "Việt gian", "tay sai Việt cộng" hay "làm lợi cho Cộng sản". Và kết quả sẽ là những cuộc biểu tình mang tính "áp đảo", tẩy chay, đôi khi còn tệ hại hơn như các trường hợp đã bị sát hại ở thập niên 80 và đầu thập niên 90".
Ý kiến của Trần Nhật Phong càng thêm sáng tỏ qua trả lời phỏng vấn RFA của Dương Thu Hương ngày 11-3. Chẳng là sau khi nhai lại mấy luận điệu nhàm chán mà trước sau chỉ nhằm chứng minh mình đã "chọn con đường làm giặc", sau gần chục năm sống tại trời Tây người này phải thốt ra những điều cay đắng và chua chát: "Bây giờ nhìn lại những phong trào chống cộng của người Việt hải ngoại, ta thấy cái gì? Trừ những vụ treo đầu dê bán thịt chó như Hoàng Cơ Minh ra, rất nhiều chính khách khác chỉ chờ cơ hội để về Việt Nam thương thuyết với cộng sản để chia ghế. Những nhà chống cộng ở đây tôi biết thì hoàn toàn là một thứ trò du hí để thỏa mãn cái lòng tự tôn của họ. Bởi vì sống ở nước ngoài họ không có một gương mặt hãnh diện, một vị trí xứng đáng cho nên là họ nêu chiêu bài chống cộng, nhưng lúc nào cũng ngóng chờ cộng sản chìa tay ra để trở về chia ghế. Và có những ông, cộng sản chưa cần mời đã vội vàng đến sứ quán làm lành trước... Cho nên cái tinh thần chống Cộng của tôi cũng giống như cái đuôi con chó, vẫy lên rồi vẫy xuống theo cái lợi ích của họ"!
Nhận xét nêu trên không có gì mới mẻ, vì nhiều người Việt ở nước ngoài từng nhận xét như vậy, tuy nhiên với Dương Thu Hương thì có sức nặng hơn, vì người này vốn "nổi tiếng" là có nhiều thành tích "chống cộng", lại được một số thế lực ở phương Tây ca ngợi, o bế và cưu mang, thậm chí có kẻ còn đề cử trao giải Nobel! Trên lộ trình chống cộng từ trong nước ra ngoài nước, xem ra người này đã nhận ra bản chất của mấy kẻ "cùng chí hướng" và đã thất vọng. Nên khi Ðào Trường Phúc, Nguyệt Ánh tổ chức ra cái gọi là "We march for Freedom" nhằm cung cấp thông tin cho "các tổ chức quốc tế và các quốc gia cấp viện, hầu góp phần đẩy mạnh cuộc vận động đòi tự do, dân chủ, nhân quyền cho đồng bào Việt Nam" (!) rồi hè nhau lang thang đàn hát ở châu Âu thì cũng chỉ là một trò hề. Vì mấy kẻ như họ từng diễn nhiều trò vè hơn thế và kết cục luôn chỉ là con số 0, điển hình là năm trước họ tổ chức cái gọi "chiến dịch thỉnh nguyện thư gửi Nhà trắng" rất rùm beng nhưng kết thúc không kèn không trống, bằng lòng với mấy câu trả lời chiếu lệ và dư âm còn lại là mấy màn hầm hè, cãi nhau ỏm tỏi,... làm trò cười cho thiên hạ.
Với những người tự nhận "nhà dân chủ, người yêu nước" ở Việt Nam, tình hình còn bi đát hơn. Ngày càng nhiều người lúc đầu vì cả tin mà đi theo họ, nhưng sau khi chứng kiến hành xử bất hảo của họ đã không muốn dây dưa. Hồi đầu năm, một facebooker có nick là Hồng Ðạt (nghe nói "từng xách va-li xuất ngoại học hỏi thế giới dân chủ bên ngoài"?) viết trên facebook cá nhân rằng: "Một lý do mà em muốn từ bỏ FB (Facebook - người viết) đơn giản chỉ thấy con đường tranh đấu của chúng ta càng ngày càng lệch hướng. Hầu hết tư tưởng đấu tranh không nhằm đoàn kết hướng đến lý tưởng chung mà chỉ nhằm cái mục đích quái gì chả hiểu. Kẻ vì tiền, người vì tình, kẻ thích nổi tiếng, người thích thể hiện đẳng cấp, kẻ ham ăn nhậu, người thích phô trương, kẻ ngồi đếm like, người nằm soi mói dìm hàng nhau, xúm lại là mang anh phản động A, chị dân chủ B ra bàn luận mổ xẻ". Giao du với mấy "nhà dân chủ, người yêu nước", chắc là Hồng Ðạt cũng thất vọng vì thấy đó chỉ là mấy "anh hùng bàn phím", trong xã hội thì họ kiếm sống bằng nghề "biểu tình viên", "tuyệt thực viên", "ăn vạ viên", "tưởng niệm viên" (như tổng kết của một blogger), còn trên internet thì họ thi thố mưu ma chước quỷ, bày đặt các trò xuyên tạc, đổi trắng thay đen, bịa đặt, dựng đứng, vu cáo, vu khống chính quyền,... đồng thời cũng là "đấu trường" giúp họ triệt hạ, tiến công lẫn nhau. Bởi thế qua internet có thể chứng kiến vô số cuộc đấu khẩu nảy lửa giữa mấy "nhà dân chủ, người yêu nước" chỉ để giành giật tài trợ từ hải ngoại, bôi xấu lẫn nhau ngõ hầu gỡ gạc uy tín với những kẻ đang đứng trong bóng tối và được BBC, RFA, RFI,... quan tâm. Cho nên lúc thì ông A bà B tố cáo ông C bà D biển lận tiền bạc; lúc mạt sát nhau hám danh, hám lợi; lúc lại xỉ vả nhau vì chiếm đoạt công sức của người khác; thậm chí là công khai loại trừ nhau khỏi "hội" này "hội" kia... Ðể làm sáng tỏ các hiện tượng này, có lẽ nên đề cập các phát biểu gần đây của người có tên là Nguyễn Chí Ðức.
Năm 2012, khi bức ảnh Nguyễn Chí Ðức bị bắt giữ được mấy "nhà dân chủ, người yêu nước" thi nhau đăng tải trên mạng, nhất là sau khi anh này tuyên bố ra khỏi Ðảng Cộng sản,... thì tên tuổi nổi lên như cồn. Vậy mà chỉ hơn một năm sau, Nguyễn Chí Ðức đã nhận ra những người "đồng hành" với anh là ai. Trả lời phỏng vấn Vietvision (kênh thông tin trên youtube của những người muốn "đem tiếng nói dũng cảm của những người dân yêu nước chân chính đến với không gian mạng"), Nguyễn Chí Ðức nói rõ "không ủng hộ việc đòi bỏ Ðiều 258 Bộ luật Hình sự, vì đó là điều luật được Quốc hội và Nhà nước nghiên cứu kỹ, có tầm ảnh hưởng chung trong xã hội", "không ủng hộ việc gặp người nước ngoài để qua đó gây áp lực với chính quyền". Qua một statuts trên facebook, Nguyễn Chí Ðức cho biết vì không thể dối lòng mình nên không a dua với mấy kẻ "chống Ðảng Cộng sản", "tuyên xưng là phản tỉnh, dân chủ để vinh danh VNCH", "Tôi đã từng gặp hai lần nhân viên Ðại sứ quán Mỹ và tôi cũng nói rõ lập trường của mình rằng "... vấn đề dân chủ thì chính chúng tôi những người trong nước mới quyết định. Không cho phép bất kỳ nước nào can thiệp", và "Ðọc báo BBC, RFA, RFI, VOA mà không đọc báo chí trong nước thường xuyên để cân bằng thì dễ bị ngộ độc "cuồng chống Cộng"...", "Gần đây thậm chí có những nhà hoạt động không thèm quan tâm đến cả báo trong nước lẫn nước ngoài mà chỉ lướt trên FB thì lại rơi vào trạng thái "mộng du" nhận thức dẫn đến hoang tưởng. Chính cái tình trạng láo nháo trên FB, thật giả, cực đoan/chém gió lẫn lộn cho nên gián tiếp khiến BBC, RFA, RFI, VOA thành hàng chợ". Với cái gọi là "nhà dân chủ, người yêu nước", Nguyễn Chí Ðức coi những người này: "Toàn bọn xôi thịt vì bản thân hơn là vì đại cuộc, toàn ý đồ "nước nổi thì bèo nổi" nhưng nước đã nổi đâu mà bèo đã ngoi lên rồi"! Với mấy cái gọi là "tổ chức xã hội dân sự" được lập ra chủ yếu để hò hét trên internet, trong một VIDEOC lip tự quay công bố trên youtube, Nguyễn Chí Ðức coi đó chỉ là hoạt động "tào lao, chẳng có giá trị gì", các hội đoàn "tự phát, tự phong" mang danh "xã hội dân sự" cũng tào lao không kém, chỉ đánh phá lẫn nhau, không "giúp ích cho dân, cho nước"!
Từ ý kiến của Nguyễn Chí Ðức suy ra, dù tô son, trát phấn bằng ngôn từ mỹ miều thế nào, cái gọi là "chiến dịch tranh đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền" cũng chỉ là trò tào lao. Cái "chiến dịch tranh đấu" đó đang được một số địa chỉ trên internet tung hô như trò diễn mới, song bằng vào mục đích, điểm mặt đào kép tham gia diễn trò thì không có gì mới mẻ, vì vậy chắc chắn họ sẽ nhận kết cục thảm hại không kém. Tuy nhiên, nếu họ thật sự yêu nước, có động cơ lành mạnh để phấn đấu vì một nền dân chủ đích thực thì nên đọc ý kiến của một người đã viết trên facebook của Nah Sơn - "thần tượng" rác rưởi của BBC, RFA,... rằng: "Nhìn vào cuộc sống rồi biết trân trọng một tí đi, hãy để cho trẻ em được yên ổn đến trường, được vui chơi, được ba mẹ đông đủ bên bàn cơm, để yên cho các cụ già yên tĩnh nghỉ ngơi xế chiều. Ðừng biến Việt Nam tươi đẹp này thành bãi đổ nát dân chủ như Syria, Iraq, Lybia, Ukraina..."!
HỒNG QUANG

Mạo danh khoa học để tuyên truyền "chống cộng"

Ngày nay, khi in-tơ-nét (internet) đã trở thành "sân chơi" của nhiều người thì sự ra đời, tồn tại một website nào đó cũng là điều bình thường. Do vậy, sự có mặt của một website tiếng Việt có tên gọi gắn với "triết học" cũng không có gì đáng ngạc nhiên và cũng không phải phê phán nếu trên thực tế, xu hướng "chống cộng" của website này đang lôi cuốn một số người tham gia.
Ra đời vào năm 2011, đến năm 2013, địa chỉ giao lưu tương tác với người hâm mộ (fanpage) gắn với hai chữ "triết học" nhưng lại ở đường phố (!) và trang web cùng mang tên này của Nguyễn Hoàng Huy - hiện đang sống tại Mỹ, vẫn chưa được nhiều người quan tâm, ngay cả khi anh ta xuất hiện trên một, hai tờ báo trong nước để tự quảng bá cho thứ "triết lý đường phố" của mình. Nhưng hơn một năm nay, số người theo dõi, bình luận trên website này tăng rất nhanh, trong đó có nhiều bạn trẻ ở trong nước. Phải chăng Nguyễn Hoàng Huy đã thành công với quan niệm: "Nhiều người vẫn nghĩ triết học, triết lý phải cao siêu, phức tạp, khó hiểu nên mình muốn phá vỡ thành kiến đó"? Hay vì anh ta đã và đang cố biến website của mình trở thành "một thương hiệu chống cộng" dưới vỏ bọc truyền bá tri thức?
Thời gian đầu, website của Nguyễn Hoàng Huy không có gì nổi bật. Anh ta tự nhận chỉ là người thích đọc, sưu tầm những câu danh ngôn, châm ngôn, triết lý cho nên lập fanpage để chia sẻ điều mình tâm đắc. Thực tế trên facebook cũng có một số trang của người Việt Nam có nội dung y hệt, hay na ná như thứ "triết học" Nguyễn Hoàng Huy đã diễn tả (một trang web đã bị Bộ Thông tin và Truyền thông rút giấy phép vĩnh viễn đôi khi cũng có một số triết lý kiểu này). Rồi anh ta và mấy "triết gia tự phong" bắt đầu thay đổi chiến thuật. Tháng 12-2013, website này cho ra đời mục "hàn lâm" trong chuyên mục "triết học". Ðặc điểm chung của nhóm bài đăng ở đây là đều trực tiếp, gián tiếp xuyên tạc, hạ thấp Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ nghĩa Cộng sản trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tiếng là "hàn lâm" nhưng nhiều tác giả dường như cũng "ngoại đạo" về triết học cho nên chữ nghĩa của họ rất ngô nghê, dẫn chứng bịa đặt, lập luận chắp vá. Mở đầu loạt bài tùy tiện, bậy bạ trong mục này là bài bàn về học thuyết Các Mác - V.I.Lê-nin. Có lẽ vì tay nghề của Chu Chi Nam - một kẻ chống cộng, quá yếu kém trong khi mục đích thâm hiểm lại lộ rõ cho nên lập tức bị tác giả Nguyễn Vương Tuấn vạch trần. Tuy nhiên, không hiểu sao bài viết của Nguyễn Vương Tuấn, dù rất có tính học thuật, lại chỉ được xếp vào mục bài liên quan thay vì phải ở mục "hàn lâm" như vị trí xứng đáng của nó? Không lẽ Nguyễn Hoàng Huy và người cùng chí hướng với anh ta lại nhầm lẫn? Chắc không phải vậy, bởi cũng trong mục "hàn lâm" này, anh ta đăng tải rất nhiều bài viết của các tác giả chống cộng là người Việt. Trong đó, có thể kể đến mấy cái tên như Mặc Lâm ở RFA, hay Nguyễn Hưng Quốc - blogger trên VOA...
Kể từ khi đăng tải các bài kiểu này, website của Nguyễn Hoàng Huy "nổi tiếng" lên hẳn. Ðể thoát khỏi ảnh hưởng của mấy cây bút chống cộng kỳ cựu và tạo "bản sắc riêng" cho website của mình, Nguyễn Hoàng Huy và đồng nghiệp bắt đầu thử sức. Dù hầu như rất thiếu hiểu biết cơ bản về triết học, nhưng mấy người này vẫn tự xếp bài vở của họ vào chủ đề triết học như để nói mớ cho oai! Chẳng vậy mà trong bài nhan đề "Gửi Việt Nam và Hong Kong, dân chủ không phải là cái chúng ta cần đấu tranh", Nguyễn Hoàng Huy hùng hồn đưa ra những định nghĩa chỉ anh ta mới có, đại loại như: dân chủ là đa số thắng thiểu số, dân chủ là 51% được quyền đưa ra quyết định cho 49% những người còn lại... Phải nói rằng đó là những ý kiến hết sức phiến diện, ngớ ngẩn về dân chủ. Có lẽ cũng biết trí lực có hạn, vừa viết Nguyễn Hoàng Huy vừa rào trước đón sau: "Tác giả có nói trước là sẽ không trả lời bình luận hay phản biện cho bài viết này. Ðây chỉ là một bài viết đọc tham khảo cho biết" và để chắc ăn, anh ta vô hiệu hóa luôn quyền bình luận bài viết này! Thế nên, dù website của Nguyễn Hoàng Huy luôn giơ cao khẩu hiệu "tiếng nói của những người trẻ tự do", thì đọc bài vở của nó sẽ phải đặt câu hỏi: Phải chăng ở đó "tự do" bị bó hẹp theo ý muốn của người chủ trì và người tham gia chỉ biết chăm chăm tin vào những thứ được đăng tải?
Trên website này, xăng xái hơn Nguyễn Hoàng Huy là người có nick Ku Búa. Ku Búa tỏ ra là một kẻ giỏi "câu like" và "chịu ăn gạch" (như ngôn từ của giới trẻ). Càng viết Ku Búa càng tự chứng tỏ bản thân rất kém về nhiều mặt, từ khả năng tư duy, cách viết bài, lấy tư liệu dẫn chứng đến dịch thuật. Ngược lại, Ku Búa lại khá năng nổ khi đều đặn công bố bài viết trên các mục của website bất chấp bị cộng đồng mạng chê bai. Quá chán với đề xuất của Ku Búa, độc giả có nick là thanha phải phàn nàn: "Chưa biết triết học tới đâu, chứ thấy kinh tế mà phán một cách ngắn tủn và yếu kém như thế, thôi đừng làm chủ đất nước cho em yên ổn!". Thẳng thắn hơn, độc giả Cao Vũ viết: "Xin lỗi chứ bạn là một người không biết một tí gì về thuế, quản lý thuế và ngân sách nhà nước. Thậm chí kiến thức cơ bản của kinh tế cũng không biết". Ðó là sở đoản của Ku Búa, còn sở trường về triết học, chính trị của anh ta còn thảm hại hơn. Thay vì đọc tận cùng, thấu đáo một tác giả triết học hay trào lưu, xu hướng triết học nào đó để rút ra kết luận, thì bắt chước Nguyễn Hoàng Huy, Ku Búa chỉ là người lên các trang danh ngôn lấy mấy câu mình thích rồi đem về dịch. Cái nhìn về cuộc sống của Ku Búa thì đúng là thảm họa. Có lẽ bị ảnh hưởng nhiều bởi những bài báo phiến diện như "choáng" với cái này, "sốc" với cái kia,... Ku Búa hùng hồn viết "23 điều vô lý chỉ có ở Việt Nam". Nhưng hóa ra 23 điều ấy chỉ có mỗi Ku Búa cùng một số người thấy vô lý còn hầu hết đều diễn ra ở rất nhiều quốc gia văn minh trên thế giới!
Trong nội quy trang web và những lời bộc bạch của mình, Nguyễn Hoàng Huy luôn khẳng định: "Ðể được đăng bài trên trang web, tất cả các bài viết phải đạt được những tiêu chuẩn, chi tiết nhất định, những ai làm việc chung với tôi lâu ngày đều biết tôi là một người rất chú ý tới chi tiết, một dấu chấm, dấu phẩy sai quy tắc cũng khiến tôi khó chịu. Nên những ai không thật sự nghiêm túc sẽ khó có thể đạt được những tiêu chuẩn đó". Nhưng căn cứ vào những gì anh ta đã thể hiện trên website thì đó chỉ là làm dáng, một cách nói lấp liếm nhằm che giấu khiếm khuyết tri thức và sở học của cá nhân. Hơn nữa, Nguyễn Hoàng Huy lại sẵn sàng xóa nhiều comment của độc giả chỉ vì "vì tính tôi không thể chịu được những người thiếu hiểu mà khoái phát biểu lung tung" như khi một độc giả nghi ngờ về tác dụng của chất gây ảo giác Ayahuasca trong bài viết "Tôi đã gặp thần chết (nghĩa đen) và sống sót trở về sau 5 hits DMT (Ayahuasca)". Ngược lại, theo mục đích hoặc trình độ của mình, Nguyễn Hoàng Huy và đồng nghiệp sẵn sàng bỏ qua rất nhiều lỗi sai của các bài viết khác? Ðiển hình là bỏ qua nhầm lẫn cơ bản trong bài viết của Hồ Nhất Duy. Bài viết chống cộng này đề cập một câu nói của Ngô Ðình Diệm, mà thật ra đó lại là câu nói của Nguyễn Văn Thiệu! Và cũng phải sau mấy ngày, chủ trang mới nhận ra sai sót sau phản ánh của độc giả Cao Vu: "Câu nói này hình như của Nguyễn Văn Thiệu chứ đâu phải Ngô Ðình Diệm do đó tôi nghi ngờ trình độ "sinh viên" của bạn. Thứ hai, việc bạn kết nạp Ðoàn không còn bắt buộc nữa, bạn có quyền từ bỏ và chẳng ai bắt bạn kết nạp Ðảng cả, kể cả có làm công chức. Bạn làm ở khu vực tư nhân hay nước ngoài thì ai bắt bạn kết nạp Ðảng mà thăng với chả tiến. Tôi cũng không biết bạn có đi Mùa hè xanh hay chưa mà phát biểu như thế, nếu bạn đi rồi mà vẫn nói như thế thì bạn cũng chẳng hơn cái đám đi mà tự sướng như bạn nói đâu".
Việc admin của website xóa ý kiến bất đồng với quan điểm họ diễn ra thường xuyên, bất chấp hầu hết trong số đó là góp ý chân thành, có văn hóa; ngược lại thì nhiều bình luận văng tục, chửi bậy, nói càn vẫn nhởn nhơ. Ðiều này gây bức xúc đến nỗi tác giả KR phải viết bài "5 nhận định về cách lập luận chính trị ở Việt Nam", trong đó khuyên các thành viên của website: "Không nên tranh luận theo kiểu cãi bướng, cứ đinh đinh cái định kiến rằng bên mình luôn đúng và bên kia luôn sai (...) tranh luận là giải quyết vấn đề bằng ngôn ngữ, lập luận, chứ không phải cãi nhau ngoài đường, bên nào chửi cho bên kia im miệng là thắng (...) thứ chúng ta tranh luận là những vấn đề hiện nay, với những cá nhân sống trong thời đại này chứ không phải vào thời nào đó. Cho nên việc lôi lịch sử ra để xuyên tạc phán xét là hành động không hợp lý và mang tính thù địch hơn là tranh luận".
Ngày 19-9-2013, trong bài viết đã đăng trên một trang mạng ở trong nước, Nguyễn Hoàng Huy không giấu ý định sẽ biến website của anh ta trở thành một thương hiệu sinh lời. Tuy nhiên, xét đến cùng thì website đó không phải là "sân chơi triết học", mà đó đích thực là diễn đàn của tham vọng chính trị thông qua thái độ chống cộng, và cổ xúy cho loại ý kiến ngô nghê, ngông cuồng... Do vậy, nếu các bạn trẻ muốn xây dựng cho mình một tư duy lành mạnh thì hãy tìm đến các vấn đề triết học nghiêm túc, và cơ quan báo chí nào muốn quảng bá cho Nguyễn Hoàng Huy cũng cần tìm hiểu anh ta là ai, anh ta đã và đang làm gì.

Thứ Sáu, 17 tháng 4, 2015

Trường hợp Võ Phiến


Võ Phiến hoặc Tràng Thiên là bút danh của Ðoàn Thế Nhơn (1925) - nhà văn ở miền nam trước năm 1975, hiện định cư ở Mỹ. Văn nghiệp của Võ Phiến khá phức tạp mà nổi lên là xu hướng "chống cộng" cho nên được chính quyền Sài Gòn trước đây và một số người ca ngợi (!). Vừa qua, vì "được biết một tổ chức phi chính quyền trong nước đang có kế hoạch tích cực phổ biến những tác phẩm Võ Phiến chứa nội dung chính trị sai lầm", nên từ Mỹ, tác giả Thu Tứ (bút danh của Ðoàn Thế Phúc - một người con của Võ Phiến) đã viết bài Trường hợp Võ Phiến nhằm phản bác kế hoạch nêu trên.
Dù viết về quan điểm chính trị - xã hội trong tác phẩm của cha mình, nhưng tác giả Thu Tứ đã có cách tiếp cận khách quan, để đưa ra một số lý giải, kết luận. Ðược sự đồng ý của tác giả, trong hai số báo ra ngày 7-10 và 10-10, Báo Nhân Dân trích đăng bài viết để bạn đọc tham khảo, qua đó nhận diện một người viết văn với nội dung chính trị sai lầm trong văn nghiệp của mình, đã đi ngược lại sự nghiệp chân chính của dân tộc như thế nào (Có thể đọc các tác phẩm của tác giả Thu Tứ tại website cá nhân gocnhin.net)...
Chẳng ai muốn chỉ ra cái sai của người đẻ ra mình! Chúng tôi làm việc này vì vừa được biết một tổ chức phi chính quyền trong nước đang có kế hoạch tích cực phổ biến những tác phẩm của nhà văn Võ Phiến chứa nội dung chính trị sai lầm. E rằng việc làm của họ có thể khiến một số người đọc hoang mang, ảnh hưởng tới đoàn kết dân tộc, chúng tôi quyết định tự mình phản bác nội dung này. Chúng tôi cảm thấy có một chút trách nhiệm về việc làm nêu trên của tổ chức phi chính quyền kia. Số là, trong hai năm qua, NXB Thời đại và Công ty Nhã Nam ở Hà Nội có in lại hai tác phẩm của nhà văn Võ Phiến là Quê hương tôi và Tạp văn. Cả hai tác phẩm này đều do chúng tôi chọn lựa và biên tập, theo sự ủy quyền từ lâu của thân phụ. Chúng tôi cố gắng chọn những tác phẩm giá trị nhất, không chứa hoặc chứa rất ít nội dung chính trị. Nếu có nội dung chính trị, khi biên tập chúng tôi loại bỏ hết. Mục đích của việc chọn và bỏ như thế là đưa những thành tựu văn học đỉnh điểm của văn nghiệp Võ Phiến đến với người đọc mà không gây hại cho nước. Chúng tôi đã tưởng mình thế là chu đáo với nhà, với nước! Hóa ra, việc hai tác phẩm Quê hương tôi và Tạp văn được người đọc trong nước đón nhận khá tốt lại chính là cái nền rất tiện lợi cho tổ chức kia toan đặt lên đấy thứ nội dung hoàn toàn bất ổn trong tác phẩm của Võ Phiến! Chuyện đang xảy ra còn làm chúng tôi sốt ruột về tương lai. Sẽ hết nhóm nọ đến phe kia những lúc nào đó đem vận dụng văn nghiệp Võ Phiến một cách có hại cho đất nước. Phải làm cho thật rõ về cái phần nội dung chính trị sai lầm trong văn nghiệp ấy ngay từ bây giờ.
Chúng tôi còn một lý do nữa khiến việc lên tiếng càng không thể tránh được. Do quan hệ đặc biệt và do ở gần nhà văn Võ Phiến trong không biết bao nhiêu năm, chúng tôi được nghe tận tai những phát biểu của ông về tình hình đất nước mà chắc chắn chưa ai từng nghe. Ngoài ra, do yêu thích văn học, chúng tôi đã đọc rất kỹ tất cả tác phẩm của Võ Phiến. Hơn nữa, chúng tôi còn đọc để soát lại trước khi đưa in phần lớn tác phẩm của Võ Phiến tái bản hoặc xuất bản ở nước ngoài. Kết quả của không biết bao nhiêu lượt nghe những lời phát biểu thoải mái và đọc rất kỹ tác phẩm là: không ai có thể biết lập trường chính trị và cách nhìn lịch sử của nhà văn Võ Phiến rõ bằng chúng tôi. Cái biết ấy trong tình hình lập trường bất ổn và cách nhìn cũng bất ổn đang được một số người tìm cách tái phổ biến, nó trở thành một sức nặng bắt chúng tôi phải bất chấp quan hệ tối thân thiết mà lên tiếng chỉ sai.
Trước khi về thăm quê hương lần đầu năm 1991, chúng tôi đã tuyệt đối tin những nghĩ ngợi của thân phụ mình về chuyện đất nước thời chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ. Chúng tôi về nước rất nhiều lần, mỗi lần rất lâu, thăm thân rất ít, coi như toàn bộ thời gian ở trong nước dành cho việc đi tham quan, chủ yếu tại miền bắc. Chúng tôi không ở khách sạn sang trọng, không đi "tua", mà ở những nhà khách rẻ tiền, đi xe khách, xe ôm, xích-lô, có lần mua xe đạp đạp dạo quanh vùng ngoại ô Hà Nội thường xuyên đến nỗi có người ngồi chợ tưởng nhầm là dân buôn! Với lối đi tham quan như vừa nêu, chúng tôi trở nên rất đỗi hoang mang! Chúng tôi thấy người Việt Nam ngoài bắc vui vẻ, bình thản, vừa giữ được phần lớn nền nếp cũ, lại vừa có thêm cái phong cách "cách mạng", mọi người bình đẳng, cũng rất hay. Bấy giờ miền bắc cũng như cả nước, đang có một số hiện tượng xã hội tiêu cực do kinh tế trì trệ kéo dài, vật chất rất thiếu thốn, nhưng nhìn chung người tuy nghèo mà văn hóa tinh thần rất đáng hãnh diện. Ðâu là cái ảnh hưởng cực xấu của chủ nghĩa cộng sản đối với văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam mà mình đã đọc thấy trong tác phẩm của người đẻ ra mình?! Than ôi, hóa ra chỉ là kết quả của những kinh nghiệm rất giới hạn cả về không gian lẫn thời gian cộng với những câu chuyện kể của một ít bạn bè người miền trung cùng hoàn cảnh, một số đồng nghiệp người bắc di cư, vài cán bộ cộng sản "hồi chánh", thêm vài tác phẩm "nhân văn giai phẩm", tất cả được một trí tưởng tượng hết sức phong phú và một tâm lý đặc biệt bi quan suy diễn nên!
Ngoài cái biết trực tiếp như vừa nêu, nhờ thói quen hay đọc sách báo mà chúng tôi biết thêm được vô số chuyện lạ đối với mình. Từ văn hóa, chúng tôi tìm hiểu sang lịch sử, mới biết đến, hay biết rõ nhiều chuyện đất nước rất to, như Tuyên ngôn Ðộc lập, Hà Nội kháng chiến 60 ngày đêm, chiến dịch Biên giới, chiến dịch Ðiện Biên Phủ, mà cho đến lúc ấy hoặc chưa nghe bao giờ hoặc chỉ nghe hết sức loáng thoáng với lời bình phẩm hạ giá kèm theo. Những "voi" sự kiện theo nhau lù lù bước ra từ quá khứ khiến chúng tôi hết sức bỡ ngỡ! Vì đã bị "tuyên truyền" rất kỹ, cũng phải đến hơn 10 năm sau lần về nước đầu tiên, sau khi nghĩ đi nghĩ lại không biết bao nhiêu lần, chúng tôi mới thấy được thật rõ ràng lịch sử dân tộc trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến 1975 thật ra là như thế nào...
Nhà văn Võ Phiến viết nhiều thể loại. Lập trường chống cộng của ông được đưa ra rải rác khắp nơi trong nhiều loại tác phẩm khác nhau, khi là hẳn một bài tạp luận hay tạp bút, khi là lời nhân vật trong truyện ngắn hay truyện dài, khi là những đoạn trong một tác phẩm phê bình hay nhận định văn học, v.v. Lập trường chống cộng của nhà văn Võ Phiến liên hệ đến ba vấn đề: giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, chọn lựa ý thức hệ.
Về giải phóng dân tộc, nhà văn Võ Phiến khẳng định không có nhu cầu! Ông cho rằng sớm muộn Pháp cũng trả độc lập cho ta, viện dẫn những chuyện xảy ra trên thế giới. Ðúng là đế quốc Anh đã tự giải tán trong hòa bình. Nhưng Pháp không phải là Anh. Pháp cương quyết tiếp tục giữ thuộc địa và cướp lại những thuộc địa tạm mất trong Thế chiến thứ hai. Song song với hành động tái xâm lược ở Việt Nam, tháng 8-1945 quân đội Pháp thảm sát hàng chục nghìn người dân nổi dậy ở thành phố Xê-ríp, An-giê-ri (Sérif - Algérie), và từ tháng 3-1947 đến tháng 12-1948 đàn áp kháng chiến ở Ma-đa-ga-xca (Madagascar), giết có thể đến hơn 100.000 người! Ngay cả sau khi thua to ở Ðiện Biên Phủ, phải chấp nhận rút khỏi Việt Nam, Pháp vẫn cố giữ Algérie để rất nhiều máu phải đổ nữa rồi mới chịu thôi làm đế quốc... Nhà văn Võ Phiến nhắc đến việc những miền đất ở châu Phi được Pháp trả lại độc lập dễ dàng: thì chính những nơi ấy đã may mắn được hưởng thành quả rực rỡ của kháng chiến Việt Nam và kháng chiến Algérie đấy chứ! Mà thực ra cũng không phải may mắn: ai cũng biết những "nước" Phi châu mới kia chỉ có cái vỏ độc lập chứ ruột thì vẫn nằm trong tay Pháp. Từ ngày "độc lập" năm 1960, các nước ấy đã bị Pháp ngang nhiên can thiệp quân sự hơn 30 lần! Vai trò áp đảo của Pháp trong vùng rõ ràng tới nỗi từ lâu đã sinh ra cái từ Francafrique: Phi nhưng mà "Phi Pháp"! Dân tộc Việt Nam với ít nhất hai mươi mấy thế kỷ văn hiến, dân tộc Việt Nam mà chính toàn quyền Ðông Dương Pôn Ðu-me (Paul Doumer) đã nhận xét là nhất ở Ðông - Nam Á, phải qua đến Nhật mới gặp được trình độ tương đương (dẫn theo Phạm Cao Dương, Lịch sử dân tộc Việt Nam, NXB Truyền thống Việt, California 1987), dân tộc ấy lại ngồi chờ giặc thua to ở nơi khác, ban phát cho một thứ gọi là độc lập hay sao?! Sau Thế chiến thứ hai, không phải đế quốc nào cũng chọn buông thuộc địa. Chính dân tộc Việt Nam Anh hùng đã dẫn đầu những dân tộc bị trị trong việc bắt thực dân Pháp phải buông thuộc địa... Lý luận "không cần kháng chiến" hoàn toàn không có giá trị. Gốc của nó là ở ý muốn bào chữa cho những người không tham gia kháng chiến và cái ý muốn phủ nhận công lao to lớn của Ðảng Cộng sản Việt Nam và ở một tâm lý tự ti về văn hóa dân tộc mà chúng tôi sẽ trình bày sau.
Về thống nhất đất nước, nhà văn Võ Phiến đặt chống cộng lên trên thống nhất đất nước. Sau khi thua ở Ðiện Biên Phủ, đế quốc Pháp phải chấp nhận rời khỏi nước ta. Cuộc kháng chiến lâu dài, anh dũng do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã thành công! Nhưng một số người Việt Nam - những người không tham gia kháng chiến hoặc theo giặc đàn áp kháng chiến (!) - không chịu để toàn dân đi bầu tự chọn chính quyền mà dựa vào thế lực siêu cường Mỹ dựng lên một "nước" trên một nửa nước! Tổ tiên ta bao nhiêu công phu, xương máu, qua bao nhiêu đời mới mở được chừng này đất, để bây giờ đất chia hai sao? Dân tộc Việt Nam mấy nghìn năm trải qua bao lượt thử thách vẫn là một để bây giờ thôi là một sao? Hễ có cơ hội, phải cố hết sức thống nhất đất nước. Cơ hội đã có: từ năm 1960, chính quyền Ngô Ðình Diệm bắt đầu lung lay, khởi đầu do một số đảng phái bất mãn về chính sách, sau đó do đông đảo Phật tử đấu tranh chống thiên vị tôn giáo. Năm 1963, chính quyền Ngô Ðình Diệm bị lật đổ. Tiếp theo là đảo chính liên miên. Nhân tình hình thuận lợi, quân kháng chiến miền nam và quân đội miền bắc tiến công mạnh mẽ. Ðâu muốn chết đến người Mỹ, nhưng thấy "tiền đồn Việt Nam Cộng hòa" quá nguy ngập, Mỹ đành gấp rút cho hơn nửa triệu lính đổ bộ. Chính quyền Sài Gòn trở nên tạm ổn định, khoản tiền viện trợ lớn lại gây ra nạn quan chức tham nhũng hết sức trầm trọng. Tổn thất sinh mạng binh lính Mỹ, ảnh hưởng tai hại đến kinh tế Mỹ, sự kiên cường của kháng chiến ở miền nam và quân dân miền bắc, cùng với sự bất lực của chính quyền Sài Gòn, khiến nội bộ Mỹ trở nên chia rẽ trầm trọng, dẫn đến quyết định rút hết quân. Chỉ hai năm sau khi lính Mỹ rút, nước Việt Nam thống nhất. Tổn thất hơn 210.000 lính chết và bị thương, thả xuống gấp 3,5 lần lượng chất nổ đã thả trong Thế chiến thứ hai (!), tiêu tốn gần một nghìn tỷ USD (tính theo giá USD năm 2011), mà siêu cường Mỹ rút cuộc vẫn thất bại trong ý đồ chia hai nước ta... Mỹ thảm bại, chắc chắn có một phần do đã ủng hộ một chính quyền không được lòng dân. Bất chấp cơ hội thống nhất đất nước đã tới, nhà văn Võ Phiến vẫn tiếp tục ủng hộ sự tồn tại của chính quyền Sài Gòn. Ðó là một lập trường đi ngược lại với lý tưởng dân tộc.

Về chọn lựa ý thức hệ, nhà văn Võ Phiến tuyệt đối bác bỏ chọn lựa chủ nghĩa cộng sản. Chọn lựa một chủ nghĩa, phải trên cơ sở nhu cầu đất nước và phải căn cứ vào kết quả cụ thể.
Xét nhu cầu, thời Pháp thuộc có nhu cầu hết sức lớn là đánh đuổi giặc Pháp. Ðến cuối thập niên thứ nhất thế kỷ 20, nỗ lực cứu nước của các nhà Nho đã coi như hoàn toàn thất bại. Công cuộc giành lại độc lập đòi hỏi một đường hướng mới. Ðúng lúc ấy bên Tây phương nảy ra một thứ chủ nghĩa nhiệt liệt bênh vực người bị áp bức, với những phương cách rất cụ thể để tổ chức họ thành lực lượng đấu tranh lợi hại. Quốc gia tiên phong ứng dụng chủ nghĩa ấy là Liên Xô, một cường quốc. Ở Việt Nam đang có vô số người bị áp bức, nếu chọn chủ nghĩa cộng sản thì trước mắt có phương tiện để tổ chức họ thành đoàn thể chặt chẽ, thêm về lâu dài có thể có được nguồn ngoại viện cần thiết cho kháng chiến: tại sao lại không? Thời Pháp thuộc còn có nhu cầu khác cũng rất quan trọng là cải cách xã hội để san bằng những chênh lệch quá độ nảy sinh như một kết quả của tình trạng đất nước bị ngoại nhân cai trị lâu ngày. Tuy ở nước ta không có vấn đề giai cấp như một kết quả của cấu trúc xã hội truyền thống, trong thời Pháp thuộc đã xảy ra chênh lệch giàu nghèo quá độ, vì lúc bấy giờ, quan lại điển hình không còn là cha mẹ dân, không lo cho dân nữa, mà vừa ngay ngáy lo phục vụ giặc cho thật kỹ, vừa ngày đêm "tận tụy" bóc lột dân! Dưới quan, bọn hào lý cũng bận bịu "hai lo": một phục vụ quan, hai bóc lột dân! Và vì trên quan dưới hào đều không vì dân, cho nên các địa chủ cũng tha hồ bóc lột! Chủ nghĩa cộng sản có vẻ là một phương tiện tốt để thực hiện việc cải cách này, tại sao lại không chọn?
Xét kết quả, đối với hai đại sự là giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, chủ nghĩa cộng sản rõ ràng là chọn lựa đúng. Nhờ đông đảo nhân dân đoàn kết chặt chẽ với tinh thần hy sinh cao độ và nhờ có ngoại viện cần thiết, mà cả hai đại sự đã thành công tốt đẹp. Ðối với việc cải cách xã hội, tuy trong một thời gian đã xảy ra sai lầm khiến một số người bị xử oan, nhưng mục đích san bằng bất công đã đạt được. Nhân đây cũng nên nói về ý nghĩa của việc "sửa sai". Nó chính là một thí dụ về khả năng Việt hóa món nhập ngoại của dân tộc Việt Nam... Tiếc một phần do hoàn cảnh chiến tranh, trong cải cách ruộng đất việc xem xét lại đã không được tiến hành kịp thời. Nhìn chung, ở miền bắc văn hóa dân tộc đã làm mềm hẳn chủ nghĩa cộng sản, với kết quả là một xã hội về cơ bản vừa giữ được những giá trị truyền thống tốt đẹp, vừa có một cái không khí bình đẳng hơn trước cũng tốt đẹp. Nghĩa là, ít nhất trong khung thời gian liên hệ, việc chọn chủ nghĩa cộng sản không có gì sai...
Trong khi những người cộng sản Việt Nam lập hết công giải phóng dân tộc đến công thống nhất đất nước, cùng lúc dần dần cải cách ý thức hệ cộng sản cho hợp với văn hóa truyền thống và điều kiện xứ sở, thì nhà văn Võ Phiến hững hờ với giải phóng, thờ ơ với thống nhất, đem toàn lực tiến công cái bản gốc của ý thức hệ ấy! Ông bảo chủ nghĩa cộng sản là xấu. Trông vào kết quả trên nhiều mặt, rõ ràng nó chẳng xấu cho đất nước, quê hương một chút nào!
Ngoài lập trường chống cộng, tác phẩm của Võ Phiến còn chứa một cái nhìn về lịch sử dân tộc trong thế kỷ 20. Ở đây có lẽ nên nhắc ngay đến cái khuynh hướng phân tích tâm lý nhân vật "chẻ sợi tóc làm tư". Thật ra không chỉ khi viết truyện mà cả trong đời sống ông cũng thế, cũng thích chẻ cái mình nhìn ra cho thật nhỏ. Và ông đặc biệt ưa chú mục vào những cái xấu, bất thường (tuy bản thân không hề xấu hoặc bất thường). Mỗi người chỉ có đúng một cách nhìn. Tất nhiên nhà văn Võ Phiến đã nhìn lịch sử dân tộc bằng cách vừa nói. Kết quả là, đọc ông gần như toàn gặp những người dân không biết yêu nước là gì (thỉnh thoảng có gặp thì nhân vật yêu nước hiếm hoi ấy lộ vẻ lạc lõng rõ rệt); không thấy thực dân khai thác tài nguyên bóc lột lao động đâu cả, chỉ thấy cán bộ cộng sản hủ hóa; không thấy giặc Pháp tàn bạo với người Việt Nam đâu cả, chỉ thấy có dân bị đấu tố oan; không thấy đông đảo nhân dân nô nức ủng hộ chiến sĩ, hàng hàng lớp lớp chiến sĩ hăng say đánh giặc ngoại xâm, lập chiến công oai hùng đâu cả, chỉ thấy nhiều người bị làm khổ và nhiều kẻ liều chết ngớ ngẩn! Không có những việc tốt mà nhà nước cộng sản đã làm cho dân nghèo nào hết, chỉ có những xáo trộn xã hội hoàn toàn vô ích!... Dân tộc Việt Nam đâu phải như vậy. Sự thật về cuộc cai trị của thực dân Pháp, về cuộc kháng chiến của Việt Nam, về những việc làm của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đâu phải như vậy. Sở dĩ nhà văn Võ Phiến thấy vậy, bởi ông đã chăm chú nhìn những thành phần thiểu số, những chuyện lẻ tẻ, nhất thời...
Cách nhìn là quan trọng nhất. Nhưng nhìn đâu cũng có đóng góp vào cái thấy của người nhìn. Có thể đặt vấn đề, hay là quê hương nhỏ của nhà văn Võ Phiến là huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Ðịnh nó đã "ngoại lệ" khiến ông đâm ra dễ nghĩ lệch về chuyện đất nước? Quả thật, ở Phù Mỹ thời Pháp thuộc gần như không thấy bóng giặc Pháp mà chênh lệch giàu nghèo cũng không đáng kể. Nhưng ngay ở Phù Mỹ, chắc chắn cũng đã có rất nhiều người yêu nước, chẳng qua nhà văn không chú ý đến họ. Hơn nữa, chỉ nhìn tình hình Phù Mỹ mà thôi khó thấy được đại cục nước Việt Nam, thì thiết tưởng một người lên tiếng về đại cục như nhà văn Võ Phiến có trách nhiệm phải nhìn cho thật rộng, nhìn khắp cả nước, chứ đâu được nhận định về toàn quốc trên cơ sở tình hình ở chỉ địa phương mình! Cuối cùng, về "cách nhìn Võ Phiến", có lẽ cũng nên nêu lên rằng lẽ tự nhiên nó dẫn tới tâm lý bi quan, là một nét nổi tiếng của văn chương Võ Phiến. Bi quan trong văn thì không sao cả. Nhưng trong cuộc đấu tranh để sinh tồn của cả một dân tộc, thì hết sức tai hại.
... Viết văn chống cộng thì lắm cây bút từ miền bắc di cư vào chịu khó viết. Nhưng tác phẩm của họ thường là lớn lời mà thiếu chi tiết cụ thể, rỗng lý luận. Tác phẩm chống cộng của nhà văn Võ Phiến ngược lại: lời nhỏ kể lể tỉ mỉ, đay nghiến, với lý luận (sai) kèm theo. Chính quyền Sài Gòn để ý và đánh giá cao lối viết ấy. Năm 1960, truyện vừa Mưa đêm cuối năm của nhà văn Võ Phiến được giải thưởng "Văn học toàn quốc". Như Nhất Linh nhận xét trong Viết và đọc tiểu thuyết, lời văn trong tác phẩm giật giải văn chương ấy hãy còn thô vụng. Nó được chọn rõ ràng vì nội dung chính trị phù hợp với nhu cầu tuyên truyền của những người đang cai trị miền nam.
Sau Mưa đêm cuối năm, được chính quyền Sài Gòn khuyến khích, được "đồng chí" tán thưởng, ông tiếp tục cho ra đời những tác phẩm có nội dung tương tự, viết chống cộng mỗi lúc một thêm "tinh vi". Thật ra tác phẩm của Võ Phiến trở nên "vi" (tỉ mỉ) hơn nữa, chứ không phải "tinh" (thấy đúng bản chất) hơn chút nào, vì nhìn cục bộ thì không thể thấy toàn thể. Cái tiếng "chống giỏi" của nhà văn nhanh chóng lan rộng trong cái tiểu xã hội phức tạp của những người chống cộng mà có lẽ đại đa số không thật sự chia sẻ nội dung cụ thể của tác phẩm Võ Phiến, chưa nói nhiều người hình như không hề cầm tới sách! Nhà văn Mai Thảo có lần đọc, thấy "nhiều sắc thái địa phương". Nhà văn Vũ Khắc Khoan cũng thử đọc, rồi phàn nàn về những nhân vật "tù lù mù". Chi tiết khó "chia", mà lý luận hẳn họ càng thấy khó "sẻ", vì vốn dĩ chính bản thân họ có hay lý luận rắc rối gì đâu. Ðại khái, mỗi người chống cộng vì một số lý do riêng, rồi hễ cứ nghe ai "chống giỏi" là rủ nhau hoan hô, không cần biết người kia cụ thể chống thế nào!
Cái lối được trầm trồ mà không được đọc rồi cũng xảy ra cho nhà văn Võ Phiến ở ngoài bắc. Một số người "Nhân văn giai phẩm" nghe tiếng chống cộng của ông, sinh ngay cảm tình, tuy hầu hết những người ấy chắc chắn chưa bao giờ đọc được một chữ văn của Võ Phiến! Thật ra giữa họ và nhà văn Võ Phiến có chỗ khác nhau rất căn bản: họ đều đồng lòng kháng chiến đánh đuổi giặc Pháp, lấy việc ấy làm quan trọng hơn cả, trong khi nhà văn Võ Phiến thì không. Nông nỗi của họ xảy ra là do họ nghĩ giải phóng dân tộc xong rồi, Ðảng không nên lãnh đạo văn hóa nữa, mà nên để "trăm hoa đua nở". Nhưng việc nước đã xong đâu! Còn phải thống nhất đất nước. Với sự can thiệp của siêu cường Mỹ, công việc sẽ vô cùng khó khăn. Cần phải duy trì ý chí chính trị và tinh thần kỷ luật ở mức cao nhất. Tự do văn hóa sẽ ảnh hưởng xấu đến nỗ lực duy trì này, do đó Ðảng không thể chấp nhận được. Nhìn cách khác, tình hình đất nước bấy giờ chưa thích hợp với một cải cách chủ nghĩa lớn như vậy.
Vào cái khoảng thời gian Liên Xô vừa sụp đổ, cái tiếng chống cộng của nhà văn Võ Phiến còn khiến một số nhà văn Việt Nam ở trong nước tìm cách bắt liên lạc với ông, hẳn vì họ nghĩ Nhà nước Cộng sản Việt Nam cũng sắp sụp đổ! Có người nhân dịp đi công tác qua Mỹ, đã tỏ tình thân ái bằng cách tặng nhà văn Võ Phiến một chiếc đồng hồ đeo tay dùng lâu năm. Người ấy từng tự nói nhờ Ðảng mà tôi mới được thế này. Ấy thế mà khi tưởng Ðảng sắp đổ, ông vội vã đi ôm chầm lấy kẻ thù của Ðảng! Ngán cho "nhân tình thế thái". Thân phụ chúng tôi có kể rằng, qua trò chuyện, thấy nhà văn kia dường như chưa hề đọc một tác phẩm nào của mình!...
Văn nghiệp Võ Phiến vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực. Tiêu cực, đáng bỏ đi, là phần chính trị, bởi đó là cái bi kịch của một người Việt Nam sống giữa thời kỳ lịch sử dân tộc cực kỳ khó khăn mà trước không tha thiết với độc lập, sau không tha thiết với thống nhất, khăng khăng đặt chuyện chống chủ nghĩa cộng sản lên trên tất cả... Sai lầm chính trị đã đưa tác phẩm của Võ Phiến ra khỏi lòng dân tộc. Ðất nước đã độc lập, thống nhất lâu rồi. Nay đến lúc, nhân danh bảo tồn những giá trị văn hóa Việt Nam, đưa tác phẩm của Võ Phiến trở về, sau khi lọc bỏ nội dung chính trị. Nhà nước Việt Nam đã sáng suốt khi quyết định cho tái bản sách của Võ Phiến trong nước. Ðáng tiếc, một số người đang lợi dụng tình hình quốc tế mà âm mưu tái phổ biến cả những nội dung chính trị sai lầm. Việc tái phổ biến này vừa có thể gây mất đoàn kết, hại cho dân, cho nước, vừa xúc phạm sự thật lịch sử.
THU TỨ (Tháng 8-2014)
-------------------

Hãy để thời gian trả lời bằng sự thật

LTS - Sinh tại Việt Nam, lớn lên tại Mỹ, mấy năm gần đây trong tư cách Tổng thư ký tuần báo Việt Weekly (Mỹ), Etcetera Nguyễn có dịp trở về Việt Nam để tác nghiệp. Nhân kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, Etcetera Nguyễn gửi tới Báo Nhân Dân bài viết nói lên suy nghĩ của mình về thực chất hoạt động "chống cộng" ở hải ngoại, về vai trò của Việt Weekly trong khi đưa tin khách quan, trung thực về tình hình đất nước... Chúng tôi trích giới thiệu với bạn đọc bài viết này (đầu đề là của Tòa soạn).
Trên bề mặt, nếu nhìn vào các sinh hoạt nổi bật ở Little Saigon (California) vào tháng 4 hằng năm, đặc biệt là ngày 30-4, người Mỹ bản địa và những vị khách chưa hiểu biết một cách thấu đáo về vấn đề, vẫn bị thu hút bởi mầu vàng của lá cờ "3 sọc đỏ" được treo khắp các con phố, trục lộ chính, nơi có nhiều cơ sở thương mại của người Mỹ gốc Việt buôn bán, làm ăn. Rồi nhiều cuộc hội họp, lễ lạt mang tính chất "tố cộng" được tổ chức rầm rộ. Các hội đoàn chính trị, các chính khách địa phương tập hợp tại "Tượng đài Việt - Mỹ" ở trung tâm TP Westminster để kể lại trận chiến bị thua, về vết thương còn âm ỉ! Các sinh hoạt chính trị đó được các tờ báo của cộng đồng ghi lại, thổi lên thành "ngọn lửa căm thù chế độ cộng sản, căm thù chính phủ Việt Nam". Việc này lặp đi lặp lại trong nhiều năm qua, và tất nhiên, có tác động đến những ai bị mất mát của cải, địa vị xã hội, quyền lợi chính trị từng có trước đây. Nhìn bề mặt thì như thế, nhưng theo ghi nhận của tôi, có yếu tố "đằng sau hậu trường" đáng ngạc nhiên. Và tôi có thể khẳng định rằng, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là ở Nam California, không cực đoan như các tờ báo cộng đồng cố tình mô tả.
Kể từ sau năm 1995, sau khi bang giao Mỹ và Việt Nam được thiết lập, đã có những người Mỹ gốc Việt đầu tiên trở về Việt Nam để tìm lại hình ảnh quê nhà thân thương, để thăm viếng; đã có những doanh gia lặng lẽ về nước tìm cơ hội làm ăn, giao thương buôn bán. Hơn 20 năm qua, các chuyến thăm thân, du lịch, giao dịch không còn là việc làm âm thầm, đơn lẻ nữa. Con đường nhỏ nay đã trở thành đại lộ thênh thang, không hạn chế bất cứ ai. Những năm gần đây, vị thế chính trị, kinh tế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế đã trở nên quan trọng, được đánh giá là một nước có nhiều tiềm năng kinh tế, phát triển tại Đông - Nam Á.Các chuyến thăm hữu nghị của các cấp lãnh đạo Việt Nam ra quốc tế và ngược lại diễn ra đều đặn, ngày một nhiều hơn... Tuy nhiên, những thông tin tích cực ở Việt Nam đã không đến được với người dân bản địa. Có chăng thì đều bị bóp méo, xuyên tạc bởi những "nhà chính trị", các "tổ chức chính trị" có quan điểm khác với Chính phủ Việt Nam. Bức tranh thực tế của đất nước đã bị một lớp sương mù bao phủ, làm nhiễu loạn có mục đích. Vậy mục đích, động cơ của các "nhà hoạt đầu chính trị cộng đồng" là gì?Họ muốn điều gì để rồi luôn luôn có thái độ thù nghịch với Chính phủ Việt Nam?
Nếu như trước đây, các cá nhân hám danh lợi, các tổ chức và hội đoàn chính trị từng có tham vọng "lật đổ chế độ cộng sản" bằng bạo lực, để phục hồi quyền lực đã có một thời, thì theo thời gian, họ biết rằng không thể làm được điều đó vì không có khả năng, thực lực. Khi biết không thể làm thay được quyền lãnh đạo đất nước, các "nhà hoạt động chính trị" này lại nỗ lực tự biến mình thành một thứ chính quyền trong cộng đồng nhỏ, họ áp đặt "chủ nghĩa chống cộng cực đoan" lên người có cùng cảnh ngộ. Họ muốn biến "cộng đồng tị nạn" thành một tập thể cực đoan, luôn hô hào chống cộng dưới mọi hình thức để trục lợi cho cá nhân, tổ chức của mình. Quyền lợi chính trị này không đến từ Việt Nam, mà đến từ chính nước sở tại vào mùa tranh cử hai hoặc bốn năm một lần ở các cấp từ tiểu bang tới liên bang. Để có lá phiếu của cử tri gốc Việt, các ứng cử viên người bản xứ tìm đến vận động, xin hay "mua" từ những nhà lãnh đạo cộng đồng qua chiêu bài "chống cộng", hay "dân chủ, tự do, nhân quyền". Vào mùa tranh cử, các tổ chức chống cộng cấu kết với các cơ quan "truyền thông chống cộng" thao túng sinh hoạt cộng đồng. Các khó khăn, vấn nạn xã hội, hiện tượng tiêu cực ở Việt Nam là "nguyên liệu tốt" cho những nhà hoạt đầu chính trị cộng đồng nhào nặn thành "bánh vẽ", tạo nên chiếc khiên đỡ, che đậy các động cơ chính trị tư lợi. Vào dịp đó, cộng đồng Việt ở Nam Cali thường hoạt động rất sôi nổi, đây là dịp cho những tay hoạt đầu chính trị nhảy ra chiếm diễn đàn để chống cộng, để chụp mũ nhau loạn xạ, bất kể đúng sai, nhao nhao muôn vàn hình thức "chống cộng" như biểu tình phản đối chính quyền Việt Nam, đòi tự do cho "nhà bất đồng chính kiến" v.v... Biểu tình chống phá Việt Nam để tạo tiếng vang, ghi thành tích; biểu tình đe dọa, chụp mũ lẫn nhau là cộng sản để cạnh tranh buôn bán xảy ra thường xuyên (và biết đâu là giành cho được ngân sách tranh cử rơi vào túi của họ?). Chiếc bánh quyền lợi được chia đều cho một thiểu số tổ chức đấu tranh, các tay lãnh đạo cộng đồng; một số tờ báo, cơ quan truyền thông chống cộng cũng được hưởng quyền lợi thông qua việc quảng cáo tranh cử. Vì thế, quyền lợi vật chất, chính trị của một thiểu số sẽ tiếp tục tồn tại, nếu đa số người Mỹ gốc Việt thiếu thông tin khách quan, trung thực về Việt Nam.
Trong sự ngột ngạt đó, từ năm 2006, các phóng viên Việt Weekly quyết định tìm về Việt Nam làm tin tức tại chỗ. Với chủ trương đi tận nơi, tìm hiểu đưa tin khách quan, trung thực để một làn gió mới về thông tin từ Việt Nam được đưa thẳng tới cộng đồng. Đã có hàng loạt phóng sự về đời sống vùng miền, các cuộc phỏng vấn, trao đổi trực tiếp từ người dân đến các cấp lãnh đạo từ địa phương tới trung ương... Hoạt động này mang lại nhiều điều mới mẻ, khác lạ giúp kiều bào khắp nơi trên thế giới thấy và hiểu hơn về Việt Nam. Đặc biệt là những chuyến đi thăm biển, đảo được Nhà nước Việt Nam, qua Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài tổ chức các năm gần đây, đã cho thấy thực chất những gì đang diễn ra ở vùng biển chủ quyền đất nước, giúp độc giả ở hải ngoại hiểu hơn tình hình thực địa chủ quyền biển, đảo. Từ năm 2013 tới nay, cá nhân tôi, là phóng viên người Mỹ gốc Việt duy nhất hiện sống và làm việc công khai thường trực tại Việt Nam. Tôi đã có cơ hội đi nhiều nơi, tự mình tìm hiểu đời sống thực tế của người dân. Tới đâu tôi cũng chú ý lắng nghe, ghi nhận tường tận và cụ thể những câu chuyện người thật, việc thật. Hỏi chuyện, đại đa số người dân đều muốn yên ổn làm ăn. Họ cố gắng làm việc với ước mong một cuộc sống ngày càng khá hơn. Ai nấy đều muốn hòa bình để làm kinh tế. Điều gây ấn tượng nhất đối với tôi khi làm việc ở Việt Nam chính là thế hệ trẻ. Trong những ngày ở Việt Nam, tôi chọn bờ hồ Gươm ở Hà Nội làm "văn phòng lưu động" vừa làm báo, vừa ngồi vẽ tranh cho du khách, tôi có cơ hội thấy nhiều học sinh, sinh viên ra đây gặp khách ngoại quốc để thực tập tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hàn, tiếng Nhật, v.v. Tôi chia sẻ với những ước vọng của họ, những hoạt động xã hội của họ và nghĩ đến đất nước trong tương lai. So với Mỹ hay những nước phương Tây, Việt Nam còn nhiều điều cần đổi mới, cần chấn chỉnh từ luật pháp tới hành pháp, từ kinh tế tới giáo dục và nhiều lĩnh vực khác. Nhưng tựu trung, so với thời trẻ của tôi hồi còn ở trong nước, giới trẻ hiện nay sống vui, có điều kiện hơn nhiều. Những người ngoại quốc đến làm ăn, du lịch ở Hà Nội và các vùng miền mà tôi đã gặp đều nhận xét tích cực, lạc quan về con người, đất nước Việt Nam. Mùa Giáng sinh vừa qua, tôi có dịp về quê nội ở Nam Định. Về thăm quê, tôi kinh ngạc khi thấy vô số nhà thờ lớn nhỏ, cũ mới đan xen nhau theo từng họ đạo. Tôi đã ghi hình các buổi lễ với vài nghìn giáo dân đứng tràn ra ngoài đường phố. Sau Tết Nguyên đán, tôi lại có dịp tham quan, ghi nhận nhiều lễ hội ở miền bắc. Người dân được tự do bày tỏ tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo của mình. Những gì tôi thấy thực tế ở Việt Nam là hoàn toàn khác so với hình ảnh Việt Nam "đàn áp tôn giáo" được nói đến ở hải ngoại...
Ở hải ngoại, phần lớn người Mỹ gốc Việt chọn thái độ im lặng để sống yên ổn. Con cái họ đã thành công trong công việc, nhiều người lớn tuổi đã về hưu hưởng phúc lợi xã hội. Sự thầm lặng của đám đông không đồng nghĩa với cực đoan mà chúng ta thấy. Số đông này vẫn có những mối liên hệ trực tiếp với Việt Nam. Số đông này ngày càng hiểu hơn khi được tiếp cận với các thông tin khác nhau đến từ mạng xã hội, đến từ các cơ quan truyền thông như Việt Weekly. Do đó, việc thông tin trực tiếp, khách quan từ báo chí độc lập như Việt Weekly đã góp phần tích cực, thuyết phục với những người xa xứ. Bản thân tôi có được một chút kinh nghiệm làm báo ở Việt Nam nhờ sống tại chỗ, tham gia nhiều sự kiện diễn ra hằng ngày ở Hà Nội. Các bài viết, phóng sự, video chúng tôi thực hiện trong thời gian qua, được độc giả khắp nơi đón nhận và khen ngợi, động viên. Độc giả đòi hỏi chúng tôi đi nhiều hơn, làm nhiều hơn nữa, để giúp họ được hiểu biết Việt Nam hơn. Đó chính là phần thưởng và động lực, nguồn động viên cho công việc báo chí của Việt Weekly.
40 năm suy nghĩ về sự kiện lịch sử 30-4, là một nhà báo sống ở nước ngoài trở về Việt Nam làm việc, tôi thấy công việc của mình ngày càng thú vị, hữu ích hơn cho độc giả của Việt Weeklyở khắp nơi trên thế giới. Có lẽ, chọn lựa trở về của tôi và anh chị em trong Việt Weeklychẳng khác nào những "con cá dám vượt vũ môn" từ một cộng đồng xa xôi, vẫn còn một nhóm người cực đoan, chống phá Nhà nước Việt Nam. Hãy cứ để thời gian trả lời bằng sự thật. Và chúng tôi, các nhà báo nguyện làm công việc khách quan, trung thực, để cung cấp những thông tin chính xác, nhanh nhạy đến người ở ngoài nước, không may mắn có được cơ hội tiếp cận thực tế.