Hiển thị các bài đăng có nhãn XUYÊN TẠC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn XUYÊN TẠC. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 21 tháng 6, 2016

Cảnh giác với những chiêu trò xuyên tạc hình ảnh lực lượng vũ trang

QĐND - Thời gian qua, trên một vài trang mạng xã hội xuất hiện một số thông tin, hình ảnh phản cảm được gán ghép cho là của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam trong chiến tranh giải phóng và trong hòa bình.

Cần khẳng định ngay rằng đó là sự ngụy tạo trắng trợn của kẻ xấu nhằm xuyên tạc truyền thống tốt đẹp của lực lượng vũ trang Việt Nam, chia rẽ tình đoàn kết máu thịt giữa cán bộ, chiến sĩ LLVT với nhân dân.
Một trong những âm mưu, thủ đoạn nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch là “phi chính trị hóa” LLVT, làm cho LLVT xa rời sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mất dần phương hướng chính trị, không xác định được mục tiêu chiến đấu, mục tiêu bảo vệ... Khi mà LLVT không còn là chỗ dựa thì ắt sẽ dẫn đến Đảng, chính quyền không còn được bảo vệ, mất vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành đất nước và chế độ sẽ sụp đổ.
Ảnh minh họa. 
Toan tính của họ là thế và trên thực tế chúng ta không thể phủ nhận những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đã đạt được những kết quả nhất định. Bài học xương máu của Liên Xô và một số nước XHCN ở Đông Âu đã cho thấy rõ điều đó. Quân đội Liên Xô-một đội quân hùng mạnh nhất thế giới, với bề dày hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành đã bị vô hiệu hóa hoàn toàn trước những đòn thâm hiểm của mưu đồ “phi chính trị hóa”.
Đối với cách mạng Việt Nam và LLVT Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Đặc biệt sau khi chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tư tưởng “chiến thắng không cần chiến tranh” đã được chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ráo riết thực hiện. "Phi chính trị hóa" LLVT nói chung và Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng luôn là một trong những mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Để thực hiện “phi chính trị hóa” LLVT, thời gian qua, các thế lực thù địch đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào... Thế nhưng, có thể nói những đòn thâm hiểm, những thủ đoạn tinh vi mà các thế lực thù địch áp dụng nhằm “phi chính trị hóa” LLVT nói chung và quân đội nói riêng đã bị vô hiệu hóa!
Trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã khẳng định luôn là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam thực sự là một quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân. Ngày nay, trong điều kiện, hoàn cảnh mới, LLVT nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng tiếp tục được giáo dục, rèn luyện, huấn luyện, đầu tư vũ khí trang bị phát triển theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh về chính trị, lấy đó làm cơ sở, nền tảng để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu. Do được xây dựng vững mạnh về mọi mặt nên Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, LLVT nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Cùng với toàn Đảng, toàn dân, Quân đội ta đã bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống;... Những thành quả, những chiến công mà Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã đạt được chứng tỏ những chiêu trò hòng “phi chính trị hóa” LLVT của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã bị vô hiệu hóa!
Thế nhưng các thế lực thù địch không dễ từ bỏ âm mưu chống phá Việt Nam. Khi mà “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân và Công an nhân dân không thực hiện được, chúng lại giở chiêu bài nói xấu, bôi nhọ hình ảnh, hạ thấp uy tín. Để thực hiện chiêu trò này, một mặt chúng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo những truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, bôi nhọ hình ảnh, phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ. Mặt khác, chúng tán phát tài liệu, tung tin đồn nhảm, gán ghép, ngụy tạo hình ảnh để vu cáo, nói xấu cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân...
Cần phải nói rõ rằng hành vi lợi dụng các diễn đàn, mạng xã hội để tung ra những thông tin, hình ảnh nhằm mục đích bôi nhọ danh dự, uy tín Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là hành vi vi phạm pháp luật. Đây là một loại tội phạm không gian ảo hết sức nguy hiểm, vi phạm pháp luật Việt Nam. Mục đích của chiêu trò này không gì khác là nhằm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Quân đội và Công an; chia rẽ khối đại đoàn kết, tạo sự hoài nghi, ngờ vực trong xã hội, đặc biệt là chia rẽ mối quan hệ đoàn kết giữa Quân đội nhân dân và Công an với nhân dân... Cùng với đó, xuyên tạc truyền thống cũng là cách để họ đánh vào tư tưởng hòng làm giảm sút tinh thần, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân... Những chiêu trò ấy xét cho đến cùng đều nhằm phục vụ cho mưu đồ "phi chính trị hóa" LLVT nói chung và Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng mà các thế lực thù địch đang tiến hành.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần phải cảnh giác, tẩy chay những thông tin độc hại, không tiếp tay cho kẻ xấu lan truyền những thông tin ảo. Nếu ai đó nhẹ dạ tin vào những tài liệu, hình ảnh ngụy tạo ấy là đã mắc mưu kẻ xấu, trúng kế của các thế lực thù địch. Để vô hiệu hóa chiêu trò này, mỗi chúng ta cần nâng cao khả năng đề kháng, không mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác, cần hết sức tỉnh táo để nhận rõ tính ngụy tạo, xuyên tạc của những tài liệu, hình ảnh đó... Cách tốt nhất để giúp nhân dân và cán bộ, chiến sĩ LLVT tỉnh táo, “miễn dịch” và nhận diện rõ sự thâm hiểm đằng sau những chiêu trò ấy là phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, phổ biến, trang bị cho mọi người những kiến thức cần thiết. Nhận diện rõ, có kiến thức cũng là cách giúp chúng ta luôn chủ động, nhạy bén, tích cực tham gia đấu tranh, vạch trần tính chất phản khoa học, vô căn cứ trong những âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm, ngày càng tinh vi của các thế lực thù địch. Cùng với đó thông qua công tác dân vận cần tạo môi trường thuận lợi để phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, phẩm chất người Công an cách mạng ngày càng tỏa sáng trong điều kiện mới. Thông qua những nghĩa cử, việc làm tốt đẹp, đem lại hiệu quả thiết thực để tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân vào Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.
KIM NGỌC

Không thể xuyên tạc thành công của cuộc bầu cử

QĐND - Với tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu lên tới 99,35%-tỷ lệ cao nhất trong mấy kỳ bầu cử gần đây; số đơn vị phải bầu cử thêm, bầu cử lại giảm, số lượng những người trúng cử là người trẻ, người có trình độ đại học và trên đại học cao hơn so với nhiệm kỳ trước, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 đã thành công tốt đẹp. Vậy mà trên một số trang mạng xã hội, một số cơ quan báo chí nước ngoài vẫn có những thông tin sai lệch, xuyên tạc thành công cuộc bầu cử của chúng ta...

Bảo đảm dân chủ, công khai và minh bạch
“Thắng lợi đầu tiên và quan trọng nhất của cuộc bầu cử lần này chính là thắng lợi của dân chủ, của công khai và minh bạch”. Đó là khẳng định của đồng chí Nguyễn Hạnh Phúc, Tổng thư ký Quốc hội, Chánh văn phòng Hội đồng Bầu cử Quốc gia với báo giới ngay sau khi Hội đồng Bầu cử Quốc gia công bố kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV.
Thực tế trong thời gian qua, ở tất cả các địa phương trong cả nước, từ việc lựa chọn người ứng cử, lấy ý kiến cử tri nơi cư trú, nơi công tác đến việc tổ chức các vòng hiệp thương để ra được danh sách ứng cử viên chính thức đều được tiến hành dân chủ, đúng luật, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng. Quá trình vận động bầu cử của các ứng cử viên cũng được thực hiện rất công bằng, dân chủ và công khai. Ứng cử viên là lãnh đạo cấp cao ở Trung ương hay người tự ứng cử, người là đảng viên, người không phải là đảng viên... cũng đều phải vận động bầu cử với thời lượng và hình thức như nhau. Thế nhưng không hiểu vì sao trên internet, một số người vẫn cho rằng “nguyên nhân của việc một số người tự ứng cử và người ngoài đảng không trúng cử là do việc vận động bầu cử không công bằng”.
 Ngày hội bầu cử của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Ảnh minh họa: TTXVN.
Một điểm mới rất quan trọng trong cuộc bầu cử này theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND là trong quá trình kiểm phiếu, lần đầu tiên, chúng ta thực hiện quy định cho phép ứng cử viên, cơ quan, đơn vị, tổ chức giới thiệu người ứng cử hoặc người được ủy nhiệm có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu; phóng viên báo chí được tham gia chứng kiến việc kiểm phiếu. Đây là bước tiến rất quan trọng bảo đảm việc bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp của chúng ta thực sự dân chủ, công khai, minh bạch.  
Có người so sánh việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp ở Việt Nam với một số nước và “phán quyết” rằng, “việc tổ chức bầu cử ở Việt Nam đã lỗi thời”. Người viết bài này đã được đi một số nước mà một số người ca ngợi là “dân chủ”, thăm các nghị viện của họ, tiếp xúc với khá nhiều nghị sĩ và thấy rằng, mỗi quốc gia có cách thức tiến hành bầu cử khác nhau, tùy theo chế độ chính trị, truyền thống, văn hóa, kinh tế của mình. Thế nhưng, tất cả các nước đều có các quy phạm pháp luật về bầu cử. Việc giới thiệu ứng cử viên ở hầu hết các nước đều do các đảng phái chính trị thực hiện. Thí dụ, ở Cộng hòa Liên bang Đức, việc giới thiệu ứng cử viên vào Nghị viện là độc quyền của các đảng chính trị. Ở Mỹ, việc lựa chọn ứng cử viên để bầu cử Tổng thống, Thượng nghị sĩ, Hạ nghị sĩ, chủ yếu chỉ có đảng Cộng hòa hoặc đảng Dân chủ luôn cạnh tranh nhau... 
Ở Việt Nam hiện nay, việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND được thực hiện theo Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND (sau đây gọi tắt là Luật Bầu cử). Nguyên tắc bầu cử ở Việt Nam được luật quy định là: Phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân được quy định: Mọi công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND. Về điểm này, quyền ứng cử ở Việt Nam còn tiến bộ, thông thoáng hơn ở nhiều nước khác.
Về tỷ lệ đảng viên trong Quốc hội
Trong danh sách 870 ứng cử viên đại biểu Quốc hội khóa XIV có 97 người không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (chiếm khoảng 11% so với tổng số các ứng cử viên). Tuy nhiên, kết quả bầu cử chỉ có 21 người ngoài đảng trúng cử đại biểu Quốc hội  khóa XIV, chiếm 4,2% tổng số đại biểu Quốc hội, giảm hơn so với Quốc hội khóa XIII. Kết quả này phản ánh sự lựa chọn, ý chí và nguyện vọng của cử tri. Thế nhưng phiến diện nhìn vào kết quả này, cũng có người lại cho rằng “đảng độc quyền trong quốc hội”; “tỷ lệ người không phải là đảng viên quá ít trong Quốc hội sẽ ảnh hưởng đến không khí dân chủ”... Có người còn đòi “bầu thêm các đại biểu không phải là đảng viên”...
Trả lời phỏng vấn báo chí sau khi công bố kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV về tỷ lệ đảng viên trong Quốc hội, ông Nguyễn Hạnh Phúc, Chánh văn phòng Hội đồng Bầu cử Quốc gia, khẳng định: Theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, cử tri hoàn toàn có quyền lựa chọn người đại diện cho mình tham gia trong cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Bầu cho ai, không bầu cho ai là quyền của cử tri.
Ông Nguyễn Hạnh Phúc nói: “Không phải cứ có ít đại biểu Quốc hội là đảng viên thì mới bảo đảm tính dân chủ của Quốc hội. Yếu tố quan trọng nhất để bảo đảm dân chủ trong Quốc hội vẫn phải là công khai, minh bạch mọi hoạt động của Quốc hội từ lập pháp, giám sát đến quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Việc này thì Quốc hội khóa XIII đã làm khá tốt và chắc chắn Quốc hội khóa XIV sẽ tiếp tục làm tốt hơn, mọi hoạt động của Quốc hội sẽ được công khai trên các phương tiện truyền thông để người dân cả nước được biết, qua đó, người dân có thể giám sát được hoạt động của Quốc hội.
Theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, bất kỳ đại biểu Quốc hội nào, dù có phải là đảng viên hay không phải là đảng viên cũng đều phải hoạt động theo pháp luật và theo ý chí, nguyện vọng chính đáng của cử tri và nhân dân. Không đại biểu Quốc hội nào được phát biểu hay có những hoạt động đứng trên luật pháp, đứng ngoài luật pháp.
Trong số những người ngoài Đảng trúng cử đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ này có Nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Đây là lần trúng cử thứ tư liên tiếp của ông tại đơn vị bầu cử tỉnh Đồng Nai sau các khóa: XI, XII, XIII.  Bên lề kỳ họp Quốc hội khóa XIII, ông Dương Trung Quốc đã có lần kể rằng: “Một vài cơ quan truyền thông nước ngoài hỏi tôi có nghĩ rằng mình là "đối lập" không? Tôi trả lời tôi chỉ cố là một tiếng nói "độc lập" để đóng góp cho lợi ích chung thôi”.
Vì sao số người tự ứng cử trúng cử thấp?
Trong danh sách 496 người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XIV chỉ có 2 người tự ứng cử trúng cử, thấp hơn so với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII. Vì sao lại có tình trạng này?
Hiến pháp, văn bản pháp lý có giá trị cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại Điều 27 quy định: “Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân”. Pháp luật về bầu cử của Việt Nam cũng tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho các công dân thực hiện quyền ứng cử vào Quốc hội và HĐND. Cũng như nhiều nước trên thế giới, để có tên trong danh sách bầu cử, tất cả các ứng cử viên, không phân biệt nghề nghiệp, chức vụ, người được giới thiệu và người tự ứng cử đều phải trải qua các vòng hiệp thương. Tại Việt Nam, các vòng hiệp thương này do Mặt trận Tổ quốc chủ trì, để cử tri nơi công tác và nơi cư trú góp ý, lựa chọn bằng hình thức bỏ phiếu tín nhiệm.
Cũng có người thắc mắc: Tại sao lại cần lấy ý kiến cử tri nơi công tác và nơi cư trú? Xin thưa: Vì họ là những người sâu sát, có đủ thông tin về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, cũng như năng lực công tác của ứng cử viên... Thực hiện quy định đó, tại hội nghị cử tri, đối chiếu với tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, cử tri sẽ quyết định ai xứng đáng đưa vào danh sách bầu cử để bầu làm đại biểu Quốc hội. Ở đó, mọi người đều bình đẳng, không có chuyện "phân biệt đối xử", hay "đấu tố" như ai đó rêu rao. Đến việc tổ chức vận động bầu cử cũng vậy, tất cả đều công khai, bình đẳng và được nhân dân giám sát. Tại nơi bỏ phiếu, các cử tri lại một lần nữa đọc tóm tắt tiểu sử của các ứng cử viên rồi bằng lá phiếu của mình, cử tri sẽ quyết định ai là người xứng đáng để bầu vào Quốc hội và HĐND các cấp. Như vậy, một số người tự ứng cử không trúng cử là do sự tín nhiệm của cử tri với họ chưa cao. Tại cuộc bầu cử vừa qua, trên phạm vi cả nước, chưa phát hiện vụ việc vận động bầu cử trái pháp luật nào. Không phát hiện trường hợp ép phải bầu cho người này, không bầu cho người khác.
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 ở Việt Nam vẫn còn có nhiều vấn đề phải rút kinh nghiệm, một số địa phương vẫn còn có những thiếu sót, nhưng xét về tổng thể, cuộc bầu cử là thành công. Những ý kiến lạc lõng cho rằng, cuộc bầu cử vừa qua là áp đặt, lạc hậu, mất dân chủ... đều là xuyên tạc, bịa đặt bởi lẽ sự thật vẫn là sự thật.
PHÚ QUÝ

Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2015

"Nhận thức lại" hay xuyên tạc và phủ nhận lịch sử ?



Nhân những ngày lễ lớn của đất nước trong năm 2015, trên in-tơ-nét lại xuất hiện một số ý kiến xuyên tạc và phủ nhận lịch sử. Như vừa qua trên BBC, đã có người cho rằng Cách mạng Tháng Tám là "việc không nên làm" vì "khi thay thế Pháp, Nhật đã có chính quyền Trần Trọng Kim" (?).
Thực ra ý kiến coi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là "việc không nên làm" vì "khi thay thế Pháp, Nhật đã có chính quyền Trần Trọng Kim" của ông tiến sĩ nọ cũng không có gì mới. Trước đó đã có một vài giọng điệu lạc lõng khác cho rằng "ngày độc lập của Việt Nam là 11-3-1945" (11-3-1945 là ngày vua bù nhìn Bảo Đại ký đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập" sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và tuyên bố "trao lại độc lập cho Việt Nam")! Nói cách khác thì ý kiến của ông tiến sĩ chỉ là nối dài việc "đánh lận con đen" để tảng lờ thực chất việc phát-xít Nhật giành quyền kiểm soát Đông Dương chỉ là cố gắng tuyệt vọng khi thất bại là không tránh khỏi, thêm nữa cũng để chặn trước nguy cơ bị quân đội Pháp ở Đông Dương tiến công. Tư liệu lịch sử cho thấy các sự kiện (như: hành động quân sự, lựa chọn nhân vật chính trị, thành lập chính quyền bù nhìn...) diễn ra theo kịch bản đã được tình báo của hải quân Nhật ở Đông Dương chuẩn bị kỹ lưỡng.
Sau cuộc tập kích bất ngờ vào quân Pháp đêm 9-3-1945, vấn đề quan trọng nhất đối với quân Nhật là duy trì bằng được "trật tự và ổn định" nhằm tìm nguồn cung ứng vật chất tại chỗ cho gần 100.000 lính Nhật và để phòng thủ. Tuy nhiên, đúng lúc đó, bộ máy hành chính thực dân mà Nhật muốn kế thừa từ Pháp đã tan rã, vì thế việc lập một bộ máy cai trị tay sai bản xứ đặt ra như một đòi hỏi cấp bách. "Chính phủ" Trần Trọng Kim ra đời trong bối cảnh đó.
Đánh giá về sự kiện này, trong bài báo nhan đề Trần Trọng Kim, chính khách bất đắc dĩ? đã đăng trên tiasang.com.vn ngày 18-2-2014, sau khi khái quát các sự kiện liên quan, tác giả Trần Văn Chánh viết: "có thể thấy ngày càng rõ hơn việc đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại trước sau đều do người Nhật đạo diễn một cách khéo léo để dẫn dụ Trần Trọng Kim vào "tròng"..."! Sáng 10-3-1945, trên đường đi săn, Bảo Đại bị một toán quân Nhật áp giải về kinh thành. Đại sứ Nhật ở Huế là Masayuki Yokoyama (Ma-xa-y-u-ki Y-ô-kô-y-a-ma) đề nghị ông ra tuyên bố độc lập và sớm thành lập chính phủ để hợp tác với Nhật. Ngày 11-3, Bảo Đại ban bố một đạo dụ cam kết "... hợp tác toàn tâm toàn ý với đế quốc Nhật Bản". Bảo Đại hai lần gửi điện tín vào Sài Gòn mời Ngô Đình Diệm ra Huế lập nội các, nhưng rồi người được Nhật chọn vào vai trò này là Trần Trọng Kim. Ngày 30-3-1945, Trần Trọng Kim đang ở Băng-cốc được Nhật đưa về Sài Gòn, sau đó ra Huế thành lập "chính phủ" vào ngày 17-4 với bản tuyên cáo bày tỏ sự tri ân: "... không thể quên ơn nước Đại Nhật Bản đã giải phóng cho ta" và tin tưởng: "trên nhờ lòng tin cậy của đức Kim Thượng (Bảo Đại), dưới nhờ sự ủng hộ của quốc dân, ngoài tin vào lòng thành thực của nước Đại Nhật Bản" để "mong nền móng xây đắp được vững vàng để cơ đồ nước Việt Nam ta muôn đời trường cửu" (Dẫn theo Phạm Hồng Tung - Nội các Trần Trọng Kim, bản chất, vai trò và vị trí lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, H.2009, tr.191, tr.193).
Không biết khi viết tuyên cáo, ông Trần Trọng Kim có thành thực tin như vậy không, nhưng trong hồi ký Một cơn gió bụi, ông viết: "Nhật Bản trước vốn là một nước đồng văn đồng hóa ở Á Đông, nhưng về sau đã theo Âu hóa, dùng những phương pháp quỷ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ, trước đã thôn tính Cao Ly và Mãn Châu, sau lại muốn xâm lược nước Tàu và các nước khác ở Á Đông đã bị người Âu châu chiếm giữ. Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu "đồng minh cộng nhục" và lấy danh nghĩa "giải phóng các dân tộc bị hà hiếp" nhưng thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình.
Bởi vậy chính sách của họ thấy đầy những sự trái ngược, nói một đằng làm một nẻo" (Phạm Hồng Tung, Sđd)? Tồn tại trong thời gian ngắn từ ngày 17-4-1945 đến ngày 23-8-1945, "chính phủ" Trần Trọng Kim tập hợp được một số trí thức có uy tín thời đó với nhiệt thành, thực tâm yêu nước như Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Trịnh Đình Thảo... và cũng cố gắng làm một số công việc hữu ích như: thống nhất về danh nghĩa phần đất Nam kỳ vào lãnh thổ Việt Nam; quy định chữ quốc ngữ và tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức ở công sở, trường học; triển khai chương trình giáo dục bằng tiếng Việt; thành lập lực lượng "thanh niên tiền tuyến" (bộ phận thanh niên yêu nước trong tổ chức này sau được "Việt Minh hóa" đã hoạt động tích cực trong khi giành chính quyền ở Huế và trong kháng chiến sau này)... Dù vậy, "chính phủ" Trần Trọng Kim thực chất vẫn được Nhật Bản bảo hộ.
Không phải ngẫu nhiên ngay buổi đầu ông Trần Trọng Kim trình danh sách nội các với Bảo Đại lại có sự hiện diện "tình cờ" và phê duyệt của viên cố vấn tối cao Nhật Bản tại Huế là Masayuki Yokoyama. Cũng nên chú ý tới một sự kiện là ngày 5-8-1945, "chính phủ" Trần Trọng Kim đã trình Bảo Đại một văn bản xin từ chức, được Bảo Đại chấp nhận nhưng lại yêu cầu ở lại tạm thời làm việc, chờ tìm người lập nội các mới.
Tuy ít nhiều nắm bắt được nguyện vọng độc lập của quốc dân, và nhận thức được ý nghĩa của khối đoàn kết dân tộc, đề ra được một số chủ trương cải cách tiến bộ, ích quốc lợi dân, nhưng "chính phủ" Trần Trọng Kim lại không quy tụ, phát huy được ý chí, sức mạnh của dân tộc. Bởi đây thực chất chỉ là một tổ chức bù nhìn, bất lực trước các nhiệm vụ tự nó đặt ra lúc đầu. Ngay một công việc cấp bách khi đó là vận chuyển gạo từ miền nam ra miền bắc để cứu đói mà "chính phủ" này cũng không thực hiện nổi. Nhưng với khẩu hiệu "Phá kho thóc Nhật" của Việt Minh đã đáp ứng nguyện vọng, quy tụ sức mạnh đấu tranh của đông đảo quần chúng.
Đeo bám vào biểu tượng quân chủ đã lỗi thời và một ông vua bù nhìn, công khai xác nhận mối gắn bó, sự phụ thuộc nặng nề vào thế lực xâm lược ngoại bang, gây chiến tranh phi nghĩa và đang trên đường bị tiêu diệt, "chính phủ" Trần Trọng Kim không thể là biểu tượng quy tụ ý chí độc lập của dân tộc Việt Nam; do đó việc "được Nhật trao độc lập" không phản ánh tính chính danh chính trị của "chính phủ" này, chính vì thế nó đã tự đặt mình vào thế đối lập với xu thế thời đại. Dù tập hợp được một số trí thức có uy tín và muốn giương lên ngọn cờ yêu nước nhưng "chính phủ" Trần Trọng Kim, với hình hài và tinh thần thân Nhật, với sự ra đời và chịu sự bảo trợ, chi phối của Nhật,... chỉ là sản phẩm trực tiếp của chính sách chiếm đóng, cai trị của phát-xít Nhật trước thất bại không tránh khỏi, nên việc "chính phủ" đó sớm cáo chung là điều tất yếu.
Ngược lại với sự hình thành, bất lực rồi nhanh chóng tan rã của "chính phủ" Trần Trọng Kim, Mặt trận Việt Minh thành lập theo sáng kiến của Hồ Chí Minh (tháng 5-1941, khi Nhật Bản còn chưa tham chiến) đã nhanh chóng phát huy được vai trò của mình, nhanh chóng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong xã hội. Với quyết tâm "làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do", Mặt trận Việt Minh giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tập hợp đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đông đảo các tầng lớp nhân dân được tổ chức trong những Hội Cứu quốc là thành viên của Việt Minh, như: Nông dân cứu quốc; Công nhân cứu quốc; Thanh niên cứu quốc; Phụ nữ cứu quốc; Phụ lão cứu quốc; Văn hóa cứu quốc... đã làm cho Mặt trận ngày càng phát triển trên khắp các địa bàn từ nông thôn, thành thị, tới miền núi, từ bắc vào nam đã hình thành nên phong trào Việt Minh sôi nổi, đưa tới các chuyển biến mạnh mẽ, tạo nên thế và lực của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tiếp cận từ nhãn quan chính trị khác nhau cho nên còn có khác biệt trong đánh giá nguyên nhân, bản chất của Cách mạng Tháng Tám, nhưng trong nghiên cứu của phần lớn sử gia phương Tây đều thừa nhận vai trò to lớn của Mặt trận Việt Minh, tinh thần dân tộc phù hợp với xu thế thời đại, cũng như tầm tư tưởng vượt trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thí dụ trong cuốn sách Hồ Chí Minh - một cuộc đời (Ho Chi Minh - a life), tác giả Wiliam Duiker (Uy-li-am Điu-cơ) bình luận về vai trò Hồ Chí Minh trong cách mạng: "... những đánh giá như vậy (xu hướng hạ thấp ý nghĩa của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 - TP) không thể che giấu sự thật rằng cuộc Cách mạng Tháng Tám là một thành tựu phi thường... trong khi những nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa khác bằng lòng ở lại nam Trung Quốc và đợi đến khi quân Nhật bị quân Đồng minh đánh bại, ông Hồ và các đồng sự của ông mới chứng tỏ khả năng có thể đối phó với thách thức và đặt cả thế giới trước sự đã rồi" (bản dịch của Phòng phiên dịch Bộ Ngoại giao, năm 2000, tr.332).
Sự thật lịch sử đã rõ như ban ngày. Chính sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc, ý chí của toàn dân khi được phát huy đến cao độ dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành động lực làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Về điều này, theo tác giả Trần Văn Chánh trong tiểu luận nhan đề Tản mạn về nhân vật lịch sử Trần Trọng Kim qua những trang hồi ký (đã được một số trang mạng đăng tải) thì trong thư viết ngày 8-5-1947 tại Sài Gòn - nay là TP Hồ Chí Minh, gửi học giả Hoàng Xuân Hãn, ông Trần Trọng Kim bàn về tình hình chính trị Việt Nam năm 1945 và vai trò của Việt Minh như sau: "Còn về phương diện người mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng nhăng chẳng đâu vào đâu cả.
Ai cũng nói vì lòng ái quốc, nhưng cái lòng ái quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa vị và quyền lợi, thành ra tranh giành nhau, nghi kỵ nhau rồi lăng mạ lẫn nhau... Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà mình thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái địa vị bàng quan mà thôi... Tôi vẫn biết việc chống Pháp chỉ có Việt Minh mới làm nổi... Nay Việt Minh đứng vào cái địa vị chống Pháp, tất là có cái thanh thế rất mạnh...". Không rõ trước khi "nhận thức lại", ông tiến sĩ có đọc những dòng này?
THIÊN PHƯƠNG