Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

Toàn văn phát biểu tại họp báo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chiều 21/5.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại buổi họp báo sau Hội đàm Việt Nam-Philippines chiều 21/5. 
Tôi và Ngài Tổng thống Aquino vừa có buổi hội đàm rất thực chất và đạt nhiều kết quả quan trọng trên tinh thần hữu nghị, tin cậy và hiểu biết lẫn nhau. 
Chúng tôi đã kiểm điểm tình hình hợp tác giữa hai nước và cùng nhất trí cho rằng quan hệ hai nước đang phát triển hết sức tốt đẹp. Hai Bên đều coi trọng tăng cường quan hệ hợp tác với nhau và sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ để đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ hữu nghị và hợp tác theo tinh thần “Khuôn khổ hợp tác song phương trong 25 năm đầu thế kỷ 21 và thời kỳ tiếp theo”, cũng như các thỏa thuận cấp cao đã có giữa hai nước.
Trước hết, chúng tôi nhất trí triển khai hiệu quả các thỏa thuận cấp cao đã đạt được; phấn đấu hoàn thành các mục tiêu trong chương trình Hành động Việt Nam - Philippines giai đoạn 2011-2016 đúng thời hạn; tiếp tục đẩy mạnh hợp tác thông qua các cơ chế Ủy ban hợp tác song phương; tăng cường trao đổi đoàn cấp cao và các cấp; hợp tác ở các kênh Đảng, Quốc hội và giao lưu nhân dân nhằm thắt chặt hơn nữa sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, trong đó có việc xúc tiến lập Hội Hữu nghị Việt Nam - Philippines và Hội Hữu nghị Philippines - Việt Nam.
Tôi và Ngài Tổng thống Philippines cũng đã nhất trí tiếp tục tăng cường hợp tác và tích cực triển khai các thỏa thuận đã đạt được về quốc phòng, an ninh; đẩy nhanh tiến trình đàm phán ký kết Hiệp định Dẫn độ; nghiên cứu thiết lập cơ chế Đối thoại chính sách quốc phòng cấp Thứ trưởng; thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực bảo đảm hậu cần, công nghiệp quốc phòng; tích cực tham vấn, ủng hộ nhau tại các cơ chế hợp tác khu vực về quốc phòng an ninh như ADMM, ADMM+, ARF... Chúng tôi cũng tái khẳng định hợp tác biển đại dương là một trụ cột trong quan hệ hai nước; nhất trí tiếp tục thường xuyên trao đổi, phối hợp lập trường, hợp tác có hiệu quả tại các cơ chế song phương như Ủy ban Hỗn hợp về hợp tác biển và đại dương, Nhóm Chuyên gia pháp lý về các vấn đề hợp tác trên biển; thúc đẩy hợp tác trong nghiên cứu khoa học biển, khí tượng thủy văn và bảo vệ môi trường biển.
Về hợp tác kinh tế-thương mại-đầu tư và các lĩnh vực khác, chúng tôi nhất trí tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực; phấn đấu đưa kim ngạch thương mại hai chiều đạt 3 tỷ USD vào năm 2016; tạo thuận lợi để hỗ trợ các doanh nghiệp hai nước tiếp xúc, tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh doanh và đầu tư; tăng cường kết nối giữa hai nền kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực và mong muốn hợp tác trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, dịch vụ… đồng thời khuyến khích tăng cường và mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực tiềm năng khác như văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ và du lịch…
Trên cơ sở mối quan hệ tốt đẹp hiện có, chúng tôi nhất trí cần đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt Nam- Philippines, đưa quan hệ hai nước phát triển toàn diện lên tầm cao mới theo đó, chúng tôi nhất trí lập Ủy ban công tác chung do hai Bộ Ngoại giao đứng đầu để xây dựng lộ trình tiến tới quan hệ Đối tác chiến lược, vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển chung của khu vực để sớm trình Lãnh đạo Cấp cao hai nước quyết định. 
Bên cạnh hợp tác song phương, chúng tôi cũng đã trao đổi sâu rộng về các vấn đề khu vực và quốc tế.
Hai bên nhất trí phối hợp chặt chẽ với nhau và với các nước ASEAN khác, phấn đấu xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN đoàn kết, vững mạnh vào năm 2015; tiếp tục phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực.
Về tình hình Biển Đông, tôi và Ngài Tổng thống cùng chia sẻ quan ngại sâu sắc về tình hình đặc biệt nguy hiểm hiện nay ở Biển Đông trước việc Trung Quốc tiến hành nhiều hành động vi phạm luật pháp quốc tế, Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, xâm phạm nghiêm trọng vùng biển của các quốc gia ven biển, nhất là vụ hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 và đưa nhiều tàu hộ tống bảo vệ xâm phạm sâu vào trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải tại Biển Đông.
Hai bên kiên quyết phản đối và kêu gọi các nước, cộng đồng quốc tế tiếp tục lên tiếng mạnh mẽ yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành động xâm phạm nêu trên, triệt để tuân thủ luật pháp quốc tế, Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), và phấn đấu sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Cuộc hội đàm giữa tôi và Ngài Tổng thống Philippines đã thành công tốt đẹp, chúng tôi đã đạt được những nhận thức chung quan trọng về phương hướng phát triển quan hệ song phương cũng như hợp tác ở khu vực trong thời gian tới.
Xin cảm ơn./.

Toàn văn phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 24 tại Myanmar.

Thưa Tổng thống U Thên Sên, Chủ tịch Hội nghị Cấp cao ASEAN,
Thưa Quốc vương,
Thưa các vị đồng nghiệp!
Trước hết, Việt Nam xin cảm ơn sự đón tiếp chu đáo và xin chúc mừng Mi-an-ma trên cương vị Chủ tịch ASEAN lần đầu tiên. Việt Nam sẽ hợp tác và ủng hộ Mi-an-ma hoàn thành tốt trọng trách Chủ tịch ASEAN năm 2014. Theo chủ đề của Hội nghị, chúng tôi xin chia sẻ một số ý kiến sau:
1. Về hòa bình và an ninh khu vực
Việt Nam xin thông báo và nhấn mạnh về vấn đề Biển Đông như sau:
Hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển  Đông - mối quan tâm chung của ASEAN, của khu vực và thế giới đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Từ ngày 01/5/2014 Trung Quốc đã ngang nhiên đưa giàn khoan nước sâu cùng hơn 80 tàu vũ trang, tàu quân sự và máy bay hộ tống đi vào vùng biển Việt Nam và đã hạ đặt giàn khoan này tại vị trí nằm sâu trên 80 hải lý trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982. Các tàu hộ tống bảo vệ giàn khoan của Trung Quốc đã rất hung hăng bắn vòi nước có cường độ mạnh và đâm húc thẳng vào các tàu công vụ, tàu dân sự của Việt Nam, gây hư hại nhiều tàu và làm nhiều người bị thương. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan vào hạ đặt tại địa điểm nằm sâu trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của một nước trong ASEAN, là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng Luật pháp Quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và cũng là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng Tuyên bố về Ứng xử của các Bên trên Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc là một Bên tham gia ký kết. Hành động cực kỳ nguy hiểm này đã và đang đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông.
Việt Nam đã hết sức kiềm chế, chân thành bày tỏ mọi thiện chí, sử dụng mọi kênh đối thoại, giao thiệp với các cấp khác nhau của Trung Quốc để phản đối và yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan và các tàu vũ trang, tàu quân sự ra khỏi vùng biển của Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay Trung Quốc không những không đáp ứng yêu cầu chính đáng của Việt Nam mà còn vu khống, đổ lỗi cho Việt Nam và tiếp tục dùng sức mạnh, gia tăng các hành động uy hiếp, xâm phạm ngày càng nguy hiểm và nghiêm trọng hơn.
Việt Nam đặc biệt coi trọng và luôn làm hết sức mình để gìn giữ và tăng cường quan hệ hữu nghị tốt đẹp với Trung Quốc. Việt Nam cũng luôn chân thành mong muốn cùng với Trung Quốc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định của Khu vực và Thế giới. Song, lãnh thổ là thiêng liêng, Việt Nam cực lực phản đối các hành động xâm phạm và kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích chính đáng của mình phù hợp với Luật pháp quốc tế.
Chúng tôi trân trọng cám ơn và khẩn thiết kêu gọi các nước ASEAN, các nước trên thế giới, các cá nhân và Tổ chức quốc tế tiếp tục lên tiếng phản đối hành động xâm phạm nghiêm trọng nêu trên và ủng hộ yêu cầu hợp pháp, chính đáng của Việt Nam.
Trước tình hình đặc biệt nghiêm trọng này, Việt Nam đề nghị ASEAN, chúng ta tăng cường đoàn kết, thống nhất và khẳng định lại mạnh mẽ các nguyên tắc đã được nêu tại Tuyên bố 6 điểm về Biển Đông, đồng thời yêu cầu Trung Quốc tuân thủ Luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982, đặc biệt phải tôn trọng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của các quốc gia ven biển và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc Tuyên bố Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Và cùng ASEAN thương lượng thực chất về Bộ Quy tắc ứng xử COC.
Việt Nam đề nghị ASEAN đưa các nội dung nêu trên về vấn đề Biển Đông vào Tuyên bố chung của Hội nghị và Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị Cấp cao ASEAN lần này. Việt Nam đánh giá cao việc các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN, ngày 10/5/2014, đã nhất trí thông qua một Tuyên bố riêng về tình hình nghiêm trọng hiện nay ở Biển Đông, thể hiện rõ sự đoàn kết, vai trò trung tâm, tinh thần chủ động và trách nhiệm cao của ASEAN đối với hòa bình, ổn định và an ninh của khu vực.
2. Về lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN
Việt Nam đánh giá cao Báo cáo của ngài Tổng Thư ký ASEAN về các hoạt động xây dựng Cộng đồng ASEAN. Chúng tôi cho rằng ASEAN chúng ta cần phải làm nhiều việc hơn nữa và tập trung vào những trọng tâm:
Trước hết, mỗi quốc gia và cả khu vực đều phải nỗ lực thực hiện đúng thời hạn Lộ trình xây dựng Cộng đồng. Cùng với việc đẩy mạnh chất lượng của gần 80% dòng hành động đã và đang được triển khai, ASEAN cần ưu tiên thực hiện 20% phần còn lại. Việt Nam ủng hộ việc thông qua Tuyên bố Nay-pi-tô về xây dựng Cộng đồng ASEAN làm văn kiện định hướng cho các hoạt động trong năm 2014.
Chúng ta cần tăng cường phát huy vai trò chủ đạo của ASEAN nhằm bảo đảm hòa bình, an ninh, ổn định và phát triển trong khu vực, cũng như ứng phó hiệu quả với những thách thức đang đặt ra.
Cùng với nỗ lực xây dựng Cộng đồng, ASEAN cần phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo ở khu vực, nhất là trong bối cảnh có nhiều sáng kiến về khuôn khổ an ninh khu vực đang được các nước lớn đưa ra. ASEAN cần chủ động, tích cực có tiếng nói chung về các vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp tới hòa bình, an ninh và phát triển của khu vực; đặc biệt cần đề cao các nguyên tắc giải quyết bất đồng bằng biện pháp hòa bình, kiềm chế, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế,…
Theo đó, ASEAN cần đẩy mạnh đối thoại xây dựng lòng tin, xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực  ứng xử chung cũng như phát huy các công cụ  và cơ chế hợp tác hiện có như Hiệp  ước Thân thiện và Hợp tác (TAC), Tuyên bố Bali về các nguyên tắc quan hệ cùng có lợi, Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
Vì các mục tiêu trên, chúng tôi nhất trí với đề xuất xây dựng một khuôn khổ các quy tắc ứng xử và hợp tác chung ở khu vực Đông Á, dựa trên các nguyên tắc của Hiệp ước TAC và các thỏa thuận đã có, cũng như các sáng kiến có liên quan được đưa ra gần đây. Đồng thời, chúng ta cần tiếp tục gắn kết mục tiêu này trong nỗ lực xây dựng Cộng đồng và Tầm nhìn ASEAN sau 2015.
Để làm được điều đó, ASEAN cần tiếp tục giữ vững đoàn kết và thống nhất, đề cao trách nhiệm vì lợi ích chung của khu vực trên cơ sở các nguyên tắc và phương cách đã thỏa thuận, góp phần bảo đảm tốt hơn môi trường hòa bình, an ninh và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để ASEAN tiếp tục phát triển vững mạnh trong giai đoạn tiếp theo.
ASEAN chúng ta cũng cần đẩy mạnh các nỗ lực nhằm ứng phó hiệu quả đối với các thách thức an ninh phi truyền thống đang nổi lên, bao gồm các thách thức môi trường, nguồn nước, thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh… Trước những thiên tai, thảm họa xảy ra liên tiếp gần đây, tôi đề nghị các cơ quan chức năng của ASEAN cần phải rà soát và đưa ra các kiến nghị về việc tăng cường khả năng hợp tác, ứng phó kịp thời và hiệu quả của ASEAN trong lĩnh vực này.
Nhân dịp này, một lần nữa, tôi xin gửi lời chia sẻ  sâu sắc tới nhân dân Phi-líp-pin về những hậu quả  nặng nề do cơn bão Hải Yến gây ra và tới gia đình các nạn nhân của thảm họa máy bay MH370. Những thảm họa này càng đòi hỏi chúng ta phải quan tâm hơn nữa việc tăng cường năng lực ứng phó, hợp tác của ASEAN. Chúng tôi đề nghị sớm tổ chức tổng kết kinh nghiệm về sự phối hợp của khu vực trong công việc quan trọng này.
3. Về tương lai Cộng đồng ASEAN. Việt Nam đánh giá cao thỏa thuận Cấp cao ASEAN về xây dựng Tầm nhìn ASEAN sau 2015.
Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau 2015 phải là sự  tiếp nối và phát huy các thành tựu đã đạt được trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN 2009-2015. Sau khi trở thành Cộng đồng, ASEAN cần hướng tới những mục tiêu liên kết cao hơn trên cả ba trụ cột. Đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò chủ đạo trong cấu trúc khu vực, chủ động thúc đẩy và mở rộng liên kết ở khu vực Đông Á. Tầm nhìn sau 2015 phải giúp đưa Cộng đồng ASEAN vì phúc lợi người dân, khơi gợi ý thức cộng đồng và khuyến khích sự tham gia tự nguyện, tích cực của người dân vào tiến trình này. ASEAN cần chú trọng củng cố và tăng cường hơn nữa các cơ chế hợp tác nhằm ứng phó kịp thời, hiệu quả với những rủi ro, bao gồm cả thiên tai, dịch bệnh, tai nạn. Chúng tôi đề nghị giao Hội đồng Điều phối ASEAN xây dựng kế hoạch kỷ niệm thiết thực về sự kiện Cộng đồng ASEAN ra đời.
4. Về kiểm điểm và định hướng quan hệ đối ngoại của ASEAN
Việt Nam đề nghị ASEAN gia tăng vai trò và hợp tác với các đối tác tại các diễn đàn khu vực; phát huy vai trò chủ đạo trong diễn đàn Đông Á; xây dựng một khuôn khổ các quy tắc ứng xử và hợp tác tương tự như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) mở rộng ra phạm vi toàn Đông Á.
Là điều phối viên quan hệ ASEAN-EU, Việt Nam đề nghị Hội nghị Bộ trưởng ASEAN-EU lần thứ 20 sắp tới cần bàn kỹ việc tăng cường quan hệ đối tác ASEAN-EU, trong đó có đề xuất của EU về tổ chức các cuộc gặp cấp cao giữa Lãnh đạo hai Bên. Chúng tôi cũng ủng hộ đề xuất rà soát và đề ra những định hướng chỉ đạo về việc tăng cường quan hệ đối ngoại của ASEAN.
Thưa quý vị,
Việt Nam trân trọng cảm ơn và đánh giá cao sự đóng góp quan trọng của Tổng thống In-đô-nê-xi-a Xu-xi-lô Bam-bang Giu-đô-giô-nô vào quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Xin chúc Ngài Tổng thống mọi điều tốt đẹp.
Xin cám ơn./.

Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014

CÔNG THƯ 1958 KHÔNG CÔNG NHẬN CHỦ QUYỀN HOÀNG SA CHO TRUNG QUỐC

Công thư mà Việt Nam gửi Trung Quốc năm 1958 không hề đề cập đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; trên thực tế chúng nằm dưới vĩ tuyến 17, thuộc quản lý của Việt Nam Cộng hòa khi đó, vì thế công thư không thể là sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc với hai quần đảo như Bắc Kinh viện cớ vin vào. 

Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm nay tổ chức họp công bố các diễn biến thực địa ở khu vực mà Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển Việt Nam; các cơ sở pháp lý và bằng chứng chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo.

Đây là lần thứ ba Bộ Ngoại giao tổ chức họp báo quốc tế kể từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trên bờ biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hồi đầu tháng. Sự kiện thu hút sự quan tâm của hơn 200 phóng viên, nhà báo của các hãng thông tấn trong và ngoài nước. Phòng họp chật kín phóng viên, nhiều người phải đứng.

Các quan chức Việt Nam chủ trì cuộc họp báo hôm nay cho thấy quyết tâm bảo vệ chủ quyền. Khi được đề nghị bình luận về việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu rằng Việt Nam "không đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông" và về 16 chữ vàng trong mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, ông Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, nói: "Vấn đề chủ quyền lãnh thổ là hết sức thiêng liêng và không gì đánh đổi được. Vàng rất quý nhưng độc lập tự do và chủ quyền lãnh thổ còn quý hơn vàng".

Ông Hải cho biết bất chấp sự giao thiệp nghiêm túc của Việt Nam với phía Trung Quốc từ nhiều cấp, nhiều hình thức, mọi thiện chí của Việt Nam không được đáp ứng.

Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và tàu hộ tống khỏi vùng biển Việt Nam, yêu cầu Trung Quốc không gây ảnh hưởng đến an ninh an toàn hàng hải, và sau khi Trung Quốc rút giàn khoan đôi bên sẽ trao đổi để kiềm chế và kiểm soát ổn định tình hình trên biển.

Tuy nhiên Trung Quốc vẫn tiếp tục các hành vi xâm phạm, thậm chí có nhiều tuyên bố sai lệch, ông Hải cho biết.

Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới bác bỏ luận điệu sai trái của Trung Quốc và nêu rõ quan điểm cũng như các bằng chứng của Việt Nam liên quan đến chủ quyền biển đảo. Ông Hải trình chiếu video cho thấy các tư liệu pháp lý lịch sử của Việt Nam liên quan đến quần đảo Hoàng Sa. 

"Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và lịch sử đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", ông nói và nêu từng vấn đề.
Bản đồ mang tên Partie de la Cochinchie về nước An Nam với quần đảo Hoàng Sa.
"Từ rất nhiều thế kỷ nay, ít nhất là từ thế kỷ thứ 17 các nhà nước Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền với hai quần đảo này từ khi còn là đất vô chủ. Các Nhà nước phong kiến Việt Nam thực thi chủ quyền của mình ở Trường Sa và Hoàng Sa một cách hòa bình, liên tục phù hợp với luật pháp quốc tế và không bị quốc gia nào phản đối.

"Trong thời kỳ Pháp thuộc từ giữa thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20 Pháp đã nhân danh Nhà nước Việt Nam để tiếp tục quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời phản đối các yêu sách của các nước liên quan đối với hai quần đảo này.

"Chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo đã được khẳng định và thừa nhận tại hội nghị San Francisco tháng 9/1951. Đây là hội nghị giải quyết các vấn đề lãnh thổ sau Thế chiến thứ hai.

"Tại hội nghị này, phái đoàn Liên Xô có đề nghị trao hai quần đảo cho Trung Quốc nhưng 46/51 nước đã bỏ phiếu chống, phản đối. Cũng tại hội nghị này, trưởng phái đoàn của Chính phủ Bảo Đại đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này và không gặp phải sự phản đối của bất cứ ai.

"Sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam Cộng hòa cũng đã ra nhiều tuyên bố và có những hành vi trên thực tế để thực thi chủ quyền với hai quần đảo này. Trung Quốc là một nước tham gia hội nghị quốc tế về Đông Dương Geneva năm 1954, biết rất rõ điều này và phải có trách nhiệm tôn trọng các văn kiện của hội nghị này.

"Năm 1974 Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa cũng như chính phủ Cách mạng lâm thời của Cộng hòa miền Nam Việt Nam đều lên tiếng phản đối hành động đó của Trung Quốc và khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam với quần đảo Hoàng Sa.

"Từ góc độ luật pháp quốc tế, việc chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền là một hành vi phi pháp và không thể đem lại chủ quyền cho Trung Quốc với Hoàng Sa", ông Hải kết luận. "Thực tế là cho đến nay không có một quốc gia nào trên thế giới công nhận chủ quyền của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa".

Về công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, ông Hải phân tích văn bản này hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ, chủ quyền và không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nội dung công thư chỉ ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải 12 hải lý, đồng thời chỉ thị cho các cơ quan Việt Nam tôn trọng giới hạn 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố mà thôi.

Việc công thư không đề cập đến hai quần đảo cũng phù hợp với thực tế lúc đó: hai quần đảo nằm dưới vĩ tuyến 17 và thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa, được Pháp giao lại năm 1956 phù hợp với Hiệp định Geneva năm 1954 mà Trung Quốc có tham gia.

Ngoài ra, công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể thời điểm được gửi cho Trung Quốc, khi đó Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Geneva, Trung Quốc là bên tham gia.

"Bạn không thể cho người khác cái bạn chưa có. Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị gì với việc công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa hay Nam Sa theo cách gọi của Trung Quốc", ông Hải khẳng định.


Về khả năng Việt Nam có thể sẽ sử dụng hành động pháp lý trước tình hình hiện tại, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Hàm Vụ trưởng Vụ Luật pháp quốc tế Bộ Ngoại giao, cho biết, với tư cách thành viên của Công ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam có quyền sử dụng tất cả các cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến mình.

"Việt Nam sẽ sử dụng các biện pháp hòa bình, bao gồm khả năng sử dụng cơ quan tài phán quốc tế mà Hiến chương Liên Hợp Quốc và UNCLOS khẳng định. Việt Nam sẽ sử dụng các biện pháp phù hợp luật quốc tế, và sử dụng các biện pháp này tốt hơn là để xảy ra xung đột vũ trang", bà Hà nói.

"Lãnh đạo Việt Nam khẳng định không loại trừ bất cứ biện pháp nào, chúng tôi với tư cách cơ quan tư vấn pháp lý sẽ chuẩn bị mọi biện pháp có thể sử dụng được", bà nói thêm.

Việt Nam và Trung Quốc nhất trí giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình, các thông tin cho rằng Trung Quốc điều chuyển quân đến khu vực biên giới là chưa chính xác, ông Trần Duy Hải cho biết.

"Trong cuộc gặp của hai Thứ trưởng Ngoại giao, hai bên nhất trí không sử dụng biện pháp quân sự để giải quyết bất đồng. Tôi xin khẳng định như vậy", ông Hải nói, và cho biết thêm rằng hiện các hoạt động giao thương trên biên giới Việt - Trung diễn ra bình thường.

Theo các cơ quan chức năng của Việt Nam, trong các cuộc gây rối ở Hà Tĩnh, có hai người Trung Quốc chết. Ở Bình Dương, các đối tượng xấu gây xô xát, gây ra cái chết cho một người Trung Quốc.

Về việc công nhân Trung Quốc về nước sau các sự cố biểu tình, ông Lê Hải Bình khẳng định những vụ gây rối tại một số địa phương là hết sức đáng tiếc. Dưới sự chỉ đạo của của Thủ tướng chính phủ, tình hình đã trở về bình thường, ổn định

"Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài đã khôi phục hoạt động. Chính phủ Việt Nam sẽ sử dụng mọi biện pháp đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản, đồng thời đảm bảo không để tái diễn sự cố đáng tiếc như vừa qua", ông Bình cho biết. 

"Tuyệt đại đa số doanh nghiệp bị ảnh hưởng đều đánh giá cao nỗ lực của chính phủ Việt Nam. Theo chúng tôi được biết, trừ Trung Quốc, không có nước nào rút công dân về nước", ông Bình nói.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình khẳng định, sau một số vụ gây rối, tình hình đã trở lại hoàn toàn bình thường. Ảnh: Nguyên Anh
Bác bỏ quan điểm của Trung Quốc về khai thác dầu khí

Ông Đỗ Văn Hậu, Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí Việt Nam cho biết từ năm 1996, sau khi quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS), hoạt động dầu khí chỉ thực hiện trong vòng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Phía Việt Nam đã ký 99 hợp đồng với doanh nghiệp nước ngoài. 30 mỏ đang được khai thác trong vùng thềm lục địa vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, được quốc tế công nhận. 

Ông Hậu bác bỏ tài liệu của phía Trung Quốc công bố hôm 16/5 cho rằng "Việt Nam đã phân 57 lô dầu khí và có 37 giàn khoan tại vùng biển có tranh chấp".

"Trung Quốc chỉ nêu ra mà không có cơ sở pháp lý nào chứng minh. Chúng tôi bác bỏ quan điểm của Trung Quốc".

Ông Hậu phân tích rằng quan điểm trên của phía Trung Quốc thực chất là nhằm biến những khu vực không tranh chấp trên thềm lục địa Việt Nam thành những khu vực tranh chấp, với ý đồ hiện thực hóa yêu sách đường lưỡi bò đang bị cả cộng đồng quốc tế lên án.

Đánh giá trữ lượng dầu mỏ tại khu vực này, ông Hậu cho biết có các đánh giá của Trung Quốc, Mỹ và các nước trong khu vực về trữ lượng hydro carbon về toàn bộ khu vực Biển Đông, Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu khảo sát, dự báo là từ 4 đến 6 tỷ tấn trong vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. "Tại những khu vực đang khoan, chúng tôi đánh giá triển vọng ở đây là không lớn", ông Hậu nói.
Ông Đỗ Văn Hậu khẳng định các lô dầu khí mà Việt Nam lập ra và khai thác đều hợp pháp và được quốc tế công nhận. Ảnh: Nguyên An
Đấu tranh ngoại giao

Kể từ khi Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc đưa giàn khoan trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chính phủ Việt Nam đã 20 lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan cùng tàu và máy bay khỏi khu vực, đồng thời tố cáo hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc tại các Hội nghị của khu vực ASEAN và các Diễn đàn quốc tế.

Trên kênh ngoại giao đa phương, Việt Nam đưa vụ việc này ra Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 24 diễn ra ngày 11/5 tại Myanmar, Diễn đàn kinh tế Thế giới về Đông Á tại Philippines, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng yêu chuộng hòa bình thế giới. 

Trên các diễn đàn này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng, nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó. Việt Nam khẳng định kiên quyết bảo vệ chủ quyền bằng các biện pháp hòa bình và phù hợp luật pháp quốc tế. 

Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã điện đàm với người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị, nhằm đề nghị Bắc Kinh phản hồi tích cực trước yêu cầu rút giàn khoan 981 ra khỏi vùng biển Việt Nam. Ông cũng có các cuộc nói chuyện điện thoại với bộ trưởng ngoại giao các nước Mỹ, Nga, Indonesia và Singapore để thông báo những nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm tình hình căng thẳng tại Biển Đông. 

Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh hôm 20/5 gặp với người đồng cấp Trung Quốc Thường Vạn Toàn bên lề hội nghị quốc phòng các ASEAN (ADMM) tại Myanmar, yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan khỏi khu vực.

Tại thực địa, các tàu kiểm ngư của Việt Nam vẫn kiên trì đấu tranh hòa bình, triển khai khoảng 20 tàu, tiến sâu và áp sát giàn khoan hơn để phát loa tuyên truyền, yêu cầu tàu Trung Quốc rời khỏi khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Nguồn vnexpress.net

Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2014

THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THUẾ VÀ PHÍ

SÁNG NAY, 11 THÁNG 5 NĂM 2014, KHU PHỐ 3 PHƯỜNG 3 TỔ CHỨC THU THUẾ VÀ LỆ PHÍ.TUY VẬY MẤY NGÀY TRƯỚC ĐÂY NHIỀU BÀ CON TRONG KHU PHỐ ĐÃ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CỦA MÌNH.
ĐẾN DỰ VÀ KIỂM TRA ĐỢT NÀY CÓ ĐỒNG CHI VŨ, CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG 3. SAU ĐÂY LÀ MỘT SỐ HÌNH ẢNH:


NHỮNG HÀNH ĐỘNG "TỐT ĐẸP" CỦA KẺ LÁNG GIỀNG TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Tại đây chúng ta thử nhìn lại các hoạt động của Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam trong thời gian gần đây xem xem “kẻ láng giềng này tốt bụng đến cỡ nào?”. Trong quá khứ thì có lẽ ai trong chúng ta cũng biết, cũng hiểu Trung Quốc đối với nước ta thế nào, ở đây chúng ta sẽ không bàn lại nữa. Trung Quốc và Việt nam đã ký kết rất nhiều các hiệp định, các văn bản ghi nhớ tình hữu nghị láng giềng, nào là bốn tốt, nào là 16 chữ vàng, nâng tầm mối quan hệ…. Xét trong thực tế thời gian gần đây cũng đủ cho chúng ta thấy:
( các hiểm họa từ phía Trung Quốc, ảnh internet)

- Vào khoảng giữa năm 2003, các thương lái Trung Quốc ráo riết về các chợ nông thôn Việt Nam thu mua móng trâu với giá rất cao thậm chí những cái móng từ 4 chân của một con trâu được họ mua với giá hơn hẳn một con trâu. Thế là nông dân VN đua nhau giết trâu lấy móng, cho dù thịt trâu có phải bán đổ bán tháo vẫn cứ lời. Và chỉ một thời gian rất ngắn, chính sách này đã triệt phá khá lớn sức kéo của nông dân nghèo VN, bà con lại phải sang bên kia “xuống nước” để mua lại sức kéo.
- Vào giữa năm 2007, tại các tỉnh biên giới và trung du như Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên xôn xao về việc các thương lái Trung Quốc thu gom không chỉ lá chè khô mà cả búp chè tươi, chè héo và dụng cụ chế biến thô của Việt Nam với giá rất cao. Vì thế cây chè bị vặt vô tội vạ, các nhà máy trong nước thì không có nguyên liệu sản xuất. Sau một thời gian bọn Trung Quốc từ chối mua chè vàng, khiến cho cả người dân và doanh nghiệp trong nước lao đao.
- Tháng 4 năm 2007, các tuyến cáp quang biển của Việt Nam nối với Thái Lan và Hồng Kông trị giá hàng chục triệu đô đã bị cắt. Các đối tượng cắt này về chỉ để bán phế liệu và người mua đó là các thương lái Trung Quốc.
- Thời gian gần đây Trung Quốc lại tiến hành thu mua ốc biêu vàng, đĩa, cây xưa…với giá trên trời. Đã khiến cho người dân tập trung  thu gom, nuôi, trồng với một số lượng lớn. Nhưng rồi các thương lái này đột ngột biến mất, nhưng các loại ốc, đĩa thì lại sinh sôi nảy nở chóng mặt gây ra các hiểm họa về môi trường, đời sống người dân, kinh tế đất nước.
- Ngày 26/5/ 2011, ba tàu hải giám của Trung Quốc đã cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 của Tổng công ty cổ phần Dịch vụ kỹ thuật dầu khí, một thành viên của PVN, Việt Nam. Vị trí mà ba tàu hải giám Trung Quốc phá hoại thiết bị của tàu Bình Minh 02 của PVN, chỉ cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) khoảng 120 hải lý, nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
(2 tàu hải giám Trung Quốc đã cắt cáp của tàu Việt nam, ảnh internet)
- Ngày 9/6/2011 tàu Viking 2 của Việt Nam đang khảo sát, thăm dò trên lô 136/03 (tọa độ 6 độ 47,5’ Bắc và 109 độ 17,5’ Đông) tại vùng thềm lục địa Việt Nam lại bị tàu đánh cá có sự hỗ trợ của tàu ngư chính Trung Quốc áp sát, cắt cáp. Mặc dù phía Việt Nam đã phát pháo hiệu cảnh báo nhưng tàu 62226 vẫn cố tình lao vào tuyến cáp khảo sát của tàu Viking II và bộ phận cắt cáp chuyên dụng của tàu 62226 đã mắc vào tuyến cáp của tàu Viking II, làm cho tàu Viking II không thể hoạt động bình thường. Tiếp đó, hai tàu ngư chính 311 và 303 cùng với nhiều tàu cá khác của Trung Quốc đã vào giải cứu cho tàu 62226. 
- Bên cạnh đó các doanh nghiệp Trung Quốc cũng tiến hành đầu tư ồ ạt vào Việt Nam. Nào là các dự án xây dựng các nhà máy xi măng, nhà máy nhiệt điện, xây dựng cầu đường…nhưng tất cả đều sử dụng các công nghệ lạc hậu mà Trung Quốc thải ra, gây ô nhiễm môi trường, giảm chất lượng sản phẩm và làm doanh nghiệp không phát triển được. Không những thế khi sang đầu tư, các doanh nghiệp Trung Quốc còn mang theo lao động của họ làm cho lao động trong nước mất việc làm, ảnh hưởng đến an ninh trật tự…Ví dụ cụ thể nhất như việc đầu tư vào dự án Boxit Tây Nguyên của nhà đầu tư Trung Quốc với công nghệ lạc hậu kèm theo lao động phổ thông của họ đã khiến dự án thua lỗ hàng nghìn tỷ, ảnh hưởng môi trường sinh thái, rồi việc quản lý người nước ngoài gặp nhiều khó khăn…; Vụ việc đầu tư xây dựng, thiết kế tuyến đường sắt trên cao ở Hà Nội là của Trung Quốc đã khiến nó đội giá lên vài trăm triệu đô và khả năng khó thực hiện…
(tàu cảnh sát biển Việt Nam sau khi bị tàu của Trung Quốc đâm, ảnh internet)
- Gần đây nhất và nóng nhất hiện nay là việc Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ Việt Nam tại thềm lục địa, chúng đã hung hăng, táo tợn mang dàn khoan vào thăm dò dầu khí tại lãnh thổ Việt Nam còn dùng các tàu chiến, tàu hải giám đâm vào tàu cảnh sát biển Việt Nam bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp các văn bản hai nước đã ký, đạp đổ tình hữu nghị láng giềng lâu nay.
Tóm lại, chỉ cần thống kê qua, chúng ta có thể thấy được cái bản chất xấu xa, bộ mặt nham hiểm, thâm độc, thói lừa lọc, bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc. Một vài hành động nhỏ thôi nhưng nó mang theo một âm mưu , ý đồ rất lớn đó là muốn phá hoại nền kinh tế Việt Nam, muốn Việt Nam luôn lạc hậu, nghèo đói để chúng có thể thao túng, chèn ép. Bọn Trung Quốc luôn luôn miệng thì nói hay nhưng khi thực hiện thì luôn xảo trá để góp phần thực hiện ý đồ bành trướng ra khắp thế giới. Trung Quốc tay thì ăn cắp miệng thì vẫn la làng, chúng chả bao giờ tốt đẹp với bất kỳ nước nào, thế nên chúng ta phải luôn luôn cảnh giác và phải có những biện pháp, chế tài để quản lý các hoạt động của kẻ láng giềng này tại Việt Nam, đồng thời sẵn sàng áp dụng mọi biện pháp để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, lãnh thổ của đất nước. Chúng ta tuy là một nước nhỏ, còn nghèo nhưng chúng ta không sợ kẻ xâm lược Trung Quốc - anh bạn xấu xa. Và Trung Quốc sẽ phải lĩnh bài học đích đáng như ông cha ta đã làm đối với bọn chúng năm xưa.
                                                                SÓNG BIỂN

Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2014

Sự thật về đài phát thanh "Mặt trận gươm thiêng ái quốc"

Trong cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, bên cạnh đội quân viễn chinh mà có lúc lên đến hơn nửa triệu người, cùng những loại máy bay, tàu chiến, vũ khí tối tân, người Mỹ còn tiến hành một cuộc chiến tranh bí mật khác, gọi là "chiến tranh tâm lý".
Để phục vụ cho "chiến tranh tâm lý", Mỹ đã dựng lên nhiều đài phát thanh và một trong những đài này là đài "Mặt trận gươm thiêng ái quốc".

Cuối năm 1962, William Colby, trùm CIA tại miền Nam Việt Nam trở về Washington để nhận nhiệm vụ chỉ huy Nha Kế hoạch CIA khu vực Đông Nam Á. Trong một buổi họp với các quan chức chóp bu CIA sau đó, Tổng thống Kennedy ra lệnh cho Colby: "Một mặt, nghiên cứu và phân tích sự thất bại về các hoạt động bí mật của CIA tại miền Bắc". Mặt khác, Kennedy yêu cầu Colby: "Gấp rút tạo ra những bất ổn về tâm lý ở miền Bắc như Cộng sản đã làm ở miền Nam Việt Nam".
Theo nhận định của Colby, chính quyền miền Bắc đặt ưu tiên hàng đầu về các vấn đề nội an, gián điệp và phá hoại. Vì vậy, Colby chủ trương "cần làm cho xã hội của họ rối loạn bằng chiến tranh tâm lý" mà trọng tâm là lĩnh vực tuyên truyền với các phương tiện như phát thanh, truyền đơn, báo chí, túi quà tặng..., và những kỹ thuật khác, chẳng hạn như dựng ra những mặt trận hay những tổ chức đối kháng không có thật.
Kế hoạch OP39
Để thực hiện cuộc "chiến tranh tâm lý", Colby chọn Herb Weisshart, một sĩ quan CIA dày dạn kinh nghiệm, trước đây từng chỉ đạo các hoạt động bí mật ở một số quốc gia trong vùng Đông Bắc Á rồi sau đó, về phụ tá cho Colby ở Sài Gòn làm người trực tiếp chỉ huy - và đặt tên cho nó là "Kế hoạch OP39".
Theo Colby, mục tiêu của cuộc chiến tranh tâm lý này, là làm thế nào để buộc "Bắc Việt phải quay về bảo vệ hậu phương hơn là dồn mọi nỗ lực cho chiến trường miền Nam".
Một trong những nhiệm vụ phức tạp nhất của kế hoạch OP39 là tìm cách tạo cho người dân miền Bắc tin rằng có một tổ chức chống Cộng độc lập đã hình thành và đang hoạt động ngay tại miền Bắc. Tổ chức này không theo Mỹ, không theo Liên Xô, không theo Trung Quốc và cũng không theo Việt Nam Cộng hòa.
Để đặt cho nó một cái tên khả dĩ có thể chứng minh được sự "trung lập" của nó, Weisshart tìm đọc lịch sử Việt Nam, phỏng vấn nhiều người Việt và qua đó, ông ta biết chuyện "trả lại kiếm thần" của Vua Lê Lợi. Từ câu chuyện cổ sử ấy, một tổ chức mang tên "Mặt trận gươm thiêng ái quốc" (MTGTAQ), ra đời, bộ chỉ huy đầu não đặt tại số 7 đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1, Tp HCM). Đây cũng là nơi đặt trụ sở của Đài phát thanh mang tên “Mẹ Việt Nam”, được coi như đỡ đầu cho Đài phát thanh MTGTAQ.
Đường Hồng Thập Tự, nơi đặt Đài phát thanh Mặt trận gươm thiêng ái quốc (ảnh chụp trước năm 1975).
Bước tiếp theo, Weisshart tung những toán "Biệt hải" (biệt kích biển) gồm toàn người Bắc di cư hoặc người miền Trung, sử dụng thuyền gỗ để tránh bị radar Bắc Việt phát hiện, xâm nhập vùng biển các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, bắt cóc ngư phủ miền Bắc, bịt mắt họ rồi đưa về căn cứ Do Do ở Cù lao Chàm, Đà Nẵng - mà CIA đặt cho nó mật danh là "Đảo thiên đường".
Thiếu tá Roger Mc Elroy - là thành viên của kế hoạch OP39 và cũng là một trong số rất ít người Mỹ đã từng xâm nhập vùng biển Bắc Bộ, kể lại: "Những chiếc tàu ấy được đóng với kích thước, hình dáng như tàu của ngư dân miền Bắc nhưng trang bị động cơ cực mạnh. Trong chuyến xâm nhập, tôi mặc quần áo bà ba đen ngụy trang, đội lưới che mặt và không đem theo bất cứ loại giấy tờ tùy thân hay vật dụng gì có thể chứng tỏ tôi là người Mỹ".
Khi vào đến vùng biển miền Bắc Việt Nam, Elroy không được lên trên boong tàu mà phải ở dưới hầm. Nhiệm vụ của ông ta là liên lạc với lực lượng Hải quân Mỹ đang có mặt ngoài khơi vịnh Bắc Bộ để ứng cứu khi cần thiết.
Trên “đảo thiên đường”, một ngôi làng nhỏ được xây dựng không khác gì một làng chài ở miền Bắc. Dân trong làng - kể cả phụ nữ, trẻ con cũng đều là người Bắc di cư vào Nam năm 1954, và đã được huấn luyện đóng kịch rất bài bản. Nếu có khác thì chỉ khác trong làng không treo cờ miền Bắc, không treo cờ miền Nam mà treo cờ MTGTAQ! Trong suốt 3 tuần ở "đảo thiên đường", những ngư phủ bị bắt cóc được cho ăn uống đầy đủ, săn sóc sức khỏe chu đáo đồng thời được nghe những tin tức thất thiệt về tình hình miền Bắc, cũng như sự ra đời của MTGTAQ.
Sau đó, với lý do bảo đảm an toàn cho bản thân họ, "Biệt hải" lại bịt mắt họ, đưa họ trở về vùng biển nơi họ đã bị bắt với một túi quà gồm 1 radio đã cài sẵn băng tần Đài phát thanh MTGTAQ, quần áo, xà phòng, bật lửa, đá lửa, bánh kẹo, pin, cùng với một chiếc phao bằng ruột xe…, tất cả đều không có nhãn mác xuất xứ, rồi để họ tự tìm cách vào bờ. Ngoại trừ chiếc radio, còn thì tất cả đều được làm giống y như hàng hóa miền Bắc để họ có thể sử dụng thường ngày mà không bị người khác chú ý.
Sau tháng 4/1975, một biệt hải tên Linh di tản ra nước ngoài, kể lại: "Chúng tôi phải làm mọi cách để ngư phủ miền Bắc tin rằng họ vẫn đang ở miền Bắc, nhưng là ở trong một làng tự do của MTGTAQ. Tất cả mọi cố vấn Mỹ đều không được phép xuất hiện tại khu vực này. Hàng ngày, chúng tôi ăn, ngủ cùng họ và khéo léo khai thác thông tin tình báo từ họ. Như tôi chẳng hạn, vốn là dân Hải Phòng di cư, tôi kể cho họ nghe một số kỷ niệm về thành phố cảng, về những con người mà tôi quen biết. Sau đó, tôi khéo léo hỏi họ về quê hương bản quán, gia đình, bà con họ hàng, bạn bè… Bằng cách này, chúng tôi thu thập được tên tuổi, chức vụ của một số cán bộ cấp xã, cấp huyện, thậm chí cấp tỉnh nơi họ sống".
Theo báo cáo của CIA, năm 1963, có 353 ngư phủ Bắc Việt được đưa về tuyên truyền tại “đảo thiên đường”. Từ năm 1964 đến 1968, con số này là 1.003 người. Weisshart tin rằng những ngư phủ ấy sẽ đem chuyện MTGTAQ kể lại cho gia đình, cho bạn bè họ và sớm muộn gì nó cũng sẽ đến tai Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam. Và như vậy, Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam sẽ tốn nhiều nhân lực, thời gian, công sức để truy tìm cái không có thật.
Trùm CIA Colby động viên tinh thần một nhóm biệt hải tại Đảo Thiên đường - Cù Lao Chàm trước khi xâm nhập miền Bắc.
Tháng 12/1961, dưới sự dàn dựng của Colby và Weisshart, "đại hội" MTGTAQ được tổ chức. Trong "đại hội" này, một nhân vật "ma" là Lê Hưng Quốc được bầu làm chủ tịch. Bản tuyên ngôn của "mặt trận" nêu rõ tính "trung lập": "Chống sự can thiệp của tất cả các lực lượng nước ngoài vào nội tình Việt Nam. Yêu cầu mọi lực lượng vũ trang, cố vấn và các tổ chức nước ngoài khác phải rút khỏi hai miền Nam, Bắc".
Bên cạnh đó, "mặt trận" còn huênh hoang rằng: "Đã phát triển mạnh mẽ ở cả hai lĩnh vực chính trị lẫn quân sự. Đã thành lập nhiều tổ mặt trận ở miền Bắc với 10.000 đảng viên, trong đó 1.600  đã được vũ trang. Các cán bộ quân sự nòng cốt khi đến sinh hoạt với các tổ trên toàn miền Bắc đều có chứng minh thư mặt trận, do Ủy viên thường vụ Lê Hùng Cường ký tên, đóng dấu.
Tiến thêm một bước, tháng 4/1965, Đài phát thanh MTGTAQ, tự nhận là đặt tại vùng núi tỉnh Hà Tĩnh, phát sóng buổi đầu tiên trên hai dải tần số trung bình và sóng ngắn. Thực tế thì nó được phát đi từ số 7 đường Hồng Thập Tự, hoặc ở Quán Tre, Hóc Môn, Cát Lở, Vũng Tàu hoặc Thanh Lam, Huế rồi được một tàu kỹ thuật của CIA thường xuyên túc trực ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, trong vùng biển quốc tế thu lại, khuếch đại tín hiệu rồi phát chuyển tiếp về miền Bắc.
Trong chương trình phát thanh này và tất cả những chương trình về sau, ngoài việc xuyên tạc tình hình miền Bắc, gây mất lòng tin giữa nhân dân và chính quyền, đả kích Liên Xô, Trung Quốc, Đài MTGTAQ còn đưa ra những chiến thắng giả tạo, do các "tổ công tác của mặt trận" thực hiện, chẳng hạn như đã ám sát cán bộ này, đốt cháy đoàn xe quân sự kia.
Đặc biệt hơn, Weisshart đề nghị MACV (Bộ tư lệnh quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam) và Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa, ra lệnh cho tất cả các đơn vị tìm mọi cách thu thập giấy tờ cá nhân của bộ đội miền Bắc rồi sau đó, cho phát thanh trong chuyên mục được đặt tên là "sinh Bắc, tử Nam" nhằm mục đích làm cho thân nhân của những người được nêu tên trên sóng phát thanh, tin rằng con em mình đã chết.
Song song với những việc ấy, Weisshart thuê một số phi công Đài Loan, đã từng cộng tác với CIA trong thập niên 50,  dùng máy bay không số hiệu, ban đêm lén lút xâm nhập vùng trời miền Bắc để rải truyền đơn. Nội dung của những tờ truyền đơn này là: "Đã có một khu giải phóng nằm dưới vĩ tuyến 19 - nghĩa là thuộc phạm vi các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình".
Để chứng tỏ MTGTAQ là một tổ chức có thật, thỉnh thoảng Weisshart ra lệnh cho những toán "Biệt hải", ăn mặc quần áo của "Mặt trận", lén lút  xâm nhập vào các làng xóm ven biển miền Bắc để  tuyên truyền và tặng quà.
Mục tiêu riêng biệt
Bên cạnh Đài phát thanh MTGTAQ, kế hoạch OP39 còn sử dụng một số phương tiện truyền thông khác, phục vụ cho những mục tiêu riêng biệt. Chẳng hạn như để gây hoang mang cho người dân miền Bắc, CIA đã dùng "kỹ thuật đánh lừa" - gọi là snuggling. Nó được Colby và Weisshart thực hiện bằng cách cho dựng lên một đài phát thanh mà tần số của nó trùng với tần số phát sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam - và cũng mang tên là… Đài tiếng nói Việt Nam nhưng công suất mạnh hơn!
Trong các chương trình phát thanh của cái đài "dỏm" này, tin tức được bóp méo rất khéo léo, thí dụ như trong chuyên mục nông nghiệp phát vào đêm 11/4/1966, nó đã đưa tin: "Vụ đông xuân năm nay, toàn miền Bắc có 124 nghìn hécta lúa bị sâu bệnh, dẫn đến sản lượng lương thực bị tổn thất nghiêm trọng".
Theo Weisshart, những tin tức đại loại như vậy sẽ gây lo lắng cho người dân trong một xã hội mà lương thực được phân phát theo tem phiếu, cũng như tạo ra tâm lý hoang mang cho bộ đội miền Bắc ở chiến trường miền Nam. Lâu dài, sự lo lắng sẽ dẫn đến bức xúc, phẫn nộ, tạo tiền đề cho việc hình thành và lôi kéo người dân tham gia vào những tổ chức đối kháng sau này.
Không chỉ có Đài MTGTAQ, Đài tiếng nói Việt Nam "dỏm", Weisshart còn lập ra Đài Cờ đỏ, mệnh danh là tiếng nói của một nhóm chống đối trong  Đảng Cộng sản Việt Nam. Đài này không chỉ trích Liên Xô nhưng "tố" Trung Quốc kịch liệt nhằm gây chia rẽ nội bộ. Ăng ten phát sóng của nó đặt ở Quán Tre, Hóc Môn (nay là quận 12) và cũng được tàu kỹ thuật của CIA ở hải phận quốc tế thu lại, khuếch đại rồi phát chuyển tiếp ra miền Bắc.
Đội ngũ biên tập viên, phát thanh viên của nó hầu hết là những kẻ chiêu hồi, còn phụ trách kỹ thuật là những chuyên viên người Philippines. Chưa hết, vẫn từ miền Nam, Weisshart lập Đài phát thanh Sao đỏ nhằm chia rẽ cán bộ cách mạng miền Nam với miền Bắc.

Vẫn "biệt hải" tên Linh, kể: "Có những ngư phủ dày dạn kinh nghiệm nên dù mắt họ bị bịt kín, nhốt dưới hầm tàu nhưng chỉ cần nghe tiếng tàu cưỡi sóng và thời gian tàu chạy, họ cũng biết bị đưa về phía Nam". Khi đến “đảo thiên đường”, ban đêm nhìn sao trên trời, họ lại càng không tin đó là "làng tự do MTGTAQ ở miền Bắc".
Không thuyết phục được họ, CIA ra lệnh tra tấn họ để khai thác rồi cuối cùng chuyển họ ra nhà tù đảo Phú Quốc như tù binh chiến tranh bởi lẽ ngoài nghề đánh cá, ở địa phương họ còn tham gia dân quân tự vệ!
"Biệt hải" Nguyễn Thà kể lại một chuyến xâm nhập miền Bắc như sau: "Trung thu năm 1967, chúng tôi được lệnh bí mật vào Thanh Hóa để làm nhiệm vụ tâm lý chiến, là phát cho người dân ở cửa biển Tĩnh Gia những gói quà của MTGTAQ, gồm vải vóc, áo quần, bánh kẹo và radio, đã được gói sẵn trong bọc nilon không thấm nước...
Đến ngày xuất phát, chúng tôi được chiến đỉnh PTF đưa từ Đà Nẵng ra vùng biển Thanh Hóa rồi dùng xuồng cao su chèo vào bờ. Trước đây đã có nhiều toán xâm nhập khi vừa vào đến bờ là bị bắt ngay tại chỗ nên chúng tôi dù không ai nói ra, nhưng tất cả đều nơm nớp lo sợ cho số phận của mình.
Mặc dù trên sa bàn cũng như trên bản đồ không ảnh, cách địa điểm chúng tôi đổ bộ khoảng 500m là một làng đánh cá. Nhưng khi chạm đất, xung quanh chỉ toàn rừng dương. Có lẽ những cơn sóng lớn đã đẩy chúng tôi đi lạc. Tìm kiếm một lúc nhưng không kết quả, toán trưởng Kha ra lệnh bỏ lại tất cả những gói quà xuống bờ cát rồi lên xuồng cao su tháo lui. Trên xuồng, Kha dặn anh em chúng tôi khi về báo cáo, thì đều phải nói "đã tiếp xúc với gần 30 người dân, phát quà. Dân rất hoan nghênh và tin tưởng MTGTAQ".
Một nhóm "biệt hải" ở Cù lao Chàm (quần áo bà ba đen) được chiêu đãi trước khi xâm nhập miền Bắc.
Với những thông tin thu thập được - kể cả thông tin "ma", đại loại như thông tin do nhóm "biệt hải" Nguyễn Thà báo cáo, cộng với những tin tức lấy từ tù binh hoặc những kẻ chiêu hồi, Weisshart chuyển sang bộ phận biên tập Đài MTGTAQ để xử lý. Vì thế, chẳng lấy làm lạ khi trong nhiều bản tin, Đài MTGTAQ nêu vanh vách họ tên của một số bí thư, chủ tịch xã, huyện, tỉnh ở Hà Tĩnh, Quảng Bình hay Sơn La, Hải Phòng...
Hàng đêm, tầm khoảng 22h, một giọng nữ lại rền rĩ trên Đài MTGTAQ với âm sắc thê lương: "Mẹ Việt Nam rất đau buồn khi thấy những đứa con của mẹ sinh ra ở miền Bắc và phải chết ở miền Nam", rồi sau đó là họ tên, ngày tháng năm sinh, quê quán của từng "người chết". Tuy nhiên, lắm khi cái trò tâm lý chiến này lại… phản chủ! Trong một cuộc hành quân ở phía bắc Củ Chi, lính Mỹ nhặt được một cuốn sổ tay bị bom đánh tan nát, chỉ còn lại một phần trang đầu với dòng chữ viết tên Nguyễn Công Lộc, Hải Hậu, Nam Định.
Thế là mấy hôm sau, trong mục "sinh Bắc tử Nam" của Đài MTGTAQ, cái tên Nguyễn Công Lộc cùng địa danh quê quán được xướng lên, nêu rõ Lộc "hy sinh tại mặt trận Củ Chi vì bom B52" trong lúc sự thật thì anh Lộc này, có người bạn thân đi bộ đội nên ngày bạn lên đường, anh đã tặng bạn cuốn sổ tay ghi tên mình như một vật kỷ niệm!
Chưa hết, trong những chuyến xâm nhập, nếu xảy ra đụng độ và nếu "biệt hải" bắt được tù binh thì họ sẽ bị đưa ra tòa án "Gươm thiêng ái quốc", bị khép vào tội "chống lại quê hương" và lãnh án tử hình. Tuy nhiên, do "chính sách khoan hồng" của MTGTAQ, tù binh được đưa đến Cù lao Chàm rồi được tuyên truyền, nhồi sọ. Trước khi trả về làng cũ, tù binh bị bắt buộc phải viết giấy thú tội rồi sau đó, những lời "thú tội" ấy được phát liên tục trên Đài MTGTAQ.
Trường hợp tù binh bị khuất phục, họ sẽ được đào tạo, huấn luyện kỹ năng gián điệp để làm việc cho "mặt trận". Khi trở về quê quán, họ sẽ hoạt động ngầm, tuyên truyền cho "mặt trận". Trong tay OP39, MTGTAQ không chỉ là chiến tranh tâm lý, mà thật sự là công cụ phá hoại, chống lại chế độ miền Bắc bằng việc xúi giục dân chúng miền Bắc vũ trang lật đổ chính quyền.
Chiến dịch "Đậu phụng" và chiến dịch "Những mảnh xà phòng"
Sau khi lập xong các đài phát sóng, vấn đề còn lại của kế hoạch OP39 là làm thế nào để người dân miền Bắc nghe được những bản tin, những bài bình luận của Đài MTGTAQ, Đài Tiếng nói Việt Nam "dỏm", Đài Cờ Đỏ, Đài Sao Đỏ, Đài Mẹ Việt Nam… Theo tài liệu của CIA đã giải mật, thì vấn đề này được giải quyết bằng "Chiến dịch những hột đậu phụng" (Peanuts Operation).
Trong hai năm 1966-1967, đã có khoảng 30 nghìn chiếc radio tí hon với tần số cài đặt sẵn, làm từ Nhật Bản nhưng không ghi xuất xứ, được thả xuống miền Bắc và những vùng giải phóng ở miền Nam bằng dù, hoặc cho vào túi nilon trong suốt, không thấm nước để người nhặt có thể thấy rõ chiếc radio rồi thả theo đường biển kèm với những món quà như pin, bút, sách, nến (đèn cầy), bật lửa, đá lửa, truyền đơn, để thủy triều đưa vào bờ.
Tàu kỹ thuật của CIA (bên trái) đang được tiếp nhiên liệu ở ngoài khơi vịnh Bắc bộ.
Giữa năm 1968, đại tá Bill Rydell - người chỉ huy kế hoạch OP39 nhận ra rằng vấn đề pin dùng cho radio là vấn đề sinh tử trong cuộc chiến tranh tâm lý. Trong một cuộc họp, ông ta nêu câu hỏi: "Nếu một người dân miền Bắc nhặt được túi quà rồi cất giấu để sử dụng. Sau một thời gian, pin hết, liệu ông ta có bị nghi ngờ khi đi mua pin hay không trong lúc An ninh Bắc Việt Nam đều biết túi quà có radio cài sẵn băng tần Đài MTGTAQ?".
Để giải quyết vấn đề này, Bill Rydell đặt hàng một công ty Nhật Bản, sản xuất cho OP39 loại radio chạy bằng dây cót. Cứ mỗi lần lên dây cót, điện năng sẽ được sản sinh ra, đảm bảo cho radio hoạt động trong nửa giờ. Tuy nhiên, khi loại  radio "dây cót" chưa kịp hoàn thành thì đầu tháng 11/1968, Tổng thống Lyndon Johnson ra lệnh chấm dứt kế hoạch OP39. Dù vậy, trong năm 1968 cũng đã có 10 nghìn chiếc radio dùng pin được thả xuống miền Bắc.
Song song với những việc này, nhiều bức thư giả mạo được gửi từ Paris, Hongkong, Tokyo, Bangkok... về địa chỉ của một số cán bộ cao cấp, trung cấp ở Hà Nội. Những bức thư ấy viết bằng loại mật mã đơn giản mà theo Weisshart, thì Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam sẽ dễ dàng bẻ khóa. Nội dung của nó cho thấy người nhận thư từ lâu đã là điệp viên ngầm của CIA, và CIA ra lệnh cho họ phải thực hiện nhiệm vụ XYZ nào đó.
Cũng trong chiến dịch này, những kẻ chiêu hồi được lệnh viết thư cho thân nhân ở miền Bắc, đề cao đời sống miền Nam, đề nghị gia đình tìm kiếm những "túi quà tâm lý chiến" và cất giấu kỹ lưỡng, bất cứ lúc nào thuận tiện thì lấy ra nghe Đài MTGTAQ, Đài Mẹ Việt Nam… Những lá thư ấy, thông qua một số điệp viên CIA cài cắm trong các tổ chức từ thiện phi chính phủ, hoặc một số cơ quan ngoại giao phương Tây, mang vào Hà Nội rồi điệp viên tìm cách mua phong bì, tem thư miền Bắc, gửi đến địa chỉ người nhận.
Những kẻ cầm đầu OP39 tin rằng người nhận thư sẽ bị Cơ quan An ninh Bắc Việt Nam đặt vào vòng nghi vấn, và việc điều tra, xác minh phải mất một thời gian dài. Dĩ nhiên, khi đã bị nghi vấn thì người ấy sẽ không còn được giữ chức vụ cũ. Như thế, mầm mống bất mãn sẽ có cơ hội để phát triển.
Riêng chương trình "Những mảnh xà phòng" (Soap Chips), OP39 giao cho một số kẻ chiêu hồi, ngụy tạo những bức thư gửi về gia đình, sau đó lính biệt kích sẽ đặt nó vào túi áo, túi quần hoặc balô của những bộ đội tử trận. Nội dung thư kể lể cảnh sống cơ cực, thiếu thốn, bệnh tật, những cái chết của đồng đội trên đường từ Bắc vào Nam vì bom B52.
Bên cạnh đó, thư cũng không quên đề cao sức mạnh không quân, pháo binh, xe tăng, bộ binh quân đội Việt Nam Cộng hòa cùng sự bi quan về tương lai mờ mịt, không biết đến ngày nào mới chiến thắng. Theo Weisshart, những người thu dọn tử thi sẽ phải lục tìm giấy tờ để tìm hiểu họ tên, nhân thân người chết và chắc chắn họ sẽ đọc những bức  thư này. Nó sẽ gây ra những tác động không nhỏ về tâm lý.
Không chỉ tiến hành chiến tranh tâm lý, OP39 còn có chương trình “Anh trai cả” (Eldest Son). Thiếu tá David Thelm, thành viên của OP39, cho biết: "Thông qua những kẻ lái súng, CIA đặt mua từ một nước khác đạn B40, B41 và đạn súng cối 82 ly do Trung Quốc chế tạo rồi đem về tháo ra, nhồi vào bên trong chất nổ tức thì. Những loại đạn này, máy bay của CIA bí mật thả xuống vùng biên giới giữa Việt Nam, Campuchia, Lào để khi bộ đội thu được, đem ra sử dụng, nó sẽ nổ ngay trong nòng súng, giết chết người bắn và những người đứng xung quanh ngay lập tức.
Thất bại thảm hại
Trong suốt 7 năm (từ 1961 đến 1968), CIA đã đầu tư rất nhiều công sức và tiền bạc cho cuộc chiến tranh tâm lý. Tuy nhiên kết quả chỉ là những thất bại thảm hại. Tất cả những người dân miền Bắc, bộ đội hoặc dân ở vùng giải phóng miền Nam khi nhặt được những túi quà tâm lý chiến, đều tự giác đem nộp cho đơn vị, cho chính quyền. Trong một bản phúc trình vào tháng 2/1968 của nhóm MACV do Thiếu tướng AR. Brownfield Jr. chủ tọa, cho biết "Chương trình OP39 không rõ ràng và dàn trải quá rộng". Ba viên sĩ quan liên tiếp chỉ huy OP39 là Clyde Russell, Don Balckburn và Jack Singlaub cũng thú nhận rằng kế hoạch OP39 không đem lại kết quả mong muốn.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại, theo đại tá Bill Rydell, người cuối cùng chỉ huy OP 394, thì sự đánh giá không chính xác kết quả của những cuộc hành quân tâm lý chiến phát xuất từ bộ phận "sưu tầm và phân tích". Họ đã không tìm ra các điểm yếu về tâm lý của đối phương, cũng như không lường hết tinh thần cảnh giác của nhân dân miền Bắc. Tháng 6/1967, tờ tạp chí “Học tập” và báo Nhân Dân xuất bản tại Hà Nội đã cho đăng bài viết, công khai tố cáo MTGTAQ chỉ là  một tổ chức ma nên người dân miền Bắc lại càng thờ ơ với những chương trình phát thanh của đài này.
Đầu tháng 11/1968, Tổng thống Lyndon Johnson ra lệnh chấm dứt Kế hoạch OP39 vì "không thu được kết quả gì". Trại Do Do ở Cù lao Chàm - “đảo thiên đường” giải tán. Đài MTGTAQ và Đài Mẹ Việt Nam được giao cho Bộ Thông tin, Dân vận, Chiêu hồi của chính quyền Sài Gòn, do Vũ Quang Ninh làm giám đốc, và nó tiếp tục hoạt động cho đến gần cuối tháng 4/1975. Còn Đài Cờ Đỏ, Sao Đỏ thì… tắt tiếng vì không còn tiền của Mỹ để hoạt động.
Theo lời khai của một số nhân viên làm việc ở Đài Mẹ Việt Nam và căn cứ vào trang thiết bị còn lại sau ngày Sài Gòn giải phóng, thì các đài Gươm thiêng ái quốc, Cờ Đỏ, Sao Đỏ, Đài Tiếng nói Việt Nam "dỏm"…, chỉ có một cơ sở kỹ thuật chung là Đài Mẹ Việt Nam mà thôi…

Thành cổ Quảng Trị: “Mỗi tấc đất là một cuộc đời có thật”

Cách đây trên 40 năm tại Thành cổ Quảng Trị và thị xã Quảng Trị đã làm thức tỉnh loài người trên toàn thế giới bằng cuộc chiến 81 ngày đêm, vào mùa hè đỏ lửa năm 1972. Sự kiện lịch sử đó đã góp phần vào thắng lợi trên bàn đàm phán Paris tạo đà cho Đại thắng của toàn dân tộc năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Để giữ vững Thành cổ và thị xã Quảng Trị  81 ngày đêm, hàng ngày chiến sĩ Giải phóng quân cùng đồng bào Quảng Trị đã chiến đấu, anh dũng hy sinh vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất này. Đa số hình hài của các chiến sĩ không còn nguyên vẹn, máu và xương thịt hòa vào từng nắm đất, bờ cây, ngọn cỏ nơi đây.
Khác với các nghĩa trang liệt sĩ khác, nghĩa trang ở Thành cổ Quảng Trị được ví như nghĩa trang không mộ. Chỉ tại Đài tưởng niệm trung tâm được mô hình hóa thành một nấm mộ chung cho những người con đã anh dũng ngã xuống trên mảnh đất bom cày, đạn xới vô cùng khốc liệt.
Ý nghĩa Đài tượng niệm
Đài tưởng niệm trung tâm được xây theo thuyết âm dương siêu thoát. Dưới chân Đài tưởng niệm được xây theo hình bát giác tượng trưng cho bát quái, có bốn lối đi lên Đài tưởng niệm tượng trưng cho tứ tượng. Tầng này được gọi là tầng lưỡng nghi, trên tầng lưỡng nghi có một mái đình cách điệu và trên mái đình Việt có hình thái cực.
Theo triết học phương Đông quan niệm: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Bát quái hình thành vũ trụ, vạn vật phát triển không ngừng. Tầng lưỡng nghi bên trong có hình tròn xây dựng theo thái cực đồ. Bên cạnh là hồ nước được xem như là phần âm. Từ phần âm người ta đắp một cây đèn màu đỏ được tượng trưng cho phần dương. Cây đèn này được ví như một cây thiên mệnh có chức năng thiêng liêng làm cầu nối giữa trời và đất, được truyền tải linh hồn các anh hùng liệt sĩ về với cõi vĩnh hằng.
Trên cây thiên mệnh có ba tầng nhìn giống như ba áng mây, tượng trưng cho thiên, địa, nhân. Nói lên mối quan hệ giữa trời, đất và con người. Dưới ba áng mây là hình tượng của ba bát cơm chồng lên nhau cho người đã khuất. Theo phong tục người Á Đông những người mất từ 60 tuổi trở lên được gọi là hưởng thọ và cúng một bát cơm, còn những người mất dưới 60 tuổi thường được gọi là hưởng dương cúng ba bát. Các chiến sĩ của ta hy sinh tại đây khi tuổi đời còn rất trẻ bởi vậy nên khi xây dựng có hình tượng ba bát cơm.
Phần dâng hương được xây bằng gạch màu đỏ được ví là màu của sự sống, màu của sự sinh sôi nảy nở và màu của vũ trụ vận hành. Từ phần dương, người ta khoét một lỗ tròn ăn thông vào sâu trong Đài tưởng niệm, bởi quan niệm trong cuộc sống âm dương không thể tách rời, luôn bổ sung cho nhau, trong âm có dương, trong dương có âm. Và giữa hai phần âm dương đặt một lư hương lớn để mọi người khi đến đây thắp một nén hương thực tâm cầu khấn thì vong linh các anh hùng liệt sĩ sẽ từ cõi âm được siêu thoát về cõi vĩnh hằng.
Đài tưởng niệm Thành cổ Quảng Trị.
Hầm của Đài tưởng niệm được coi là nơi linh thiêng nhất của Thành cổ, vì nơi đây được ví như bên trong lòng một ngôi mộ tập thể và trung tâm của hai trục đường chính giao nhau. Tại trung tâm trưng bày hành trang của một người lính với đôi dép cao su, ba lô, khẩu súng AK, bi đông nước, mũ tai bèo, xẻng, phao. Hành trang của người lính đơn sơ giản dị, chỉ từng ấy thôi mà các bác, các chú, các anh đã làm nên lịch sử.
Cho đến hôm nay hơn 40 năm qua, Thành cổ Quảng Trị đã được bao phủ bởi một màu xanh cỏ cây nhưng còn đó dưới lớp cỏ xanh kia biết bao nhiêu hài cốt của các anh hùng liệt sĩ đã hiến trọn đời mình cho quê hương đất nước.
Sau khi thống nhất đất nước, những người lính năm xưa trở lại thăm chiến trường  đứng trên Đài tưởng niệm thắp nén tâm nhang cho đồng đội đã không cầm được nước mắt: "Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi/ Cho đồng đội tôi nằm yên dưới cỏ/ Trời Quảng Trị trong xanh và lộng gió/ Dẫu ồn ào đừng lay mình nhìn cây/ Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi/ Thành cổ rộng sao đồng đội tôi nằm chật/ Mỗi tấc đất là một cuộc đời có thật/ Cho tôi hôm nay xúc động nghẹn ngào".
Mỗi tấc đất, cành cây, ngọn cỏ chúng ta vào thành cổ Quảng Trị hôm nay đều thấm đẫm xương máu của các anh. Tổng thể thành có hình vuông với chu vi 2.080 m tổng diện tích nội thành là 16 hécta. Phía bên ngoài thành có hào sâu 3m và rộng 34 m, có cầu bắc qua.
Lịch sử hào hùng
Ngược dòng thời gian, Thành cổ Quảng Trị được xây dựng vào năm 1809 từ thời Vua Gia Long, mục đích cho xây dựng Thành cổ là để thiết lập hệ thống phòng thủ phía bắc  của kinh thành Huế, lúc đầu thành chỉ được đắp bằng đất thô sơ. Thành cổ Quảng Trị là trung tâm hành chính của tỉnh. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đặt quyền bảo hộ đất Trung kỳ,  Thành cổ Quảng Trị thành trung tâm bộ máy cai trị của thực dân Pháp tại tỉnh Quảng Trị.
Đặc biệt chúng đã cho xây ở phía đông nam một nhà lao bằng đá được gọi là lao xá Quảng Trị. Nơi đây từ năm 1929  đến đầu năm 1972 là nơi giam cầm hàng ngàn sĩ phu yêu nước và các chiến sĩ Cộng sản. Đầu năm 1972, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch vào giải phóng tỉnh Quảng Trị.  
Trích lời kêu gọi của Quân ủy Trung ương: "Ra trận lần này các lực lượng vũ trang nhân dân ta có trách nhiệm nặng nề và vẻ vang là: Kiên quyết giành cho kỳ được thắng lợi lớn nhất trong chiến dịch quan trọng này. Kiên quyết tiêu diệt cho thật nhiều sinh lực và  phương tiện chiến tranh của địch, và nhất là chủ lực của chúng, làm so sánh thay đổi lực lượng có lợi cho ta... Trận chiến đấu lịch sử 1972 bắt đầu. Tất cả hãy anh dũng tiến lên".
Mùa hè năm 1972 với quyết tâm giành thắng lợi chiến trường Quảng Trị  ta đã tổng động viên đưa vào đây 6 sư đoàn chủ lực, bao gồm Sư đoàn 304, 308, 320b, 324, 325, 312 và rất nhiều tiểu đoàn, trung đoàn thuộc nhiều binh chủng khác. Trong số đó có hàng ngàn sinh viên các trường đại học, cao đẳng miền Bắc theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Những người con ưu tú đã xếp bút nghiên lên đường và cầm súng tiến thẳng ra chiến trường khi mang trong mình biết bao nhiêu ước mơ và hoài bão. Trong đó có không ít những chàng sinh viên đã khai thêm tuổi để đủ tuổi vào tham gia chiến trường Quảng Trị.
Cuộc chiến khốc liệt đẫm máu diễn ra tại các chốt bảo vệ vòng ngoài của thị xã, cách trung tâm thành cổ khoảng 20 km về hướng nam tại các chốt, các chiến sĩ giải phóng quân bất chấp gian khổ hy sinh, cản bước tiến quân thù quyết tâm không cho địch vào Thành cổ và thị xã Quảng Trị. Người này ngã xuống thì người khác đứng lên thay với lời thề: "Còn người còn trận địa, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
Bị quân và dân ta giam chân ở vòng ngoài địch đã điên cuồng cho không quân và hải quân ném bom bắn phá vào Thành cổ và thị xã Quảng Trị. Các loại bom: 328.000 tấn. Đạn pháo các loại 105mm: 552.000 quả. Loại 155mm: 55.000 viên. Loại 175mm: 8.164 viên. Hải pháo Mỹ: 615.164 viên. Không quân Oanh kích, máy bay Mỹ: 1.650 lần. Máy bay ngụy: 594 lần.
Có thể so sánh: Tổng số bom, đạn Mỹ, ngụy ném xuống Thành cổ và thị xã Quảng Trị trong chiến dịch tái chiếm 81 ngày đêm năm 1972 bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử trong một thị xã nhỏ bé chưa đầy 3 cây số vuông.
Người ta ví nơi đây như một túi bom và máy xay thịt khổng lồ. Trung bình một chiến sĩ Giải phóng quân phải hứng chịu 100 quả bom và 200 quả đạn pháo. Mặc dù trong mưa bom bão đạn nhưng các chiến sĩ giải phóng quân một tấc không đi, một ly không rời. Người này ngã xuống, người khác đứng lên thay. Cuộc chiến mỗi lúc diễn ra càng khốc liệt.
Vào cuối tháng 8/1972, lực lượng hỏa lực pháo binh lớn các tuyến phòng thủ bên ngoài của ta đã bị vỡ dần. Lúc bấy giờ địch đã tràn vào trong lòng thị xã, và cuộc chiến giáp lá cà. Ta bảo vệ từng bờ tường, từng mảng hào, từng mô đất. Các chiến sĩ Giải phóng quân cho dù bị thương vẫn không rời trận địa quyết tâm chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Máu của các bác các anh đã hòa vào từng nắm đất nơi đây.
Di vật của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh được trưng bày tại Bảo tàng Quảng Trị.
Cách Thành cổ Quảng Trị khoảng 500 m về phía tây là dòng sông Thạch Hãn, đó là con đường tiếp tế duy nhất cho chiến trường Quảng Trị. Nhằm cắt đứt con đường tiếp tế của ta, địch điên cuồng ngày đêm bắn phá trên dòng sông lúc các chiến sĩ đang bơi sang sông làm nhiệm vụ.  Để bảo vệ Thành cổ Quảng Trị và thị xã Quảng Trị trong 81 ngày đêm khói lửa, hàng ngàn chiến sĩ đã trúng đạn pháo và nằm lại vĩnh viễn trên dòng sông này.
Cho đến ngày  Bắc Nam sum họp một nhà, chiến sĩ Lê Bá Dương trở lại thăm đồng đội trên dòng sông đỏ máu ngày nào, thả một nhành hoa, thắp một nén nhang, khóc thương đồng đội: "Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi đôi mươi thành sóng nước/ Giữ yên bờ bãi mãi ngàn năm".
Chứng tích của trận chiến
Đại thắng 30/4/1975, giải phóng  hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước,  39 năm chiến tranh đã qua trong quá trình trùng tu tôn tạo di tích, người ta vẫn bắt gặp nhiều hài cốt liệt sĩ trong đó đa phần chưa có danh, chỉ có số ít hài cốt biết tên. Tại nhà lưu niệm nằm trong khuôn viên Thành cổ có hai di vật của hai liệt sĩ đại diện cho hàng ngàn di vật tìm thấy trên mảnh đất đau thương mà kiêu hùng bi tráng.
Di vật của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh, anh là sinh viên năm thứ tư Khoa Cầu đường, Trường đại học Xây dựng Hà Nội. Sau khi anh lấy vợ được 6 ngày, theo lệnh tổng động viên anh đã lên đường nhập ngũ tham gia chiến trường Quảng Trị vào  cuối tháng 8. Đầu tháng 9 anh nhận nhiệm vụ đưa hàng sang sông Thạch Hãn tiếp tế cho chiến trường. Anh có một dự cảm đây là chuyến đi rất xa, không hẹn ngày trở lại, bởi vậy anh đã bình thản viết 10 trang thư gửi về gia đình xem như đây là bức thư vĩnh biệt cuối cùng.
Trong bức thư có đoạn anh viết gửi người mẹ ở hậu phương: "Quảng Trị ngày 11 tháng 9 năm 1972, toàn gia đình kính thương. Hôm nay con ngồi đây biên vài dòng chữ cuối cùng phòng khi đi nghiên cứu Bí mật trong lòng đất, thì gia đình chẳng thấy đó là điều đột ngột. Mẹ kính mến! Lớn lên trong tay mẹ từ khi còn trứng nước chưa đền đáp công ơn to lớn đó của mẹ thì đứa con út của mẹ đã phải đi thăm bố con rồi. Thư này tới tay mẹ chắc mẹ buồn lắm. Mẹ mang nặng đẻ đau, giọt máu đào hơn ao nước lã. Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời. Con của mẹ đã đi xa để lại cho mẹ nỗi buồn nhất trên đời. Con rất hiểu đời mẹ khổ đã nhiều, nay bao hy vọng nuôi con khôn lớn, xong vì đất nước có chiến tranh. Mẹ ơi, hãy lau nước mắt cho đời trẻ lâu, sống cho đến ngày đón mừng chiến thắng. Con đi mẹ ở lại trăm tuổi bạc đầu, coi như con lúc nào cũng nằm bên cạnh mẹ.... Bố con đã đi xa để lại cho mẹ biết bao nỗi khó nhọc, nay con đến ngày khôn lớn. Thôi nhé, mẹ đừng buồn xem như con đã sống trọn đời cho Tổ quốc mai sau...".
Và trong bức thư của anh có đoạn anh viết về cho người vợ của mình mới cưới có 6 ngày: "Em thương yêu, anh biết em sẽ không đọc nổi lá thư này, biết bao nỗi buồn đã đè nặng lên tấm thân người con gái trẻ tuổi như em. Nhưng em ơi hãy bình tĩnh lại mà làm theo những điều anh căn dặn, ngày anh đi xa là ngày anh đề ở ngoài phong bì. Em sẽ đọc lá thư này trong buổi lễ truy điệu anh. Cho anh gửi lời hỏi thăm sức khỏe đến những bà con thân thuộc trong buổi lễ truy điệu lịch sử này. Thôi nhé,  em đừng buồn, nếu sau này được sống trong hòa bình hãy nhớ đến lòng anh...". Và sự thật đã diễn ra, khi bức thư chuyển về gia đình, anh hy sinh trong lúc đang làm nhiệm vụ.
Điều đặc biệt của lá thư bằng sự dự cảm của mình, anh đã xác định nơi mình sẽ hy sinh và nơi chôn cất hài cốt của mình. Sau khi thống nhất đất nước, gia đình anh theo chỉ dẫn trong thư qua nhiều ngày tìm kiếm đã thấy mộ anh được chôn bên dòng sông Thạch Hãn. Và bức thư anh viết được trưng bày tại Bảo tàng Thành cổ. Người vợ của anh, nửa thế kỷ trôi qua chị vẫn ở vậy thờ chồng, chăm sóc người mẹ già.
Thành cổ Quảng Trị nơi tôn vinh, tri ân cho những anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì sự độc lập tự do của Tổ quốc về sự trường tồn của dân tộc. Nơi đây mãi mãi là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước tinh thần bất khuất kiên trung của cả một dân tộc anh hùng cho các thế hệ hôm nay và mai sau

  Trần Mỹ Hiền