Tôn Minh
Sự
kiện Trung Quốc đặt trái phép giàn khoan HD-981 tại vị trí có tọa độ 15
độ 29’58” vĩ bắc-111 độ 12’06” kinh đông - vị trí nằm hoàn toàn trong
vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, cho thấy sự ngang
ngược bất chấp luật pháp và thông lệ quốc tế, đang đẩy Trung Quốc vào
con đường tự cô lập về ngoại giao và nguy cơ quân sự đầy nguy hiểm. Tuy
nhiên, câu hỏi đặt ra là tại sao Trung Quốc vẫn ngang ngược “làm càn” và
tỏ ra hung hăng trên Biển Đông bất chấp những lời chỉ trích là lên án
mạnh mẽ của dư luận thế giới? Tham vọng của Trung Quốc đã rõ, nhưng âm
mưu của Trung Quốc là gì xung quang sự kiện này? là điều cần tiếp tục
phân tích làm rõ. Dưới đây xin tổng hợp và đưa ra một số phân tích:
1. Về sự lựa chọn thời điểm
Đây
là sự kiện nằm trong chuỗi những hành động mà Bắc Kinh đã có sự chuẩn
bị kỹ lưỡng, cũng giống với tuyên bố về vùng phòng không AIDZ qua biển
Đông, nó nằm trong chuỗi sự kiện mà Trung Quốc đã gây ra với Malaysia
ở bãi ngầm James Shoal, hay với Philippines ở Bãi Cỏ Mây… là tín hiệu
về sự “thèm khát” đơn phương chủ quyền hàng hải của Trung Quốc. Trung
Quốc đã tiến thêm một bước trong việc hiện thực hóa ''đường lưỡi bò'' và
đòi hỏi chủ quyền vô lý của họ. Giàn khoan HD-981 không vô cớ xuất hiện
tại vùng biển của Việt Nam. Nó trùng hợp với rất nhiều sự kiện đáng chú
ý của thế giới trong thời gian vừa qua. Sự kiện này xảy ra ngay sau
chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Barack Obama
tới các nước châu Á và đặc biệt là những tuyên bố mạnh mẽ khi ông Obama
có mặt ở Malaysia và Phillippines liên quan tới Biển Đông.
Xét về mối quan hệ quốc tế, lúc này các thế lực lớn đang bận rộn với điểm nóng Ukraine.
Cao trào là cuộc đối đầu Nga – phương Tây (đứng đầu là Mỹ). Sự đối đầu
Nga – Mỹ tạo ra nhiều kẽ hở cho Trung Quốc tự tung tự tác. Thực tế lịch
sử cho thấy, khi mối quan hệ Nga (lúc đó là Liên Xô) và Mỹ đi đến đối
đầu căng thẳng đến mức các vũ khí hạt nhân đã lên nòng ở cuộc khủng
hoảng tên lửa Cuba năm 1962, cũng là lúc Trung Quốc xua quân ồ ạt tạo ra
cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ. Nhưng ngay sau khi khủng hoảng
tên lửa Cuba kết thúc, cũng là lúc Trung Quốc đơn phương kết thúc chiến
tranh. Thực chất, đây chỉ là một nước cờ cũ, rất quen thuộc của Trung
Quốc. Đương nhiên, vụ đặt giàn khoan trái phép của Trung Quốc là sự kiện
của lịch sử hiện đại sẽ rất khác sự kiện của những năm 60 của thế kỷ
XX.
Sau
đây xin điểm qua tình hình hiện tại của một số quốc gia và khu vực có
ảnh hưởng lớn ở Biển đông cho thấy việc Trung Quốc nhìn nhận và lựa chọn
thời điểm đặt giàn khoan HD-981 trái phép trên vùng biển của Việt Nam:
Trước
hết là với nước Mỹ, Trung Quốc cho rằng quyền lực toàn cầu của Mỹ đang
ngày càng suy giảm nhanh chóng. Bắc Kinh rút ra kết luận này từ một loạt
những thất bại về an ninh quốc gia của Mỹ, chẳng hạn như việc rút quân
quá sớm ở Iraq, việc Mỹ sa lầy ở Afghanistan,
không kiểm soát được chính quyền Libya và bất lực trước sự trỗi dậy của
al Qaeda ở Yemen… Không những thế, Bắc Kinh còn cho rằng Washington
không thể nào hóa giải nổi Pakistan, “người bạn-thù” của Mỹ và gần như
là một đồng minh của Trung Quốc. Họ cũng nhận định chính sách can thiệp
của Mỹ ở khu vực Trung Đông đã thất bại trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa
khủng bố và phong trào Mùa xuân A-rập. Với những nhận định đó, Trung
Quốc cho rằng Biển Đông sẽ dễ dàng rơi vào tay họ. Người Trung Quốc có
câu “nhìn lửa cháy qua sông” ám chỉ việc chờ cho đối thủ tự làm cạn kiệt
sức lực của mình rồi mới ra tay.
Mặt
khác, hiện tại Ukraine đang là điểm nóng cần ưu tiên trước nhất của Mỹ.
Bởi lẽ, nó ảnh hưởng đến an nguy trực tiếp của các đồng minh lâu đời,
thân cận nhất của Mỹ - cụ thể là các nước Bắc Âu hay liên minh quân sự NATO.
Với vấn đề Đông Bắc Á, Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ chưa thể bị Trung Quốc gây
khó dễ ngay, nhưng sự leo thang bất ổn ở Ukraine đang đặt các đồng minh
của nước này trước nhiều nguy cơ không lành. Mỹ đang mở rộng sân chơi ở
châu Á – Thái Bình Dương, điều đó không đồng nghĩa với việc sân nhà ở
châu Âu sẽ bị vứt bỏ. Như vậy, sự bận rộn của Mỹ đi đôi với sự rảnh tay
của Trung Quốc tại Biển Đông.
Với nước Nga, Ukraine đã đặt Moscow
đứng trước một thách thức lớn lao: nền kinh tế bị trừng phạt nặng nề
bởi Mỹ và châu Âu. Dù sao, kinh tế Nga vẫn phụ thuộc vào mối quan hệ với
châu Âu. Trong khi quyền lợi Nga lại đang bị đe dọa nghiêm trọng ở
Ukraine. Để bảo vệ được quyền lợi quốc gia, giảm thiểu sự tác động của
các đòn trừng phạt, Nga buộc phải kết thân với Trung Quốc. Nền kinh tế
thứ hai thế giới, cũng là thị trường rộng lớn nhất thế giới này là chỗ
dựa an toàn nhất trong bối cảnh bị cô lập. Vì thế, Nga khó lòng có thể
phản đối Trung Quốc về bất cứ hành động gì của quốc gia này.
Bên cạnh đó, những ngày đầu của điểm nóng Ukraine, khi Nga can dự vào bán đảo Crimea
và tổ chức tại đây cuộc trưng cầu dân ý dẫn đến sáp nhập vào Nga, Trung
Quốc bày tỏ thái độ trung lập (Thông qua là phiều trắng tại Liên hiệp
quốc). Trung Quốc có thể bất chấp dư luận để trở nên hung hăng hơn ở
Biển Đông sau khi có quan hệ chặt chẽ hơn với một đồng minh mới là Nga.
Cả Nga và Trung Quốc vừa mới thiết lập quan hệ đồng minh chiến
lược trong vòng 3 năm qua nhằm chống lại ảnh hưởng của Mỹ ở châu Á-Thái
Bình Dương nói riêng và vũ đài chính trị thế giới nói chung.
Trong
khi Nga kiểm soát và sáp nhập bán đảo Crimea bất chấp sự phản đối của
phương Tây và sau đó cho máy bay ném bom chiến lược Bear “dằn mặt” châu
Âu, họ đã nhận được sự ủng hộ của Trung Quốc trước nguy cơ bị phương Tây
trừng phạt nặng nề. Đổi lại, có vẻ như Trung Quốc đã nhận được sự “im
lặng” từ Nga sau khi họ kéo giàn khoan HD-981 vào vùng biển Việt Nam. Đó
có thể là lý do Nga đưa ra quan điểm khá chậm chạp và không có bất cứ
tuyên bố nào phản đối hành động này của phía Trung Quốc (ngày 15/5 Nga
mới đưa ra quan điểm ngoại giao dè dặt về sự kiện HD-981), khiến nhiều
người nghi ngờ về vai trò của Nga trong việc gìn giữ hòa bình, ổn định
trên thế giới và trong khi cả Nga và Trung Quốc đang cùng nhau thực hiện
hình thức chiến tranh phi đối xứng, trong đó họ sử dụng những lực lượng
và luận điệu được tính toán kỹ để tránh làm leo thang xung đột. Lực
lượng đó không quá lớn để khiến Mỹ có thể phản ứng bằng biện pháp quân
sự, nhưng cũng đủ để Nga và Trung Quốc đạt được mục đích của mình.
Thêm
nữa, Nga và Trung Quốc đều thừa hiểu rằng chính quyền của Tổng thống Mỹ
Barack Obama không thể nào đối phó được với cuộc chiến trên 2 mặt trận.
Chính vì vậy, có thể Nga và Trung Quốc đang tìm cách dàn mỏng nguồn lực
và sự chú ý của Mỹ, một chiến lược mà người Trung Quốc gọi là “khuấy
nước để bắt cá”.
Về
phía Nhật Bản – quốc gia đang có tranh chấp trên biển với Trung Quốc,
cũng là quốc gia có những quan điểm cứng rắn và thực lực kinh tế - quốc
phòng mạnh nhất của khu vực châu Á trong đòi hỏi chủ quyền với Trung
Quốc, thì hiện nay đang lâm vào tình hình suy yếu tương đối. Vị trí
cường quốc kinh tế thứ hai thế giới của Nhật đã bị Trung Quốc truất ngôi
năm 2012. Mặt khác, dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kép động đất, sóng thần dẫn tới rò rỉ
nhà máy điện hạt nhân, làm cho Nhật Bản trở nên bận rộn hơn.
Về
các quốc gia trong khối ASEAN: vẫn còn tình trạng thiếu thống nhất,
thậm chí là bất đồng trong khối ASEAN (tháng 7-2013, bất đồng về việc
đề cập đến tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên Biển Đông, đã khiến hội
nghị ngoại trưởng ASEAN không ra được tuyên bố chung, điều chưa từng có
trong lịch sử 45 năm tồn tại của Hiệp hội), một số quốc gia ít liên quan
đến tranh chấp trên Biển Đông đã bị Trung Quốc khôn khéo chia rẽ. Xét
về chiến lược khu vực, mặc dù cho rằng Mỹ đang ngày càng suy yếu, song
Trung Quốc vẫn rất cảnh giác với các động thái của Mỹ ở châu Á, đặc biệt
là sau chuyến công du châu Á của Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel.
Chuyến công du này nhằm tăng cường quan hệ quốc phòng giữa Mỹ với các
đồng minh châu Á, gần đây là chuyến thăm của Tổng thống Mỹ đến các nước
đồng minh trong khu vực.
Trước
những động thái đó của Mỹ, Trung Quốc cố tình gây căng thẳng, khiêu
khích trên Biển Đông để “tung một cú đấm thẳng” bằng hình thức chiến
tranh phi đối xứng vào thẳng chính sách “đòn can thiệp khu vực” truyền
thống của Mỹ. Trung Quốc tin rằng bây giờ nếu không làm nhanh, sau này
họ sẽ gặp nhiều khó khăn khi các quốc gia ASEAN tìm kiếm được sự động
thuận, đoàn kết hoặc sẽ nhận được nhiều sự giúp đỡ về quốc phòng hơn từ
phía Mỹ.
Bên
cạnh đó, phải kể đến Thái Lan – một thành viên quan trọng trong khối
ASEAN, lại đang trong tình trạng khủng hoảng chính trị kéo dài, mà chưa
có hồi kết.
Đối
với Việt Nam, việc Trung Quốc lựa chọn thời điểm đặt giàn khoan vào
đúng dịp nghỉ lễ dài ngày (30/4; 1/5), cùng với sự kiện cả đất nước đang
trong những ngày “bận rộn” tổ chức các sự kiện lớn kỷ niệm những chiến
thắng 30/4/1975, chiến thắng Điện Biên Phủ 7/5/1954… dường như là một sự
lựa chọn nhằm tạo ra yếu tố bất ngờ và mang những thông điệp chính trị,
ngoại giao nào đó. Điều này cũng tương tự như thời điểm lịch sử năm
1974, khi Việt Nam đang tiến hành những bước quyết định của cuộc đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì Trung Quốc đã lợi
dụng tình hình và sự sự yếu của lực lượng Việt Nam Cộng hòa để nổ súng
đánh chiếm Hoàng Sa (lúc đó do Việt Nam Cộng hòa quản lý).
Một mũi tên trúng nhiều đích
-
Đối với Trung Quốc: Trung Quốc là cường quốc đang trỗi dậy, với tham
vọng trở thành bá chủ mới trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Biển
Đông được cho là chìa khóa của chiến lược này. Đây là lý do quan trọng
chiến lược khiến Bắc Kinh đưa ra yêu sách chủ quyền với gần như toàn bộ
vùng biển, đồng thời không ngừng có các hành vi nhằm thay đổi hiện trạng
tại đây. Về vấn đề liên quan đến Biển Đông là một trong những chiến
lược của Trung Quốc trong việc vươn ra toàn cầu bằng kinh tế biển mà
người ta vẫn gọi là "giấc mộng Trung Hoa". Và Trung Quốc đang làm mọi
việc để thực hiện giấc mộng đó.
Bên
cạnh đó, tình hình nội tại Trung Quốc đang gặp nhiều vấn đề căng thẳng,
đặc biệt là vấn đề Tân Cương, Tây Tạng. Đồng thời, những vấn đề tha hóa
xuống cấp của các quan chức Trung Quốc, cùng với mâu thuẫn xã hội đang
đặt ra một thách thức với Bắc Kinh: họ cần có một đòn bẩy để kích hoạt
sự đoàn kết dân tộc và chủ nghĩa đại Hán vốn đã ăn sâu vào tiền thức của
người cầm quyền Trung Quốc. Gây xung đột với chiêu bài tự vệ nhằm đẩy
sự quan tâm căng thẳng mâu thuẫn trong nước ra bên ngoài là cách thức
tốt nhất. Đây không phải là cách làm mới mẻ. Nhìn lại lịch sử Trung Quốc
vào thế kỷ XI, dưới triều
đại nhà Tống, nhằm cứu vãn tình thế khó khăn trong nước và sự uy hiếp
của hai nước Liêu – Hạ ở phía Bắc và Tây Bắc Trung Quốc, nhà Tống đã
tiến hành chiến tranh mở rộng lãnh thổ xuống phương Nam (trong đó có Đại
Việt). Mục tiêu là tìm một chiến thắng đối ngoại lấy uy danh cho việc
thi hành chính sách ổn định bên trong.
Một
yếu tố khác nữa là: Trung Quốc còn đang đặt một phép thử mới. Bắc Kinh
đặt chỉ tiêu đòi hỏi chủ quyền “đường lưỡi bò” đến năm 2050 sở hữu trong
tay 80% diện tích Biển Đông. Chỉ còn 35 năm cho cái tâm nguyện đó, và
Bắc Kinh cũng mong làm cho xong càng sớm càng tốt. Vậy là để bắt đầu, họ
phải tìm một cái đích để triển khai: Tuyên bố về vùng phòng không AIDZ
qua biển Đông, gây hấn với Malaysia ở bãi ngầm James Shoal, hay với Philippines ở bãi cạn Scarborough…
là những một phép thử đối với thái độ và quyết tâm chính trị của các
quốc gia có liên quan và dư luận quốc tế, bao hàm cả thái độ của Mỹ. Với
Việt Nam, những phép thử bắn tàu cá ngư dân, cắt cáp thăm dò, cấm đánh
bắt cá… đã được áp dụng. Giàn khoan này mới là một bài toán thực sự.
Trung Quốc cần đáp án cho thái độ của Việt Nam. Lần này, Việt Nam đang
đứng trước thách thức sống còn, không chỉ là toàn vẹn lãnh thổ mà còn là
hòa bình chung cho cả Biển Đông.
-
Đối với Việt Nam: hành động lần này là những bước đi bài bản của tham
vọng bành trướng nước lớn, điều này không quá xa lạ đối với dân tộc Việt
Nam, vấn đề là trong tình hình hiện nay rất cần những cái đầu tỉnh táo,
sáng suốt để không mắc phải mưu đồ thâm hiểm của Trung Quốc. Trước hết
Việt Nam cần hết sức cảnh giác với thủ đoạn “dương đông, kích tây”, “bỏ
hư đánh thực” của Trung Quốc. Bên cạnh việc đấu tranh để Trung Quốc rút
giàn khoan HD-981, cần rất cảnh giác và đấu tranh quyết liệt với những
động thái khác trên Biển Đông. Trong thời gian gần đây, có thông tin
Trung Quốc đang tiến hành xây dựng trên đảo Gạc Ma và một số hòn đảo mà
Việt Nam có chủ quyền. Liệu có sự móc nối nào không giữa việc đặt giàn
khoan với các công trình xây dựng đó? Có hay không việc Trung Quốc cố
tạo ra một sự kiện nhằm tập trung dư luận quốc tế vào đó để tiến hành
những công việc có tầm quan trọng về chiến lược khác? Có hay không sự
kiện giàn khoan chẳng qua chỉ là hành động nhằm phân tán lực lượng và sự
quan tâm của Việt Nam?... Trung Quốc đang cố gắng xây dựng nhiều các
công trình bởi họ muốn lấy đó làm cơ sở để tính chủ quyền mặt nước. Có
thể làm bằng chứng cho họ chiến thắng ở tòa án quốc tế phân xử tranh
chấp chủ quyền, rằng giờ nó là của tôi và các cơ sở quản lý này của tôi
đã ở đây! Nhưng Trung Quốc chắc không có ý định ra bất cứ tòa án nào cả.
Vì thế, việc xây dựng của họ ở đây là nhằm mục đích khác. Trung Quốc
muốn cho dư luận biết rằng không chỉ đánh chiếm, mà còn chiếm giữ trên
thực tế. Điều này cũng tương tự như sự kiện ngày 19/7/2012, Quân ủy
Trung ương Trung Quốc chính thức quyết định thành lập “Cơ quan chỉ huy
quân sự” của cái gọi là “thành phố Tam Sa”, đặt căn cứ trên đảo Phú Lâm
thuộc quần đảo Hoàng Sa, và việc ngày 21/7/2012 Trung Quốc tổ chức bầu
cử đại biểu Đại hội đại biểu Nhân dân khóa I của cái gọi là “thành phố
Tam Sa”.
Bên
cạnh đó, Việt Nam rất cần cảnh giác và có hành động quyết liệt, khôn
khéo với những động thái xúi giục các thế lực phản động trong nước (nếu
có). Hiện nay, chưa có gì chắc chắn rằng những vụ bạo động, quá khích
của công nhân trong những cuộc biểu tình phản đối sự kiện Trung Quốc đặt
giàn khoan HD-981 ở khắp nơi là không có bàn tay của kẻ xấu lợi dụng
nhằm làm xấu hình ảnh của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế, đặc biệt là
các nhà đầu tư nước ngoài.
Thêm
nữa, hiện tại theo thống kê của các cơ quan quản lý nhà nước, đã có hơn
150 website của Việt Nam bị tấn công, và tất cả website này đều đã bị
tin tặc kiểm soát. Hacker đến từ Trung Quốc đã để lại lời tuyên bố chính
những xung đột trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc là nguyên
nhân của vụ tấn công này. Một số chuyên gia an ninh cho rằng nguyên nhân
của vụ tấn công hàng loạt website Việt Nam lần này là do trước đó nhiều
hacker Việt Nam đã thực hiện tấn công từ chối dịch vụ (DDoS) các
website Trung Quốc để thể hiện sự bất bình trước hành động đặt giàn
khoan dầu HD 981 trái phép vào thềm lục địa Việt Nam. Trước những căng
thẳng tiếp tục leo thang giữa hai bên, Việt Nam phải có những bươc chuẩn
bị kỹ lưỡng để ứng phó nếu xảy ra các cuộc tấn công với quy mô lớn.
Trên thực tế, việc hacker các nước chủ mưu thực hiện các cuộc tấn công
vào những nước đối thủ đã trở thành hiện tượng không mới với sự liên
quan về các vấn đề chính trị giữa các nước. Từ năm 2008, xung đột giữa
Nga và Gruzia và mới đây là cuộc chiến giữa Nga và Ukraina cũng đã xuất
hiện những vụ tấn công qua lại giữa hacker hai bên. Người ta ví xung đột
giữa Nga và Ukraina như là một “cuộc chiến không tiếng súng” khi mà các
cuộc giao tranh trên thế giới ảo còn diễn ra gay gắt không kém với cuộc
chiến trên bàn chính sự. đối với “cuộc chiến không tiếng súng” thì rất
khó kiểm soát được mức độ tác động. Điển hình như năm 2009, cuộc tấn
công DDoS với hơn 166.000 máy tính từ 74 nước trên thế giới được huy
động trong cuộc tấn công nhằm vào website của chính phủ Mỹ, Hàn Quốc và
một số quốc gia khác. Đây đều là những quốc gia có hệ thống an ninh mạng
hiện đại nhưng việc chống đỡ lại tin tặc đã gặp khó khăn. Cuộc tấn công
DDoS kéo dài một tuần khiến nhiều website tê liệt, trong đó có website
của Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban thương mại liên bang
(Mỹ) và trang chủ của tổng thống Hàn Quốc.
Do
vậy, Việt Nam cần phải có sự phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách về
bảo mật, giữa cơ quan chính phủ và những nhà cung cấp dịch vụ ISP để
cùng nhau ngăn chặn tin tặc tấn công sâu vào hệ thống.
-
Đối với khu vực và thế giới: theo các chuyên gia quốc tế, vùng biển gần
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà Trung Quốc hạ đặt giàn khoan không hề
có dầu mỏ, hoặc nếu có cũng không đáng kể. Điều này cho thấy, mục đích
thực sự của Trung Quốc chưa phải vì dầu mỏ khi xâm phạm trái phép vùng
biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Thay vì nhắm tới một khu vực có trữ lượng
dầu mỏ lớn, Bắc Kinh hiện chỉ đơn giản là muốn gây sức ép lớn nhất có
thể lên các nước láng giềng, nhằm tối đa hóa phạm vi vùng biển mà nước
này mưu đồ muốn kiểm soát trong tương lai. Như vậy, trước mắt vấn đề của
Trung Quốc trên biển Đông không chỉ là kinh tế. Mục tiêu cao hơn của họ
là an ninh và chính trị. Dầu mỏ là nguyên nhân, nhưng không phải chủ
yếu. Trung Quốc đặt giàn khoan vào vị trí này là có lý do của họ. Tọa độ
đặt giàn khoan đặc biệt quan trọng về vị trí chiến lược. Ở đây có thể
quan sát được toàn bộ 2.360km bờ biển Việt Nam, đặc biệt quan trọng về
an ninh quốc phòng và hàng hải quốc tế. Giàn khoan trên có thể là một
thông điệp mạnh mẽ của về ý định của Trung Quốc trong khu vực, sự mập mờ
về những động thái đơn phương của Trung Quốc khiến cho việc giải đáp
đầy đủ và thuyết phục câu hỏi này khó khăn hơn, nhưng rất nhiều bằng
chứng rõ ràng về vụ họ đưa giàn khoan vào biển Việt Nam đã kiểm tra được
tinh thần của các quốc gia ASEAN và Mỹ. Điều này cũng cho Bắc Kinh cơ
hội để đo lường những phản ứng quốc tế về những tuyên bố quả quyết về
vùng lãnh hải của họ. Thế nên, đưa giàn khoan tới là muốn gửi một thông
điệp chính trị. Bên cạnh đó, có thể Trung Quốc cũng muốn khiêu khích
Việt Nam, muốn Việt Nam có phản ứng vượt giới hạn. Đó chính là bài mà
Bắc Kinh sử dụng lâu nay, đó là dùng các lực lượng phi quân đội nhưng
vẫn đầy khiêu khích để đưa các nước vào bẫy. Chúng ta có thể tham khảo
những gì đã xảy ra ở đảo tranh chấp giữa Nhật và Trung Quốc hay ở bãi
cạn Scarborough khi mà Trung Quốc đã làm cho Philippines
đưa tàu chiến ra và Trung Quốc hô lên rằng, đó là Philippines có hành
động khiêu khích. Thêm nữa, trước khi Trung Quốc có thể bắt đầu “thử
lửa” với các đồng minh của Mỹ trong khu vực, như Philippines – nước vừa
ký một thỏa thuận quốc phòng mới thời hạn 10 năm Mỹ, Trung Quốc muốn
biết Mỹ có muốn bảo vệ lợi ích của họ trong khu vực này hay không?...
Từ
những phân tích trên, chúng ta thấy Trung Quốc có quá nhiều toan tính
trong bước đi mạo hiểm trên Biển Đông thông qua sự kiện đặt giàn khoan
HD-981 trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, và rõ ràng động thái
này của Trung Quốc đã trực tiếp liên quan đến nhiều quốc gia và khu vực.
Đối với Trung Quốc thì đó có thể là mũi tên trúng nhiều đích, trong khi
đó có lẽ họ chưa lường hết được hệ lụy của nó.


