Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013

Trần Quốc Hương -"Kiến trúc sư" trưởng của một mạng lưới tình báo

Ngồi chờ ở phòng khách của Khu biệt thự Hồ Tây, tôi mường tượng rằng ông - một huyền thoại tình báo đã đi vào lịch sử sẽ là một người quắc thước, mạnh mẽ và dĩ nhiên, có phần nghiêm nghị.
"Kiến trúc sư" Trần Quốc Hương
Để rồi, khi đồng chí Phạm Văn Hùng - sĩ quan bảo vệ mời ông vào phòng, tôi đã ngỡ ngàng khi trước mặt là ông cụ nhỏ nhắn, đẹp lão, với nụ cười hiền hậu, phong thái nhẹ nhàng, thấm đẫm văn hóa phương Đông.

Với chiếc áo khuy ngang màu ngà và tấm khăn rằn quàng cẩn thận trên cổ, trông ông hệt một ông già phương Nam giản dị. Trong câu chuyện, mỗi lần kể về mẹ hay những người phụ nữ đã giúp đỡ ông trong cuộc đời hoạt động cách mạng và thay ông chịu bao đau khổ, ông đều không giấu nổi nghẹn ngào. Ông - “kiến trúc sư” của một mạng lưới tình báo với những chiến công đã đi vào lịch sử đây ư? Câu hỏi ấy cứ vang lên trong đầu tôi suốt cuộc chuyện trò.
Con đường trở thành nhà tình báo
Nhắc đến các nhà tình báo nổi tiếng như Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Phạm Ngọc Thảo – những người mà tên tuổi đã vượt ra khỏi biên giới vì sự cống hiến của họ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, không thể không nhắc đến ông - người mà mỗi chiến công của các điệp viên huyền thoại ấy đều gắn bó với sự chỉ đạo mang tầm chiến lược của ông. Đó chính là nhà tình báo Trần Quốc Hương, còn gọi là Mười Hương - Ủy viên Trung ương từ khóa IV đến khóa VI, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương và đã được trao tặng  - Huân chương cao quý nhất.
Tên thật của ông là Trần Ngọc Ban, quê ở Vụ Bản, Bình Lục, Hà Nam. Là con trai út một gia đình tư sản, nhưng ông lại tham gia cách mạng từ rất sớm, lúc mới 13 tuổi, nhờ sự giác ngộ của người thầy học Nguyễn Đức Quỳ - sau là Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam, rồi Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Được thầy Quỳ giới thiệu, ông lên Hà Nội gặp các ông Trường Chinh, Lê Toàn Thư, Hoàng Đình Tuất rồi gặp Bác Hồ và càng ý thức rõ hơn về việc tham gia cách mạng của mình.
Năm 1941, ông bị Pháp bắt cùng với ông Nguyễn Thọ Chân  vì treo cờ Cộng sản và rải truyền đơn, rồi bị tống giam hơn một năm trước khi ra tòa án binh của Pháp. Nhưng do còn nhỏ tuổi, ông đã được trả tự do với lời cảnh báo của một mật thám Pháp: “Đừng thấy nó nhỏ tuổi mà coi thường, Cộng sản đã ăn vào máu của nó rồi”. Năm 1943, ông đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản. Trước và sau Cách mạng tháng Tám, ông làm thư ký riêng của Tổng Bí thư Trường Chinh và là một trong những người chuẩn bị chu đáo cho buổi ra mắt quốc dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945.
Ông Mười Hương trong chương trình giao lưu
"Ký ức thời hoa lửa" tổ chức
tại Học viện cảnh sát nhân dịp 30/4/2008
Ông vẫn còn nhớ rõ vì sao mình bước chân vào nghề tình báo: “Khoảng tháng 7/1954, Xứ ủy Nam Kỳ cử đồng chí Lê Đức Thọ ra gặp Trung ương để bàn về chiến lược cách mạng và xin Trung ương cử tôi vào đó. Tổng Bí thư Trường Chinh xin ý kiến và được Bác Hồ đồng ý. Anh Trường Chinh gặp tôi giao nhiệm vụ và nói: “Khó khăn nhiều lắm đấy, đi không biết bao giờ trở lại. Phải suy nghĩ cho kỹ, nếu thấy đi không được thì cứ báo cáo, Trung ương không ép”. Bác Hồ cũng gặp tôi dặn dò: “Công việc thì các chú khác đã dặn chú kỹ rồi, xem làm được thì nhận và đã nhận thì đừng phụ lòng Trung ương, đi sao nhớ về vậy!”.
Thế là ông nhận nhiệm vụ. Rồi ghé về thăm mẹ, bởi ông hiểu rằng, với việc ra đi của ông, không ai khổ hơn mẹ. Thấy con đột ngột trở về, linh cảm của người mẹ cho bà cụ biết sẽ là khởi đầu một cuộc chia tay dằng dặc, nên cụ lặng lẽ nấu một nồi cháo thịt cho con ăn, rồi giục ông đi ngủ. Ông nghẹn ngào nhớ lại: “Tôi nằm nghỉ trên tấm phản, mẹ ngồi bên cạnh âu yếm rờ nắn khắp mặt mũi, chân tay tôi. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn còn cảm thấy hơi ấm nóng từ những giọt nước mắt của bà rơi trên mặt tôi đêm đó”. Không ai ngờ chuyến đi ban đầu dự định chỉ 6 tháng, đã kéo dài tới 10 năm.
Vào Nam, lạ nước lạ cái, nhưng ông may mắn được các đồng đội thân thiết, nhất là ông Phan Trọng Tuệ - từng là bạn tù và ông Lê Toàn Thư giúp nắm bắt tình hình để cùng ông Mai Chí Thọ và Cao Đăng Chiếm nhanh chóng mở các lớp huấn luyện nghiệp vụ tình báo.
Năm 1958, ông sa vào tay giặc. Biết ông là cán bộ cao cấp, anh em họ Ngô tìm cách “chuyển hướng” tư tưởng để sử dụng. Đích thân Ngô Đình Nhu bố trí gặp ông tại nhà nghỉ mát của Ngô Đình Cẩn ở cửa Thuận An (Huế) để hòng lung lạc. Không khuất phục được, chúng đã đưa ông vào danh sách 200 tù nhân cần thủ tiêu, nhưng chưa kịp thực hiện thì cuộc đảo chính Diệm xảy ra.
Ông nhớ lại những ngày tháng ấy: Chúng liên tiếp hỏi cung cả ngày lẫn đêm, không cho ngủ, nếu ngủ gật là chúng đánh, nhằm làm cho ông căng thẳng tinh thần đến không chịu nổi. Ông bảo, nó muốn thế thì mình phải trụ vững. Cơm tù chỉ có một đĩa nhỏ, chúng còn trộn muối sống vào, thì ông lựa từng hạt cơm để ăn có sức mà tranh đấu. Hơn nữa, “đôi mắt trong veo của cậu con trai đầu lòng nhìn tôi lúc chia tay thường hiện về, góp phần động viên tôi đủ nghị lực không sa ngã trước quân thù. Chỉ vì một lẽ đơn giản đến khó tin là, tôi sợ mình không dám nhìn vào đôi mắt đó khi gặp lại, nếu không giữ được khí tiết cách mạng”.
Người thầy của những nhà tình báo anh hùng
Với vai trò một “kiến trúc sư” của một mạng lưới tình báo, ông Mười Hương là người có tầm nhìn sâu sắc, toàn diện và tinh tế về thế mạnh, khả năng làm tình báo và phẩm chất của từng người. Trước khi vào Nam, qua sự giới thiệu của ông Nghĩa, Bí thư tỉnh Thái Bình, ông Mười Hương đã xây dựng ông Vũ Ngọc Nhạ làm cơ sở. Đây là nước cờ quan trọng cho một kế hoạch dài hơi mà ông tính đến, xứng danh một nhà tình báo chiến lược.
Nhận nhiệm vụ trong Ban Địch tình Xứ ủy, với vỏ bọc là giáo viên dạy tư tại Sài Gòn, ông Mười Hương đã móc nối thành công với điệp viên Vũ Ngọc Nhạ để triển khai tiếp kế hoạch đã vạch. Thực hiện chỉ đạo của ông Mười Hương, ông Vũ Ngọc Nhạ đã chiếm được lòng tin của Giám mục Lê Hữu Từ - Giám mục giáo xứ Phát Diệm, trở thành người đại diện trong quan hệ với chính quyền họ Ngô rồi gây được ảnh hưởng trong gia đình Diệm, tạo nên những chiến công lừng lẫy trước khi bước vào tiểu thuyết “Ông cố vấn” nổi tiếng của nhà văn Hữu Mai.
Với điệp viên xuất sắc Lê Hữu Thúy (Đại tá, Anh hùng LLVTND, nguyên mẫu của nhân vật Lê Nguyên Vũ trong “Điệp viên giữa sa mạc lửa” của Nhị Hồ), ông Mười Hương khai thác triệt để sự thông minh lanh lợi, sự hiểu biết cũng như các mối quan hệ của Lê Hữu Thúy với các nhân vật chóp bu trong chính quyền Diệm, tạo nên vỏ bọc vững chãi cho điệp viên này chui sâu vào hàng ngũ của địch, phục vụ các yêu cầu của cách mạng.
Khi đã chiếm trọn lòng tin của Tổng trưởng Nội vụ Huỳnh Văn Nhiệm, rồi chinh phục cả Bảy Viễn - thủ lĩnh Bình Xuyên lẫn Năm Lửa - tướng của Hòa Hảo, Lê Hữu Thúy đã thành công trong việc khơi sâu mâu thuẫn giữa các tổ chức giáo phái với chính quyền họ Ngô, buộc Diệm phải mất rất nhiều thời gian cùng binh lực để ổn định tình hình, tạo thời cơ cho cách mạng miền Nam có thêm thời gian và điều kiện xây dựng, củng cố lực lượng.
Với từng đường đi nước bước của chiến lược gia Mười Hương, điệp viên Phạm Ngọc Thảo đã tiếp cận Ngô Đình Diệm và bằng tài năng cá nhân, nhanh chóng được Diệm đặc biệt tin cẩn và trọng dụng, rồi leo cao trong chính quyền ngụy. Năm 1965, Phạm Ngọc Thảo đã tiến hành đảo chính định lật đổ Nguyễn Khánh nhưng việc không thành nên bị địch sát hại.
Nhìn thấy khả năng thiên phú của ông Phạm Xuân Ẩn, từ rất sớm, Mười Hương cùng ông Mai Chí Thọ quyết định đưa Phạm Xuân Ẩn sang Mỹ học nghề báo để về nước phục vụ cách mạng. Kế hoạch được thực hiện trọn vẹn khi với vỏ bọc này, nhà tình báo tài ba Phạm Xuân Ẩn đã có cơ hội diện kiến nhiều nhân vật quan trọng của cả Mỹ lẫn ngụy, để khai thác và chuyển về hậu cứ những thông tin có giá trị về các chiến lược đặc biệt của kẻ thù, giúp quân ta có kế hoạch đối phó và đập tan mọi âm mưu của địch và vững bước đến thắng lợi trọn vẹn.
Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường
hoan hô bộ đội giải phóng vào ngày 30/4/1975
Chiến công rất lớn của người thầy tình báo Mười Hương còn là, trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ông đã chỉ huy mạng lưới tình báo góp phần giải phóng Sài Gòn gần như nguyên vẹn, đỡ tốn xương máu.
Ông kể: “Lúc còn sống, đồng chí Lê Đức Thọ và một cán bộ tình báo đã gặp Dương Văn Minh để hỏi thẳng rằng, điều gì làm cho ông tuyên bố án binh bất động trong ngày 30/4/1975, thì Dương Văn Minh nêu nhiều lý do, trong đó cùng với lực lượng quân đội còn có sự tác động của một số nhóm thuộc lực lượng an ninh của ta”.
Thế nhưng, nhắc về những chiến công lẫy lừng ấy, “kiến trúc sư” Mười Hương giản dị: “Thành tích mà các anh ấy có được, là do sự lãnh đạo của Trung ương và các lực lượng cách mạng, do tài năng và lòng quả cảm của chính các anh đó, còn tôi chỉ là người được giao chắp nối các đầu mối. Hoạt động tình báo như diễn kịch và các nhà tình báo trên đã thực hiện xuất sắc vai diễn của mình”.
Phía sau hào quang
Không thể nói hết sự lớn lao trong những chiến công mà ông Mười Hương và đồng đội đã lập lên cho nền độc lập của dân tộc. Nhưng mấy ai biết rằng, phía sau vầng hào quang chói lòa ấy, là bao mất mát, hy sinh, thầm lặng nhưng dai dẳng, để đến hôm nay, nhắc lại thôi cũng đủ làm ông đau lòng.
Ngày ông vào Nam hoạt động, cả 2 đứa con còn nhỏ xíu. Vì yêu cầu bí mật, cuộc chia tay không hẹn ngày về của ông chỉ có vòng tay bịn rịn và cặp mắt trong veo, nhòe ướt của cậu con trai nhỏ. 10 năm không tin tức, vì nguyên tắc hoạt động và mất tới 6 năm ông ở trong tù. Trở ra Bắc, đứa con gái nhỏ lẫm chẫm bò lúc ông đi, chạy vuột khỏi tay cha: “Bà ngoại ơi, có ông nào đến nhận là bố con!”. Nhưng đau đớn nhất là ông phải đối diện với sự tan vỡ của cuộc sống tình cảm vợ chồng.
Lại thêm gần 10 năm nữa vào Nam hoạt động. Dằng dặc gần 2 thập niên ấy, các con ông tiếng là có cha nhưng rất ít khi được gặp chứ nói gì được ông chăm sóc. Nhưng cùng với các con, ông cũng chịu nhiều mất mát. Ngày đất nước thống nhất, mọi người hân hoan đoàn tụ, còn ông, nỗi cô đơn thấm tận đáy lòng. Ông không dám trách ai, bởi biết rằng, vì nhiệm vụ cao cả, ông đã không thể làm tròn vai trò của người chồng, người cha trong gia đình.
Cả cuộc đời ông cứ lặng lẽ hy sinh cho đất nước. Mãi gần 10 năm sau ngày giải phóng, đã ở tuổi 60, ông mới lại có được hạnh phúc muộn mằn
  • Nguồn: ANTG, 01.08.2008.


Print Print Share on Zing Me Go.vn Print Print Print Chia sẻ bài này lên Yahoo Messenger

Thứ Tư, 19 tháng 6, 2013

NHẬN THỨC VỀ “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”

Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng Việt Nam:
Ngày 3 tháng 2 năm 1994, Mĩ tuyên bố bỏ cấm vận kinh tế với Việt Nam. Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Mĩ tuyên bố bình thường hoá quan hệ Việt – Mĩ. Ngay đêm 11 tháng 7 năm 1995 Tổng thống Mĩ – Bil Clintơn (B. Clin-tơn) tuyên bố: “Việc bình thường hoá quan hệ của chúng ta với Việt Nam không phải là kết thúc nỗ lực của chúng ta. Chúng ta sẽ tiếp tục phấn đấu cho đến khi chúng ta có được những câu trả lời mà chúng ta có thể có”.
Chúng ta bắt đầu thảo luận các vấn đề nhân quyền với Việt Nam, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến tự do tín ngưỡng”.
“Tôi tin tưởng rằng việc bình thường hoá và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mĩ và người Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam như đã từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô trước đây”
Như vậy, âm mưu xuyên suốt của Mĩ đối với Việt Nam là, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam càng nhanh càng tốt. Vì sao Mĩ và các thế lực thù địch lại luôn theo đuổi âm mưu đó. Các chiến lược gia phương Tây phân tích và cho rằng:
- Việt Nam là ngọn cờ đấu tranh cho độc lập dân tộc và đang kiên quyết nhất trong việc chống phá chủ nghĩa đế quốc.
- Nếu xoá bỏ được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sẽ có thêm nhiều thuận lợi để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở các nước còn lại và uy hiếp độc lập dân tộc của
các nước khác. Xóa bỏ Việt Nam đồng nghĩa chúng cũng sẽ uy hiếp và xâm chiếm các nước láng giềng như lào, Campuchia
- Có xoá bỏ được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Mĩ mới xoá được “Hội chứng Việt Nam” trên đất Mĩ.
Cùng với các lí do để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, các chiến lược gia của Mĩ cũng thấy được các trở ngại khi thực hiện âm mưu trên:
- Việt Nam có một Đảng Cộng Sản giàu truyền thống, có đội ngũ kế cận vững vàng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam nắm rất chắc ngọn cờ dân tộc.
- Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không những không sụp đỗ như Đông Âu và Liên Xô mà còn tiến lên; lòng tin của nhân dân Việt Nam vào Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội ngày càng được củng cố.
Tình hình thực tế hiện nay chúng thực hiện diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ chống phá cách mạng Việt Nam như thế nào ?
a) Mục tiêu:
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội, luôn coi Việt Nam là một trọng điểm chống phá. Mục tiêu là xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của chúng. Mục tiêu đó không hề thay đổi.
b) Phương châm chỉ đạo:
Mềm, ngầm, sâu. Diễn biến hòa bình là chính kết hợp răn đe quân sự có lựa chọn và khi có thời cơ, xây dựng lực lượng phản động người Việt Nam ở trong và ngoài nước Việt Nam là chính: (ngụy quân, ngụy quyền cũ không cải tạo, lực lượng phản động trong dân tộc, tôn giáo, trí thức, văn nghệ sĩ, các phần tử thoái hoá biến chất, bất mãn trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và trong nhân dân ta); phá hoại càng cao, càng sâu càng tết, phá có trọng điểm, chui sâu leo cao vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, phá hoại kinh tế là trọng tâm.
c) Thủ đoạn hoạt động chủ yếu
Từ diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ để tạo ra quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ trong nội bộ chúng ta: Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang và nhân dân. Thủ đoạn đó diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vào mọi đối tượng trong đó tập trung trên một số lĩnh vực chủ yếu sau:
- Chống phá về chính trị tư tưởng:
Trọng tâm là xoá bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng làm tiêu tan nền tảng tư tưởng trong các tổ chức Đảng, tổ chức xã hội và mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ. Bằng cách ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, hạ thấp hòng vô hiệu hoá chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, như việc chúng đòi xoá Điều 4 trong Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam…
Phá vỡ hệ thống nguyên tắc tổ chức trong hệ thống chính trị (Đảng, Nhà nước, đoàn thể và của toàn xã hội), làm mất hiệu lực của nguyên tắc tập trung dân chủ, là nguyên tắc tổ chức cao nhất của Đảng, Nhà nước ta. Phá hoại con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Phá vỡ khối đại đoàn kết của toàn dân, của các tổ chức chính trị-xã hội. Bằng cách xuyên tạc, chia rẽ. làm cho nội bộ ta không tin nhau, nghi ngờ lẫn nhau, gây rối loạn nội bộ. Nhằm dễ cài cắm những quan điểm mơ hồ, những phần tử cơ hội, thậm chí phần tử phản động, nội gián, thực hiện kế hoạch “kén làm tổ”, “chui sâu, leo cao” để ngầm phá ta từ bên trong lâu dài.
- Hoạt động phá hoại kinh tế
Hoạt động phá hoại kinh tế, với ý đồ làm cho Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, luôn ở trạng thái đói nghèo, buộc phải suy sụp hoặc phải khuất phục, chuyển hoá chế độ chính trị, kinh tế trong nước phụ thuộc vào nước ngoài, từ đó chi phối kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, luật pháp. Thông qua kinh tế dồi dào mà chúng lôi kéo móc nối cán bộ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, các tổ chức, công ty liên quan đến nguồn vốn nhà nước, để từ đó chúng phá hoại kinh tế nước ta một cách nghiêm trọng.
Mục tiêu chính phá hoại kinh tế là, lấy việc chống phá từ bên trong kết hợp với điều kiện bên ngoài để tạo ra áp lực đối với nền kinh tế nước ta, thông qua kinh tế để buộc ta chấp nhận các điều kiện chính trị. Chúng tác động qua những tổ chức kinh tế nước ngoài, tổ chứ phi chính  phủ có nguồn vốn nước ngoài.
Hiện nay chúng tập trung phá vỡ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa của ta bằng nhiều thủ đoạn rất xảo quyệt, như việc lợi dụng quan hệ hợp tác đầu tư liên doanh, liên kết (nhất là qua các khâu: vốn, chuyên gia, kĩ thuật), tìm cách phủ định định hướng chủ nghĩa xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện: vừa khuyến khích, ca ngợi kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, vừa tư nhân hoá dần dần làm mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Chúng cho việc làm đó là để xoá tận gốc kiểu quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ở Việt Nam.
- Lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá ta
Vấn đề tôn giáo, dân tộc hiện nay luôn là mục tiêu kẻ thù hết sức chú trọng lợi dụng để chống phá.
+ Về vấn đề dân tộc: Kẻ thù triệt để khai thác các mâu thuẫn giữa các dân tộc do nhiều nguyên nhân gây ra, để chia rẽ khối đoàn kết, tạo dựng những mâu thuẫn mới, kích động tư tưởng hẹp hòi dân tộc, đòi quyền tự quyết dân tộc chủ nghĩa, như việc xuyên tạc, kích động, mua chuộc, xúi dục một số dân tộc thiểu số đấu tranh Với Đảng, Nhà nước ta để đòi cái gọi là “độc lập quốc gia tự trị”.
Chúng tận dụng tối đa mọi cơ hội để kích động làm bùng nổ các cuộc đòi ‘dân chủ’, tôn trọng “quyền” của các dân tộc, nhằm gây rối loạn tình hình an ninh xã hội.
Đặc biệt chúng chú trọng yếu tố tâm lí và sự dồn nén khó khăn về đời sống tinh thần, vật chất (nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây) để tạo dựng xu hướng bất bình với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
+ Vấn đề tôn giáo: Chúng triệt để lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước ta, để truyền bá mê tín dị đoan và tư tưởng phản động chống chủ nghĩa xã hội.
Tích cực hoạt động, nhằm phối hợp lực lượng phản động trong nước với lực lượng tôn giáo chống Cộng quốc tế, đẩy mạnh hoạt động phá hoại để tạo ra thực lực trở thành lực lượng đối trọng với Nhà nước ta. Như việc lợi dụng những phần tử phản động đội lết tôn giáo để hoạt động gây kích động, phá hoại, xúi giục giáo dân đòi đất xây nhà thờ, chùa chiền… để tập hợp, lôi kéo tuyên truyền kích động nhân dân, từng bước vô hiệu hoá sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đối với nhân dân vùng có đạo, tiến tới nhen nhóm, cài cắm lực lượng và xây dựng tổ chức phản động chống Đảng và chế độ ta.
Phương hướng hoạt động chủ yếu của chúng là đấu tranh ôn hoà đòi tự do tôn giáo, dẫn đến đấu tranh đòi tự do dân chủ, mở rộng quan hệ quốc tế, đến đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cuối cùng kết hợp với sự chỉ đạo, giúp đỡ, viện trợ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên ngoài sẽ giành thắng lợi qua bầu cử. Cùng với đó thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo kích động các dân tộc liên kết lại tạo thành khu tự trị, đất nước độc lập tuyên bố chống lại Đảng Cộng Sản.
- Xâm nhập về văn hoá
Hoạt động tập trung nhất của chúng là, tiến công vào nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Bằng cách, làm phai mờ những giá trị văn hoá truyền thống cách mạng của chúng ta, kết hợp với việc gieo rắc Văn hoá phản động, suy đồi nhằm chuyển đổi văn hoá Việt Nam thành “thuộc địa văn hoá” của chủ nghĩa đế quốc. Như việc thông qua nhiều “kênh”, nhiều thủ đoạn, chúng ra sức tuyên truyền, cổ vũ cho văn hoá, lối sống phương Tây – thực dụng, trụy lạc, tôn thờ đồng tiền là trên hết, sống ích kỷ, phi đạo đức. Tất cả việc làm đó còn nhằm tạo ra và bổ sung cho đội quân xung kích diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ của chúng. Xâm nhập nền văn háo chủ yếu tấn công vào giới trẻ, làm suy đồi đạo đức, lối sống trụy lac làm chúng không nhận ra được những truyền thống văn hóa, thuần phong mỹ tục
- Vô hiệu hoá lực lượng vũ trang
Vô hiệu hoá lực lượng vũ trang nhân dân, chủ yếu là quân đội nhân dân và công an nhân dân, đây là lực lượng tập trung nhất bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Hoạt động chủ yếu của chúng nhằm phá vỡ hệ tư tưởng, tổ chức của quân đội và công an. Làm cho lực lượng này xa rời mục tiêu chiến đấu, rêu rã tổ chức; xói mòn về đạo đức, phẩm chất, lối sống… để dẫn tới giảm lòng tin vào Đảng, vào chế độ, mất phương hướng và thay đổi bản chất cách mạng của mình.
Tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ bản chất truyền thống tốt đẹp của quân đội – công an, chia rẽ nội bộ, chia rẽ tình đoàn kết máu thịt quân đội và nhân dân, quân đội và Đảng…
Trong tình hình hiện nay, chúng đặc biệt chú ý đến trạng thái tâm lí để tuyên truyền, xuyên tạc vị trí, chức năng, nhiệm vụ của quân đội nhân dân. Đặt lợi ích kinh tế đối lập với lợi ích quốc phòng. Đối lập giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm phủ định vai trò của quốc phòng trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Toàn bộ những hoạt động của chúng nhằm phủ định sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội và công an “trung lập hoá quân đội và làm phai mờ biến đổi bản chất truyền thống cách mạng của quân đội – công an”, “phi chính trị hoá” quân đội – công an. Cuối cùng còn quân đội Việt Nam nhưng do chủ nghĩa đế quốc sai khiến.
- Kích động, phối hợp hành động của lực Iượng phản động trong nước và phản động ngoài nước
Kẻ thù rất coi trọng lực lượng phản động trong nước, nhằm tạo dựng lực lượng trực tiếp chống phá ta từ bên trong.
Chúng sử dụng các lực lượng trong nước để làm cầu nối giữa các tổ chức phản động trong nước và tổ chức phản động ngoài nước, vừa phối hợp hoạt động, vừa tập trung lực lượng. Chúng sử dụng các thủ đoạn xảo quyệt, tinh vi trong hoạt động để giành những mục tiêu cụ thể. Trong đó khoét sâu vào các vấn đề kinh tế, dân chủ, nhân quyền, công bằng xã hội, phục hồi tư tưởng chống Cộng, gây chiến tranh tâm lí làm hoang mang dao động ở một số người, tạo nên tình hình xã hội luôn căng thẳng, nhằm gây bạo loạn lật đỗ từ nhỏ đến lớn: Như việc hoạt động của bọn phản động người Việt sống ở nước ngoài thời kì chúng gọi là “hậu bình thường hoá” quan hệ Việt – Mĩ, với hai trọng điểm chiến lược chống ta: “Giữ vững chiến tuyến chống Cộng tại hải ngoại – tấn công mãnh liệt vào Việt cộng tại quốc nội”, bằng những chính sách rất nham hiểm, xảo trá như: Chính sách “ngoại vận”, nhằm mở các đợt hoạt động tuyên truyền sâu, rộng lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền, tự do dân chủ, đàn áp tôn giáo. Thực hiện chính sách đó,  chúng đi vào từng đối tượng để “vận động” và có những mục tiêu cụ thể. Đối với tín đồ, đòi tự do tôn giáo, hành đạo, huỷ bỏ “hệ thống tôn giáo quốc doanh”. Đối với dân, đòi dân chủ, dân sinh. Đối với văn nghệ sĩ, trí thức, đòi tự do ngôn luận, hội họp. Chúng đem cách sử dụng mọi phương tiện truyền thông nhằm “đánh vào trái tim khối óc ộng sản, huy động tận tâm thức sâu thẳm của đồng bào trong nước”, hoặc chính sách “tổ chức, liên kết trong ngoài” để liên kết các hội đoàn phản động ngoài nước, bí mật thành lập tổ chức phản động trong nước và liên kết hai lực lượng đó lại…
Tóm lại, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động dùng nhiều thủ đoạn, trên tất cả các lĩnh vực để chống ta. Chúng hết sức chú ý đẩy mạnh, mở rộng quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ trong nội bộ ta. Đồng thời với việc gây lình huống, tạo cớ để nhân danh các tổ chức quốc tế nhảy vào can thiệp vào công việc nội bộ của ta, kể cả can thiệp bằng quân sự. Chính vì vậy cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ càng trở nên phức tạp, lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và chúng ta nhất định sẽ giành thắng lợi.

Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

Những hình ảnh 'biết nói' trận hải chiến Gạc Ma

(VTC News) - Mỗi di vật, di ảnh, tấm hình... đều là những câu chuyện xúc động về Gạc Ma, nhắc cho những người còn sống về tinh thần quyết tử cho Tổ quốc.




T
Tàu HQ-931 chở những người còn sống sót và thi thể các chiến sĩ sau trận chiến Gạc Ma về Cam Ranh - Ảnh tư liệu

Lá cờ tổ quốc anh hùng Trần Văn Phương đã anh dũng bảo vệ được lưu giữ trong nhà truyền thống của Vùng 4 Hải quân. (Ảnh: Báo Lao động)

Di ảnh của anh hùng liệt sĩ, thuyền trưởng tàu HQ 604 Vũ Phi Trừ - (Ảnh: N.M - Báo Lao động)


Thư của liệt sĩ nhà giàn DK1 Tạ Ngọc Tú gửi về gia đình trước lúc hy sinh - Ảnh: Káp Thành Long

Giấy báo tử của anh Mai Xuân Hải vẫn còn được lưu giữ như một kỷ niệm của một thời bi tráng (Ảnh: Tiền Phong)


Lễ truy điệu các liệt sĩ hy sinh bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa trong sự kiện ngày 14.3.1988 - Ảnh tư liệu

Những bức thư ông Trần Thiện Phụng gửi từ trại giam Trung Quốc về cho gia đình. Sau ngàn ngày bị giam lỏng, đến ngày 2.9.1991, ông Trần Thiện Phụng, Dương Văn Dũng, Trương Văn Hiền và đồng đội mới được bước chân về đất Việt. (Ảnh: Thanh niên)


Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ (giữa hàng đầu) - thuyền trưởng của một trong ba tàu trong cuộc chiến đấu ác liệt ở Trường Sa ngày 14-3-1988. (Ảnh: Vietnamnet)


9 người lính Trường Sa (mặc áo hải quân) bị quân Trung Quốc thả về sau 3 năm giam giữ (ảnh chụp ở trại an dưỡng Quảng Ninh năm 1992) - Ảnh: Thanh niên do anh Trần Thiện Phụng cung cấp.


Sau trận hải chiến Gạc Ma 1988, nhân dân cả nước ủng hộ vật chất xây dựng nhiều đảo kiên cố tại quần đảo Trường Sa, trong ảnh là Nhà cấp 1 tại đảo Đá Nam - Ảnh tư liệu
Bài báo về trận chiến Gạc Ma của tác giả Linh Trần 25 năm trước. (Ảnh: Linh Trần đăng trên báo Lao động)

Đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 16.3.1988 - (Ảnh Thanh niên chụp lại)

Những vòng hoa tưởng nhớ đồng đội hy sinh trong trận hải chiến Gạc Ma. (Ảnh:cand.com.vn)
__________________
NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ
 
 
Bin571 is offline   Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này

Chân dung Cụ Hồ qua mắt của một học giả Mỹ

Bà Josephine Stenson là giáo sư tiến sĩ sử học của trường đại học Florida Atlantic ở tiểu bang Florida, Hoa Kỳ. Đây là bài phát biểu của bà tại Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội tháng 5 năm 1990. Bài tham luận tiếng Anh, nhan đề "Hồ Chí Minh, một nhân cách lớn của thời đại" đã được ghi lại và sau đó do Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản. Đây là một bài tham luận rất hay, có nhiều điểm mới mẻ, đặc biệt, cho thấy một cái nhìn khác, một quan điểm mới mẻ thông thóang và đôi chút tế nhị, táo bạo, nhạy cảm về chuyện đời tư, phụ nữ, tình yêu của Bác Hồ, với một góc nhìn từ người ngòai, một phụ nữ, một trí thức Hoa Kỳ.
alt



Xin cho phép tôi được mặc chiếc áo dài của người mẹ Việt Nam, người mẹ đã sinh ra những anh hùng của nhiều thời đại chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc thân yêu của mình. Và thời nay, có một người mẹ đã sinh ra thiên tài Hồ Chí Minh. Bà cũng đã mặc tà áo này.

Hôm nay tôi mặc tà áo này không phải để chưng món quà sang trọng của bạn bè Việt Nam tặng cho tôi. Đây là sự ngưỡng mộ một sắc phục dân tộc mà chưa có một sắc phục phụ nữ nào lại đẹp, có văn hoá, bề dày truyền thống và thanh lịch như chiếc áo dài Việt Nam.

Từ Hoa Kỳ, tôi sang Thái Lan và vào Thành phố Hồ Chí Minh, thấy ngỡ ngàng khi nhìn thấy nữ sinh các trường đều mặc áo dài - những chiếc áo dài tuyệt đẹp. Tôi như bị thôi miên cứ đứng nhìn ngây ngất những tà áo dài mềm mại trên thân hình rất đẹp của các nữ sinh.

Trong khi đó, một cảm giác buồn tương phản đột nhiên xâm chiếm trong tôi một cách bất ngờ khi tôi nhìn thấy nhiều chị em khác cũng tại thành phố này mặc những bộ đồ mà những người phụ nữ Mỹ chúng tôi đã bỏ từ thập kỷ 60 sang thập kỷ 70. Khi ra Hà Nội tôi hiểu được bề dày về nền văn minh Sông Hồng, nhưng không giống như Thành phố Hồ Chí Minh, phụ nữ ít mặc áo dài, phần lớn họ mặc quần áo giống như phụ nữ Bangkok và Philippines.

Hồ Chí Minh là người mà tôi dành nhiều thời gian nhất trong đời nghiên cứu lịch sử của tôi để tìm hiểu cho được đích thực tính cách của ông. Tôi thuộc thế hệ tuổi con cháu Bác Hồ Chí Minh. Cho phép tôi được ca ngợi lời ca muộn màng của người hậu thế. Không phải tôi ca ngợi Hồ Chí Minh vì Việt Nam đã chiến thắng quốc gia hùng mạnh nhất hành tinh. Tôi ca ngợi Hồ Chí Minh trong tình hình Việt Nam giảm sút uy tín quốc tế. Trên thế giới người ta gọi Việt Nam là vương quốc “chuột nhắt” vì tệ trộm cắp thì không nước nào sánh bằng.

Tôi đã tự bỏ tiền túi ra để đi từ Mỹ sang Pháp và Liên Xô cũ: Những nơi mà Hồ Chí Minh đã đặt chân tới đó, để tìm những di tích gốc về Hồ Chí Minh. Tôi đã ở Liên Xô một thời gian tương đối lâu để nghiên cứu về ông. Khi về Mỹ, tôi lại đi từ New York đến các đảo lửa vùng Đông Bắc châu Mỹ, nơi cụ Hồ đã đi tàu xuyên đại dương đến đó. Tôi quyết tâm đi tìm cho được lai lịch văn hóa Hồ Chí Minh, mặc dù ngày đó người ta đã thừa nhận cụ là danh nhân văn hoá của thế kỷ.

Rất tiếc, lâu nay Việt Nam chỉ cung cấp cho chúng tôi lai lịch chính trị của Hồ Chí Minh, ngoài ra không cung cấp những tư liệu gì đối với những vấn đề khác. Và tôi cũng hết sức ngạc nhiên và khó hiểu không biết tại sao Việt Nam cứ tuyên truyền rằng cụ Hồ sinh ra trong một gia đình nghèo khổ? Đã nghèo thì làm sao có điều kiện ăn học và làm quan như cụ thân sinh ra ông và trình độ học vấn như ông.

Ngoài ra Việt Nam còn tuyên truyền rằng ông Hồ làm phu khuân vác ở Bến Nhà Rồng, bồi bàn dưới tàu Pháp, bồi bếp ở khách sạn Luân Đôn và làm thợ nhiếp ảnh... chỉ toàn là những lao động cơ bắp, không thấy trí tuệ Hồ Chí Minh ở chỗ nào cả! Có lẽ những nhà lãnh đạo Việt Nam lo ngại khi nói đến trí tuệ của ông Hồ Chí Minh thì ảnh hưởng đến đường lối giai cấp của Đảng Cộng sản chăng, vì sợ quần chúng hiểu rằng Bác Hồ là thành phần thuộc tầng lớp trên chứ thực chất không phải là bần cố nông và thợ thuyền, giai cấp lãnh đạo cách mạng?

Xin lưu ý, bất cứ một quốc gia nào coi rẻ và khinh miệt trí thức thì nhất định sẽ thất bại, lịch sử đã từng chứng minh thực tế đó.

Qua nghiên cứu tôi thấy rằng:

- Bác Hồ chọn việc bồi bàn trên tàu là để có điều kiện đi đến được nhiều quốc gia.

- Bác Hồ chọn việc làm ở khách sạn là nơi có điều kiện tiếp xúc được với nhiều chính khách.

Thế nhưng người ta hiểu sai rằng Bác Hồ làm đủ mọi nghề chỉ là để kiếm sống, không đúng!

Tôi đã đến London tìm hiểu và thấy Nguyễn Ái Quốc kết thân với một số nhà đại văn hào, các nghệ sĩ danh tiếng như Romans, Darwin, vua hề Charlie (Sạc-lô)...

Người ta đồn rằng cụ Hồ biết 28 thứ tiếng, nhưng theo kết quả tìm hiểu của tôi thì cụ biết khá sành sỏi 12 thứ tiếng.

Tôi xin dâng tặng những lời ca đẹp nhất về Hồ Chí Minh, sau khi tôi đã đi đến những nơi có dấu chân ông đi qua, gặp lại những người đã biết về ông và đi đến kết luận rằng Hồ Chí Minh lúc còn trẻ là một thanh niên ... rất đẹp trai, cho nên hiện giờ tôi vẫn cứ mơ ước về ông. Nếu tôi cùng thời với ông thì dứt khoát phải trở thành người yêu của ông. Ông không chấp nhận, tôi cũng đeo đuổi đến cùng... Tôi ngưỡng mộ ông bằng cả đầu óc khoa học của tôi, đồng thời bằng cả trái tim của một người con gái hậu thế.

Khi tôi đã yêu ông và tôn kính ông ở góc độ khoa học thì tôi nghĩ ngay đến tượng Nữ thần Tự Do ở quê hương tôi. Tôi là nhà sử học, tôi đã lật ra xem những trang ghi cảm tưởng của mọi chính khách khi họ đến tham quan và chiêm ngưỡng tượng thần Tự Do và ca ngợi thần Tự Do.

Nguyễn Tất Thành khi đến New York và cũng đã đến chiêm ngưỡng tượng thần Tự Do như mọi chính khách sau khi đến tham quan thần Tự Do đều ghi cảm tưởng bằng những lời ca ngợi Ngôi sao tỏa sáng trên vòng Nguyệt quế là ánh sáng tự do... Duy chỉ có Nguyễn Tất Thành đến xem thần Tự Do, nhưng chỉ nhìn dưới chân tượng và ghi: “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp; số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?

Duy nhất chỉ có Nguyễn Tất Thành nhìn xuống chân tượng thần Tự Do và ghi lại những ý kiến trên. Nguyễn Tất Thành nhìn số phận con người, không chiêm ngưỡng hào quang tỏa sáng từ bức tượng thần Tự Do. Chính vì thế mà hôm nay tôi đến đây tìm đến con người này - Hồ Chí Minh - để xem giữa lời nói và việc làm của ông có tương phản không?

Hồ Chí Minh quả thật là con người nói và làm đi đôi. Tôi đã vào nhà của ông. Lục tìm của riêng của ông. Ông không có của riêng. Thật rất lạ và hiếm thấy, chính khách nào khi cầm quyền đều ban hành sắc lệnh tôn trọng và bình đẳng cho phụ nữ nhưng khi sắc lệnh ký xong thì bản thân họ lại vào nhà thổ, cho phép phát triển kỹ nghệ “đàn bà”. Thậm chí một vị Tổng thống có đến 3 - 4 tình nhân. Duy nhất chỉ có Nguyễn Tất Thành đứng trước Tượng thần Tự Do ghi những điều trên khi mình còn lầm than, rồi khi mình làm Chủ tịch một nước và khi qua đời, trên giường ông vẫn vắng hơi ấm của đàn bà. Con người khi làm Chủ tịch nước 24 năm đến lúc qua đời trên giường không có hơi ấm của đàn bà.

Hồ Chí Minh là một người cộng sản vĩ đại, là một siêu nhân, ông càng vĩ đại hơn ở chỗ ông là một con người bình thường sống hòa lẫn vào trong cuộc sống của xã hội chứ không phải siêu phàm.

Tôi đọc nhiều tư liệu về ông và biết ông được nhiều phụ nữ yêu thương. Bà Lared theo đuổi Nguyễn Ái Quốc nhiều năm. Trong những đêm đi họp chi bộ về hai người đi bên nhau trên bờ sông Seine, bà tỏ tình mà Nguyễn Ái Quốc không mềm lòng. Khi bà qua đời, để lại cuốn nhật ký, tôi được đọc quyển nhật ký đó và hiện giờ con gái bà đang giữ. Con bà cũng nói với tôi: “Mẹ tôi yêu Nguyễn Ái Quốc”. Đấy, tôi phải đi tìm cho được những bằng chứng như vậy mới đủ cơ sở khẳng định nhân cách một con người của thời đại. Đúng, Hồ Chí Minh là nhân cách của thời đại.

Tôi cũng đến khách sạn Boston, ở Đông Bắc nước Mỹ, nơi Nguyễn Tất Thành ở đó làm thợ nặn bánh mì gần một năm trời và sau này chính các nhà đại văn hào châu Âu qua Mỹ đều ở Khách sạn này. Nguyễn Tất Thành đã ghi lại tên tất cả những chính khách đến ở trong khách sạn Boston.

Tại đây có một cô gái quốc tịch Mỹ gốc Pháp tên Côlét đã yêu say đắm Nguyễn Tất Thành. Nguyễn Tất Thành rất thích nghe hát và xem kịch, nhất là kịch cổ điển. Được biết Hồ Chí Minh rất yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ thuật rất phong phú, nhưng Nguyễn Tất Thành rời nước ra đi không phải để hoạt động chính khách mà ông đi tìm đường cứu dân tộc. Côlét khuyên dụ ông đi với bà và tỏ ý muốn kết hôn với Nguyễn Tất Thành, nhưng ông đã tìm cách an ủi Côlét để từ chối. Sau đó một thời gian, Côlét trở thành một nhà văn lớn có tên tuổi. Nguyễn Tất Thành tâm sự và bà Côlét kể lại: “Nếu tôi muốn có một văn bằng thì tôi đã thi năm 1904 ở trong nước, vì lúc đó tôi có một người con gái quê nhà yêu mà đành bỏ lại trên bến Cảng để ra đi”.

Vừa rồi, tôi có đọc một bài hồi ký đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự của Viện quân sự Hoa Kỳ, do một số sĩ quan Anh - Mỹ trong đội quân của Đồng minh khi sang Đông Dương đóng ở Cao Bằng, “Tôi sống cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh từ những ngày đầu khởi nghĩa”. Họ kể lại, có dịp tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, họ hỏi:

- Không phải tò mò mà trên danh nghĩa là đàn ông với nhau, tại sao Chủ tịch không lấy vợ, không lập gia đình?

Hồ Chí Minh trả lời một cách chân tình và thân mật: Khi còn trẻ phải đi hoạt động cách mạng, khi giành được độc lập thì đã già, nên không dám tính chuyện đó. Trước khi tôi ra đi, tôi có yêu một người con gái, người con gái đó cũng rất yêu tôi. Nhưng phải dừng lại về chuyện yêu đương, sau nhiều năm mất liên lạc, tôi không biết người con gái đó đang ở đâu, còn hay mất.

Tôi đã đi Quảng Châu và tôi biết Nguyễn Ái Quốc còn có một người yêu nữa tên Lý Phương Liên (bí danh) thư ký của Đông Phương bộ thuộc cục Phương Nam là vợ của Lý Thụy (cụ Hồ) ở phố Văn Minh, Quảng Châu, Trung Quốc. Thực tiễn cuộc sống có những việc nhìn thấy tận mắt chưa hẳn là thật. Khi ông Phạm Văn Đồng cùng một số người trong tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội sang dự một khóa học chính trị tại nhà số 13 phố Văn Minh cũng tưởng Lý Phương Liên là "vợ" của Lý Thụy, nhưng sau mới biết thực tế không phải như vậy, đây chỉ là việc ngụy trang để che mắt mật thám.

Tôi không coi vấn đề này quan trọng, tuy vậy thời gian tôi đến Liên Xô, tôi cũng biết có một cô gái Nga yêu ông, yêu tới mức bà ta không lấy được Nguyễn Ái Quốc và suốt đời ở vậy cho đến già rồi chết. Có một nhân chứng người Nga được bà ta tâm sự kể lại với tôi rằng: “Hai người yêu nhau, nhưng không dám lấy. Nguyễn Ái Quốc nói lấy vợ thì phải để lại địa chỉ, phải có con, phải có trách nhiệm làm chồng, làm cha và rồi thế nào mật thám cũng phát hiện ra, cho nên Nguyễn Ái Quốc không lấy vợ và tôi cũng không lấy chồng."

Dân tộc Việt Nam mãi mãi nên tự hào về Hồ Chí Minh, nền văn minh nhân loại của thế kỷ XX này luôn tự hào có một vĩ nhân được cả thế giới, đại diện bởi UNESCO, phong tặng Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hóa kiệt xuất. Hồ Chí Minh mãi mãi là tấm gương sáng về nhân cách một người thời đại cho mọi thế hệ tiếp sau.

Josephine Stenson 
Hà Nội, tháng 5 năm 1990

Thứ Sáu, 14 tháng 6, 2013

Mít tin hưởng ứng Tuần lễ Biển, Hải đảo Việt Nam và Ngày Môi trường Thế giới năm 2013



   
 
(Web Quảng Trị) – Ngày 3/6/2013, tại Quảng trường Giải phóng Thị xã Quảng Trị, UBND tỉnh tổ chức Lễ Mít tin hưởng ứng Tuần lễ Biển, Hải đảo Việt Nam và Ngày Môi trường Thế giới năm 2013. Đến tham dự, có đồng chí Nguyễn Quân Chính, TUV, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cùng đại diện các Sở, Ban, ngành, cơ quan, đơn vị liên quan trên địa bàn toàn tỉnh và sự tham gia hưởng ứng nhiệt liệt của gần 1.500 em học sinh thuộc các trường Tiểu học, THCS, THPT trên địa bàn Thị xã Quảng Trị.
Trong những năm qua cùng với những thành tựu đạt được về kinh tế - xã hội của tỉnh, công tác bảo vệ môi trường đã được các cấp, các ngành quan tâm. Thực hiện chương trình hành động của Tỉnh ủy nhằm triển khai thực hiện cụ thể các nội dung Nghị quyết của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Quảng Trị đã đạt được không ít thành công trong nhiều lĩnh vực, từ hoạt động tuyên truyền đến việc đầu tư các công trình kiểm soát, xử lý môi trường. Nhờ đó, địa phương đã cơ bản giải quyết được các vấn đề bức xúc về môi trường đang tồn tại. Công tác xã hội hóa về môi trường đã và đang được các cấp, các ngành quan tâm. Bảo vệ môi trường đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên của cả hệ thống chính trị.
Cùng với hành động bảo vệ môi trường, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường biển và hải đảo có vai trò hết sức quan trọng đối với cả nước và tỉnh nhà. Với 75km bờ biển, Quảng Trị có ngư trường rộng 8.400 km2, trữ lượng hải sản khoảng 60.000 tấn/ năm. Những năm qua, tình hình kinh tế xã hội của các xã ven biển có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống văn hóa, tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt. Quốc phòng an ninh được giữ vững, kinh tế biển đang từng bước trở thành thế mạnh của tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vấn đề môi trường trên địa bàn tỉnh vẫn đang còn đối mặt với nhiều thách thức gay gắt về bảo vệ biển, đảo; sự suy giảm của các nguồn lợi thủy sản, đa dạng sinh học và các hệ sinh thái biển, ô nhiễm môi trường cục bộ ở một số nơi đang là vấn đề cần phải quan tâm.
Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Nguyễn Quân Chính, TUV, Phó Chủ tịch UBND tỉnh đã nhấn mạnh về tầm quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường phù hợp với hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

 
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Quân Chính phát biểu tại buổi lễ
Vì thế, hưởng ứng chủ đề của Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam, ngày Môi trường thế giới năm 2013, đồng chí đề nghị các cấp ngành, cán bộ, công chức, viên chức cùng toàn thể nhân dân tỉnh nhà hãy tích cực hành động để bảo vệ biển đảo quê hương, hãy nghĩ về môi trường trước khi tiêu thụ thực phẩm, xây dựng nền kinh tế xanh vì sự phát triển bền vững cho tương lai bằng những hành đồng cụ thể như: Tổ chức các hoạt động tuyên truyền về biển và hải đảo, vận động, khuyến khích người dân sử dụng công nghệ, sản phẩm thân thiện với môi trường, tránh lãng phí thực phẩm và sử dụng các nguồn nguyên liệu gây ô nhiễm môi trường; tiếp tục thực hiện phát triển kinh tế tỉnh nhà theo hướng phát triển chiều sâu, giảm sử dụng tài nguyên thiên nhiên, tăng cường các ngành công nghiệp sinh thái và dịch vụ môi trường; đề xuất và triển khai các dự án, chương trình bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên biển và hải đảo… tất cả vì mục đích góp phần đẩy mạnh hơn nữa các nỗ lực chung để phát triển quyền con người, tạo ra môi trường trong lành, một sự phát triển bền vững.

Nhân dịp này, đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành trao tặng 5 thùng đựng rác cho chính quyền Thị xã Quảng Trị góp phần trong công tác giữ gìn vệ sinh môi trường trên địa bàn.
Cuối buổi mít tin là lễ diễu hành bằng xe đạp với những băng rôm, khẩu hiệu kêu gọi bảo vệ môi trường và tài nguyên biển, đảo của các em học sinh và người dân qua các tuyến đường trên địa bàn Thị xã Quảng Trị.

 
Đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường tiến hành trao tặng tượng trưng 5 thùng rác cho chính quyền thị xã Quảng Trị

Theo Nguyễn Tiến Nhất (Quangtri.gov.vn)

Thứ Tư, 29 tháng 5, 2013

Tạ Đình Đề và những chuyện như huyền thoại

VietnamDefence - Tạ Đình Đề là người ngang tàng ngay thẳng, không ngại nguy hiểm và dám bảo vệ quan điểm khi sự việc anh cho là đúng. Chính vì tính ngang tàng, thẳng thắn đó, mà trên đường công danh, anh gặp biết bao điều trắc trở. Nhiều người đã được thấy lần anh to tiếng tranh luận với Khu trưởng Hoàng Sâm...
Ông Tạ Đình Đề
Có một người không có cấp bậc, chức vụ, không hề giữ trọng trách trong quân đội, trong chính quyền mà đã có nhiều huyền thoại. Trong kháng chiến chống Pháp từ Liên khu 3, Liên khu 4, Bình Trị Thiên, Việt Bắc... các chiến sĩ quân đội, nhân dân đều biết tên ông. Tên tuổi của ông vang mãi tới Nam Bộ xa xôi. Đặc biệt ở miệt Cống Thần, chợ Đại (Hà Nam), Hà Nội... Bà con nhắc đến ông với thái độ khâm phục, kính nể, trân trọng - người đó là ông Tạ Đình Đề.
Còn quân Pháp trong thời tạm chiếm Hà Nội nơm nớp tưởng chừng như lúc nào ông cũng có mặt giám sát hành động của chúng. Chính bọn chúng thêu dệt nên những huyền thoại “thần xuất, quỷ một” của ông trong nội thành Hà Nội thời tạm chiếm.
Người viết bài này là người cùng thời với ông, được gặp ông nhiều lần. Bạn bè, đồng đội cung cấp tư liệu và yêu cầu viết về ông. Song, khó quá, ông là người kín đáo ít muốn nói về mình. Người viết chỉ ghi lại những điều bè bạn đồng đội của ông kể lại, cùng những lần tiếp xúc ngắn ngủi với ông trong những ngày học Lục quân ở Trung Quốc (1951-1953), trong những lần họp cựu chiến binh Trung đoàn 52 Tây Tiến.
Dưới đây chỉ là một vài câu chuyện trong nhiều huyền thoại mà bè bạn, đồng đội kể về ông khi ông còn sống, kể cả chục năm, sau khi ông giã từ cõi nhân thế này.      
Người chiến sĩ Tây Tiến
Sau ngày 23/9/1945 quân Pháp đánh chiếm Nam Bộ, Chính phủ ta tổ chức lại các lực lượng quân sự thành lập các chiến khu. Chiến khu 2 gồm 8 tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.
Cuối năm 1945, đầu 1946 quân Pháp từ Côn Minh, Vân Nam (Trung Quốc) tràn xuống Bắc Lào chiếm Lai Châu, Điện Biên Phủ làm bàn đạp đánh Sơn La, Hòa Bình. Bộ Tư lệnh Khu 2 đã điều động bộ đội lên đối phó. Có bộ phận đã đặt chân sang đất Lào ngăn chặn quân địch. Bộ đội Tây Tiến 1 hình thành trong tình huống đó.
Tạ Đình Đề có mặt trong đội quân này và là Phó ban Tình báo Khu 2.
Sau tết Đinh Hợi 1947, mặt trận Tây Tiến được thành lập.
Bộ Tư lệnh mặt trận phải đọ sức ngay với quân Pháp. Tháng 3/1947, quân Pháp đánh thông đường số 6, tiến công vùng Mai Châu. Từ hướng Suối Rút tràn lên, từ hướng Mộc Châu kéo xuống, phối hợp với quân nhảy dù, định xóa sổ cơ quan chỉ huy mặt trận. Tư lệnh mặt trận quyết định chuyển Sở chỉ huy về Mường Bi, chuyển quân y xá về Lạc Sơn và tổ chức chiến đấu ở khu vực Bãi Sang, dốc Đẹt.
Ngày đó, dốc Đẹt là con đường rừng dốc, độc đạo, hiểm trở. Có anh em nói đây là con đường “bách nhân khứ, nhất nhân hồi!” (trăm người tới, chỉ một người về!). Dốc Đẹt đã đi vào huyền thoại với cuộc chiến đấu của đoàn quân Tây Tiến với quân Pháp trên giải đất núi rừng Tây Bắc, chỉ với hai tay súng của Khu trưởng Hoàng Sâm và Tạ Đình Đề. Sau đó, một mình Tạ Đình Đề như con sư tử trên đỉnh dốc chiến đấu, buộc quân địch co cụm về Chiềng Sại!
Sau trận dốc Đẹt, Trung đoàn 52 Tây Tiến được hình thành, đảm đương nhiệm vụ hoạt động trên địa bàn Tây Bắc. Bộ chỉ huy mặt trận Tây Tiến được giải thể.
Tạ Đình Đề được Tư lệnh Liên khu 3 điều động về Liên khu, làm Phó ban Tình báo Liên khu (Kim Hùng làm trưởng ban), kiêm Đội trưởng Đội Biệt động Liên khu 3.
Tạ Đình Đề - Đội trưởng đội Biệt động Liên khu 3
Đội Biệt động Liên khu 3 lúc đó có người gọi tên là “Đội Biệt động thành Hoàng Diệu”, “Đội trừ gian, diệt ác thành Hoàng Diệu”. Đội được chia thành ba tiểu tổ: Tiểu tổ 1 do Nguyễn Phương chỉ huy (Nguyễn Phương bị địch bắt đày ra Côn Đảo rồi Phú Quốc và được trao trả năm 1954). Tiểu tổ 2 do Hồ Du Tử (Lê Phan) chỉ huy (anh mới mất cách đây không lâu). Tiểu tổ 3 do Trần Văn Đức chỉ huy (anh đã mất ở Sài Gòn năm 1982).
Đây là giai đoạn tên tuổi Tạ Đình Đề nổi danh trên các ngả đường kháng chiến, tiếng đồn từ Nam ra Bắc, từ Hà Nội đến các thành phố, từ đồng bằng đến khắp rừng núi Tây Bắc, Việt Bắc...
Bản sao lý lịch của Tạ Đình Đề được lưu trữ ở Tổng cục Đường sắt:
Đồng chí: Tạ Đình Đề  (bí danh Lâm Giang)
Sinh ngày: 8/8/1917
Quê quán: Thôn Đại Định, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
Tham gia cách mạng: 1935
Vào Đảng: Tháng 6/1946, chính thức tháng 9/1946.
Gia đình nghèo, nên 16 tuổi Tạ Đình Đề đã lang bạt sang làm công nhân Sở Hỏa xa Vân Nam tại ga Côn Minh (Trung Quốc). Trong những ngày đó, anh tham gia Hội Ái hữu cứu quốc sau đổi thành Việt Nam Giải phóng cứu quốc do Mặt trận Việt Minh tổ chức.
Năm 1941, anh được tổ chức cử đi học ở Liễu Châu, một phân hiệu chuyên ngành của Trường Quân sự Hoàng Phố. Phân hiệu Liễu Châu là nơi chuyên đào tạo những nhân viên hoạt động trong lòng địch. Ta thường gọi là trường đào tạo gián điệp.
Học viên học ở Liễu Châu bao gồm các khoa mục: sử dụng các loại vũ khí, chất nổ, lái  các loại xe kể cả xe tăng, máy bay..., sử dụng các phương tiện thông tin, điện đài, phi ngựa, bắn súng, luyện khí công, luyện võ...
Tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố với tấm bằng xuất sắc, anh tham gia các hoạt động vũ trang và được tổ chức phân công hoạt động tình báo cùng phái bộ Mỹ trong phe Đồng minh chống phát xít Nhật. (Lý lịch trích ngang).
Đội Biệt động Liên khu 3 được  hình thành, hoạt động rất nhanh, rất hiệu quả.
Gọi là Đội Biệt động Liên khu 3, nhưng địa bàn chủ yếu của đội lúc này là nội thành Hà Nội. Hoạt động nội thành Hà Nội lúc ấy có nhiều lực lượng: điệp ngầm của lực lượng Công an, lực lượng Địch vận Trung đoàn 66 do đồng chí Hoàng Giáp và Phúc Đồng Mạc chỉ huy. Lực lượng Địch vận Trung đoàn 48 do Đinh Hùng, Trịnh Vũ chỉ huy.
Ngoài ra  lực lượng hoạt động nội thành của cơ quan Dân vận, Công đoàn... Các lực lượng vũ trang tuy hoạt động độc lập, nhưng vẫn có sự quan hệ chặt chẽ, yểm trợ cho nhau khi cần thiết.
Tạ Đình Đề là người ngang tàng ngay thẳng, không ngại nguy hiểm và dám bảo vệ quan điểm khi sự việc anh cho là đúng. Chính vì tính ngang tàng, thẳng thắn đó, mà trên đường công danh, anh gặp biết bao điều trắc trở. Nhiều người đã được thấy lần anh to tiếng tranh luận với Khu trưởng Hoàng Sâm.
Khu trưởng cũng là trang hảo hán, phi ngựa, bắn súng cả hai tay, múa đao thiện nghệ... Có lần trùm phỉ Lý Xíu kéo quân lên Pắc Bó đòi gặp ông Trần (bí danh của Hoàng Sâm) và Lê (Lê Quảng Ba). Hắn cho mời hai ông đến uống rượu, thi bắn súng, ném lựu đạn.
Ông Trần mới chỉ trổ tài bắn mục tiêu cố định, di động hai tay bằng hai khẩu Pạc Khoọc, Lý Xíu đã phục lăn. Đến lúc uống rượu, ông Trần biểu diễn tiết mục kỳ lạ có một không hai – uống rượu bằng mũi. Lý Xíu kinh ngạc, khi thấy ông Trần rót cốc rượu vào mũi không rớt ra ngoài một giọt.
Chính vì lần gặp mặt ngoạn mục đó, mà bọn phỉ Vòng A Sáng, Chín Thẩu mời ông Trần tới dự tiệc, nhậu với óc khỉ sống và đề nghị ông kết nghĩa huynh đệ.  Những hành động anh hùng, kiếm khách của ông Trần  đã góp phần ổn định vùng biên cương của Tổ quốc trong những ngày đầu cách mạng.
Khu trưởng là người điềm đạm, lịch lãm, thương yêu, quý trọng cấp dưới, ít khi nóng giận. Nhưng khi ông nóng lên thì "trời cũng bé". Là người cùng học ở Trường Hoàng Phố, nên Tạ Đình Đề cũng được Khu trưởng nể vì, yêu mến. Lần nóng giận, to tiếng của Tạ Đình Đề cùng Khu trưởng, làm mọi người chung quanh lắc đầu lè lưỡi. Nhưng, ngay chiều hôm đó, người ta thấy Khu trưởng ôm vai Tạ Đình Đề thủ thỉ:
- Cậu nói đúng, mình suy nghĩ chưa chín lắm!
Dọc  đường từ Cầu Dậm, Chợ Bến, Chi Nê, Nho Quan, Cống Thần, chợ Đại đến Cầu Bố, Rừng Thông..., những đồn công an nhũng nhiễu bà con, ăn chặn chị em buôn chuyến mang hàng từ vùng địch ra, Tạ Đình Đề đều có mặt. Anh vào đồn công an trao đổi với anh em bằng những lời lẽ chân tình, thuyết phục: Kháng chiến thiếu thốn, thuốc men, đường sữa, thực phẩm, hàng hóa, vải vóc... từ vùng địch đem ra hậu phương là có lợi cho kháng chiến.
Tiếng tăm của Tạ Đình Đề càng nổi trội trong hàng ngũ anh em công an dọc đường kháng chiến. Tạ Đình Đề đã góp công không nhỏ làm lành mạnh đội ngũ công an. Chính những chốt công an đó đã thành công trong công tác bảo mật, phòng gian, nhiều lần làm thất bại hành động phản quốc của những tên gián điệp, chỉ điểm, làm việc cho Pháp phá hoại hậu phương kháng chiến.
“Giữa đường gặp chuyện bất bình chẳng tha”
Tuyến đường Diêm Điền, Nga Sơn, Rừng Thông, Cầu Bố có tên đại gia buôn lậu khét tiếng, hoành hành dữ dội. Hôm đó, ở một cửa hàng ăn gần Cầu Bố có một vị khách người nhỏ nhắn, mặc chiếc áo bông xanh bộ đội phát cho cấp đại đội trở lên bước vào.
Người khách kéo ghế ngồi trong góc. Ông gọi ly cà phê, rút điếu thuốc châm lửa hút, rồi ném bao Cô-táp lên mặt bàn. Trước mặt ông khách là một người khách cao to như con gấu ngựa, ôm một cô gái ngồi trên đùi, thức ăn ngồn ngộn trên bàn.
Đây là hình ảnh hiếm gặp trong những năm tháng chống Pháp. Điếu thuốc lá nhiều lần lóe sáng trên môi ông khách. Và, nhiều lần ông khách tỏ vẻ khó chịu, nhấp nhổm trên ghế. Cho đến lúc người khách kia gọi chủ quán quát mắng, hạch sách thì ông khách nhỏ nhắn không chịu nổi. Ông đứng bật dậy.
Người khách cũng vùng dậy, khẩu Walther lăm lăm trong tay.
Trước mặt hắn là một người nhỏ nhắn đôi mắt chứa đầy những ánh lửa, tấm áo bông phanh ra. Tay ông khách đặt lên hai khẩu Côn ngựa bay dắt cạp quần.
- Mày đã nghe tên Tạ Đình Đề chưa?
Khẩu Van-te rơi phịch xuống đất. Người khách quỳ xuống chân ông khách, lắp bắp:
- ...Xin anh tha tội cho em!...
- Trong khi bà con đang gian khổ kháng chiến, các chiến sĩ hy sinh ngoài mặt trận, mà mày nỡ ngồi đây đú đởn, ăn uống, trai gái. Tao có thể thay mặt nhân dân xử tử mày. Nhưng thôi, tao tha cho cái mạng của mày!
Người khách cao to định vồ lấy khẩu súng trước mặt thì bàn chân của ông khách đã chặn lấy. Ông khách thong thả nhặt khẩu súng, rút băng đạn lẳng vèo xuống ao cạnh đó. Ông quát rất to:
- Cút ngay!
Một cú đá, người khách cao to bật ra cửa.
Cả vùng Cầu Bố, Rừng Thông ầm ĩ chuyện Tạ Đình Đề đá một phát, tên buôn lậu bắn qua đường, nằm không nhúc nhích. Từ đó, người dân vùng Cầu Bố, Rừng Thông không còn thấy mặt tên buôn lậu khét tiếng.
Một lần, Tạ Đình Đề  họp khá lâu ở Việt Bắc trở về. Anh  mặc quần áo chỉnh tề vào trong thành như một chính khách, đàng hoàng ngồi ở hiệu Bô-đê-ga giữa thanh thiên bạch nhật.
Có tên cảnh sát nhiều lần giáp mặt Tạ Đình Đề. Hắn đứng như trời trồng, khi nhận ra Tạ Đình Đề. Tên cảnh sát  quay trở ra, chạy như ma đuổi. Tạ Đình Đề lâm vào thế bất lợi. Anh kiểm tra lại hai khẩu Côn ngựa bay dắt trong bụng. Tạ Đình Đề vẫn ung dung ngồi ăn nghe ngóng, thăm dò động tĩnh. Tiếng ồn ào đầu phố dội vào, một lúc rồi im ắng...
Hà Nội giải phóng, Tạ Đình Đề gặp  tên cảnh sát dã chiến ở ven hồ Hoàn Kiếm. Vừa lạ, vừa cảnh giác, anh tóm tay tên cảnh sát ấn xuống chiếc ghế đá ven hồ.
- Lạy anh Đề! Em biết anh rồi! Lần  trông thấy anh ở cửa hàng Bô-đê-ga, hoảng quá em chạy ra đầu phố thì thấy thằng Gioóc chỉ huy đồn cảnh sát  Hàng Trống đang huy động lực lượng để bắt nhân viên Đội Biệt động Hà Nội.  Em rỉ tai nó:  "Ông Đề đấy! Chúng mày động vào ông là toi mạng!".
Nghe tên ông Đề, bọn cảnh sát khiếp vía, quay lui có trật tự. Đứng núp bên hè  bên kia đường, em còn thấy anh thọc hai tay vào túi quần, huýt sáo vang đi về phía đường Paul - Bert. Em thấy các anh hoạt động trong nội thành Hà Nội mà như ở chỗ không người thế này thì nhất định các anh sẽ chiến thắng. Em tìm cơ sở nội thành, xin được tham gia hoạt động.
Gần đây, tôi lại được nghe anh Hoàng Giáp, người chỉ huy cơ quan địch vận Trung đoàn 66 hoạt động nội thành kể:
Năm 1980, anh vào TP HCM thăm bà con, tình cờ gặp Tạ Đình Đề. Hai anh gặp lại các chiến hữu cũ Nguyễn Trần Hồ, Anh Đệ... các anh tổ chức buổi gặp mặt ở quán phở trên đường Lý Chính Thắng. Tạ Đình Đề vào Sài Gòn lần này là tìm cơ sở tổ chức chi nhánh phía Nam cho Nhà máy Dụng  cụ  cao su Đường sắt.
Hai vị Tạ Đình Đề, Hoàng Giáp cùng ngồi trên một chiếc xích-lô từ chợ Tân Định đến nơi hẹn. Bước chân xuống xe thì anh đạp xích-lô khoanh hai tay đứng trước mặt Tạ Đình Đề.
- Thưa chú! Chú có phải chú Tạ Đình Đề ngày xưa hoạt động nội thành Hà Nội không ạ!
Tạ Đình Đề lấy làm lạ hỏi:
- Tại sao cậu lại biết tên tôi?
- Cháu nghe hai chú ngồi trên xe nói chuyện dọc đường, nên  cháu biết chú là Tạ Đình Đề, người mà cháu ngưỡng mộ mấy chục năm nay. Hôm nay được gặp chú, quả là may mắn cho cháu. Thưa hai chú, cháu là người miền Bắc bị bắt đi lính. Hà Nội những năm 47, 48, 49, 50 tiếng tăm Tạ Đình Đề nổi như sấm. Bọn Pháp lúc đó vừa sợ, vừa kính phục, khi nghe thấy tên chú.
Năm 1973, cháu rời bỏ binh nghiệp, trở về đạp xích-lô kiếm sống. Nhà cháu ở hẻm 231 đường Võ Văn Tần, số nhà 5. Cần chi, xin các chú cứ gọi, cháu xin phục vụ tận tình.
Trước khi bước lên xe. Anh ta còn cúi đầu xá mấy xá.
Mỗi lần gặp nhau, chúng tôi muốn biết sự thực về những chuyện người ta đồn thổi về anh. Anh cười đôn hậu. Chúng tôi hỏi anh về chuyện bắn súng hai tay như một. Nghe nói, anh có thể bắn cụt điếu thuốc lá trên môi người đang hút và bắn tan cái cốc đặt trên đầu người cách xa 50mét! Chuyện giết nhiều tên mật thám, Việt gian trong thành Hà Nội!...
Kỷ niệm tại Trường Lục Quân
Cuối năm 1950, đầu năm 1951, tôi và một số anh em được đơn vị cử đi học Lục quân. Một chặng đường hơn 1.000km từ Nghệ An, qua Thanh Hóa, Hòa Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, vượt cầu Thanh Thủy sang Trung Quốc, băng qua Thập vạn đại sơn lên tận Côn Minh thủ phủ tỉnh Vân Nam học tập. Ngày nghỉ, đêm đi để giữ bí mật, đồng thời tránh máy bay địch. Ròng rã hơn 3 tháng chúng tôi mới tới địa điểm.
Trường Lục quân chia làm hai phân khoa. Phân khoa 1 đào tạo chỉ huy cấp trung đội, đại đội bộ binh, thông tin, pháo binh, công binh; Phân khoa 2 bổ túc cán bộ đại đội. Hiệu trưởng nhà trường là Thiếu tướng Lê Thiết Hùng, Chính ủy là Thiếu tướng Trần Tử Bình.
Tạ Đình Đề học ở Phân khoa 2. Anh học khóa 6 và học thêm khóa 7. Không rõ vì sao trong khi anh đang làm tốt nhiệm vụ chỉ huy Đội Biệt động Liên khu 3 lại được cử đi học liền hai khóa bổ túc?
Tạ Đình Đề đối với những người lính Khu 3 chúng tôi là một thần tượng. Nghe tiếng anh, chúng tôi chỉ muốn được gặp anh, được trò chuyện cùng anh. Tôi hình dung anh là một hiệp khách trong tiểu thuyết Trung Quốc, cao to, đôi lông mày xếch, mặt hung dữ, tiếng nói như sấm vang, phi ngựa, múa đao, hai tay hai súng, bắn gục kẻ thù xa hàng trăm mét nhanh như chớp!
Huân chương Độc lập hạng 3 của Chủ tịch nước truy tặng ông Tạ Đình Đề
Nhưng không, gặp anh chúng tôi thấy anh nhỏ nhắn, với nước da màu đồng, trông hiền từ như người nông dân quê tôi sau một ngày cày sâu, cuốc bẫm. Chỉ có đôi mắt anh thật sắc và con người anh hoạt bát, nhanh nhẹn. Anh cũng như chúng tôi vác khẩu Trung chính thất cửu dài nghêu, cùng chiếc nón sơn vàng, có chữ Bát Nhất đỏ chói.
Chúng tôi chỉ được gặp nhau trong những ngày kỷ niệm hoặc họp toàn trường, trên sân vận động gần Hiệu bộ. Những ngày chủ nhật cũng không được gặp mặt nhau, vì phải tăng gia cho đủ chỉ tiêu nạp cho nhà bếp.
Mỗi khi gặp nhau, bọn lính trẻ chúng tôi ngồi quây lấy anh. Gặp chúng tôi anh rất vui. Hầu như những người lính Khu 3 chúng tôi có mặt ở đây, làm anh nhớ tới những chiến sĩ trong Đội Biệt động Liên khu 3 do anh chỉ huy, đang tung hoành ngang dọc trong nội thành Hà Nội.
Anh nói với chúng tôi - Các cậu là những chỉ huy các đơn vị Tổng phản công. Học nhanh lên anh em ta sẽ trở về giải phóng Hà Nội. Đây là nguyện ước của tất cả mọi người. Những bài hát "Tiến về Hà Nội" của Văn Cao, “Ai về thủ đô tôi gửi vài lời..." của Huy Du, thường đọng trên môi mỗi người dân kháng chiến.
Chúng tôi mường tượng, giải phóng thủ đô là đuổi Tây ra khỏi đất nước, là hoàn thành thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước.
Mỗi lần gặp nhau, chúng tôi muốn biết sự thực về những chuyện người ta đồn thổi về anh. Anh cười đôn hậu. Các cậu đừng nghe người ta đồn! Chuyện bịa đấy! Chúng tôi hỏi anh về chuyện bắn súng hai tay như một. Nghe nói, anh có thể bắn cụt điếu thuốc lá trên môi người đang hút và bắn tan cái cốc đặt trên đầu người cách xa 50mét! Chuyện giết nhiều tên mật thám, Việt gian trong thành Hà Nội!...
Anh giải thích: Cách mạng là thuyết phục, là giáo dục, cải tạo con người. Ngoài những trận đánh cùng bộ đội, mình chưa hề bắn ai, giết ai trong nội thành Hà Nội. Các chiến sĩ biệt động giết địch thì có. Đôi khi lấy danh nghĩa Tạ Đình Đề viết thư cảnh cáo những tên ác ôn, tay sai của giặc làm thiệt hại cho kháng chiến.
Những lá thư cảnh cáo đó thường được gài vào khe cửa, dán lên tường nhà những tên ác ôn, với chữ ký: Ông Đề. Việc đó, có tác dụng làm chùn tay những tên ác ôn. Nhiều tên tự giác thú tội và tình nguyện làm việc cho kháng chiến.
Còn chuyện bắn súng. Hồi học ở Trường Quân sự Quế Lâm, Trung Quốc, sau nhà ở là bãi tập bắn. Nơi đó, có đủ các loại súng Pạc-khoọc, Brao-ninh, Mô-de... kể cả trung liên, đại liên... có thể bắn thoải mái bất kể lúc nào, ban ngày, ban đêm... với mọi tư thế nằm, ngồi, bắn sau lưng, bắn trong lúc hành tiến...
Ban đêm đốt nén hương bắn trúng điểm hồng. Nghe tiếng động, vẩy súng trúng mục tiêu sau lưng. Phi ngựa bắn trúng mục tiêu gần trăm mét... Vì vậy, mà bắn giỏi, thế thôi. Tôi cũng như các cậu, cũng là con người bằng xương bằng thịt, bố mẹ đẻ ra, có gì là ghê gớm lắm đâu!
Tôi nghỉ hưu năm 1991 sinh hoạt trong Ban liên lạc Cựu chiến binh Tây Tiến. Lúc này, tôi mới được gặp anh trong những lần sinh hoạt cựu chiến binh hằng năm. Và, cũng lúc này, tôi mới được biết anh rời bộ đội trở về với nghề cũ làm việc tại Tổng cục Đường sắt từ tháng 10/1954. Có nghĩa là ngay sau những ngày giải phóng thủ đô, anh đã rời quân ngũ, nơi mà anh hằng gắn bó, yêu thương.
Về Tổng cục Đường sắt, anh trải qua các chức vụ: Chủ nhiệm Tổng kho Biên giới Lạng Sơn, Trưởng đoạn Đầu máy Hà Nội, Trưởng ban Thể dục - Thể thao, kiêm Giám đốc Nhà máy Dụng cụ cao su Đường sắt - nhiều người thường gọi là Xưởng sản xuất dụng cụ thể thao Tổng cục Đường sắt. Anh nghỉ hưu tháng 2/1991 với mức lương cán sự 3!!!
Tôi được nghe anh Hoàng Sinh, thư ký của Khu trưởng Hoàng Sâm kể:
- Hồi ở Liên khu 3, thấy chúng tôi lau mấy khẩu Brao-ninh, Van-te... mới được cấp phát khá thành thạo. Liên khu trưởng vui lắm. Ít lâu sau, chừng muốn thử súng mới, lại đúng dịp xạ thủ nổi tiếng Tạ Đình Đề có mặt ở Bộ tư lệnh Liên khu, báo cáo tình hình Biệt động đội thành phố Hà Nội, anh Sâm gọi xạ thủ Tạ Đình Đề ra thi bắn.
Chúng tôi được cử làm trọng tài chứng kiến cuộc thi bắn không hẹn trước này. Mục tiêu là chùm sung rừng cách xa 20m. Mỗi người bắn 3 viên. Kết quả xạ thủ Tạ Đình Đề thua điểm.
Tôi vẫn khâm phục Tạ Đình Đề về tài bắn súng. Hầu như trong tôi, anh là xạ thủ bắn súng ngắn duy nhất mà tôi tôn thờ. Tôi hỏi anh chuyện thi bắn với Khu trưởng Hoàng Sâm. Anh chỉ cười tủm tỉm.
Đồng đội, bạn bè vẫn nhớ về anh

Mỗi lần gặp nhau, chúng tôi muốn biết sự thực về những chuyện người ta đồn thổi về anh. Anh cười đôn hậu. Chúng tôi hỏi anh về chuyện bắn súng hai tay như một. Nghe nói, anh có thể bắn cụt điếu thuốc lá trên môi người đang hút và bắn tan cái cốc đặt trên đầu người cách xa 50mét! Chuyện giết nhiều tên mật thám, Việt gian trong thành Hà Nội!...
Được trả tự do ngay tại tòa án
Tháng 8/1985, Tạ Đình Đề lại bị bắt lần thứ hai, ngày 3/9/1987, Tòa án nhân dân Hà Nội mở phiên tòa xét xử Tạ Đình Đề với 34 tội danh. Mấy ngày tòa xử, là mấy cơn "địa chấn" dữ dội ở Tòa án Hà Nội. Người từ Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Hà kéo lên, người từ các công xưởng, phố xá ùn ùn kéo tới... đứng tràn cả ra đường Lý Thường Kiệt.
Ông Tạ Đình Đề (phải)
với Thượng tướng, GS Hoàng Minh Thảo
Phiên tòa xử Tạ Đình Đề lần này cũng như lần trước. Tòa không luận được tội trạng của Tạ Đình Đề. Tội tập hợp những phần tử xấu lưu manh, trộm cắp thì hàng trăm công nhân con thương binh, liệt sĩ, những tù nhân đã được cải tạo mãn hạn tù, những chiến sĩ bộ đội hoàn thành nghĩa vụ quân sự bị thất nghiệp... được anh dung nạp, đều là những người tốt.
Nhiều anh em công nhân vừa làm, vừa học trở thành bác sĩ, kỹ sư, giám đốc, trở thành nhạc sĩ, như Phan Lạc Hoa, Lưu Quang Vũ. Không hề tìm thấy dấu vết một người trong số đó thoái hóa, biến chất. Việc làm của Giám đốc đều vì công việc, vì nhà máy, vì mọi người. Tòa không đủ chứng cứ kết tội.
Các tội vi phạm khác, đều bị luật sư tình nguyện bảo vệ Tạ Đình Đề, dùng luật bác bỏ. Điều lạ, luật sư bảo vệ cho Tạ Đình Đề là luật sư không chuyên.
Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải Dương Bạch Liên trong công văn gửi Tòa án cũng khẳng định: "...Có nhiều việc liên quan đến Bộ, đến Tổng cục Đường sắt chịu trách nhiệm, Giám đốc xưởng Dụng cụ cao su Tổng cục Đường sắt không tự ý làm...”.
Hội đồng xét xử tuyên bố Tạ Đình Đề không phạm tội. Tạ Đình Đề được trả tự do ngay tại tòa. Tòa kiến nghị Tổng cục Đường sắt phục hồi quyền lợi mọi mặt cho bị cáo!
Lời tuyên bố của tòa được truyền qua loa phóng thanh. Tiếng của Chánh án chưa dứt thì tiếng vỗ tay, hoan hô vỡ òa như sấm. Người ta ào vào công kênh Tạ Đình Đề lên vai, rồi tặng anh những bó hoa. Chính những chiến sĩ công an vừa khóa tay Tạ Đình Đề, lại là người dẫn đầu mở lối cho anh ra với bà con, bè bạn!
Anh được đồng đội ùa ra đón, Tạ Đình Đề không hiểu mình khóc hay cười.
Trong lúc Tạ Đình Đề vướng vòng tai ương thì vợ anh, chị Đặng Thị Thọ, người phụ nữ phúc hậu trằn lưng gánh vác việc gia đình, xã hội. Sống trong thời kỳ sổ gạo, tem phiếu... tiêu chuẩn của anh, của chị và con anh bị cắt hết, gia đình sống rất chật vật, thiếu thốn.
Chị cắn răng, bán căn nhà số 2 phố Hàng Ngang của cha ông để lại nuôi dạy con cái, tiếp tế cho chồng! Nhưng chị đã vượt qua tất cả khó khăn để đứng vững trong cuộc sống và luôn luôn tin tưởng vào sự vô tội của anh...
Khi hay tin, tôi được Ban Liên lạc Bộ đội Tây Tiến phân công viết về anh. Nhiều anh em gọi tôi tới cung cấp tài liệu về Tạ Đình Đề. Cũng có người hỏi: Chuyện Tạ Đình Đề đã rõ, đã được tổ chức minh chứng, công khai. Sao bây giờ mới viết?
Tôi nói, Tạ Đình Đề có nhiều điều bí ẩn về cuộc đời, về công việc anh làm. Ngày trước có thể tổ chức chưa hiểu hết về anh và còn một số điều "ràng buộc" khác viết khó được đăng lắm!
Lời kết
Một ngày đầu thu năm 1998, Tạ Đình Đề về cõi vĩnh hằng, đem đi biết bao chuyện như huyền thoại của cuộc đời anh. Thể theo nguyện vọng của bè bạn, đồng đội, anh em và của gia đình, thi hài anh được quàn tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng. Nơi đó, không gian rộng rãi hơn, trang trọng hơn.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo (Thứ ba từ phải sang) cùng các bạn chiến đấu trong buổi lễ truy tặng Huân chương Độc lập hạng 3
cho đ/c Tạ Đình Đề.
Bạn bè, đồng đội, học trò, bà con Hà Nội đến đưa tiễn anh khá đông. Những chiến sĩ Biệt động Hà Nội râu tóc bạc phơ, chống gậy đến nhìn anh lần cuối. Các chiến sĩ Liên khu 3: Trung đoàn 52 Tây Tiến, Trung đoàn 66 Chủ lực của Liên khu, Trung đoàn 48 Thăng Long... đều cử đại diện đến đưa tiễn anh. Người ta còn thấy các vị tướng từng công tác, chiến đấu cùng anh: Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Trung tướng Nguyễn Hòa..
Chỉ tiếc Lưu Quang Vũ, Phan Lạc Hoa, nhiều anh em được anh cưu mang trong lúc khó khăn, trong lúc bệnh tật hiểm nghèo không có mặt tiễn anh.
Ban tổ chức tang lễ tiễn đưa anh hôm đó là Tổng cục Đường sắt. Song, người đọc điếu văn lại là Thiếu tướng Văn Phác. Bài điếu văn của Thiếu tướng Văn Phác, nguyên Chủ nhiệm Chính trị Bộ đội Tây Tiến, nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hóa, nguyên Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Hà Nội tiễn Tạ Đình Đề về nơi an nghỉ cuối cùng khá dài, xúc động. Tôi chỉ nhớ đoạn cuối của bài điếu:
“...Anh Tạ Đình Đề ơi! Xin anh hãy yên nghỉ cùng với những chuyện như huyền thoại đẹp về anh...".
Có lẽ không có lời nào để bạn bè, đồng đội, bà con Liên khu 3 nhớ về anh hay hơn thế!
Và, sau 9 năm anh mất, căn cứ vào thành tích tham gia kháng chiến chống Pháp và xây dựng đất nước của anh, ngày 11/5/2007 Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký Quyết định truy tặng Tạ Đình Đề Huân chương Độc Lập hạng Ba
  • Nguồn: ANTG, 04.03.2008 và 10.03.2008.