Hiển thị các bài đăng có nhãn TÌNH BÁO. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn TÌNH BÁO. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2021

Những đòn nghi binh chết người

Tại phiên họp ngày 18-2-1975, chính Tổng Thống Thiệu tái xác định khả năng địch có thể tấn công Pleiku ở Vùng II. Ðiều này càng làm cho Tướng Phú thêm tin tưởng là ông đã nghĩ đúng về mục tiêu tấn công sắp tới của miền Bắc.

Ðầu tháng 2-1975, một đơn vị của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh QLVNCH bắt được 1 binh sĩ miền Bắc tại một địa điểm ở phía Tây tỉnh Bình Ðịnh, gần đèo An Khê. Qua thẩm vấn được biết binh sĩ này đã tháp tùng viên tư lệnh của Sư đoàn 3 miền Bắc đi thám sát đèo An Khê. Trong mình binh sĩ này có giữ một bản đồ ghi rõ các địa điểm mà Sư đoàn 3 dự định sẽ đóng chốt để cắt đứt Quốc Lộ 19 là con đường huyết mạch nối liền Qui Nhơn (tỉnh lỵ của tỉnh Bình Ðịnh) với Pleiku. 

Cùng lúc đó, phòng 2 của Quân đoàn II cũng nắm được tin Sư đoàn 968 của miền Bắc đang đóng tại Lào đã di chuyển sang lãnh thổ VNCH. Tướng Phú tin rằng những người Cộng sản đang chuẩn bị tấn công Pleiku, và ông đã ra lệnh cho Trung Ðoàn 47 của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh đến trấn giữ đèo An Khê. 

Những đòn nghi binh chết người - 1

Đèo An Khê trên Quốc lộ 19 nối Quy Nhơn với Pleiku

Lý do Trung đoàn 47 được giao cho nhiệm vụ này vì sĩ quan Trung đoàn trưởng, Trung tá Lê Cầu, là người rất quen thuộc địa hình vùng đèo An Khê. Ông đã từng chiến đấu tại đây trong trận Tổng tấn công mùa hè 1972. 

Trong suốt tháng 2-1975, các đơn vị miền Bắc hiện diện trong vùng liên tục pháo kích Kontum và Pleiku cũng như đánh phá các chốt bảo vệ đèo An Khê trên Quốc Lộ 19 của Trung Ðoàn 47. 

Các đơn vị này do 2 Sư Ðoàn F10 và 320 để lại nhằm thực hiện kế hoạch nghi binh, còn toàn bộ 2 sư đoàn này đã di chuyển xuống phía Nam để chuẩn bị tấn công Buôn Ma Thuột. Tất cả những hoạt động này của địch làm cho Tướng Phú càng thêm tin là Pleiku sẽ là mục tiêu chính của cuộc tấn công sắp tới của miền Bắc. 

Giữa tháng 2-1975, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Nguyễn Tú của báo Chính Luận, Tướng Phú đã nói ra tất cả những gì ông suy nghĩ và phân tích về cuộc tấn công sắp tới của địch. Ṓng tin rằng địch sẽ sử dụng một lực lượng cấp sư đoàn để cắt đứt Quốc lộ 19 trước khi tấn công Pleiku.

Những đòn nghi binh chết người - 2

Lính VNCH được điều động phòng thủ Quốc lộ 19 nối Quy Nhơn và Pleiku

Ngày 18-2-1975, Tướng Phú về Sài Gòn dự phiên họp với các tướng tư lệnh quân đoàn do Tổng Thống Thiệu triệu tập để duyệt lại kế hoạch phòng thủ cho năm 1975. Tại phiên họp này, chính Tổng Thống Thiệu tái xác định khả năng miền Bắc có thể tấn công Pleiku ở Vùng II. Ðiều này càng làm cho Tướng Phú thêm tin tưởng là ông đã nghĩ đúng về mục tiêu tấn công sắp tới của đối phương. 

Do đó, ông đã một lần nữa bác bỏ nhận định của Ðại tá Tiếu về khả năng địch sẽ tấn công Buôn Ma Thuột tại phiên họp của ban tham mưu Quân Ðoàn II ở Pleiku vào ngày hôm sau, 19-2-1975.

Ðầu tháng 3-1975, trước một số tin tình báo về các hoạt động của đối phương xung quanh Buôn Ma Thuột làm Tướng Phú có phần nao núng. Ngày 4-3-1975, ông ra lệnh cho Trung đoàn 45 của Sư đoàn 23 Bộ binh di chuyển về Buôn Ma Thuột. Việc di chuyển này sắp bắt đầu thì vào lúc 2 giờ trưa cùng ngày, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II tại Pleiku bị địch quân pháo kích, Tướng Phú ra lệnh hủy bỏ việc chuyển quân này. 

Những đòn nghi binh chết người - 3

Các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam giải phóng Chi khu Đức Lập trong Chiến dịch Tây Nguyên

Cùng ngày đối phương tấn công dữ dội vào các đơn vị của Trung đoàn 47 và cắt đứt Quốc lộ 19 tại hai nơi. Tướng Phú tin chắc là miền Bắc đã bắt đầu chiến dịch tấn công vào Pleiku. 

Việc chuyển quân của Sư đoàn 316 từ Bắc vào Nam cũng như của Sư đoàn 968 từ Lào sang Việt Nam, mặc dù được ngụy trang rất kỹ như đã trình bày bên trên, sau cùng vẫn bị SIGINT (tình báo tín hiệu) của QLVNCH phát hiện. 

Sau khi phân tích tín hiệu, và đánh giá, Phòng 7 BTTM QLVNCH nhận định quân đội VNDCCH sẽ tấn công Buôn Ma Thuột. 

Những đòn nghi binh chết người - 4

Bản đồ của Mỹ mô tả các mũi tấn công của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào Buôn Ma Thuột tháng 3/1975

Ngày 7-3-1975, 3 ngày trước khi trận Buôn Ma Thuột nổ ra, Chuẩn Tướng Phạm Hữu Nhơn, Trưởng phòng 7, BTTM QLVNCH, cùng với Tom Glenn là Trưởng đơn vị của Cơ quan An ninh quốc gia (National Security Agency – NSA) của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã bay lên Pleiku để đích thân báo cho Thiếu Tướng Phú về nhận định của Phòng 7 là đối phương sẽ tấn công Buôn Ma Thuột (cuộc họp này có mặt cả Ðại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 của Quân đoàn 2) nhưng Tướng Phú vẫn không tin. 

Ngay cả vào lúc 10 giờ sáng ngày 9-3-1975, sau khi Thuần Mẫn, thuộc tỉnh Phú Bổn, đã mất, và Ðức Lập, thuộc tỉnh Quảng Ðức cũng đã bị chiếm, ông bay xuống Ban Mê Thuột để họp với các đơn vị trưởng tại đây để duyệt xét tình hình, Tướng Phú vẫn còn tiếp tục nghĩ và tin là tất cả chỉ là nghi binh. Ông vẫn chờ cuộc tấn công vào Pleiku, một cuộc tấn công chẳng bao giờ xảy ra.

Sáng sớm ngày hôm sau, 10-3-1975, trận tấn công vào Buôn Ma Thuột nổ ra và chỉ trong 2 ngày toàn bộ thị xã này đã lọt vào tay VNDCCH.

Những đòn nghi binh chết người - 5

Ngày 11/3/1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam giải phóng Buôn Ma Thuột

QLVNCH thua trận Buôn Ma Thuột không phải vì tình báo yếu kém mà rõ ràng là do Tướng Phú, Tư lệnh Quân đoàn II bị định kiến quá nặng nề. 

Việc phản công tái chiếm Buôn Ma Thuột đã không thể thực hiện được. Và đó là một trong những lý do đưa đến quyết định triệt thoái Quân đoàn II rất tai hại của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong phiên họp định mệnh ngày 14-3-1975 tại Cam Ranh.

Khám phá

Việt Nam Cộng hòa đã chủ quan ở Buôn Ma Thuột

Trước khi cuộc tấn công nổ ra, những hoạt động tình báo của hai bên đã diễn ra như thế nào và phía VNDCCH đã làm gì để chuẩn bị cho cuộc tấn công?

Việc VNDCCH quyết định tấn công Buôn Ma Thuột thay vì Pleiku một phần lớn là do họ đã nắm được tin tức về buổi họp của Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia của VNCH vào 2 ngày 9-10 tháng 12/1974. Toàn bộ kế hoạch phòng thủ cho năm 1975 của Ðại Tướng Cao Văn Viên trình bày tại buổi họp đã được một điệp viên thuộc loại “trường kỳ mai phục,” làm việc ngay trong văn phòng của Tướng Viên tại BTTM QLVNCH, báo cáo đầy đủ về Hà Nội.

Việt Nam Cộng hòa đã chủ quan ở Buôn Ma Thuột - 1

Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH

Trong khi đó, nội bộ ban tham mưu của Quân Ðoàn II lại không đồng ý với nhau về mục tiêu tấn công của miền Bắc tại Vùng II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn II tin rằng họ sẽ tấn công Pleiku, trong khi đó thì Ðại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 (phụ trách về tình báo) của Quân Ðoàn II thì lại tin là miền Bắc sẽ tấn công Buôn Ma Thuột. 

Việc Tướng Phú không tin vào nhận định của Ðại Tá Tiếu có thể do 3 lý do. Thứ nhất, Tướng Phú tin tưởng và dựa vào kế hoạch phòng thủ năm 1975 của BTTM như đã trình bày trên.

Thứ hai, sự tin tưởng này của Tướng Phú được tăng cường thêm sau buổi họp ngày 18-2-1975 tại Sài Gòn để duyệt lại kế hoạch phòng thủ 1975 này và chính Tổng Thống Thiệu lưu ý ông việc Cộng quân có thể sẽ đánh Pleiku. Chính vì vậy, trong buổi họp ngày hôm sau, 19-2-1975, tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn ở Pleiku, ông đã một lần nữa bác bỏ báo cáo của Ðại Tá Tiếu về khả năng tấn công Buôn Ma Thuột dựa trên những tin tình báo mới.

Thứ ba, khi nhận chức Tư Lệnh Quân Ðoàn II, Tướng Phú không chọn được những sĩ quan thân tín của mình mà phải chấp nhận những sĩ quan đang phục vụ trong bộ tham mưu của Quân Ðoàn (trong đó có Ðại Tá Tiếu).

Việt Nam Cộng hòa đã chủ quan ở Buôn Ma Thuột - 2

 Tướng Phạm Văn Phú

Về phía VNDCCH, dựa vào kế hoạch phòng thủ năm 1975 của VNCH mà họ đã nắm được cộng thêm việc bố trí lực lượng phòng thủ dày đặc của Quân Ðoàn II ở phía Bắc của Vùng II, họ thấy rõ là Tướng Phú tin rằng họ sẽ tấn công Pleiku. Do đó, họ cố gắng làm mọi động tác giả để đánh lừa Tướng Phú, làm cho ông tin rằng ông đã tính toán đúng là họ sẽ đánh Pleiku chứ không phải Buôn Ma Thuột.

Nhìn chung, những người Cộng sản đã lại áp dụng phương thức mà họ đã từng sử dụng trong lúc chuẩn bị trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân để đạt được mục tiêu này. Phương thức đó gồm 2 phần: 1) Bảo mật tối đa về mục tiêu thật của trận tấn công là Buôn Ma Thuột; và, 2) Thực hiện môt số động tác giả để đánh lừa đối phương khiến cho đối phương tin là mục tiêu thật của trận tấn công sẽ là Pleiku-Kontum.

Việt Nam Cộng hòa đã chủ quan ở Buôn Ma Thuột - 3

Tóm tắt Chiến dịch Tây Nguyên

Về phương diện bảo mật, rút kinh nghiệm từ trận Mậu Thân, mục tiêu Buôn Ma Thuột của trận tấn công được giữ kín tối đa. Các tư lệnh tại mặt trận chỉ được biết vào cuối tháng 1-1975, và tư lệnh các đơn vị sẽ tham gia tấn công chỉ được thông báo từ đầu tháng 2-1975. 

Hà Nội cũng quyết định giữ nguyên các đơn vị đang có mặt ở phía Bắc của Vùng II (Pleiku-Kontum) là các Sư Ðoàn 2, Sư Ðoàn 3, Sư Ðoàn F10 và 2 Trung Ðoàn độc lập 25 và 95A, và ra lệnh cho các đơn vị đó tăng cường các hoạt động đe dọa vùng này. 

Trong khi đó, các đơn vị sẽ tham gia tấn công Buôn Ma Thuột đều là các đơn vị trừ bị đang đóng quân tại Lào hay tại Bắc Việt được bí mật di chuyển vào các vị trí chung quanh Buôn Ma Thuột để chuẩn bị tấn công. 

Sư Ðoàn 316, đơn vị chủ lực của trận tấn công vào Buôn Ma Thuột, trước kia chỉ hoạt động tại Lào, sau đó được điều dộng trở về Miền Bắc, đã nhận được lệnh di chuyển vào Nam vào ngày 15-1-1975, nhưng để lại bộ phận truyền tin tại Miền Bắc để tiếp tục gửi đi các báo cáo nhằm đánh lừa các đơn vị SIGINT của QLVNCH. 

Khám Phá

Ông Cố vấn, điệp viên hoàn hảo và bí số H3

 Cụm A-22 gồm một số những người đã từng bị Ðoàn Công Tác Ðặc Biệt Miền Trung phát hiện và giam giữ tại Huế. Ðây là một sơ hở của ông Nhạ khiến cho CIA phát hiện được cụm A-22 và lập hồ sơ chuyển giao cho Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam. Giữa tháng 7-1969, tất cả 42 người hoạt động cho Cụm A-22 đều bị bắt và đưa ra toà xét xử vào tháng 11-1969. Ðây là một vụ án gián điệp rất nghiêm trọng gây chấn động trong chính trường của VNCH vì các bị cáo đều là người có chức vụ khá cao trong chính phủ như sau:

- Vũ Ngọc Nhạ: “Cố vấn” bán chính thức của Tổng Thống Thiệu

- Huỳnh Văn Trọng: Cố vấn về đối ngoại của Tổng Thống Thiệu

- Vũ Hữu Ruật: Tổng Thư Ký của Ðảng Dân Chủ, Thành bộ Sài Gòn

- Lê Hữu Thúy: Công Cán Ủy Viên Bộ Thông Tin – Chiêu Hồi

- Nguyễn Xuân Hòe: Công Cán Ủy Viên Phủ Tổng Thống

- Hoàng Hồ: Dân Biểu Quốc Hội (đã bỏ trốn; sau đó Quốc Hội đã bỏ phiếu truất quyền)  

Ông Cố vấn, điệp viên hoàn hảo và bí số H3 - 1

Huỳnh Văn Trọng (giữa) và Vũ Ngọc Nhạ đùa vui sau khi lãnh án 20 năm

Vũ Ngọc Nhạ bị kết án tù chung thân và đưa ra Côn Ðảo. Năm 1973, sau Hiệp Ðịnh Paris, Nhạ được trao trả cho miền Bắc. Sau năm 1975, Nhạ công tác tại Cục 2 (cơ quan phụ trách tình báo của Việt Nam) với cấp bậc Thượng tá và sau đó thăng lên Ðại tá. Năm 1988, ông được thăng cấp Thiếu Tướng. Ông Nhạ mất ngày 7-8-2002 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Người điệp viên nổi tiếng nhất của Miền Bắc hoạt động tại Miền Nam là Phạm Xuân Ẩn. 

Ông Cố vấn, điệp viên hoàn hảo và bí số H3 - 2

“Điệp viên hoàn hảo” Phạm Xuân Ẩn

Khác với Phạm Ngọc Thảo và Vũ Ngọc Nhạ, ông Ần đã tạo được kỳ tích là hoạt động trong suốt mấy chục năm mà hoàn toàn không bị phát hiện hay tạo ra nghi ngờ gì cả trong giới tình báo Hoa Kỳ và VNCH. 

Phạm Xuân Ần sinh ngày 12-9-1927 tại Biên Hòa, học tiểu học tại Trường Tiểu học Marc Ferrando ở Sài Gòn, học trung học ở Cần Thơ. Năm 1954 ông bị động viên và làm việc cho quân đội Pháp một thời gian. 

Ông là điệp viên duy nhất của Miền Bắc đã từng du học 2 năm (1957-1959) về ngành báo chí tại Ðại học Cộng Ðồng Orange Coast College, thuộc thành phố Costa Mesa, tiểu bang California, Hoa Kỳ. 

Nhờ vào đó, ông là một trong số rất ít người Việt Nam được nhận làm phóng viên cho các hãng truyền thông Anh Mỹ như Reuters, Time, Christian Science Monitor. 

Nhờ vỏ bọc này, Phạm Xuân Ần đã có giao thiệp rộng rãi với các nhà báo Mỹ, qua đó tạo được quan hệ rất tốt với nhiều giới chức Mỹ-Việt, và nhờ vậy đã cung cấp được cho Hà Nội nhiều tin tức tình báo chiến lược rất quan trọng. 

Sau năm 1975, ông được phong Thiếu Tướng, và được ban danh hiệu Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ông mất ngày 20-9-2006 tại Thành phố Hồ Chí Minh. 

Cuộc đời ông đã được ghi lại trong một cuốn sách thuộc loại bán chạy nhất (Best-seller) tại Hoa Kỳ của tác giả Giáo sư Chính Trị Học Larry Berman thuộc Ðại Học California, Davis với nhan đề là: Perfect spy: The incredible double life of Pham Xuan An, Time Magazine reporter and Vietnamese Communist agent (New York: Smithsonian Books, 2007). 

Một điều cũng đáng được lưu ý là cả 3 điệp viên nổi tiếng này của Miền Bắc, Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ và Phạm Xuân Ần, sau khi qua đời, đã được an táng gần nhau trong cùng nghĩa trang Lạc Cảnh tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài 3 điệp viên nổi tiếng trên mà phần đông mọi người đều có nghe nói đến, cũng nên kể đến một điệp viên thứ tư, ít người biết, là điệp viên H3, là một hạ sĩ quan, tên Nguyễn Văn Minh (sinh năm 1933, tại Hưng Yên, vào Nam sinh sống từ lúc còn nhỏ), làm việc ngay trong văn phòng của Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. 

Ông Cố vấn, điệp viên hoàn hảo và bí số H3 - 3

Sau năm 1975, H3 được phong quân hàm Ðại tá, và ban danh hiệu Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân. 

Nói chung, nhờ có được nhiều điều kiện thuận lợi hơn, Miền Bắc tương đối thành công hơn Miền Nam trong việc cài người xâm nhập vào hệ thống chính trị và quân sự của đối phương.

Khám Phá

Thứ Hai, 26 tháng 4, 2021

Chân dung Phạm Xuân Ẩn - Kỳ 1: 30 năm vẫn còn là bí mật

 

TTO - Peter Ross Range - “burô”, sếp của ông thời kỳ ở Việt Nam khi ông làm cho tờ Time đã nghĩ ra hẳn tên một cuốn sách để khuyến khích ông viết lại cuộc đời mình. Nếu không có câu chuyện của anh, một mảnh quan trọng của lịch sử sẽ bị thiếu - Peter viết - Không ai có một câu chuyện như anh để kể lại: làm việc trong một cơ quan báo chí Mỹ trong khi cung cấp tin tức cho miền Bắc. Không ai có một cuộc đời như đời anh, tham gia Việt Minh ở một lứa tuổi rất trẻ - Một câu chuyện lý thú biết bao!

Phạm Xuân Ẩn - Ông là ai?

Thiếu tướng tình báo, Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân Phạm Xuân Ẩn.sinh ngày 12-9-1927 tại Biên Hòa và mất ngày 20-9-2006 tại TP.Hồ Chí Minh, hưởng thọ 80 tuổi.

Những ngày này, trên các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, một số hãng thông tấn nước ngoài đều đưa tin nhà tình báo vĩ đại, tầm cỡ thế giới, nhà báo chuyên nghiệp đã ra đi.

Những nhân vật nổi tiếng thường chinh phục người khác bằng tài năng của chiến công, nghị lực và sức tỏa sáng từ phẩm chất của họ. Nhưng với Phạm Xuân Ẩn, hình như là một ngoại lệ. Trông bề ngoài ông cũng như bao người bình thường khác, thật khó phát hiện điều gì ẩn chứa bên trong.

Năm 2002, sau gần 10 năm tiếp cận ông Ẩn, nhà báo, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hải đã hoàn thành cuốn sách về ông với tựa đề Phạm Xuân Ẩn - Tên người như cuộc đời. Tác giả đã đi vào chiều sâu tinh tế rất khó lột tả về tư chất, phong thái, nghề nghiệp ở ông.

Vẻ thầm lặng đôi lúc hài hước của ông có cái gì đó rất đặc biệt. Cuốn sách đã phác họa chân dung với đầy đủ ý nghĩa cao quý của con người như lúc sinh thời ông Ẩn thường tâm niệm: Tôi chiến đấu cho độc lập và công lý xã hội.

Trong sách có đoạn viết: “Vị tướng đã yếu do bệnh và tuổi cao. Dáng đi của ông hơi còng xuống, do cao gầy, hay là do thân thể ấy đã mang vác một cuộc đời quá phong phú và gian truân. Chỉ vẻ mặt, đôi mắt to đen, thông minh và đôi tai to, người trong nghề nhạc gọi là đôi tai thẩm âm tốt, làm toát lên vẻ linh hoạt trẻ trung của một trí tuệ vẫn mạnh mẽ”.

Cùng chung một cảm nhận với nhà báo, nhà văn Ngọc Hải, năm 2005, Jean-Claude Pomonti, nhà báo Pháp kỳ cựu của nhật báo Le Monde, người nhiều năm quen biết, tác nghiệp cùng ông Ẩn đã viết cuốn sách về ông với tựa đề: Người Việt thầm lặng (Nhà xuất bản Editions des Equateurs) đánh giá rất cao phẩm chất làm báo của ông Ẩn. Hơn thế, từ vỏ bọc một nhà báo chuyên nghiệp ở văn phòng tạp chí Time, ông Ẩn đã làm nên sự bất ngờ, bởi chiến công của nhà tình báo chiến lược trong cuộc chiến tranh Việt Nam. “Phạm Xuân Ẩn, người Việt Nam mà phía Mỹ ưa chuộng nhất đã lừa chính quyền Hoa Kỳ từ đầu đến cuối”.

Với trên 200 trang sách, Phạm Xuân Ẩn - Tên người như cuộc đời, một cuốn truyện ký văn học của Nguyễn Thị Ngọc Hải lần đầu tiên đã giới thiệu con người này với công chúng. Sau đó có các nhà văn, nhà báo trong và ngoài nước đã và sẽ viết về ông. Nhưng với tác phẩm này, đã gây được dấu ấn đối với bạn đọc, đặc biệt trong giới chính trị, quân sự, tình báo và với những người viết văn. Cuốn sách đã đoạt giải thưởng loại A của “Giải thưởng văn học về đề tài Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống 1995-2005” do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức.

Rất nhiều bạn đọc đã đề nghị chúng tôi cung cấp thêm thông tin về con người vĩ đại mà bí ẩn này. Được sự cho phép của tác giả, chúng tôi xin giới thiệu lần lượt từng chương sách. Hy vọng với bút lực của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hải, bạn đọc sẽ được gặp gỡ Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn trong cuộc đời, như một con người bằng xướng bằng thịt.

.......................................

xdRaCUzO.jpg
TTO - Peter Ross Range - “burô”, sếp của ông thời kỳ ở Việt Nam khi ông làm cho tờ Time đã nghĩ ra hẳn tên một cuốn sách để khuyến khích ông viết lại cuộc đời mình. Nếu không có câu chuyện của anh, một mảnh quan trọng của lịch sử sẽ bị thiếu - Peter viết - Không ai có một câu chuyện như anh để kể lại: làm việc trong một cơ quan báo chí Mỹ trong khi cung cấp tin tức cho miền Bắc. Không ai có một cuộc đời như đời anh, tham gia Việt Minh ở một lứa tuổi rất trẻ - Một câu chuyện lý thú biết bao!

Peter thuyết phục một cách đầy hứng khởi. Ông ta còn đề nghị cái tựa cho quyển sách ấy: A man of honor: The life of Pham Xuan An.

Bây giờ Peter đi dạy học và viết sách: Khi Miền Nam giải phóng, ông ta về nước, dẫn theo cô bồ người Việt. Trong khoảng thời gian dài sau này hình như họ đã ly dị. Thì Phạm Xuân Ẩn, năm nay cũng đã ngoài 70, vẫn tính hài hước đặc sắc: “Thành họ nhà ma rồi còn gì” - Thời gian đang trôi nhanh. Nói như triết, thì chẳng có gì mất đi hết, mặc dù chẳng có cái gì tồn tại mãi. “Chuyển từ dạng này sang dạng khác”. Các yếu tố tinh thần có như vậy không? Nó có chuyển các đặc điểm của mình vào các thế hệ sau? Hay là nó mang đi theo các người già nằm xuống? Có người không chịu viết hồi ký, vì dù có khách quan đến mấy thì cũng viết về mình - Mà con người ta thường nhớ kỹ những điều hay, quên đi điều dở… Nhưng cuộc đời của vô số trong số họ, đã là tài sản tinh thần, là những số phận cụ thể không có viện bảo tàng nào giữ được, nếu họ không ghi lại… Rồi đến con cái cũng chẳng hiểu ngày xưa bố mẹ mình làm gì. Đó là những lý thuyết đối chọi nhau trong việc viết hồi ký.

Với Phạm Xuân Ẩn, lý do cũng mang đậm màu sắc khó tả: Ông không viết hồi ký, từ chối tất cả các cuộc gặp gỡ báo chí để viết về ông. Tuy nhiên ông sẵn sàng gặp với tư cách đồng nghiệp hay tình bạn. Vừa mang đặc điểm thận trọng của nghề tình báo, vừa là ý thích của một “ông già” tự thấy cần một cuộc sống thanh thản. Luôn tự trào, nhìn mọi việc bằng cái nhìn hài hước: “Chẳng có ông già nào không bảo thủ hết. Thay đổi là khó chịu. Dọn nhà là khổ. Tụi trẻ đang lên, anh này lấy cô kia, chẳng sợ thay đổi. Nó chưa trải. Hồi nhỏ mình bạt mạng, nay thấy con cái bạt mạng lại không cho. Thì mày trả giá bằng cuộc đời mày. Học bài người khác trả tiền hơn là học bài mình trả…”

Ông đã trải đời mình cùng với lịch sử kháng chiến của Việt Nam, là quân nhân trong ba quân đội khác nhau. Tham gia Vệ quốc đoàn khi 18 tuổi, bị trả về vì thiếu súng đạn, vũ khí lúc đó dành cho thành phần cơ bản. Ông hòa vào phong trào học sinh sinh viên Trần Văn Ơn tại Sài Gòn năm 1950.

Trở thành lính trong quân đội Pháp, không phải lính bộ binh, mà là bí thư cho trưởng phòng lo về chính trị trong quân đội. Khi hòa bình lập lại ở Đông Dương sau hội nghị Genève, Mỹ can thiệp dựng Ngô Đình Diệm với chủ trương phá hoại Hiệp định, không chịu tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam sau hai năm như đã ký kết. Mỹ đổ tiền của vào Việt Nam để giúp họ Ngô đứng vững. Ba cơ quan như cái trụ ba chân được thành lập: Phòng thông tin Mỹ (USIS), Quân sự (MAAG) và kinh tế hành chính (USOM). Đến năm 1962 USIS đổi tên là JUSPAO và MAAG lấy tên là MACV, USOM lấy tên là USAID. Ông Ẩn do có tiếng Anh và thạo nghề, nên lại trở thành nhân viên dịch thuật tại Bộ Tổng tham mưu, tham dự vào việc thành lập những sư đoàn đầu tiên do Mỹ tuyển chọn và đào tạo.

Năm 1957 ông là sinh viên Việt Nam đầu tiên đến học về báo chí ở quận Cam và sống ở California trong hai năm. Ngày nay trong cuốn niên giám của trường Đại học Columbia của Mỹ, ở trang 2 in hình và giới thiệu về chàng sinh viên Việt Nam với tên Pham An, như mọi cuốn kỷ yếu của các trường học. Nhưng không ai biết được ngoài việc học thực sự kiến thức, chàng sinh viên ấy đã trở thành Đảng viên Cộng sản từ năm 1953, được chính bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tuyển vào Chiến khu D từ 1952.

Sang Mỹ học, Ẩn còn có nhiệm vụ tìm hiểu về văn hóa Mỹ vì Đảng đã nhìn thấy sự dính líu sâu sắc của Mỹ đối với Việt Nam. Muốn chiến thắng kẻ thù này, việc đào tạo những người có điều kiện như Ẩn, “chuyển qua làm với Mỹ, phải được đào tạo trình độ phù hợp với yêu cầu của Mỹ”. Sau khi học ở Mỹ về, Phạm Xuân Ẩn hành nghề báo chí, từ Việt Tấn xã dưới thời Ngô Đình Diệm, cho tới làm phóng viên cho các hãng nước ngoài tại Việt Nam như Reuters, Time… Ông là người Việt Nam duy nhất vào biên chế của hãng nước ngoài với lương rất cao thời đó, 750 đô la một tháng. Phạm Xuân Ẩn hành nghề báo chí và trở thành ký giả thực sự có tên tuổi. Chỉ có điều khác lạ là ông còn trở thành một vị Thiếu tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Vì sao sau khi đất nước giải phóng, cả nước và thế giới biết rõ ông là tình báo, vậy mà người Mỹ trong giới báo chí hoạt động cùng thời với ông nay trở lại Việt Nam vẫn đem lòng tin tưởng và kính trọng ông? Đó là một nhân cách, một tài năng. Đời ông là một câu trả lời lớn cho nhiều câu hỏi vẫn làm đau đầu nhiều người bạn Mỹ của ông. Đến hôm nay họ quay lại đất nước này vẫn tìm ông để mong có câu giải đáp vì sao Mỹ thất bại ở Việt Nam. Vì sao một trí thức giỏi và sống có nhân cách theo “kiểu Mỹ” như ông Ẩn lại có thể là người đứng trong tổ chức chặt chẽ của Quân đội Nhân dân Việt Nam, của ngành tình báo vốn đầy hiểm nguy? Có những người Mỹ là bạn cũ trong giới báo chí của ông, nay đã mất nhưng dặn lại con cái họ sang Việt Nam hãy tìm đến ông Ẩn. Họ nói sẽ học được nhiều ở con người đó. Quả thật, cuốn sách viết về ông nên có tên là “Người có cuộc đời bí ẩn như cái tên” - chứ không cần đến cái tựa đề của Peter Ross Range đề nghị.

Bởi vì, cuộc đời ông không được ông viết ra bao giờ. Năm 1989, 14 năm sau ngày miền Nam giải phóng, Morley Safer chủ biên Chương trình 60 phút nổi tiếng của đài truyền hình CBS đã trở lại Sài Gòn, gặp ông Phạm Xuân Ẩn như người bạn làm báo cũ trong thời kỳ chiến tranh. Cuộc gặp gỡ này đã được viết thành hẳn một chương trong cuốn sách Hồi tưởng: Khi trở lại thăm Việt Nam của Morley Safer do Nhà xuất bản Random House xuất bản năm 1989.

Hãy xem dưới mắt nhà báo phương Tây, ông Ẩn đã hiện ra như thế nào:

“Phạm Xuân Ẩn đang đứng nơi cổng sắt đã mở sẵn với một cặp chó Đức kèm sát bên. Ẩn và những con chó thân yêu của anh ta. Anh ta thường dắt chó đi khắp nơi, hay uống café buổi sáng ở khách sạn Continental với con chó Đức thò cái mõm đen ra khỏi gầm bàn. Anh ta tiến về phía tôi, mở rộng vòng tay choàng ôm hôn, một cung cách ít thấy ở người Việt”.

Có lẽ Morley Safer đang sống lại những cảm xúc của một thời đã xa, khi họ còn làm báo ở Sài Gòn và Continental là nơi họ tụ họp mỗi buổi sáng vừa điểm tâm vừa trao đổi tin tức. Với Morley, lúc đó Ẩn là nhà báo thực thụ của tuần báo Time, người rất nhạy bén về các vấn đề thời cuộc, cả chính trị lẫn quân sự. Anh có nhiều mối quen biết quan trọng.

Lại lời Morley Safer: “Ở tòa báo Time anh được coi là người khôn khéo. Ẩn luôn luôn được giao nhiệm vụ thuyết trình cho nhóm phóng viên mới tới. Và cũng chính anh ta là người gỡ mối cho những vấn đề chính trị rối mù của chính giới Việt Nam lúc đó. Anh là người cởi mở, dấn thân và có óc hài hước, luôn được niềm nở tiếp đón trong các giới quân sự và ngoại giao Việt - Mỹ và cũng là một trong số rất ít ký giả Việt được cho phép tham dự các buổi thuyết trình hạn chế của phái bộ Mỹ”.

Khi Morley đến gặp Phạm Xuân Ẩn muốn có người cùng đi là Patti Hassler - nhà sản xuất Chương trình 60 phút vì Morley không muốn ghi chép như mọi lần hành nghề khác. Ông muốn có một nhân chứng cho cuộc gặp này, để mọi chi tiết đều được ghi nhớ. Morley đã bộc bạch cái cảm giác của người bình thường vẫn có khi bị làm nhân vật cho người khác phỏng vấn. Đấy là cảm giác rất thật mà dân nhà nghề đã quan sát được ở các nhân vật của mình. Thật chẳng an tâm chút nào khi đang nói mà có người ghi chép, hoặc dễ sợ hơn nữa là có người dùng máy ghi âm. Và Morley đã gặp ông Ẩn trong tư thế những bạn bè cũ cùng nghề, trao đổi về thời cuộc.

“Ẩn rất ít thay đổi” - Morley viết - “Nay đã 61 nhưng trông anh vẫn ở cái tuổi cách đây 30 năm. Có thể nói dáng anh vốn lòng khòng nay thêm gầy đi và khô đét…”

Morley nói ông Ẩn còn là một bí mật. Thật ra điều đó chỉ đúng với cảm giác của Morley, còn với người Việt Nam thì ông nếu có là một bí mật thì chỉ là vì ông ít bộc bạch cuộc đời mình. Người Việt Nam đều biết ông là Anh hùng tình báo, một Thiếu tướng được kính trọng. Không ai còn hỏi như Morley hỏi hôm đó: “Anh đang còn là một bí mật. Dân chúng vẫn chưa biết chắc là anh hoạt động cho phe nào. Vậy sự thật ra sao?”

“Ẩn cười lớn: Sự thật? Sự thật nào mới được chứ? Có một sự thật là trong 10 năm tôi là phóng viên cho tòa soạn tuần báo Time và trước đó làm cho hãng Reuters. Một sự thật khác nữa là tôi gia nhập phong trào cách mạng từ năm 1944 và là thành viên của họ từ đó với các chức vụ khác nhau. Hai sự thật, hai sự thật… đều thật”.

Trong cái nhìn của Morley, ông Ẩn là một sự bí ẩn, cũng khó giải thích và có những vấn đề chưa thể hiểu hết như chính cuộc chiến ở Việt Nam mà Mỹ thất bại. Vậy là đối với các ký giả Mỹ như thế này, nhiệm vụ của họ là “hai trong một”. Hiểu được những con người như Phạm Xuân Ẩn cũng có thể tiến gần tới việc hiểu vì sao Mỹ thua cuộc. Và nếu nghề nghiệp thúc đẩy họ với bản chất nghề báo “A nose for news” thì họ còn muốn biết hơn thế: Nhìn nhận con đường phát triển hiện tại của nước Việt Nam thông qua một con người đáng tin cậy. Ý muốn đó thôi thúc Morley do phẩm chất cá nhân, và cũng do sự khách quan của một ký giả lỗi lạc. Theo Morley, trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, chính ông Ẩn là người đã thuyết phục giới chức Mỹ đem đi di tản một số bạn hữu của mình rời khỏi Việt Nam. Ông Ẩn cũng thu xếp để vợ và 4 con lên máy bay, còn mình thì ở lại.

Nhà báo Morley sau gần 15 năm Sài Gòn được giải phóng, vẫn không hiểu làm thế nào ông Ẩn có thể giữ được bí mật tung tích riêng trong suốt thời gian đó. Ông Ẩn đã bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng ra sao? Ông phải làm nhiệm vụ gì trong suốt thời gian làm báo, và ông có “làm gì” trong báo Time không? Ông có cách nào chuyển tin tức đi? Ông có sợ mình bị phát hiện không? Điều gì xảy ra sau cái hôm mọi người di tản? Tại sao cuộc cách mạng lại còn nhiều điều chưa thành công trong cải cách? Người ta có rình rập ông không? Ông có được quyền ra đi không? Ông có bao giờ hối tiếc về những điều đã làm và bây giờ ông đã thấy kết quả?...

Chỉ xem qua những câu Morley hỏi cũng đủ biết người Mỹ còn vất vả, thậm chí có những điều họ sẽ không sao hiểu hết trong mọi câu trả lời của Phạm Xuân Ẩn. Dĩ nhiên, ông không trả lời theo công thức hoặc ít ra cũng là để “giữ mình” một cách cần thiết. “Tại sao cuộc cách mạng gặp những thất bại?” Morley hỏi về những suy thoái và khó khăn trong cải cách hiện nay. Ông Ẩn không “sửa gáy” người hỏi để giữ cho mình “có lập trường”. Ông đã nói thẳng thắn như xưa nay phân tích thực chất các hiện tượng một cách khách quan. “Có nhiều lý do. Có quá nhiều lỗi lầm chỉ vì sự dốt. Như mọi cuộc cách mạng, chúng tôi gọi đây là cuộc cách mạng nhân dân, nhưng dĩ nhiên chính nhân dân là thành phần đầu tiên chịu khốn khổ”.

Ông cũng không ngại ngần nhận định: “Khi nào mà dân chúng còn ngủ đầu đường xó chợ thì khi đó cuộc cách mạng còn thất bại. Không phải do giới lãnh đạo là những người tàn nhẫn, nhưng đó là hậu quả của chính sách cha chú của nhân dân cũng như các lý thuyết lỗi thời về kinh tế”. Morley nhận thấy còn nhiều người nằm vỉa hè khi ông tản bộ trên đường phố Sài Gòn vào ban đêm. “Khi tôi đề cập điều này thì Ẩn có vẻ bối rối như là chính anh đã tiếp tay cho tấn thảm kịch. Tôi nghĩ, theo một nghĩa nào đó anh ta đã có sự liêm khiết để biết hổ thẹn”.

Khi nghe ông Ẩn nhận xét về “những thất bại của cách mạng”, nhà báo Mỹ không khỏi bật ra câu hỏi: “Anh không ngại phải nói thẳng ra như vậy sao? Có nguy hiểm không?”

Ông Ẩn đã nói rằng mọi người đều biết ông nghĩ gì, vì ông không giấu giếm những suy nghĩ trung thực của mình. Không phải bây giờ, mà là từ ngày xưa, từ bản chất. Ông nhắc lại cho Morley nhớ cái thời họ cùng làm báo ở Sài Gòn trước 1975: “Thời Thiệu, chính quyền ấy biết rõ là tôi nghĩ gì về bọn trộm cắp ấy. Tôi đã quá già để có thể thay đổi”. Ẩn cười lớn: “Tôi cũng quá già để mà câm miệng lại”.

Trả lời cho câu hỏi: “Trong những năm hoạt động đó anh có sợ mình sẽ bị phát hiện không?” Ông Ẩn bộc bạch không lên gân giả dối: ông nói mình sợ thường xuyên. Bởi luôn có nguy hiểm. “Anh đã biết vào khoảng những năm 60 có tin đồn tôi làm việc cho CIA. Tôi muốn duy trì những tin đồn như vậy vì nghĩ rằng điều ấy sẽ che chở tôi phần nào. Nhưng dĩ nhiên về sau điều này trở thành một đe dọa. Tôi hoạt động trong phạm vi an ninh rất chặt chẽ, rất ít người biết được hoạt động của tôi. Vào khoảng những năm 70 khi chính quyền Sài Gòn ngày càng tồi tệ, tôi sợ rằng kkhi tình hình suy sụp, tôi sẽ chẳng có thì giờ đâu để giải thích với mấy cậu lính giải phóng trẻ với cây AK.47 trên tay rằng tôi là đại tá trong quân đội của họ. Tôi thường nói với mọi người: Có lẽ tụi nhỏ đó sẽ giết tôi đồng thời nướng sống mấy con chó của tôi nữa”.

Những mối lo rất thực tế ấy càng chứng tỏ thêm nhiều hoàn cảnh phức tạp mà nghề tình báo luôn gặp phải. Vậy mà Morley cho rằng những giải thích của ông Ẩn không làm sáng sủa gì hơn mà lại càng khiến ông thêm bí ẩn. “Anh có hối tiếc gì về điều đã làm không? Và bây giờ anh đã thấy kết quả?” Câu hỏi này được đặt ra sau khi Morley đã hỏi ông Ẩn về những ngày đầu sau giải phóng “Ẩn ở trong trại… không phải trại cải tạo nhưng là một trại đặc biệt gần Hà Nội dành cho các “đồng chí” có thể đã bị nhiễm độc vì quá gần gũi với người Mỹ”.

Ông có phút giây nào hối tiếc không? “Tôi ghét câu hỏi đó, tôi đã tự hỏi tôi câu hỏi ấy hàng ngàn lần. Nhưng tôi lại càng ghét câu trả lời hơn nữa. Không, không hối tiếc. Tôi phải làm như vậy. Hòa bình mà chúng tôi giành được có thể phải trả giá bằng sự khốn khổ của xứ sở này nhưng chiến tranh cũng đã giết chết bao nhiêu sinh linh. Cho dù tôi yêu nước Mỹ đến như thế nào, Mỹ không thể có quyền gì ở đây. Bằng cách này hay cách khác người Mỹ cũng bị đẩy ra khỏi Việt Nam. Chúng tôi phải tự chọn cách xây dựng xứ sở mình”. Đó là những câu kết trong một chương sách của Morley.

(còn tiếp)...nguyễn thị ngọc hải

Chân dung Phạm Xuân Ẩn - Kỳ 4: Những "đồng chủ nhân" trong vườn

 

TTO - Cả một “thế giới nhộn nhịp”, thăm dò nhau, ngó nghiêng, chim, kiến, sóc… Ông Ẩn, chờ đón, xem xét, lặng lẽ để thức ăn ra hàng ngày cho chúng đến ăn rồi lại đi. Chúng là những "đồng chủ nhân" trong mảnh vườn nhỏ với người đàn ông cao gầy có bộ óc và cuộc đời của một triết gia, suốt đời cận kề với hiểm nguy, sống chết. Thấu hiểu cuộc đời trong cả nghĩa đen của sự sống...

IoCF9lIv.jpg
Phạm Xuân Ẩn tại Mỹ (1957-1959)
TTO - Cả một “thế giới nhộn nhịp”, thăm dò nhau, ngó nghiêng, chim, kiến, sóc… Ông Ẩn, chờ đón, xem xét, lặng lẽ để thức ăn ra hàng ngày cho chúng đến ăn rồi lại đi. Chúng là những "đồng chủ nhân" trong mảnh vườn nhỏ với người đàn ông cao gầy có bộ óc và cuộc đời của một triết gia, suốt đời cận kề với hiểm nguy, sống chết. Thấu hiểu cuộc đời trong cả nghĩa đen của sự sống...

Chiếc cổng sắt lúc nào cũng đóng kín, có một cái chuông cũng đặc biệt: không nhấn nút cho reo, mà giật vào sợi dây dài. Một cái chuông nhỏ ở đâu đó kêu leng keng lạ tai. Có lẽ vì vậy mà thỉnh thoảng đám con nít đi qua cổng “ngứa tay” lại giật chơi. Chúng tưởng rằng chỉ có bầy chó sẽ xô ra sủa mà không biết rằng mỗi lần như thế, có rất nhiều “nhân vật” kinh động. Không phải chỉ có chủ nhà...

Thông thường, ở Sài Gòn thời mở cửa, bắt đầu cuộc làm ăn thị trường sôi động, nhà mặt tiền trên phố thế này chẳng ai không nghĩ cách tận dụng, xoay ra tiền bạc. Ngôi nhà của ông là một biệt thự hạng thường mà theo miêu tả của Henry Kamm thì “tướng của quân đội Việt Nam cũ không bao giờ cư ngụ trong căn nhà khiêm nhường đến thế”. Nếu ông bán đi như người ta thường làm, để lấy số tiền lớn mua một căn nhà nhỏ hơn, dôi ra được ít tiền. Hoặc nếu ông xây cất thêm chi chít, cho thuê, mở cửa hàng, hoặc làm quán ăn, café vườn… thì đó cũng là phương án thông thường của người Sài Gòn ngày nay. Nhưng ngôi nhà của ông giữ nguyên một mảnh vườn nhỏ phía trước. Tôi cảm nhận nó giống như một lời thầm nói lên tính cách của chủ nhân.

Một người từng trải qua mọi sang, hèn, đã là một ký giả như một chính khách thời thượng nhất, giờ đây “ông Ẩn còn yếu đuối hơn những ngày ông làm phóng viên” - lại lời của Henry - “Một người yếu đuối cong xuống nhưng không dễ dàng bị đánh gục giống như cái cây trong giông bão”.

Tôi cũng giật vào cái chuông đặc biệt trước nhà. Ông ra mở cổng sau khi đã chải đầu thật gọn gàng. Không rõ là kiểu tóc luôn được chải vậy hay là vừa mới gội đầu. Có khi ông vẫn mặc áo ba lỗ, ra mở cổng ngay sợ khách chờ lâu bên ngoài. Nếu mà nghe kể tên những thứ ở khoảnh vườn nhỏ thì rất dễ bị hình dung ra bài trí của biệt thự sang mà ta hay gặp. Nhưng khu vườn lại rất bình thường với vài ba khóm cây cao, còn lại là các loại hoa cây nhỏ và thấp xuống bên dưới khiến người ta khó mà nói ngay rằng đó là mảnh vườn trồng rau hay là vườn êm ả của các bụi cây cho bóng mát và sự yên tĩnh. Một con chó đá đen trùi trũi ở gần bậc cửa, nơi có một chiếc bàn đá nhỏ có thể ngồi chơi uống nước hóng mát các buổi chiều. Cái bàn này chỉ cách đường phố ầm ĩ gầm gào xe cộ suốt ngày đêm bởi vài bụi cây nhỏ. Vậy mà vị trí của nó đã đem lại ngay sự thanh bình rồi.

Mỗi tiếng chuông giật không chỉ là bầy chó sủa, mà làm kinh động nhiều “nhân vật” nào vậy? Khách không nhận ra ngay bởi họ đang bước vào khoảnh vườn vắng trước cửa. Chỉ đến khi quan sát các công việc tỉ mỉ, rất nhẹ nhõm của ông, mới thấy ở đây được khá nhiều vị khách lạ nhòm ngó lui tới. Không chỉ mình ta là vị khách bước vào.

Ông Ẩn bắt ổ chim, đỏ lói mới nở và cho chúng ăn bằng trứng kiến. Ông lấy ra thứ trứng kiến trắng như gạo, mềm, nhỏ li ti. Đó là trứng mới đẻ. “Kiến vàng đít chua lắm. Nấu canh chua thì bắt nguyên ổ, vớt kiến bỏ đi, còn lại nước chua lắm”. Ông giải thích như chia sẻ với một người cùng sở thích. Lời nói đó nhẹ nhàng “như thi nhân” bởi nó giống lời thì thào say sưa của đứa trẻ lúc đang chơi. Một thói chơi hồn nhiên như trẻ. Không có gì to lớn hoặc cầu kỳ theo kiểu dân chơi nhà nghề sành điệu đưa lên thành nghệ thuật. Thú chơi của ông khác lắm. Chiều theo thiên nhiên, lặng lẽ và có vẻ gì đó hưởng thụ như một cậu bé con tò mò, tinh quái.

Chẳng có nhiều điều kiện để cầu kỳ, nhưng lại khá “oái ăm” bất ngờ. Ai mà có thể nghĩ ra cái tác dụng nấu canh bằng cái đít chua của bầy kiến! Chắc chắn vợ ông đi chợ chỉ vài ngàn đồng là có đủ rau, thơm, bạc hà, lá giang cho nồi canh chua. Nhưng ông biết hết “tính năng” của các loài vật. Còn oái ăm hơn cả các món ăn: “Viết thơ tình bằng nước xanh chua chua bóp ra từ kiến. Viết bằng bút học sinh. Ông bồ hơ lửa thấy chữ. Cái này đi học được. Khổ vậy kia, cái gì cũng học!” Ông nói như than thở, mà mắt lại ánh vui.

“Chú bé Ẩn” chơi các con vật từ lúc 5 tuổi, chứ không phải kiểu chơi chim chơi thú của những ông già về hưu nhàn rỗi đỡ buồn. Ông có con khướu đã sống 15 năm ở khu vườn nhỏ này. “Sáo, họa mi, năm con sóc còn hai. Nó ở đâu đó đến! Tôi treo thức ăn lên vỏ trái dừa, ngày ngày nó đến ăn rồi lại đi. Đất lành chim đậu là vậy. Sẻ rất nhiều. Súng hơi người ta bắn riết nay không còn. Hai con chích chòe lửa, tôi bắt được ở đây”. “Chị ngồi chờ, để tôi chỉ cách bẫy sẻ này”.

Ông lấy ra hai cục gạch, đặt trên cái bàn uống nước: “Lấy ba cái que lớn lớn tí thôi. Bỏ lúa trong rải vài hột thôi”. Ông say sưa: “Cây trúc cương trực. Sẻ là tiểu nhân láu lia láu lịa, không bao giờ được người ta vẽ đậu trên cành trúc. Sẻ xấu, đa nghi. Gạch đè xuống là ra bắt liền, không nó chết”. Ông hướng dẫn cứ như là tôi cũng hiểu hết, đang muốn học chơi theo. Hình như ông muốn tôi cũng nên biết chơi, vì theo ông “con nít giờ không biết, giảng không hiểu, không biết chơi”. Ông dặn tôi: “Rải một ít ở bên ngoài kẻo nó ăn no không vào ăn phía trong hòn gạch nữa”. Ngày trước thì ông bẫy chích chòe. Bẫy đâu có như bây giờ! Cây tre có cành buộc như cần câu, một đầu cắm xuống đất. Có một cái vòng bằng tre, có cái cò để vô cột con dế. Có thòng lọng, có chỉ rút. Chim vào mổ cào cào, dế. Cái cần cò bật lên siết lấy con chim. Ông lại dặn: “Đừng treo cao quá siết cổ nó chết”. Còn bắt chim én, nó thường bay thấp, ăn ruồi rác. Nó bay sớt qua sớt lại không đậu. Phải để cái vòng có con ruồi ở giữa, chim chui đầu vô, bị giật.

Thì đó, có cả một “thế giới nhộn nhịp”, thăm dò nhau, ngó nghiêng, chim, kiến, sóc… đủ cả. Nhiều khi chúng sống đâu đó, trên phố xá ta nào thấy được. Chỉ ở nơi đâu, có những người như ông Ẩn, chờ đón, xem xét nó, lặng lẽ để thức ăn ra hàng ngày cho nó đến ăn rồi lại đi. Chỉ có kẻ nào hào phóng, không định sở hữu, bắt nhốt chúng, chúng mới tới “sống cùng” trong chốc lát, rồi lại là “người của tự do”. Chúng là những nhân vật đông đúc ở khu vườn nhỏ, khách vào nào có ai biết là chính họ đang làm kinh động nhiều vị “đồng chủ nhân” cùng với người đàn ông cao gầy có bộ óc và cuộc đời của một triết gia, suốt đời sống cận kề với hiểm nguy, sống chết. Thấu hiểu cuộc đời trong cả nghĩa đen của sự sống.

Những ký giả phương Tây luôn ngạc nhiên không chỉ vì ông Ẩn là một ký giả xuất sắc, săn tin giỏi, mà còn vì óc hài hước, sự thành thạo nhiều mặt trong đời sống. Trong mảnh sân vườn nhỏ này, có lẽ tôi là nhân vật xa lạ nhất xâm nhập vào đây, mong mỏi được quan sát tìm hiểu về một con người đặc biệt. Đôi khi tôi có cảm giác hình như con chó đá nó đang cười tôi phía sau lưng, mỗi khi ông Ẩn tiễn tôi ra cổng. Dường như cả con kiến ở trong vườn này nó cũng biết rằng tôi không hiểu ông Ẩn bằng nó.

Cũng công bằng thôi, một khi mà với con chim huýt cô sầu ông nuôi nó 8 năm, đi chơi Vũng Tàu cũng mang nó theo. Có cả lồng tắm riêng cho nó. Ông nhìn cái lồng và bảo: “Lồng không sạch vầy ở Úc nó đuổi đó, không cho nuôi chim đâu. Còn nếu khi nào thấy cá lội tung tăng quá thì đừng có tưởng là vui tươi khỏe mạnh. Đó là lúc nước bẩn".

Những con chim ấy biết sắp được ăn “bít tết” như Tây khi ông cầm sâu tươi và những con rắn liu điu nhỏ xíu ra. Dường như con huýt cô sầu biết ông Ẩn đã hiểu ra lai lịch vì sao nó có cái tên buồn rầu đó: Có đứa con gái nhỏ mồ côi được cô nuôi. Khi cô chết, nó ra mả khóc không ăn uống đến chết biến thành con chim huýt cô sầu. Cái sự tích chuyện đời con hoàng anh cũng được ông Ẩn kể: Cô nương kia chờ chồng chinh chiến. Chờ đến kiệt sức thì chim bay về báo tin cô ráng sống vì chồng sắp về. Cô ráng sống, được gặp chồng là nhờ chim hoàng anh.

Ông còn bình luận vui: Nhà nào mà có con gái, lại trồng cây liễu rủ buồn, thêm con chim huýt cô sầu nữa thì con gái đến là tự tử thôi. Phải cấm con gái trồng liễu và nuôi chim huýt cô. Thêm ông nội này kêu thì chết con nhà người ta.

(còn tiếp) nguyễn thị ngọc hải

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Huyền thoại về Cụm tình báo H.63

Phần 3 . Kỳ 20, 21 In
Kỳ 20: Lắp ráp và khởi động "cỗ máy" H.63
(VietNamNet) - Đầu năm 1962, vượt Trường Sơn, Trần Văn Quang từ miền Bắc trở về chiến khu R (Tây Ninh). Quang có tên hoạt động là Tư Cang và nhận nhiệm vụ: Chỉ huy lưới tình báo A18 (tiền thân của lưới H.63 sau này). Đây là những năm tháng chiến trường miền Nam trong tình thế khó khăn. Lưới tình báo hàng trăm người, chỉ để phục vụ và bảo vệ các điệp viên. Họ có an toàn và hiệu quả trong lòng địch?
"Máy trưởng" nhận nhiệm vụ
H.63 là được ví như một "cỗ máy". "Máy trưởng" Tư Cang trở về từ miền Bắc, nhiệm vụ: khởi động và vận hành trơn tru "cỗ máy" này.
h
Đầu năm 1962, Trần Văn Quang từ miền Bắc trở về chiến khu R, lấy tên hoạt động là Tư Cang và nhận nhiệm vụ: Chỉ huy lưới tình báo A18 (tiền thân của lưới H.63 sau này).
Những năm 60, tình hình miền Nam gặp nhiều khó khăn với những đợt vây ráp gắt gao của địch. Việc di chuyển cán bộ tình báo từ miền Bắc vào Nam hoạt động cũng gặp trở ngại. Đường bộ bị ngăn, đường biển càng nguy hiểm hơn. Trung ương Cục miền Nam có sáng kiến thành lập các cụm tình báo hoạt động xung quanh Sài Gòn. Cụm tình báo sẽ khắc phục được liên lạc đường dài giữa Cục tình báo và các điệp viên họat động trong lòng địch. Mỗi cụm phụ trách và phục vụ chỉ 1, 2 điệp viên.
Đầu năm 1961, cụm tình báo quân sự A18 (tiền thân của cụm H.63) ra đời, đóng tại căn cứ Bời Lời (Tây Ninh). Tất cả để phục vụ điệp viên nổi tiếng Hai Trung. Đằng sau những tin tức, tài liệu chuyển về của Hai Trung, là cả hệ thống phục vụ, cả trong nội đô và ngoài căn cứ.
Thời kỳ đầu, H.63 là bộ phận địch tình của thành ủy Sài Gòn. Khi Hai Trung (Phạm Xuân Ẩn) từ Mỹ trở về, hoạt động giữa Sài Gòn với tư cách phóng viên báo nước ngòai, ông Mười Nho (Xuân Mạnh, Nguyễn Nho Quý - cán bộ Cục Tình báo) là người trực tiếp chỉ đạo.
Năm 1962, ông Mười Nho bị bệnh, không thể chỉ huy H.63. Cả mạng lưới với một điệp viên đã nằm sâu trong lòng địch như Hai Trung, cần một chỉ huy giỏi và mưu trí. Tư Cang là người được ông Ba Trần, Thủ trưởng Phòng tình báo miền lúc bấy giờ lựa chọn. Tháng 5/1962, Tư Cang chính thức được giao nhiệm vụ chỉ huy cụm H.63. 
"Khởi động" H.63!
"Cỗ máy" đã có "máy trưởng", sẽ kết nối các "bộ phận" và hoạt động như thế nào?
f
 
Đầu tiên là liên lạc. Trong một lưới tình báo, khâu liên lạc là khâu khó khăn nhất, đặc biệt là liên lạc trong nội đô. Tài liệu, tin tức điệp viên đưa ra, dù điệp viên có giỏi đến đâu nhưng liên lạc kém cũng sẽ thất bại. Thất bại, đồng nghĩa với sinh mệnh của điệp viên nguy nan. Liên lạc viên nội đô của H.63 trực tiếp nhận tin từ Hai Trung phải là người đảm bảo được nhiều yếu tố.
Đó là một bình phong tốt, trí nhớ cao, thuộc nhiều địa danh trên đường phố, địa bàn, thông thạo các phương tiện công cộng, các nơi tập trung đông người như tiệm ăn, rạp hát, chợ... để dễ thay đổi chỗ hẹn. Liên lạc viên nội đô phải có óc quan sát sắc bén, biết nhận diện tướng mạo con người để phát hiện khi bị theo dõi, đủ tài đánh lạc hướng.
Ai sẽ dấn thân vào nguy hiểm và đáp ứng được những điều kiện khắt khe của nhiệm vụ kết nối này?
Nhiều giao thông được đưa vào thành giới thiệu với Hai Trung. Nhưng ông không đồng ý một ai. Hai Trung hoạt động trong thành, lường trước được những điều xảy ra với một giao thông viên nội đô. Người trẻ quá dễ bị bọn lính chọc ghẹo. Có người là thanh niên, dễ bị bắt lính bất cứ lúc nào.
Giao liên Nguyễn Thị Ba (quê Long An) được giới thiệu với Hai Trung. Chị Ba (còn gọi là chị Ba già) đáp ứng được những yêu cầu mà điệp viên và tổ chức đặt ra. Chị Ba có tuổi, giàu kinh nghiệm, thông thuộc địa bàn, chưa bị bắt lần nào và có bình phong tốt. Hai Trung mới nghe tổ chức giới thiệu, đã nhận ngay.
Trong một tài liệu tổng kết về giao thông viên lưới H.63, vai trò của Nguyễn Thị Ba được đánh giá: một giao liên gan dạ, mưu trí bên cạnh điệp viên. Và những yếu tố khác: Chị Ba là đảng viên, chồng cũng là cách mạng lão thành. Xa chồng, xa con, chị một mình vào Sài Gòn lấy bình phong bán đồ vàng giả, đồ chơi trẻ con để làm liên lạc cho Hai Trung.
Theo quy ước, chị Ba bán hàng tại khu vực Chợ Cũ (chợ Bà Chiểu - TP.HCM bây giờ) để nhận tin tức và tài liệu từ Hai Trung chuyển ra. Thông thường, vào sáng chủ nhật hoặc giờ nghỉ, Hai Trung đi xe đến chợ, gửi xe rồi dắt chó vào chợ. Như một người đi mua đồ cho chó, cho chim. Đến hàng của giao liên, Hai Trung giả vờ tìm một vài đồ vàng giả mua về cho trẻ con.
Khi có tín hiệu an toàn, thư được bỏ vào hàng của Nguyễn Thị Ba. Nhận tài liệu, tin tức, Nguyễn Thị Ba sẽ trực tiếp chuyển cho giao liên đưa về căn cứ hoặc qua các liên lạc dự bị. Cứ vậy, gánh hàng trang sức giả là bình phong vững chắc cho liên lạc Nguyễn Thị Ba trong cả quá trình đứng đằng sau hoạt động của điệp viên Phạm Xuân Ẩn.
10 năm làm liên lạc cho Hai Trung, Nguyễn Thị Ba chưa bao giờ sai một buổi hẹn nào, chưa có một sai sót nào. Chỉ có Hai Trung là thất hẹn một số ít lần vì bận đi ra ngoài thành phố không trở về kịp. Ông không thể thông báo trước, bởi vì bình phong bắt buộc Hai Trung phải đi xa thành phố đột xuất.
Bản năng cẩn trọng của người giao liên họat động trong nội thành thường trực trong con người Nguyễn Thị Ba. Chị luôn rất cảnh giác trước khi gặp Hai Trung, cũng như khi trao nhận tài liệu, tin tức. Cụm trưởng Tư Cang kể lại, cũng vì quá cảnh giác, nhiều khi gặp nhau trong chợ, Hai Trung phải khuyên Nguyễn Thị Ba đừng quá nhìn xuôi ngó ngược trong lúc nói chuyện. Vì điều này có thể gây chú ý cho bọn an ninh VNCH, vốn đầy rẫy xung quanh. 
Chị Ba già đã giữ đường liên lạc an toàn và hiệu quả suốt mười mấy năm. Mãi đến 3/1975, chị Ba mới được đổi bằng người khác. Sau này, thiếu tá Nguyễn Thị Ba được phong Anh hùng LLVT.
Khi còn sống, nhà tình báo huyền thoại Phạm Xuân Ẩn từng đúc kết về giao liên với các nhà báo đến hỏi chuyện ông: "Điệp viên giỏi mà không có giao liên giỏi đưa tài liệu ra căn cứ thì chỉ có... ăn cám!".
Điệp viên không cô độc
Hai Trung, Tám Thảo và Nguyễn Thị Ba hoạt động trong lòng địch nhưng chưa bao giờ cô độc. Bởi lẽ, từ năm 1966, cụm trưởng Tư Cang nhận nhiệm vụ thường xuyên ra vào thành. Cụm trưởng vào vùng địch hậu hoạt động một thời gian dài và bất hợp pháp như Tư Cang được đánh giá là cấp chỉ huy không còn vị trí an toàn và công khai. Cụm trưởng cũng hoạt động mật như một điệp viên.
Cụ thể, Tư Cang nhận lệnh từ Phòng tình báo miền: Vào nội thành kiểm tra, điều nghiên tình trạng của toàn lưới một cách cụ thể. Cụm trưởng tiếp xúc với điệp viên, với giao thông nội đô để hướng dẫn, bồi dưỡng và trực tiếp chỉ đạo.
Việc ra vào thành như con thoi của Tư Cang còn có nhiệm vụ khác: lắng nghe điệp viên, làm giảm sự cô đơn và căng thẳng từ điệp viên. Tư Cang là cụm trưởng luôn kiểm soát được điệp viên trong mọi tình huống.
Tuy nhiên, theo các tài liệu đánh giá sau này, sự liên lạc trực tiếp giữa tổ trưởng và điệp viên liên tục cũng sẽ có hại đến sự an tòan của điệp viên. Nhưng thật tài tình, chưa một lần hoạt động của điệp viên và các mũi của H.63 bộc lộ sai sót.
Điều này thật thú vị khi lúc đầu Hai trung không biết ai là tổ trưởng của mình. Trung chỉ biết có một tập thể chỉ huy mình. Trong thời gian hoạt động trong thành, từ 1966-1969, Tư Cang lấy tên là Khanh. Và trong thư từ báo cáo, Hai Trung gọi Tư Cang là Robert. Bởi lẽ, đây là nguyên tắc để giữ bí mật tung tích cấp chỉ đạo. Hai Trung luôn ý thức về nguyên tắc này.
Giữa Hai Trung và Tư Cang sau này đã trở thành 2 người bạn thân, lúc những thông tin về 2 người đã được công bố. Chiến công của Hai Trung thì nhiều, nhưng Đại tá Tư Cang nhớ rất rõ khoảnh khắc một buổi trưa năm 1967. Hai Trung lái xe Renault chở Tư Cang đi trên đường, cụm trưởng báo tin cho điệp viên, tập tài liệu Hai Trung chuyển ra vừa qua rất có giá trị. Trung ương đã quyết định tặng thưởng cho Hai Trung một huân chương chiến công hạng nhất.

Nghe thủ trưởng nói vậy, Hai Trung mừng và nhớ ơn cấp trên. Nhưng rồi lại trầm hẳn xuống, và nói thật từ đáy lòng: đời người tình báo chẳng biết có cơ hội đeo huân chương không! Tư Cang không khỏi xót xa khi nghe cấp dưới nói vậy.
Sau chiến tranh, "bộ máy" H.63 đã 2 lần trở thành anh hùng. Trong những tài liệu tổng kết được công bố, H.63 được đánh giá tinh cán, gọn gàng, nhịp nhàng giữa điệp báo và giao thông cả trong nội đô và từ nội đô ra khu căn cứ, có sự chỉ đạo liên tục từ cụm trưởng.
Và dĩ nhiên, H.63 đã cống hiến cho cách mạng nhiều thông tin có hiệu lực và giá trị.
Nhưng, trước khi vào thành hoạt động, vị chỉ huy bắn súng 2 tay như một đã có những tháng ngày "ăn cùng bom, ngủ cùng đạn" tại căn cứ Bến Đình. Tất cả để duy trì lưới và bảo vệ những tin tức, tài liệu điệp viên gửi ra.
  • Việt Hà - Thế Vinh - Hà Trường

     
Kỳ 21: Sống trong hủy diệt
(VietNamNet) - Trong thành, điệp viên và giao thông nội đô đối diện với những hiểm nguy rình rập. Ở căn cứ, cả cụm H.63 cũng thường xuyên đối mặt với các trận vây ráp, càn quét của địch. Trước khi vào thành hoạt động, vị chỉ huy bắn súng 2 tay như một đã có những tháng ngày "ăn cùng bom, ngủ cùng đạn" tại căn cứ Bến Đình.
 
Đối diện với "anh cả đỏ"!
 
Năm 1965, tình hình miền Nam ngày càng căng thẳng. Bước sang năm 1965, Mỹ liên tục đưa các sự đòan lính thủy đánh bộ, Sư đoàn 1 bộ binh, kỵ binh không vận vào miền Nam. Trong đó, nổi lên nhất là sư đoàn kỵ binh số 1. Địch tuyên truyền rùm beng, đây là sư đoàn thiện chiến nhất với biệt danh "anh cả đỏ". Cạnh đó, chúng chuẩn bị đưa vào miền Nam sư đoàn bộ binh số 25. Chúng rêu rao: Đây là sư đoàn có khả năng giải quyết nhanh chóng chiến trường vùng nhiệt đới, nên được tôn vinh là "Sư đoàn tia chớp nhiệt đới".
 
 
h
Tư Cang và những khoảnh khắc nhớ lại hồi đối diện với "anh cả đỏ"
 
Theo chiến lược dồn dân, lập ấp để tạo ra các vùng trắng, quân địch bắt tất cả người dân nơi cụm đóng quân ra các ấp chiến lược. Để khủng bố và gây áp lực bắt nhân dân phải bỏ làng mạc ra đi, chúng không tiếc pháo, bom ném vào từng nhà một. Không ai có thể ở nổi. Cụm H.63 sống ẩn dưới địa đạo trong các khu dân cư, chống lại những cuộc truy lùng của địch.
 
Cụm trưởng Tư Cang (Nguyễn Văn Tàu) là người chứng kiến và có nhiều kỷ niệm nhất với mảnh đất Phú Hòa Đông. Không thể hình dung nổi cảnh máy bay ném bom trên mặt đất, cả cụm tình báo ở dưới lòng đất. "Ác liệt!" - Hơn 30 năm sau, đại tá Nguyễn Văn Tàu nhắc đi nhắc lại cụm từ này. Ông chợt "trở về" với Bến Đình, với những tháng ngày nằm sâu trong lòng địa đạo oanh liệt xưa... Bến Đình trở thành quê hương thứ 2 của Tư Cang và nhiều đồng đội trong cụm H.63. Sau ngày thống nhất đất nước, Bến Đình là nơi ông và đồng đội thường chọn để trở về, vào mỗi dịp quan trọng.
 
Trận chống càn đầu đầu tiên của cụm H.63 vào năm 1965, tại căn cứ Củ Chi. Sư đoàn "anh cả đỏ" từ căn cứ Bắc Bến Cát, hướng về đất Củ Chi càn quét. Quân địch được trang bị cực kỳ hiện đại và chuyên nghiệp. Lực lượng không quân và pháo binh đi trước dọn đường. Xe tăng âm ầm rung chuyển mặt đất. Lính bộ binh của chúng được trang bị tận răng, mỗi thằng cầm một khẩu tiểu liên M.16 "cực nhanh" đi sau xe tăng.
 
Khi chỉ còn cách Tư Cang và 2 đồng đội Năm Hải và Tư Lâm 200m, toàn bộ đội quân của chúng bị khựng lại. Xe tăng không thể qua được vùng sình lầy. Bọn Mỹ tức giận. Tiếng máy nổ vang một góc trời. Tổ 3 người do Tư Cang làm tổ trưởng đang núp trong một bụi cây rậm giữa đường và sông Sài Gòn theo dõi chúng. Thời cơ tiêu diệt những tên lĩnh Mỹ đầu tiên trên đất thép Củ Chi đã đến. Hồi đó, anh em chỉ được trang bị súng trường báng đỏ bắn từng phát một. Mỗi người một khẩu, riêng khẩu của Tư Lâm có gắn thêm bộ phận lắp được đạn chống tăng.
 
Ba tiếng nổ vang lên cùng lúc. Thằng Mỹ chỉ huy chết ngay tại chỗ. Thằng mang điện đài bổ nhào xuống sông. Một cột khói bao quanh chiếc xe tăng vừa trúng đạn của Tư Lâm. Sau phút định thần, chúng rút súng bắn loạn xạ ra hướng sau lưng, chúng không biết tiếng súng nổ ra từ hướng nào. Tổ 3 người lặn xuống sông và rời khỏi khu vực chiến đấu.
 
Ngay hôm sau, Tư Cang gửi một báo cáo gấp về trung tâm: Quân Mỹ bắt đầu chết trên đất Củ Chi!
 
H.63 trở thành "con mồi"!
 
Đội võ trang của cụm H.63, có thành tích đặc biệt là đội đầu tiên giết chết quân Mỹ dưới địa đạo. Cuối năm 1965, Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ được điều qua và đóng căn cứ tại Đồng Dù (Củ Chi). Căn cứ của địch chỉ cách căn cứ của H.63 khoảng 5-6 cây số. Đây là sư đoàn được đào tạo, huấn luyện chiến tranh chống du kích, cách đánh du kích.
 
Một ngày đầu năm 1966, không biết có chỉ điểm hay không, Sư đoàn này tính chuyện săn cụm H.63. Khi Tư Cang và Năm Hải đi công tác trong ấp Phú An về, anh em báo có 5 xe tăng của địch mò đến. Với kiến thức quân sự, cụm trưởng Tư Cang nhận ngay ra đây là một cuộc hành quân trinh sát của bọn Mỹ. Chúng đang chuẩn bị cho một trận tập kích đánh úp vào H.63. Một cuộc họp chớp nhoáng diễn ra.
 
Tư Cang đưa ra phán đoán: Có thể, chúng biết ta là một bộ phận quan trọng, muốn dùng lực lượng mạnh đánh úp bất ngờ. Và người chỉ huy đưa ra quyết định: đại bộ phận cụm sẽ tránh đi một địa điểm khác để giữ liên lạc mật vụ với nội đô và cấp trên!
 
Cụm trưởng cho một tổ 3 người ở lại duy trì liên lạc với các đơn vị bạn trong vùng. Cơ bản nhất, tổ có nhiệm vụ "đánh cho bọn Mỹ một trận, cho chúng biết tay!" Đúng như phán đoán, "anh cả đỏ" và Sư đoàn "tia chớp nhiệt đới" bị tổ 3 người Tám Phương, Đạo và Lợi cho "phơi áo" ngay trong lòng địa đạo.
 
Hôm sau, đại quân Mỹ cỡ chừng 50 xe tăng ào ào kéo đến. Có lẽ vì nắm vững vị trí và lực lượng H.63 theo bọn chỉ điểm nên bọn Mỹ định "ăn gọn", bắt sống cả cụm. Sau khi ngụy trang kỹ địa đạo, tổ 3 người cầm vũ khí chạy ra miệng địa đạo, mở nắp sẵn ngồi chờ địch tới. Đúng lúc đó, một tình huống ngoàii dự đoán ập đến. Khi xe tăng Mỹ đang tiến vào như 2 gọng kìm khép chặt địa đạo thì một toán khoảng 20 người của ta đang chạy đến địa đạo. Người dẫn đầu là Tư Kiếng, một cán bộ ban quân báo I4 (mật danh của Quân khu Sài Gòn - Gia Định).
 
Tư Kiếng đi móc nối cơ sở bí mật trong Sài Gòn ra, vừa đến đây thì gặp quân Mỹ đi càn. Trong quan hệ công tác, Tư Kiếng biết ở đây có lực lượng vũ trang của cụm H.63 nên dẫn cả đoàn chạy vào ẩn náu. Cả đoàn Tư Kiếng chui xuống địa đạo. Tám Phương là người xuống cuối cùng. Đó là lúc gọng kìm của địch khép lại. Một chiếc xe tăng địch đã đậu trên... nắp hầm.
 
Cả đoàn quân hùng hậu của Mỹ không thấy một bóng người. Địch tức tối đi tìm các nắp hầm bí mật. Thêm một số xe cơ giới hạng nặng từ Đồng Dù tới. Xe tăng chạy qua chạy lại trên mặt đất để nắp hầm bật lên. Ba nắp hầm bí mật bị khám phá.
 
Bọn Mỹ cười hô hố khi thấy các nắp bị bật tung. Điện đài được đánh về trung tâm chỉ huy ở Đồng Dù, yêu cầu trực thăng chở đội chuyên đánh đường hầm đến. Đó là "phi đội chuột cống". Toàn những tên không to con, vốn được huấn luyện đặc biệt tại Ha-oai, về môn đánh đường hầm.
 
Chuột cống "quốc tịch"... Mỹ
 
"Phi đội chuột cống" chụi ngay xuống hầm. Vừa mò mẫm vừa gõ dò tìm các nắp trầm, nắp bổng. Địa đạo được thiết kế đặc biệt và nhiều cấu trúc phức tạp. Một đoạn đường hầm từ 8 đến 10 mét trông như bịt kín 2 đầu. Nhưng nếu dùng đèn pin quan sát kỹ và dùng cán xẻng gõ tìm đường trong lòng đất, gần cuối đường hầm có một nắp khi thì trồi lên để sang hầm khác, khi thì tụt xuống. Đó là những nắm bổng, nắp trầm. Những sáng tạo khi đào địa đạo của cụm H.63 bọn địch có đoán trước cũng không tài nào qua nhanh được.
 

Tư Cang đưa ra phán đoán: Có thể, chúng biết ta là một bộ phận quan trọng, muốn dùng lực lượng mạnh đánh úp bất ngờ. Và người chỉ huy đưa ra quyết định: đại bộ phận cụm sẽ tránh đi một địa điểm khác để giữ liên lạc mật vụ với nội đô và cấp trên!
 
Mất mấy tiếng đồng hồ, "phi đội chuột cống" mới qua được các chướng ngại vật giăng sẵn. Chiến sĩ Đạo được giao nhiệm vụ ngồi gác trên một nắp bổng của đoạn kế tiếp. Tám Phương chỉ đạo: Đạo giương lưỡi lê ra, khi "chuột cống" đội nắp lên thì... xỏ lê ngang cổ, nó sẽ mắc kẹt ngang miệng hầm. Tay cầm lưỡi lê theo lời tổ trưởng nhưng Đạo run thật sự. Anh mới rời gia đình, nhập ngũ chưa đầy một tháng vào lực lượng vũ trang H.63. Ở nhà, Đạo tên là Hiến. Nhập ngũ, vì đào địa đạo giỏi nên anh em đặt tên là Đạo.
 
Đã thấy lính Mỹ dậm bịch bịch ngay dưới chân Đạo. Cái nắp chuyển động. Chúng cố sức mở nắp ra. Đạo lại đè xuống. Trong lúc bối rồi, Đạo quên lời tổ trưởng Tám Phương dặn. Anh bỏ cây súng đã giương lê sang một bên, toàn thân nằm trên nắp, dùng hai tay đè xuống. Phía dưới "chuột cống" đẩy càng mạnh.


Kỳ 22: Giáp mặt với gian nguy
(VietNamNet) - Tư Cang hoạt động nhiều ở căn cứ nhưng vẫn ra vô thành như con thoi. Dù có các giao liên nội đô sống thường trực trong thành và giao liên từ căn cứ vào, cụm trưởng vẫn phải trực tiếp vào thành nhận tin và giao những nhiệm vụ quan trọng cho Hai Trung. Nhưng, vào thành là đối mặt với gian nguy luôn giăng sẵn...

Về thành
Năm 1966, Phòng tình báo miền ra một chỉ thị: cụm trưởng cần sát cánh bên điệp viên và giao thông nội đô. Tư Cang rời căn cứ Bến Đình, di chuyển vào thành với nhiều vỏ bọc khác nhau. Bắt đầu từ buổi trưa ngày 20/8/1966. Tư Cang và chiến sĩ của mình là Sáu Ẩn dùng xuồng qua sông Sài Gòn. Hai người theo đường tỉnh lộ 14 lên ngã ba Rạch Bắp rồi đi vào Sở cao su Ginết.
a
Dù có các giao liên nội đô sống thường trực trong thành và giao liên từ căn cứ vào, cụm trưởng vẫn phải trực tiếp vào thành nhận tin và giao những nhiệm vụ quan trọng cho Hai Trung. Nhưng, vào thành là đối mặt với gian nguy luôn giăng sẵn...
Người anh ruột của Sáu Ẩn là Năm Be đang phụ trách một cánh biệt động thành. Năm Be có cơ sở mật tên là Sào đang làm lái xe tải nhẹ chở mủ cao su từ đây về Sài Gòn. Đây cũng là cách anh em biệt động chuyển thuốc nổ, súng ống về thành phố. Tư Cang sẽ đi nhờ xe chở cao su vào thành.
Được dặn trước, Tư Cang đóng vai người chú của lái xe Sào từ Sài Gòn vào thăm gia đình đứa cháu, nay tiện xe về Sài Gòn luôn. Xe vào thị trấn Bến Cát, rẽ sang quốc lộ 13 và bon bon về Sài Gòn. Dọc đường, liên tục qua các bốt gác của địch.
Mỗi lần bị chặn lại, bà chủ sở cao su lại xuống trình giấy. Quá quen xe cao su 2-3 ngày một chuyến vào ra, không tên địch nào buồn đến khám xe. Tư Cang di chuyển ra thành phố một cách nhẹ nhàng.
12 năm rồi anh mới trở lại Sài Gòn. Tháng 6/1954, lúc đó đang là tổ trưởng quân báo liên huyện Cần Đuốc - Cần Giờ - Nhà Bè, anh được giao vào Sài Gòn vẽ bản đồ, điều tra các đồn bốt thuộc lực lượng Bình Xuyên, bên kia cầu chữ Y. Sài Gòn bây giờ đã khác. Cảnh đông đúc, sầm uất hiện ra trước mắt người cụm trưởng tình báo vốn chỉ sống ẩn mình dưới địa đạo khắp vùng Bến Đình.
Nơi Tư Cang đang tìm đến là một nơi đặc biệt. Đó như "căn cứ" an toàn ngay bên hông địch. Ở đó có những con người sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy, dung dưỡng người cụm trưởng tình báo như đứa con trong gia đình mình. Ở đó cũng là nơi chứng kiến một tình cảm đẹp... Nơi đó là nơi Tám Thảo và gia đình đang sống.
Được Tám Thảo dặn trước, Tư Cang mang phong thái tự nhiên đi thẳng vào ngôi nhà 136B, hẻm 136, đường Gia Long. Anh như người thân của gia đình đã đến đây nhiều lần. Gia đình Tám Thảo được biết đến như một gia đình người Bắc khá giả, cách Dinh Độc Lập chưa đầy trăm mét nên bọn lính cảnh sát, an ninh ít nghi ngờ. Gia đình có một sạp vải "Tân Mỹ" ngoài chợ cũng là một trong những hộp thư của cụm H.63 trong thành.
Cả gia đình nhiệt tình đón tiếp Tư Cang.
Anh nhớ lại, hôm đưa Tám Thảo vào căn cứ Bến Đình học nghị quyết, đã đặt vấn đề vào Sài Gòn và ở tại gia đình với cô. Tám Thảo không chút do dự. Cô nhận thấy người thủ trưởng của mình có dáng dấp thành phố, lại biết ngoại ngữ nên dễ nhập vai.
Nhưng cô vẫn do dự về ba mình, một người gốc Bắc vốn rất khắt khe. Tư Cang và Tám Thảo móc nối giao liên đưa ba Tám Thảo vào căn cứ. Ông cụ đã đồng ý với kế hoạch ở lại nhà mình của Tư Cang.
Tư Cang trở thành người thân trong gia đình Tám Thảo lúc nào không biết. Anh coi ba Tám Thảo như ba mình. Đêm đêm, anh nằm bên ông, vừa đấm lưng, bóp chân cho ông vừa nói chuyện về Bác Hồ, về cách mạng. Anh dạy thêm tiếng Anh, tiếng Pháp cho mấy đứa cháu trong nhà.
Nhiều đêm, một tên chỉ điểm cạnh nhà lảng vảng đến, hắn đứng lại nghe Tư Cang giảng bài rồi lặng lẽ bỏ đi. Hắn không thể ngờ người thanh niên trắng trẻo, ưa nhìn đêm đêm giảng ngoại ngữ cho trẻ con lại là một cán bộ Việt Cộng, một thiếu tá tình báo quân đội. 
Người bạn chơi chim, chơi chó
Ở thành phố đã yên ổn, Tư Cang nhờ Tám Thảo báo cho Hai Trung đến. Hồi đó, giữa Hai Trung và gia đình Tám Thảo rất thân mật. Từ khi Tư Cang lãnh đạo H.63, chỉ đạo Hai Trung chỉ qua thư. Khi gặp nhau, Hai Trung bảo với Tư Cang: "Thằng cha này trong rừng mà ngó ngon quá!". Hai Trung nhìn Tư Cang từ đầu đến chân.
Ông yêu cầu Tư Cang thay áo. Chiếc áo Tư Cang đang mặc mới quá, ra đường giặc sẽ nghi. Tiếp đến là đôi giày. Hai Trung bỏ tiền ra mua cho thủ trưởng một đôi giày thật xịn.

f
Trên chiếc xe này, Hai Trung đã chở thủ trưởng đi khắp nơi trong thành, đi đâu cũng giới thiệu Tư Cang là chủ sở trên Dầu Tiếng, là bạn chơi chim, chơi chó.
Mãi sau này, khi được hỏi về thủ trưởng của mình, Phạm Xuân Ẩn vẫn cười và nhắc về lần gặp đầu tiên của hai người: Tư Cang đẹp trai, lịch lãm dũng cảm. Nhưng ăn mặc thì lỗi mốt, cửa ô tô không biết mở!
Hai người lúc nào cũng đi cùng nhau. Hai Trung đưa Tư Cang vào toàn những nơi sang trọng để làm quen và nghe thông tin từ các nhân vật cỡ bự của địch. Có người hỏi về Tư Cang, Hai Trung bảo đây là một người bạn là chủ sở trên Dầu Tiếng, là bạn chơi chim, chơi chó. Hai Trung lái xe chở Tư Cang đi khắp nơi. Phía sau bao giờ cũng có con chó cưng của Hai Trung.
Ít ai ngờ con chó này được Hai Trung điều khiển bằng... tiếng Pháp. Đi bất cứ đâu Trung cũng cho chó đi theo. Con chó nằm ngoan ngoãn dưới bàn. Hai Trung kể lại với cụm trưởng, đây là con chó của một người bên Pháp cho Nguyễn Cao Kỳ. Một lần vào Phủ Tổng thống, ông thấy thích con chó đẹp.
Hai Trung móc với tên quản lý chó, làm cho chó ốm đói và ghẻ để thanh lý cho mình, lại được thêm tiền tiêu. Tên quản lý chó nghe cũng khoái chí, vì không phải chó của mình. Chỉ vài tuần sau, con chó đẹp đẽ trở nên ốm đói, ghẻ lở. Nó bảo với Nguyễn Cao Kỳ, chắc là con chó này không hợp với khí hậu Việt Nam, nên thanh lý. Hai Trung mua lại được con chó. Bên Pháp nó đã được điều khiển bằng tiếng Pháp, Hai Trung mua về cứ thế "nói chuyện" với nó bằng tiếng Pháp. 
Điều này gây ngạc nhiên với Tư Cang. Một lần Hai Trung dẫn Tư Cang vào nhà hàng Victory. Sau khi đã xong việc, Hai Trung đứng lên trả tiền, con chó đi theo. Hai Trung quát bằng tiếng Pháp: "Đứng lại!". Con chó đứng yên. Khi trả tiền xong, trở lại bàn, Hai Trung lại nói: "Nằm xuống!" (bằng tiếng Pháp). Con chó lại nằm xuống. Xung quanh không thể nghi ngờ 2 ông chủ giàu có, điều khiển chó bằng tiếng Pháp lại là một điệp viên cỡ bự và một cụm trưởng tình báo cỡ bự của Việt Cộng.
Gặp Tư Cang, Hai Trung rất mừng. Lúc này mục đích lớn nhất cấp trên giao cho Hai Trung đang là nghiên cứu về quân sự để chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968. Tư Cang và Hai Trung phải bám xem Mỹ Ngụy thi hành kế hoạch quân sự 142 như thế nào? Kế hoạch bình định được chúng cập nhật hóa ra sao? Theo dõi khi nào chúng đưa kế hoạch mới là AB 143 để thi hành năm 1968, phải lấy bằng được vào cuối năm 1967. Ngoài ra, nhiệm vụ của Hai Trung còn xem Mỹ ngụy có nghi ngờ cuộc Tổng tấn công của ta sắp tới không? Có sự chỉ đạo trực tiếp của Tư Cang, Hai Trung làm tốt tất cả mọi việc.
Sát cánh bên điệp viên, cụm trưởng Tư Cang hoạt động mật trong thành như không khác gì một điệp viên thực thụ. Cụm trưởng H.63 được giao chỉ thị kiểm tra, điều nghiên tình trạng của toàn lưới một cách cụ thể. Thỉnh thoảng lại về vùng an toàn, không được ở vùng địch hậu lâu dài. Tư Cang còn có nhiệm vụ hướng dẫn, bồi dưỡng cho điệp viên những nhiệm vụ, nghị quyết của trên để lấy tài liệu thích ứng với tình hình.
Trực tiếp vào thành hoạt động hỗ trợ điệp viên và nắm tình hình, cụm trưởng H.63 đối mặt với nhiều hiểm nguy. Bằng sự mưu trí, bình tĩnh Tư Cang đã nhiều lần vượt qua. Kể cả vượt qua chính mình...
  • Thế Vinh - Việt Hà - Hà Trường
     
Kỳ 23: Cơ hội của... viên đạn giành riêng
(VietNamNet) - Có những cuộc xét giấy "căng như dây đàn". Chỉ cần cái gật đầu nhẹ của tên chỉ huy, Tư Cang và giao liên sẽ bị bắt, điệp viên và cơ sở ắt sẽ lung lay. Đây cũng là dịp xạ thủ "hai tay như một" suýt nữa đã dùng đến viên đạn giành cho riêng mình. Cụm trưởng H.63 đã vượt qua như thế nào?

Cuộc xét giấy... thót tim
Năm 1968, sau đợt 2 chiến dịch Mậu Thân, cấp trên gọi ông về để chỉnh huấn. Giao liên Tám Kiên lại là người đi cùng Tư Cang từ trong thành về cứ. Hai người đi trên chiếc xe honda nữ của Tám Kiên. Trước khi đưa Tư Cang ra cứ, Tám Kiên đã điều tra và nắm rõ tình hình đường sá. Chỗ nào có bốt, có bốt nghiêm, bốt sơ hở, nhiều quân Mỹ, làm gắt gao... đều đã nằm trong đầu nữ giao liên trẻ.

a
Có những cuộc xét giấy căng như dây đàn...
Hai người vừa đi vừa nói chuyện như một đôi vợ chồng trẻ. Tám Kiên thông tin cho thủ trưởng biết, mấy hôm nay lực lượng Mỹ - Ngụy đang càn quét trên một vùng lớn từ Củ Chi đến Trảng Bàng. Sự liên lạc giữa khu căn cứ và ấp chiến lược Phú Hòa Đông gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm.
Hôm nay, Tám Kiên sẽ đưa thủ trưởng về ấp chiến lược Mỹ Phước (huyện Bến Cát). Xe chạy bon bon về hướng Lái Thiêu. Qua trạm gác thị xã Bình Dương, cả hai không bị xét hỏi gì. Nhìn cặp vợ chồng ăn mặc sang trọng trên chiếc xe honda mới, các tốp lính không thể nghi ngờ.
Chỉ còn 10 cây số nữa sẽ đến Mỹ Phước. Tư Cang nhìn thấy cách mình 100m có một tên lính, trên tay hắn là khẩu súng cac-bin. Phía trong, dưới các gốc xoài, mấy chiếc xe Jep đã đậu sẵn. Tình huống bất ngờ xảy ra mà lúc sáng Tám Kiên đi không gặp.
Tư Cang đang dùng giấy tờ giả do Tám Chứa, một cán bộ kỹ thuật Phòng tình báo cấp. Tên lính cầm thẻ căn cước xem đi xem lại. Nó đã nghi giấy giả. Nó nắm tay lại, bóp tờ thẻ rồi bung ra. Lại bóp và thả cho bung ra một lần nữa. Tên này đã có kinh nghiệm trong việc xét hỏi căn cước.
Tên lính cười gằn rồi nói: "Giấy này kỳ quá!". Tư Cang chống chế: "Mấy ông cấp sao, tôi đi vậy chứ kỳ gì!". Nó tiếp tục "vần con mồi" bằng cách đưa giấy ra sau lưng rồi nhìn thẳng vào mắt Tư Cang, hỏi tên cha ông. "Ba tôi hả? Nguyễn Văn Muốn!". Cô giao thông Tám Kiên đứng bên bắt đầu lo. Trong trường hợp này, nhiều người sẽ trả lời sai với thông tin trên giấy. Vì đây là giấy giả, cha giả. Đây là tên ông cậu của Tư Cang.
Trả lời xong, Tư Cang trêu lại nó: “Tía (cha) mà cũng hỏi nữa”! Nó vẫn không chịu thua, ngó tiếp và hỏi : "Giấy cho ngày mấy?”. Giấy này là giả, khi ra ngoài thành, ông đã cẩn thận so với giấy thật để xem và nghiên cứu trước. Nhưng nếu trả lời quá chính xác tụi nó cũng nghi. Tư Cang từ tốn: "Giấy mấy ông cho đâu hồi giữa năm 1962, bây giờ hỏi ngày làm sao nhớ nổi!".
Vẫn chưa chịu thua. Tên lính cầm tờ giấy đi vào trong, nói với tên Trung úy chỉ huy: "Thưa Trung úy, tờ giấy này coi kỳ quá, có nhiều khả nghi!". Tên Trung úy cầm giấy và lật đi lật lại xem. Trung uý nhìn về phía Tư Cang, thấy anh đang vui vẻ, lại còn lấy thuốc ra hút rất tự nhiên. Anh bảo nhỏ Tám Kiên: cứ tươi tỉnh lên!
Tên Trung úy thấy thái độ của Tư Cang và Tám Kiên như vậy nên quay sang thằng lính bảo: Người Sài Gòn giấy như vậy đó! Trả cho người ta đi. Tên lính ra trả giấy, mồm vẫn lẩm bẩm: mình đã phát hiện ra giấy giả, thế mà ổng vẫn cho đi. Khi đã thoát xa khỏi trạm xét giấy đó, Tư Cang và Tám Kiên vẫn không hiểu sao tên Trung úy chỉ huy lại dễ dãi đến vậy.
Viên đạn cuối cùng
Trong đợt 1 cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, nhiều tình huống nguy hiểm khi đối mặt với giặc đã được cụm trưởng và các giao thông viên H.63 hóa giải. Nhớ lại, ngay trong những ngày ta và địch đang đánh nhau dữ dội, giao thông Hai Ánh vẫn mang trót lọt vũ khí từ ấp chiến lược vào cho thủ trưởng Tư Cang.
Bữa đầu tiên, đúng hôm đang đánh ác liệt, bọn lính ở Ba Ri - Tân Quy đuổi cô về. Hôm sau Hai Ánh ngụy trang vũ khí trong một chồng bánh tráng. Giả vờ là người đi bán, gặp Tư Cang hỏi mua. 2 cây súng cùng 27 viên đạn được trao tận tay Tư Cang.

f
Ông xác định nếu bị lộ, sẽ sống còn với chúng, và viên đạn dành cho mình sẽ găm vào tim. Nếu không làm thế, địch sẽ bắt được và cả lưới được gây dựng lâu nay, cả điệp viên đang an toàn trong lòng địch sẽ dễ bị vỡ. Người chiến sĩ tình báo, trong cận kề cái chết, nhiệm vụ bảo vệ đường dây vẫn là cao cả nhất.
Tư Cang đặc biệt nhớ về chị giao liên dũng cảm này. Có lần, Hai Ánh mang một chỉ thị xuống cho Tư Cang. Đi tới Hoóc Môn, chị bị chặn lại tại một bốt cảnh sát kiểm tra giấy tờ gắt gao. Không thể để tài liệu rơi vào tay giặc.
Hai Ánh giả vờ làm rơi chỉ thị đã được cuốn tròn như viên bi nhỏ xuống đất. Cô nhanh chân đạp lên nó. Thừa lúc không ai để ý, giả bộ cúi xuống gãi kiến cắn, Ánh nhặt chỉ thị lên và cho vào mồm nuốt. Qua khỏi bốt gác, cô tới ngã tư Bảy Hiền mua 2 trái dừa to để uống rồi móc họng. Tài liệu được ói cho ra, chuyển về an toàn cho thủ trưởng Tư Cang.
Sau này, khi chiến tranh đã qua đi, thủ trưởng Tư Cang vẫn tự hào, trong quá trình hoạt động trong thành, lực lượng mật của H.63 không ai hy sinh, không ai bị bắt cả. Tư Cang điều khiển lưới trơn tru đâu ra đấy. Lực lượng mật toàn vẹn cho đến ngày giải phóng.
Trong đợt 1 Mậu Thân, khi Tư Cang đang núp trong nhà Tám Thảo, một chuyện ngoài dự tính đã xảy đến. Nhưng sự thông minh, khéo léo của Tám Thảo đã giúp Tư Cang không bị lộ, gia đình không bị địch quấy rầy. Đó là những ngày quân ta và địch đang giằng co tại khu vực Dinh Độc Lập.
Từ trên căn xép nhỏ, Tám Thảo và Tư Cang quan sát hết được diễn biến trận đánh. Nhìn thấy mấy tên Mỹ đứng lố nhố phía bên kia đường, Tám Thảo bảo Tư Cang dùng tài nghệ bắn súng hạ bọn chúng. Hai phát súng của Tư Cang hạ hai tên giặc. Bắn xong anh đi qua giường ngủ của Tám Thảo, len qua những bành vải cùng vật dụng phế thải của gia đình và chui vào một lỗ nhỏ bị bể trên tường gạch. Đó là nơi ẩn náu của anh.

d
Khi còn hoạt động trong thành, lúc nào trong túi Tư Cang cũng có viên đạn giành riêng cho mình...

Tức tối, nghi vấn, địch mò vào nhà Tám Thảo lùng sục. Còn 25 viên đạn. Anh lấy 1 viên bỏ vào túi. Bao giờ cam go, cận kề cái chết anh cũng làm vậy. Một viên đạn luôn để dành cho chính mình. Sợ 1 viên dễ bị kẹt, anh bỏ thêm viên nữa vào túi. Đây là lúc rất có thể viên đạn dành riêng cho Tư Cang được sử dụng.
Ông xác định nếu bị lộ, sẽ sống còn với chúng, và viên đạn dành cho mình sẽ găm vào tim. Nếu không làm thế, địch sẽ bắt được và cả lưới được gây dựng lâu nay, cả điệp viên đang an toàn trong lòng địch sẽ dễ bị vỡ. Người chiến sĩ tình báo, trong cận kề cái chết, nhiệm vụ bảo vệ đường dây vẫn là cao cả nhất.
Bọn địch đã lao xao ngoài ngõ. Chúng phỏng đoán hướng bắn từ ngôi nhà này. Tư Cang thấy thương gia đình Tám Thảo. Mọi người trong nhà đã xem Tư Cang như người thân. Nếu chúng phát hiện ra ông, không chỉ Tám Thảo, mà cả gia đình cô cũng liên lụy nặng.
Tư Cang thấy thương Tám Thảo vô hạn. Với cô, không chỉ còn là tình đồng chí đồng đội, trong những lúc cam go của cuộc chiến, những phút lãng mạn trong lòng địch, Tư Cang đã có chút tình cảm với cô.
Tiếng tên chỉ huy nói to: "Bắt thằng Việt Cộng ra xem gan lớn như thế nào mà dám ở vùng này!". Có lẽ tên chỉ điểm gần nhà đã nghi từ lâu, vì thấy Tư Cang hay đi ra đi vào với Tám Thảo. Đang ngồi thu mình trong bóng tối, Tư Cang nghe tiếng động phát ra từ mái nhà. Bọn địch cho cả 1 tốp đi trên ngói truy tìm kẻ bắn ra 2 phát súng vừa nãy. Chúng đã bao vây kín nhà Tám Thảo.
Địch đập cửa đòi kiểm tra sổ gia đình. Chúng lần mò lên tầng trên, chỗ Tư Cang đang núp. Nó chỉ cách anh có mười mấy thước. Lúc đó, Tám Thảo trong màn bước ra, cô làm bộ không biết gì và đối đáp với nó. Thảo cố tình nói thông tin mình làm cho Mỹ. Tụi nó lại nhìn thấy hình tên sếp Mỹ của Tám Thảo để trên bàn. Tên Đại úy trinh sát dẫn đầu đám lùng sục xua quân ra về (Phần thông tin này VietNamNet đã đưa chi tiết trong loạt bài về nữ điệp viên Tám Thảo).
Sau này, một người thuộc thế hệ sau của Tư Cang - Tám Thảo khi biết chuyện đã viết bài thơ "Bức hình kỷ niệm" tặng 2 người. Đại tá Tư Cang đã trân trọng in bức ảnh Tám Thảo và bài thơ trong cuốn hồi ký về trận Mậu Thân năm 1968, như một kỷ niệm đẹp:
"Đã nhiều năm sau cuộc chiến tranh
Tôi vẫn để tấm hình em bên ngực trái
Nơi ngày đó tôi cất viên đạn cuối cùng
Giành cho mình khi giặc xét nhà em...
...Giờ bức hình tôi vẫn để bên tim
Nơi viên đạn tôi giành riêng ngày đó
Tim tôi vẫn cuộn sôi dòng máu đỏ
Bên bức hình người đã chở che tôi".
Trong quá trình hoạt động của H.63, thời điểm trước và sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 được coi như một trong những thời kỳ hiệu quả nhất...
 Hà Trường - Việt Hà - Thế Vinh