![]() |
|
"Kiến trúc sư" Trần Quốc Hương
|
Để rồi, khi đồng chí Phạm Văn Hùng - sĩ quan bảo vệ
mời ông vào phòng, tôi đã ngỡ ngàng khi trước mặt là ông cụ nhỏ nhắn,
đẹp lão, với nụ cười hiền hậu, phong thái nhẹ nhàng, thấm đẫm văn hóa
phương Đông.
Với chiếc áo khuy ngang màu ngà và tấm khăn rằn quàng cẩn thận trên cổ, trông ông hệt một ông già phương Nam giản dị. Trong câu chuyện, mỗi lần kể về mẹ hay những người phụ nữ đã giúp đỡ ông trong cuộc đời hoạt động cách mạng và thay ông chịu bao đau khổ, ông đều không giấu nổi nghẹn ngào. Ông - “kiến trúc sư” của một mạng lưới tình báo với những chiến công đã đi vào lịch sử đây ư? Câu hỏi ấy cứ vang lên trong đầu tôi suốt cuộc chuyện trò.
Với chiếc áo khuy ngang màu ngà và tấm khăn rằn quàng cẩn thận trên cổ, trông ông hệt một ông già phương Nam giản dị. Trong câu chuyện, mỗi lần kể về mẹ hay những người phụ nữ đã giúp đỡ ông trong cuộc đời hoạt động cách mạng và thay ông chịu bao đau khổ, ông đều không giấu nổi nghẹn ngào. Ông - “kiến trúc sư” của một mạng lưới tình báo với những chiến công đã đi vào lịch sử đây ư? Câu hỏi ấy cứ vang lên trong đầu tôi suốt cuộc chuyện trò.
Con đường trở thành nhà tình báo
Nhắc đến các nhà tình báo nổi tiếng như Phạm Xuân Ẩn,
Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Phạm Ngọc Thảo – những người mà tên tuổi đã
vượt ra khỏi biên giới vì sự cống hiến của họ cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, không thể không nhắc đến ông - người mà mỗi chiến công của các
điệp viên huyền thoại ấy đều gắn bó với sự chỉ đạo mang tầm chiến lược
của ông. Đó chính là nhà tình báo Trần Quốc Hương, còn gọi là Mười Hương
- Ủy viên Trung ương từ khóa IV đến khóa VI, Bí thư Trung ương Đảng,
Trưởng ban Nội chính Trung ương và đã được trao tặng - Huân chương cao
quý nhất.
Tên thật của ông là Trần Ngọc Ban, quê ở Vụ Bản, Bình
Lục, Hà Nam. Là con trai út một gia đình tư sản, nhưng ông lại tham gia
cách mạng từ rất sớm, lúc mới 13 tuổi, nhờ sự giác ngộ của người thầy
học Nguyễn Đức Quỳ - sau là Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam, rồi Thứ trưởng Bộ Văn
hóa. Được thầy Quỳ giới thiệu, ông lên Hà Nội gặp các ông Trường Chinh,
Lê Toàn Thư, Hoàng Đình Tuất rồi gặp Bác Hồ và càng ý thức rõ hơn về
việc tham gia cách mạng của mình.
Năm 1941, ông bị Pháp bắt cùng với ông Nguyễn Thọ
Chân vì treo cờ Cộng sản và rải truyền đơn, rồi bị tống giam hơn một
năm trước khi ra tòa án binh của Pháp. Nhưng do còn nhỏ tuổi, ông đã
được trả tự do với lời cảnh báo của một mật thám Pháp: “Đừng thấy nó nhỏ
tuổi mà coi thường, Cộng sản đã ăn vào máu của nó rồi”. Năm 1943, ông
đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản. Trước và sau Cách mạng tháng Tám,
ông làm thư ký riêng của Tổng Bí thư Trường Chinh và là một trong những
người chuẩn bị chu đáo cho buổi ra mắt quốc dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Chính phủ lâm thời tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945.
![]() |
|
Ông Mười Hương trong chương trình giao lưu
"Ký ức thời hoa lửa" tổ chức tại Học viện cảnh sát nhân dịp 30/4/2008 |
Thế là ông nhận nhiệm vụ. Rồi ghé về thăm mẹ, bởi ông
hiểu rằng, với việc ra đi của ông, không ai khổ hơn mẹ. Thấy con đột
ngột trở về, linh cảm của người mẹ cho bà cụ biết sẽ là khởi đầu một
cuộc chia tay dằng dặc, nên cụ lặng lẽ nấu một nồi cháo thịt cho con ăn,
rồi giục ông đi ngủ. Ông nghẹn ngào nhớ lại: “Tôi nằm nghỉ trên tấm
phản, mẹ ngồi bên cạnh âu yếm rờ nắn khắp mặt mũi, chân tay tôi. Cho đến
tận bây giờ, tôi vẫn còn cảm thấy hơi ấm nóng từ những giọt nước mắt
của bà rơi trên mặt tôi đêm đó”. Không ai ngờ chuyến đi ban đầu dự định
chỉ 6 tháng, đã kéo dài tới 10 năm.
Vào Nam, lạ nước lạ cái, nhưng ông may mắn được các
đồng đội thân thiết, nhất là ông Phan Trọng Tuệ - từng là bạn tù và ông
Lê Toàn Thư giúp nắm bắt tình hình để cùng ông Mai Chí Thọ và Cao Đăng
Chiếm nhanh chóng mở các lớp huấn luyện nghiệp vụ tình báo.
Năm 1958, ông sa vào tay giặc. Biết ông là cán bộ cao
cấp, anh em họ Ngô tìm cách “chuyển hướng” tư tưởng để sử dụng. Đích
thân Ngô Đình Nhu bố trí gặp ông tại nhà nghỉ mát của Ngô Đình Cẩn ở cửa
Thuận An (Huế) để hòng lung lạc. Không khuất phục được, chúng đã đưa
ông vào danh sách 200 tù nhân cần thủ tiêu, nhưng chưa kịp thực hiện thì
cuộc đảo chính Diệm xảy ra.
Ông nhớ lại những ngày tháng ấy: Chúng liên tiếp hỏi
cung cả ngày lẫn đêm, không cho ngủ, nếu ngủ gật là chúng đánh, nhằm làm
cho ông căng thẳng tinh thần đến không chịu nổi. Ông bảo, nó muốn thế
thì mình phải trụ vững. Cơm tù chỉ có một đĩa nhỏ, chúng còn trộn muối
sống vào, thì ông lựa từng hạt cơm để ăn có sức mà tranh đấu. Hơn nữa,
“đôi mắt trong veo của cậu con trai đầu lòng nhìn tôi lúc chia tay
thường hiện về, góp phần động viên tôi đủ nghị lực không sa ngã trước
quân thù. Chỉ vì một lẽ đơn giản đến khó tin là, tôi sợ mình không dám
nhìn vào đôi mắt đó khi gặp lại, nếu không giữ được khí tiết cách mạng”.
Người thầy của những nhà tình báo anh hùng
Với vai trò một “kiến trúc sư” của một mạng lưới tình
báo, ông Mười Hương là người có tầm nhìn sâu sắc, toàn diện và tinh tế
về thế mạnh, khả năng làm tình báo và phẩm chất của từng người. Trước
khi vào Nam, qua sự giới thiệu của ông Nghĩa, Bí thư tỉnh Thái Bình, ông
Mười Hương đã xây dựng ông Vũ Ngọc Nhạ làm cơ sở. Đây là nước cờ quan
trọng cho một kế hoạch dài hơi mà ông tính đến, xứng danh một nhà tình
báo chiến lược.
Nhận nhiệm vụ trong Ban Địch tình Xứ ủy, với vỏ bọc
là giáo viên dạy tư tại Sài Gòn, ông Mười Hương đã móc nối thành công
với điệp viên Vũ Ngọc Nhạ để triển khai tiếp kế hoạch đã vạch. Thực hiện
chỉ đạo của ông Mười Hương, ông Vũ Ngọc Nhạ đã chiếm được lòng tin của
Giám mục Lê Hữu Từ - Giám mục giáo xứ Phát Diệm, trở thành người đại
diện trong quan hệ với chính quyền họ Ngô rồi gây được ảnh hưởng trong
gia đình Diệm, tạo nên những chiến công lừng lẫy trước khi bước vào tiểu
thuyết “Ông cố vấn” nổi tiếng của nhà văn Hữu Mai.
Với điệp viên xuất sắc Lê Hữu Thúy (Đại tá, Anh hùng
LLVTND, nguyên mẫu của nhân vật Lê Nguyên Vũ trong “Điệp viên giữa sa
mạc lửa” của Nhị Hồ), ông Mười Hương khai thác triệt để sự thông minh
lanh lợi, sự hiểu biết cũng như các mối quan hệ của Lê Hữu Thúy với các
nhân vật chóp bu trong chính quyền Diệm, tạo nên vỏ bọc vững chãi cho
điệp viên này chui sâu vào hàng ngũ của địch, phục vụ các yêu cầu của
cách mạng.
Khi đã chiếm trọn lòng tin của Tổng trưởng Nội vụ
Huỳnh Văn Nhiệm, rồi chinh phục cả Bảy Viễn - thủ lĩnh Bình Xuyên lẫn
Năm Lửa - tướng của Hòa Hảo, Lê Hữu Thúy đã thành công trong việc khơi
sâu mâu thuẫn giữa các tổ chức giáo phái với chính quyền họ Ngô, buộc
Diệm phải mất rất nhiều thời gian cùng binh lực để ổn định tình hình,
tạo thời cơ cho cách mạng miền Nam có thêm thời gian và điều kiện xây
dựng, củng cố lực lượng.
Với từng đường đi nước bước của chiến lược gia Mười
Hương, điệp viên Phạm Ngọc Thảo đã tiếp cận Ngô Đình Diệm và bằng tài
năng cá nhân, nhanh chóng được Diệm đặc biệt tin cẩn và trọng dụng, rồi
leo cao trong chính quyền ngụy. Năm 1965, Phạm Ngọc Thảo đã tiến hành
đảo chính định lật đổ Nguyễn Khánh nhưng việc không thành nên bị địch
sát hại.
Nhìn thấy khả năng thiên phú của ông Phạm Xuân Ẩn, từ
rất sớm, Mười Hương cùng ông Mai Chí Thọ quyết định đưa Phạm Xuân Ẩn
sang Mỹ học nghề báo để về nước phục vụ cách mạng. Kế hoạch được thực
hiện trọn vẹn khi với vỏ bọc này, nhà tình báo tài ba Phạm Xuân Ẩn đã có
cơ hội diện kiến nhiều nhân vật quan trọng của cả Mỹ lẫn ngụy, để khai
thác và chuyển về hậu cứ những thông tin có giá trị về các chiến lược
đặc biệt của kẻ thù, giúp quân ta có kế hoạch đối phó và đập tan mọi âm
mưu của địch và vững bước đến thắng lợi trọn vẹn.
![]() |
| Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường hoan hô bộ đội giải phóng vào ngày 30/4/1975 |
Ông kể: “Lúc còn sống, đồng chí Lê Đức Thọ và một cán
bộ tình báo đã gặp Dương Văn Minh để hỏi thẳng rằng, điều gì làm cho
ông tuyên bố án binh bất động trong ngày 30/4/1975, thì Dương Văn Minh
nêu nhiều lý do, trong đó cùng với lực lượng quân đội còn có sự tác động
của một số nhóm thuộc lực lượng an ninh của ta”.
Thế nhưng, nhắc về những chiến công lẫy lừng ấy,
“kiến trúc sư” Mười Hương giản dị: “Thành tích mà các anh ấy có được, là
do sự lãnh đạo của Trung ương và các lực lượng cách mạng, do tài năng
và lòng quả cảm của chính các anh đó, còn tôi chỉ là người được giao
chắp nối các đầu mối. Hoạt động tình báo như diễn kịch và các nhà tình
báo trên đã thực hiện xuất sắc vai diễn của mình”.
Phía sau hào quang
Không thể nói hết sự lớn lao trong những chiến công
mà ông Mười Hương và đồng đội đã lập lên cho nền độc lập của dân tộc.
Nhưng mấy ai biết rằng, phía sau vầng hào quang chói lòa ấy, là bao mất
mát, hy sinh, thầm lặng nhưng dai dẳng, để đến hôm nay, nhắc lại thôi
cũng đủ làm ông đau lòng.
Ngày ông vào Nam hoạt động, cả 2 đứa con còn nhỏ xíu.
Vì yêu cầu bí mật, cuộc chia tay không hẹn ngày về của ông chỉ có vòng
tay bịn rịn và cặp mắt trong veo, nhòe ướt của cậu con trai nhỏ. 10 năm
không tin tức, vì nguyên tắc hoạt động và mất tới 6 năm ông ở trong tù.
Trở ra Bắc, đứa con gái nhỏ lẫm chẫm bò lúc ông đi, chạy vuột khỏi tay
cha: “Bà ngoại ơi, có ông nào đến nhận là bố con!”. Nhưng đau đớn nhất
là ông phải đối diện với sự tan vỡ của cuộc sống tình cảm vợ chồng.
Lại thêm gần 10 năm nữa vào Nam hoạt động. Dằng dặc
gần 2 thập niên ấy, các con ông tiếng là có cha nhưng rất ít khi được
gặp chứ nói gì được ông chăm sóc. Nhưng cùng với các con, ông cũng chịu
nhiều mất mát. Ngày đất nước thống nhất, mọi người hân hoan đoàn tụ, còn
ông, nỗi cô đơn thấm tận đáy lòng. Ông không dám trách ai, bởi biết
rằng, vì nhiệm vụ cao cả, ông đã không thể làm tròn vai trò của người
chồng, người cha trong gia đình.
Cả cuộc đời ông cứ lặng lẽ hy sinh cho đất nước. Mãi
gần 10 năm sau ngày giải phóng, đã ở tuổi 60, ông mới lại có được hạnh
phúc muộn mằn
-
Nguồn: ANTG, 01.08.2008.



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét