Thứ Năm, 2 tháng 5, 2013

Những tội ác của “Mãnh Hổ”, “Rồng Xanh” Đại Hàn ở VN

Giữa Việt Nam và Hàn Quốc ngày nay có một mối quan hệ nồng ấm trên các lĩnh vực kinh tế và văn hóa. Thật sự khó có thể hình dung được điều này nếu quay trở về thời điểm cách đây 4 thập niên – khoảng thời gian đen tối nhất trong lịch sử quan hệ giữa hai nước. 

Đó là giai đoạn mà các lực lượng quân sự Hàn Quốc đã tham gia và gây nhiều tội ác trong cuộc chiến do Mỹ tiến hành tại Việt Nam. Các tội ác này gắn với cái tên rất kêu của các đơn vị chiến đấu Hàn Quốc như Sư đoàn bộ binh "Mãnh Hổ", Bạch Mã", Lữ đoàn thuỷ quân lục chiến "Rồng Xanh"…

Theo giáo sư người Hàn Quốc Heonik Kwon, tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng về chiến tranh Việt Nam, đã có trên 43 vụ thảm sát đẫm máu do binh lính Hàn Quốc thực hiện tại Việt Nam được ghi nhận, trong đó có ít nhất 13 vụ giết trên 100 người.

Giờ đây, chương lịch sử u ám đó đã được khép lại, nhưng không có nghĩa là nó sẽ bị lãng quên vĩnh viễn. Các thế hệ sau cần ghi nhớ khoảng tối lịch sử này như một bài học đắt giá để biết trân trọng mối quan hệ mình đang có, cũng như để những câu chuyện đau buồn không còn có cơ hội xảy ra trong tương lai.

Vụ thảm sát Thái Bình

Vào một buổi sáng sớm của tháng 2/1966, một toán quân thuộc Sư đoàn bộ binh Mãnh Hổ của Hàn Quốc đã tiến vào làng Thái Bình (tỉnh Quảng Nam) trong một cuộc càn quét các du kích Giải phóng.

Tuy vậy, chúng chỉ tìm thấy trong ngôi làng 68 người, hầu hết là phụ nữ, người già và trẻ em. Những con người vô tội và không có khả năng kháng cự này đã trở thành đối tượng để “Mãnh Hổ” trút giận. Bằng hàng loạt phát súng và cả một quả lựu đạn, lính Hàn Quốc đã giết hại dã man 65 người.

Ba người may mắn sống sót trong vụ thảm sát sau đó đã trở thành nhân chứng tố cáo tội ác của Sự đoàn Mãnh Hổ. Để ghi nhớ sự kiện tang tóc này, một đài tưởng niệm khắc tên của 65 nạn nhân đã được dựng lên tại làng Thái Bình. 

Vụ thảm sát Diên Niên – Phước Bình

Vào sáng ngày 9/10/1966, một trung đội lính Hàn Quốc thuộc Tiểu đoàn 3 - Lữ đoàn Rồng Xanh bắt đầu tập kích từ căn cứ đồi tranh Quang Thạnh (xã Tịnh Thọ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi) vào thôn Phước Bình. Sau đó, chúng đổ quân càn quét, lùng sục tất cả nhà dân và hầm chống phi pháo, cưỡng bức nhân dân xóm Bình Trung (thôn Phước Bình) tập trung về sân trường học của thôn.

Sau khi tập trung dân, chúng bắt đầu xả súng và ném lựu đạn vào nhóm dân thường. Vụ giết chóc này làm 68 người dân thôn vô tội ngã xuống, trong đó có 21 cụ già, 47 phụ nữ và trẻ em.

 Bia tưởng niệm vụ thảm sát Diên Niên. Ảnh: Dân Trí.

Ngày 13/10, quân “Rồng Xanh” tiếp tục càn quét và hại thêm 112 người dân vô tội ở thôn Diên Niên gần đó.
Tổng cộng, trong hai ngày 9/10 và 13/10/1966, lính Hàn Quốc đã tàn sát 280 phụ nữ và trẻ em ở hai thôn Diên Niên, Phước Bình. Ngày nay, di tích vụ thảm sát Diên Niên - Phước Bình đã được xếp hạng và cấp bằng di tích quốc gia.

Vụ thảm sát Bình Hòa
Ngày 3/12/1966,  nhằm trả đũa các hoạt động du kích của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, lính Hàn Quốc đã thực hiện một cuộc càn quét tại xã Bình Hòa, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi.
Trong vòng ba ngày, tại 5 địa điểm: buồng đất nhà ông Trắp, hố bom Truông Đình, Dốc Rừng, Đồng Chồi Giữa, đám ruộng giếng xóm Cầu, lính Hàn Quốc đã giết hại hàng trăm dân thường một cách dã man.
Cao điểm là vào chiều ngày 6/12, người dân đã bị cưỡng bức tập trung lại rồi bị lính Hàn Quốc đồng loạt xả đạn, khiến 267 người thiệt mạng.

Tổng cộng, trong thảm sát Bình Hoà, lính Hàn Quốc đã giết hại 430 người, trong đó có 269 phụ nữ (12 phụ nữ bị cưỡng hiếp đến chết), 104 người già, 174 trẻ em. 3 gia đình bị giết sạch không còn một ai.

Năm 1990, chính quyền và nhân dân địa phương đã xây dựng một tấm bia căm thù tại hố bom Truông Đình ghi lại tội ác này. Tháng 5/1991, di tích vụ thảm sát Bình Hòa được xếp hạng và cấp bằng di tích quốc gia.

Vụ thảm sát Bình An

Ngày 23/1/1966, quân Hàn Quốc bất ngờ tổ chức một cuộc tấn công vào Bình An (Nay là xã Tây Vinh - Huyện Tây Sơn - Tỉnh Bình Định). Chúng bao vây từ 4 phía với quyết tâm tiêu diệt toàn bộ lực lượng của ta, nhưng đã bị đánh trả quyết liệt.

Tức tối vì không đạt được mục đích, ngày 7/2/1966, các đơn vị lính Hàn Quốc bắt đầu tiến hành một chiến dịch tấn công tàn bạo bằng vũ khí hạng nặng. Từ sáng sớm, các đơn vị pháo binh của địch đều nã đạn cấp tập vào Bình An. Khi pháo ngừng, lính Hàn Quốc lập tức ập đến.

Chúng tìm kiếm các hầm trú ẩn của dân ven làng, thả lựu đạn cay bắt mọi người phải trồi lên rồi thả sức tàn sát. Ngay trong ngày đầu chiến dịch, 58 người dân đã bị giết hại.

Những ngày sau đó, cuộc giết chóc, đốt phá ngày càng mở rộng qui mô và sự dã man. Trong ngày 12/2, 109 người đã bị giết hại. Ngày 23/2, tại khu vườn nhà ông Trương Niên ở thôn An Vinh, lính Hàn đã dồn 90 người dân tới, dùng súng trung liên hạ sát toàn bộ.

26/2 là ngày đẫm máu nhất, khi lính Hàn Quốc dồn tất cả những người chúng bắt được ở các nơi về Gò Dài (thôn An Vinh). Chúng đã giết hại 380 người bằng những hành động man rợ như hãm hiếp rồi dùng lưỡi lê đâm vào cửa mình phụ nữ, chất rơm đốt lửa thiêu sống trẻ em…

Chiến dịch thảm sát của địch đã khiến trên 1.000 dân lành bị giết hại, trong đó phần lớn là người già, phụ nữ và trẻ em. Sự sống ở Bình An gần như bị hủy diệt hoàn toàn.

Vụ thảm sát Cây đa Dù

Sáng mùng 4 tháng Giêng năm Mậu Thân (12/2/1968), người dân các làng Phong Nhất, Phong Nhị ở huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đã bị đánh thức bởi tiếng đạn pháo và súng máy. Sau đó, lính Hàn Quốc xuất hiện và áp giải rất nhiều phụ nữ, người già, trẻ em đến cây đa Dù ven quốc lộ 1A. Tất cả những người này sau đó đã bị hành quyết một cách dã man.

Theo các báo của của Mỹ, từ 70 – 80 người dân không có vũ khí đã thiệt mạng. Đơn vị gây ra tội ác chiến tranh này là Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến số 2 của Hàn Quốc.

 Hình ảnh vụ thảm sát Cây đa Dù trên mạng Hàn Quốc.

Mâu thuẫn giữa Mỹ và Hàn Quốc đã xảy ra trong việc điều tra về vụ thảm sát.  Phía Hàn Quốc đã ngụy biện rằng thủ phạm của vụ thảm sát là những “binh sĩ Việt Cộng mặc đồng phục lính Hàn Quốc”.

Tuy vậy, Đại tá Robert Morehead Cook, tổng thanh tra của Lục quân Hoa Kỳ đã bác bỏ luận điệu này và khẳng định chính các binh sĩ Hàn Quốc đã tiến hành vụ thảm sát.

Vụ thảm sát Hà My

Tờ mờ sáng 26 tháng Giêng năm Mậu Thân (25/2/1968), nhằm cưỡng bức người dân vùng bám trụ vào ấp chiến lược, hai đại đội lính của Lữ đoàn Rồng Xanh đã kéo đến bao vây làng Hà My (xã Điện Dương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam),

Chúng gom người già, phụ nữ, trẻ em về xóm Tây ở ba điểm: Trước nhà ông Nguyễn Điểu (42 người); hầm nhà bà Lê Thị Thoại (16 người) và nhà ông Nguyễn Bính (74 người). Sau đó, chúng dùng súng tiểu liên, cối, lựu đạn, bắn và ném xối xả về phía người dân.
Man rợ hơn, sau khi tàn sát, chúng phóng hỏa đốt thiêu, thịt cháy khét, chỉ còn xương chất thành đống, chẳng ai còn gương mặt để nhận dạng.

Vụ thảm sát đã khiến 135 người bị sát hại, trong đó chủ yếu là người già, phụ nữ và trẻ em.

Vụ thảm sát Duy Trinh

Sáng 14/8//1968, lính Hàn Quốc đóng tại Hòn Bằng, cách làng Duy Trinh (Quảng Nam) chừng 400 m bắt đầu càn vào làng. Vừa đi chúng vừa bắn. Phần lớn người ở lại là người già, trẻ con và phụ nữ chạy xuống hầm trú ẩn.
Quân địch phát hiện ra căn hầm nhà bà Thiệu tại xóm Mỹ An, liền ra lệnh mọi người ra khỏi nơi ẩn nấp, đứng xếp hàng trên miệng hầm. Một lát sau, chúng bắt tất cả trở lại hầm rồi bắt đầu cuộc giết chóc.
Rất lạnh lùng, lính Hàn Quốc thay nhau cứ bắn một phát lại ném một quả lựu đạn xuống hầm. Có tất thảy 14 người toàn bà già, phụ nữ, trẻ em vô tội bị sát hại thảm thương. Tất cả đều vùi trong căn hầm mà sau này trở thành ngôi mộ chung của họ.
Toán lính Hàn Quốc tiếp tục kéo qua xóm Vĩnh An cách đó chỉ chừng trăm mét. Vẫn hành vi man rợ như cũ, chúng lùa mọi người xuống hầm, lạnh lùng bắn một phát súng lại ném một quả lựu đạn. 18 thường dân vô tội khác đã thiệt mạng.
Tổng cộng, 32 đồng bào đã bị giặc giết trong vụ thảm sát ở làng Duy Trinh.

Nỗ lực hàn gắn nỗi đau lịch sử của người dân Hàn Quốc

Nếu như sự tàn bạo của lính Mỹ với thường dân Việt Nam đã hứng chịu sự trừng phạt của dư luận Mỹ và quốc tế chỉ sau một thời gian ngắn, thì những vụ việc tương tự do lính Hàn Quốc gây ra đã không được nhắc tới sau một thời kỳ dài.

Trong vài thập kỷ sau chiến tranh, do chính sách của các nhà cầm quyền, người dân Hàn Quốc hầu như không có thông tin gì về các hoạt động trong quá khứ của binh lính Hàn Quốc tại Việt Nam. Phải tới đầu những năm 2000, những bằng chứng về tội ác mới bắt đầu được truyền thông Hàn Quốc đưa ra qua tiết lộ của các cựu quân nhân Hàn Quốc ở Việt Nam.

Những tiết lộ này đã phơi bày chi tiết sự tàn nhẫn trên một mức độ khó tưởng tượng của binh lính Hàn Quốc đối với dân thường Việt Nam, gây ra một cú sốc trong dư luận về vai trò của người Hàn Quốc trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Nhận thức được những tội ác trong quá khứ của các binh lính Hàn Quốc, kể từ đó đến nay, một số cựu binh và những người yêu chuộng hòa bình ở Hàn Quốc đã tham gia các cuộc vận động về vấn đề các vụ thảm sát ở Việt Nam, gửi lời xin lỗi đến nhân dân Việt Nam và quyên góp tiền để xây dựng các trường học và bệnh viện tại những nơi chịu tổn hại nặng nề nhất. Thông qua các hoạt động đó, họ mong muốn nhận được sự tha thứ từ người Việt Nam.
 
Trong một cuộc thăm dò dư luận do Uỷ ban Hoà Bình của Tổ chức đoàn kết quốc tế của Hàn Quốc (KHIS) tiến hành, 77,9% người tham gia cho rằng, chính phủ Hàn Quốc cần xin lỗi công khai và bồi thường cho các nạn nhân Việt Nam vì những tội ác mà các đội quân “Mãnh Hổ”, “Rồng Xanh” đã gây ra.

Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2013

Hoàng Sa - Trường Sa

Kỳ 1 - Cuộc tranh chấp phức tạp
QĐND - Thứ Sáu, 12/08/2011, 20:59 (GMT+7)
Tranh  chấp  chủ  quyền  trên  hai  quần  đảo Paracels và Spratlys  (Hoàng Sa và Trường Sa  theo tên  gọi Việt Nam, Tây  Sa  và Nam  Sa  theo  tên  gọi Trung Quốc) nằm giữa biển Đông đã  tồn  tại từ  trăm năm nay. Đó  là những  tranh chấp  lâu đời nhất giữa nhiều nước cùng  yêu  sách  chủ quyền trên các đảo, một cuộc tranh chấp kéo dài cho đến tận ngày hôm nay mà chưa đạt được bất kỳ một giải pháp pháp lý bền vững  nào.
Nó còn phức tạp hơn với nghĩa là tranh chấp lúc thì bùng lên gay gắt, lúc lại lắng xuống với những thay đổi phức tạp từ phía các bên có can dự trực tiếp vào cuộc tranh chấp. Lúc đầu, cuộc tranh chấp chỉ  liên quan trực tiếp đến các đảo. Do vị  trí địa  lý, các đảo này cho phép quốc  gia  ven  biển chiếm hữu  chúng không chỉ quyền kiểm soát thông thương hàng hóa trong  biển Đông mà  còn quyền sử dụng chúng như các căn cứ hải quân ban đầu nhằm mục đích quốc phòng.
Cuộc đua tranh có quy mô và sắc thái khác từ sự phát triển  nhanh chóng  gần đây của Luật  Biển quốc tế  và khả năng phát  hiện  được những mỏ dầu có thể khai thác được nằm dưới đáy biển của hai quần đảo. Công ước của Liên Hiệp Quốc về  Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 có hiệu lực từ năm 1994 cho phép  các quốc gia ven biển có quyền mở  rộng lãnh hải 12 hải  lý, vùng đặc quyền kinh  tế 200 hải  lý và thềm lục địa.
Sự phát triển của luật biển quốc tế đem lại nhiều lợi ích cho quốc gia ven biển như khả năng khai thác các tài nguyên thiên nhiên từ  biển: dầu mỏ, nguồn lợi  thủy sản, khoáng sản, nhưng cũng làm nảy sinh vấn đề phân định vùng biển và thềm lục địa giữa các quốc gia có vùng biển chồng lấn. Giải quyết vấn đề phân định biển luôn gắn  liền  với vấn đề tranh chấp lãnh thổ, đảo.
Theo quy định của UNCLOS 1982,  các đảo, đá  hoặc có  thể  có  vùng  lãnh  hải  12  hải  lý,  vùng  đặc  quyền kinh  tế 200 hải  lý và  thềm  lục địa hoặc chỉ có vùng lãnh hải 12 hải  lý, căn cứ vào một số điều kiện nhất định. 
Đảo Trường Sa Lớn - Ảnh: Đỗ Hùng 


Trên  thực  tế,  tranh  chấp  phức tạp  thêm chính  là do nguyện vọng của các quốc gia ven biển muốn cho một số đảo, đá, bãi ngầm ngoài khơi không có người ở này được hưởng quy chế pháp  lý đầy đủ  của một đảo. Đúng là luật biển quốc tế mới cho phép các quốc gia ven biển được yêu sách một vùng thềm lục địa và một vùng đặc quyền về kinh tế rộng hai  trăm hải  lý xung quanh các đảo nổi thường xuyên  khi  thủy  triều  lên.  Nhưng  thực tế vẫn có các đảo không thích hợp cho con người đến ở hoặc  cho một  đời  sống  kinh  tế  riêng  có  thể  đòi  hỏi cùng một  quy  chế  như  trên ([1]).  Luật  biển  hiện  đại  đó làm tăng thêm giá trị địa chiến lược của hai quần đảo và  các  bên  tranh  chấp  chính  là  về  vai  trò  địa  chiến lược mới đó của hai quần đảo.
Các  tranh chấp  trên biển Đông, ngoài ý nghĩa về chủ quyền lãnh thổ, lợi ích chiến lược còn  là  quyền sở hữu và khai thác tài  nguyên,  đặc biệt  là  tài  nguyên dầu mỏ. Tranh chấp chủ quyền các đảo và vùng biển không dễ dàng được  giải  quyết  vì  liên  quan  không  chỉ  yếu  tố  luật pháp mà còn cả về lịch sử, ý chí dân tộc và kinh tế.
Mục tiêu của cuộc tranh chấp dai dẳng giờ đây không chỉ là các đảo chính mà chính là các vùng biển rộng lớn bao quanh chúng nhằm kiểm soát được toàn bộ hoặc chỉ một phần biển này. Hoàng Sa, Trường Sa do CHXHCN Việt Nam xác lập chủ quyền; CHND Trung Hoa, lãnh thổ Đài Loan cùng yêu cầu tương tự. Riêng Trường Sa, Philippines chỉ  vào cuộc từ năm 1956, Malaysia từ năm 1979 và Brunei yêu sách một phần nhỏ từ năm 1993. 
TS Nguyễn Hồng Thao (Theo báo Thanh Niên)

Kỳ 2: Sức ép và phản ứng
QĐND - Thứ Sáu, 12/08/2011, 20:59 (GMT+7)
Trong  các thập  kỷ  gần  đây,  trong  quan  hệ  với Việt Nam, Trung Quốc đã hai lần sử dụng vũ lực để giành quyền chiếm hữu các đảo này, ngày 19-1-1974 tại Hoàng Sa và  ngày 14-3-1988  tại Trường Sa. 
Sau  các  biến  cố  trên, mặc  dù hai nước đã  bình thường hóa quan hệ năm 1991, song  tình  trạng căng thẳng  trên biển vẫn tồn tại ([1]). Việc thông qua Luật về lãnh hải của CHND Trung Hoa ngày 25-2-1992,  trong đó khẳng định lại yêu sách của TQ  đối  với  hai  quần  đảo Hoàng  Sa  và Trường Sa, lại  làm dấy  lên một  làn sóng  lo ngại mới tại Đông  Nam  Á ([2])  về  những  toan  tính  sâu  xa  của TQ. 
Tháng 2.1995 đến lượt quan hệ Trung Quốc - Philippines  trở  nên  căng  thẳng. Philippines  đã  tố  cáo Trung Quốc xâm chiếm bằng quân sự một đảo đá nhỏ mà Philippines tuyên bố chủ quyền trong quần đảo Trường Sa. Bộ  trưởng Quốc  phòng  Philippines đã  đưa  ra những tấm ảnh cho thấy các cấu kiện hình đa giác đã được dựng trên những cột thép đảo đá Vành Khăn, mà theo Philippines, đó là các công trình nhà ở lâu dài. Tàu chiến của Trung Quốc cũng được quan  sát  thấy tập  trung xung quanh đảo đá này. Philippines đã phản ứng  bằng cách  tăng  cường  thêm  lực  lượng  quân  sự  tại Trường Sa.
Ngày 15.5.1996, Trung Quốc gia nhập UNCLOS 1982 và cam kết giải quyết các tranh chấp “phù hợp với  luật pháp quốc tế  đã  được  công  nhận”. Tuy  nhiên, cùng  ngày, Trung Quốc công  bố  sắc  lệnh  mở  rộng lãnh hải, trong đó áp dụng việc vạch đường cơ sở cho quốc gia quần đảo vào khu vực quần đảo Hoàng Sa. Hành  động  này  của Trung Quốc  là “bất  hợp  pháp  - đó là điều mà nhiều học giả đều nói tới” và là chủ đề chất vấn  tại Diễn  đàn  khu  vực ASEAN  (ARF).  
Cơ sở của Trung Quốc tại đá Vành Khăn mà họ chiếm đóng trái phép ở quần đảo Trường Sa - Ảnh: AFP 

Đóng  góp  của  Indonesia  (trong  vai  trò  đồng chủ  trì  với  Canada)  và  các  nước  ASEAN, TQ tại Hội thảo “Kiềm chế các xung đột tiềm  tàng tại biển Đông” từ năm 1993, các sáng kiến về Bộ quy tắc ứng xử giữa Việt Nam - Philippines, Trung Quốc- Philippines,  nỗ  lực  của  các  bên  liên  quan  trực  tiếp  đã đưa đến việc ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trong biển Đông năm 2002 (DOC), một bước ngoặt mới đi đến một giải pháp cho biển Đông.
Tuy nhiên cơn khát dầu lửa và các nguồn tài nguyên biển lại tiếp tục làm  dấy  lên  làn  sóng  lo  ngại mới  về  hành động  lấn chiếm  trên  biển  Đông.  Trong  năm  2007-2009, Trung Quốc đưa ra chiến lược “biển xanh”, triển khai căn cứ tàu  ngầm nguyên tử ở Hải Nam, xúc tiến chương trình đóng tàu sân bay, nâng cấp đơn vị hành chính Tam Á, mở tour du lịch ra đảo Phú Lâm (Hoàng Sa). Tháng 11.2008, Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc CNOOC thông qua kế hoạch đầu tư 200 tỉ NDT  (29  tỉ USD)  cho  thăm  dò  và  khai  thác  dầu khí ở biển Đông.
Trung Quốc cũng  tăng cường sức ép  lên  các  công  ty  dầu  khí  nước  ngoài  (British Petroleum (BP), Conoco Phillips, Exxon Mobil, và Oil & National  Gas  Company  (ONGC)  đang  làm việc trên thềm lục địa VN, tiếp tục duy trì yêu sách đường “lưỡi bò” đứt khúc 9 đoạn và chủ trương “chủ quyền thuộc ta, gác tranh chấp cùng khai thác”. 
Tháng 5-2009, tình hình thêm nóng bỏng với việc Việt Nam tự trình và cùng Malaysia trình hồ sơ chung ranh giới thềm lục địa ngoài 200  hải  lý  và phản  đối  của  Trung Quốc. Phái  đoàn  đại  diện của Trung Quốc tại LHQ lần đầu tiên chính thức khẳng định yêu sách của nước này với tất cả vùng nước và các đảo trong phạm vi “đường yêu sách lưỡi  bò”. Việt Nam và Malaysia cho  rằng  hồ sơ ranh  giới  thềm lục địa của mình được tính từ đường cơ sở đất  liền nên không ảnh hưởng đến quyền lợi của các nước nào khác.
Tầm quan trọng chính trị,  chiến lược và kinh tế của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đòi hỏi phải có được một giải pháp tổng thể. Nhưng trước hết tranh chấp ở đây phải được coi là tranh chấp pháp lý, trong đó cần dựa trên danh nghĩa pháp lý nào để  xác  định  chủ  quyền  trên  các  quần  đảo  này?
Câu hỏi được đặt  ra  là: đây có phải  là  tranh chấp có  liên quan đến quyền thụ đắc lãnh  thổ được coi  là vô chủ (res  nullius) hoặc là tranh chấp một  vùng lãnh thổ trên đó chủ quyền quốc gia đã được xác định, nhưng với thời gian và sự  phát triển của các sự kiện, lãnh thổ đó trở thành lãnh thổ từ bỏ (terre derelictio)?
Do việc chiếm cứ các đảo  khác nhau tại các giai đoạn khác  nhau và do có quá nhiều các  danh nghĩa khác nhau được đưa ra trên cùng một vùng lãnh thổ. Đã có khá nhiều tác phẩm trong và ngoài nước viết về tranh chấp  chủ  quyền  trên  hai  quần  đảo  Hoàng  Sa  và Trường Sa.
Chúng tôi sẽ cố gắng nghiên  cứu sâu các luận thuyết của mỗi bên tranh chấp dưới ánh sáng của thuyết luật theo thời điểm (Intertemporel).
Luật theo thời điểm do M.Hubert đưa ra lần đầu tiên trong vụ đảo Palmas bao gồm  hai nguyên tắc cơ bản: 
1) Một sự kiện pháp lý phải  được đánh  giá  dưới  ánh sáng  của luật mà nó là đương thời  chứ không phải dưới ánh sáng của luật có hiệu lực vào thời điểm mà tranh chấp nảy sinh hoặc được giải quyết;
2) Một luật lệ không thể duy trì trong một hệ thống pháp luật trừ phi nó phù hợp với các yêu cầu trong  hệ  thống  đó. 
TS Nguyễn Hồng Thao (Theo báo Thanh Niên)

Kỳ 3: 
 
Trước  hết  Trung Quốc (TQ)  yêu  sách  chủ  quyền  trên các quần đảo  trên cơ sở quyền phát hiện và  sự quản lý. Lập luận của TQ bao gồm: 1. Người TQ đã phát hiện ra các đảo này sớm nhất và đã đặt tên cho chúng. 2. Ngư dân TQ đã khai thác các đảo này từ  hàng  nghìn  năm  nay. Điều đó chứng  minh  chủ quyền của TQ. 3. Sự  quy  thuộc  các  đảo  này  vào  TQ được củng cố bằng các phát hiện khảo cổ học. 4. TQ đã  thực  hiện  các  hành  động  cai quản trên các đảo này từ lâu đời. Chúng  ta  sẽ  xem  xét  lập  luận  của  TQ trong hai tiểu giai đoạn sau: thiết lập một danh nghĩa ban đầu và việc củng cố danh nghĩa đó.
“Từ  thời Hán Vũ  đế  trước  công  lịch  hai  thế  kỷ, nhân dân TQ đã bắt đầu đi lại trên biển Nam. Trải  qua  thực  tiễn  hàng  hải  lâu  dài  nhân  dân TQ  đã  lần  lượt  phát  hiện  các  quần  đảo  Tây  Sa (Paracels)  và Nam  Sa (Spratlys)” - Sách  trắng  của Bộ  Ngoại  giao  TQ  ngày 30.1.1980:  “Chủ  quyền  không  thể  tranh  cãi  của  TQ trên các đảo Tây Sa và Nam Sa” đã khẳng định như vậy. Để chứng minh danh nghĩa  lịch  sử của họ, phía TQ đã dựa trên những cuốn sách chính như sau:
- Nam châu dị vật chí của Dương Phù và Phù Nam truyện của Khang Thái, đều viết vào thời Tam Quốc (220-265); Vũ  kinh  tổng  yếu của Tăng Công  Lượng  (998-1078) và Đinh Độ (990-1053) thời Tống biên soạn; Mong Liang Lu được soạn dưới thời nhà Tống (960 - 1127); Đảo di chí  lược do Vương Đại Uyên soạn dưới thời nhà Nguyên (1206 - 1368); Đông Tây  dương  khảo của Trương Nhiếp  viết dưới thời nhà Minh (1368 - 1644); “Trịnh Hòa hàng hải đồ” trong  Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi biên soạn đầu thế kỷ XVII; Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ đầu nhà Thanh; Hải  Quốc  văn  kiến  lục  của  Trần  Luân  Quýnh năm 1730; Dương  phòng  tập  yếu của  Nghiêm  Như  Dục viết, Trương Bằng Phi khắc năm 1828; Quỳnh Châu phủ chí giữa thế kỷ XIX; Quảng Đông đồ thuyết (1862-1875); Canh lộ bạ do ngư dân các đời kể lại.
Theo bản đồ do triều đình nhà Thanh ấn hành năm 1894 thì đến cuối thế kỷ XIX "lãnh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết” -  trong ảnh: Đại Thanh nhất thống toàn đồ (đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ (VN), đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan) - Ảnh: biengioilanhtho.gov.vn
Các  sách  kể  trên  hoàn  toàn  không  phải  là  các chính  sử  được  viết  bởi  các  cơ  quan  chính  thức  của nhà nước. Phần  lớn chúng  là những ghi chép về các chuyến đi, các chuyên khảo và các sách hàng hải thể hiện những nhận biết địa  lý của người xưa  liên quan không chỉ  tới  lãnh  thổ TQ mà  còn  tới  lãnh thổ của các nước khác.
Ví dụ, Hải Quốc văn kiến lục, đúng  như  tên  sách,  phần  lớn  nói  về  các  miền  mà người TQ gọi  là “man di” nhiều hơn  là TQ.
Sách Tống  sử phần Ngoại  quốc  chép  chuyện Chiêm  Thành: “Năm  Thiên  Hy thứ  hai  (1016)  vua Chiêm Thành là Thi Mặc Bài Ma Diệp sai sứ là La Bi Đế Gia chở đồ cống sang... La Bi Đế Gia nói  rằng người nước  tôi  trên đường sang Quảng Châu, nếu bị thuyền  dạt  ra Thạch Đường thì cả năm cũng không tới nơi được”.  Cứ  theo  đó  mà  suy  thì  từ  Chiêm Thành  đến Quảng Châu có vùng được  gọi là Thạch Đường  nhưng  không  có  nghĩa  Thạch  Đường  thuộc Quảng Châu và vì sách  này  chép  về  các  vùng  nước người  TQ coi  là “man  di”  thì  nó  không  thể được coi là thuộc  TQ.
Sách Dư  địa  chí, quyển  4  phần Cương vực  chép: “Phía  ngoại  vi  của Quỳnh Châu là biển lớn tiếp với các châu Ô, châu Lý, Tô Cách  Lương,  phía Nam  đến Chiêm  Thành,  phía Tây  đến Chân Lạp, Giao Chỉ,  phía Đông  đến Thiên Lý  Trường  Sa,  Vạn  Lý  Thạch  Đường... Người  địa phương đi thuyền đều không biết rõ đâu là vị trí thực của chúng”. Trong tất cả các sách kể trên, liệt kê một đống  lẫn  lộn  các  tên  Cửu  Nhũ  Loa  Châu,  Thạch Đường, Thiên Lý Vạn Đường, Trường Sa, Thiên Lý Trường  Sa  và Vạn  Lý  Trường  Sa  nhưng  không  có tên Tây Sa và Nam Sa. Bản  thân người TQ cũng  không định  rõ được  vị  trí  của  chúng. Điều đó, không  nghi  ngờ  gì  đã  dẫn  tới  những  cuộc  tranh  cãi bất tận giữa các nhà dịch thuật và các học giả về việc thống  nhất  các  tên  gọi  trên. Mặc dù Hung dan Chiu và Choon Ho Park cho  rằng Vạn Lý Thạch Sành chỉ Spratlys, M.S Samuels  lại bảo vệ tên đó dùng để chỉ đá  ngầm  mà  ngày  nay  có  tên  gọi  là  Trung  Sa (Macclesfield Bank).
Phù Nam truyện chép: “Trong Trướng Hải có các bãi san hô, dưới bãi là đá tảng san hô mọc trên đó”.
Nam Châu di vật chí ghi lại: “Kỳ đầu Trướng Hải nước nông có nhiều từ thạch,  thuyền  lớn  nằm  ngoài biên cương, đóng đai sắt, đi lại dựa trên la bàn”.
Xuất phát  từ  những  ghi  chép  đó,  người TQ cho rằng Trướng Hải  là biển Nam Trung Hoa bao gồm tất cả các đảo của biển Nam Hải. Tuy nhiên, chúng ta có thể có một vài nhận xét:
- Các đoạn văn trích trên không cho thấy rõ vị trí chính  xác  của  Trướng  Hải.  Chúng  cũng  không  xác định  rõ  các  thạch  sành  nói  trên  chính  là  Tây  Sa  và Nam Sa. Các sách trên, đúng như tên gọi, đều là miêu tả các  lãnh  thổ “man di”, nước ngoài, không phải  lãnh thổ TQ.
- Nam  Châu dị  vật chí được  soạn  thời Tam Quốc (220-265)  lại nói  tới việc  sử dụng  la bàn  trong hàng hải,  thế nhưng dụng cụ hàng hải này dường như chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ thứ X.
- Cụm  từ  “nằm  ngoài  biên  cương” cho  thấy  các đảo  đá  này  không  thuộc  lãnh  thổ  TQ. Giả định này còn được khẳng định bởi các  tài  liệu chính thức khác  của TQ mô  tả  và phân định  lãnh thổ của “Thiên triều” kết thúc ở điểm cực Nam của đảo Hải Nam  như: Quỳnh Châu  phủ  chí  (1731), Hoàng Triều  di  tông  tâm  lĩnh (1894),  Đại  Thanh  di  đồ (1905)... hay  các  sách,  bản  đồ  cổ  khác  của  người TQ đều xác định rõ điểm mút phía Nam của lãnh  thổ  TQ  nằm ở Nhai Châu,  thuộc  phủ Quỳnh Châu tỉnh Quảng Đông tại vĩ độ 18013’ Nam. Điều đó  còn được khẳng định bởi  sách Địa  lý  Giáo  khoa  thư,  Thương Vụ ấn Thư Quán, Thượng Hải (TQ) năm 1906 xuất bản: “Phía Nam bắt đầu là  vĩ  độ  18013’  Nam  lấy  bờ  biển  Châu  Nhai  đảo Quỳnh  Châu  (tức  đảo  Hải  Nam)  làm  điểm  mút”. Chúng ta không thấy trong các tác phẩm này một ghi chép nào về các quần đảo nằm ngoài điểm cực Nam đó.
TS Nguyễn Hồng Thao - (Theo Báo Thanh Niên )
 
Kỳ 4: “Bằng chứng khảo cổ” mập mờ và thiếu chính xác của Trung Quốc
QĐND - Thứ Ba, 16/08/2011, 22:45 (GMT+7)
Để củng cố lý lẽ về chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, người TQ sử dụng cả các luận cứ về khảo cổ. Người TQ cho là đã tìm thấy vết tích tiền cổ và vật dụng cổ có từ thời Vương Mãng (năm thứ ba trước Công nguyên cho đến năm 23 sau Công nguyên) trên các quần đảo.
Chang The-Kuang và S.Yeh viết rằng các đảo này có chứa “các tàn tích của khu dân cư, các vật dùng sành sứ, các dao sắt, các nồi gang và các vật dụng hằng ngày khác có niên đại từ thời Đường, Tống”. Báo cáo sơ bộ của chuyến khảo cổ học thứ hai trên quần đảo Tây Sa của tỉnh Quảng Đông ghi rằng “qua hai cuộc khảo sát, các nhà khảo cổ học đã khảo sát hầu hết các đảo, đá, bãi ngầm, các vũng của quần đảo Tây Sa và hầu như ở đâu họ cũng tìm thấy các đồ vật cổ và các lịch sử của quần đảo Tây Sa, bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta từ ngàn đời nay”.
Vấn đề đặt ra ở đây là trong luật quốc tế không tồn tại một quy tắc nào cho phép tự quy thuộc chủ quyền cho một quốc gia trên một vùng đất mà tại đó các cổ vật thuộc nền văn minh của nước đó được tìm thấy. Các cổ vật này có thể thuộc các ngư dân TQ đi lại và bị đắm thuyền trong vùng biển này, cũng như có thể thuộc các ngư dân Philippines, Malaysia hoặc của các tàu thuyền Ả Rập, Bồ Đào Nha, Hà Lan bị trôi dạt mắc nạn vào đây. Không có gì chứng minh được rằng các ngư dân TQ là những người duy nhất có các hoạt động định cư thường xuyên trên các đảo không có nước ngọt này.
Trong khi đó, năm 2001, trong khuôn khổ dự án 10 năm điều tra cơ bản khảo cổ học Trường Sa - Tây Nguyên - Nam Bộ, các nhà khoa học Việt Nam đã khai quật và phát hiện nhiều di tích khảo cổ có giá trị trên quần đảo Trường Sa. Trên chứng chỉ khảo cổ học, các nhà sử học đã xác định được các cư dân người Việt sinh sống ở Trường Sa là rất sớm, chí ít cũng phải từ thời nhà Trần và liên tục định cư, sinh sống ở đây trong các giai đoạn thời kỳ sau. Qua các hiện vật thu được, dựa trên căn cứ sử học và văn hóa học, rất rõ ràng để nhận ra có một sợi dây liên kết chặt chẽ giữa cư dân trên đảo với cư dân đất liền từ thuở sơ khai đến nay. Có thể những cư dân đầu tiên Trường Sa là kết quả của các cuộc di dân, tìm đất mới thời cổ xưa. Hoặc là các ngư dân Việt đi biển ghé vào và ở lại lâu dài, khai phá đất đai, tạo lập cuộc sống mới.
Một trang trong cuốn Hải ngoại kỷ sự (1695) của Thích Đại Sán, một nhà sư Trung Quốc đời Khang Hy, thuật lại chuyến du hành tới xứ Đàng Trong, thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Đại Việt - Ảnh: biengioilanhtho.gov.vn
Chủ quyền quốc gia đã được luật quốc tế định nghĩa về mặt pháp lý. Trương Hồng Tăng và các tác giả TQ khác lập luận rằng: “Dưới thời nhà Tống, nhiều sách vở đã ghi nhận rằng những ngư dân TQ thường tới đây bắt cá và thu lượm san hô (…). Theo Chư phiên chí (ghi chép về các nước chư hầu) của Zhao Rushi (Triệu Nhữ Quát) sống dưới thời nhà Tống cách đây 700 - 800 năm, người TQ đã biết rằng các quần đảo Tây Sa và Nam Sa là những vùng nguy hiểm cho hàng hải (…). Vào thế kỷ trước, chỉ có người TQ đã sống và khai thác một cách liên tục các quần đảo Tây Sa và Nam Sa (…)”.
Sau khi đã nghiên cứu sâu sắc các tài liệu TQ, ông Heinzig, một luật gia Đức đã rút ra kết luận chỉ bắt đầu từ thời nhà Tống (960) người TQ mới có thể tiếp cận với quần đảo Paracels (Hoàng Sa). Còn về việc hiện diện của người TQ trong khu vực Spratlys (Trường Sa) không có gì ghi nhận trước 1867, thời điểm một tàu nghiên cứu Anh gặp những ngư dân TQ tới từ đảo Hải Nam. Theo Heinzig, chỉ từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất người TQ mới bắt đầu gọi quần đảo Spratlys là “Đoàn Sa Trung Đảo”. ([1])
Sự tiếp xúc riêng rẽ của những cư dân TQ cá thể đối với Paracels liệu có đủ để thiết lập chủ quyền TQ tại đó không theo luật quốc tế? Các tác giả TQ khẳng định rằng TQ phát hiện ra Tây Sa và Nam Sa cách nay 2.100 năm, vào thời Hán Vũ Đế. Đối với họ, theo luật quốc tế và tập quán quốc tế thời kỳ đó: “Chủ quyền thuộc về người phát hiện” (Who discovers the territory, holds its sovereignty), đó là ngư dân TQ, và vì vậy TQ phải có chủ quyền trên đó".
So sánh với các tiêu chuẩn thụ đắc lãnh thổ, các ghi chép mà TQ viện dẫn không đủ chứng minh rằng quyền phát hiện đã được xác lập. Một đảo hoặc một quần đảo có thể là đối tượng nhận biết từ lâu đời của các nhà hàng hải, các ngư dân, các nhà địa lý… nhưng chúng vẫn chỉ được coi là lãnh thổ vô chủ
res nullius một khi quốc gia của họ chưa tiến hành một hành động nhà nước nào tại đó. Phan Thạch Anh cố chứng minh rằng vào thế kỷ XV, XVI chỉ cần quyền phát hiện là đủ để tạo nên quyền sở hữu đất vô chủ. Sở dĩ ông ta lập luận như vậy là để chứng minh rằng các hoạt động của tư nhân TQ là đủ để tạo ra quyền phát hiện ([2]). Thế nhưng các hoạt động tư nhân của các ngư dân TQ không thể mang lại hiệu lực pháp lý của “quyền phát hiện” và nó không thể được đánh đồng với quyền chiếm hữu.
Các bằng chứng của quyền phát hiện các đảo này như đã nêu trên rất mập mờ và thiếu chính xác. Chúng ta có thể đồng ý rằng các hoạt động của ngư dân có thể kéo theo sự chú ý và ý định của nhà nước trên lãnh thổ vô chủ. Tuy nhiên, yếu tố ý chí này không đủ khi còn thiếu yếu tố vật chất của các hoạt động nhà nước trên thực địa. Người TQ sẽ chứng minh như thế nào đòi hỏi này của luật quốc tế vào thời kỳ đó?
TS Nguyễn Hồng Thao – Nguồn Báo Thanh Niên
_________
[1] Theo Nguyễn Quang Ngọc, Sđd, tr 41. Trước khi Lý Chuẩn ra Hoàng Sa năm 1909, bản đồ TQ vẫn thể hiện đảo Hải Nam là cực nam lãnh thổ TQ. Năm 1928 trường Đại học Trung Sơn tổ chức điều tra quần đảo Tây Sa, được coi là mốc đánh dấu sự hiểu biết của người TQ về quần đảo Tây Sa. Tuy nhiên, cho đến năm 1934, bản đồ TQ vẫn chưa vượt quá quần đảo Tây Sa và đảo Triton, cực nam của quần đảo, ở sát phía dưới vĩ tuyến 16 được gọi là đảo cực nam với lời giải thích đảo là cột mốc đánh dấu lãnh thổ cực nam của TQ. Trong khoảng năm 1935-1936 địa danh Nam Sa và Đoàn Sa xuất hiện trên bản đồ TQ. Nam Sa được đặt tên cho bãi ngầm Maccelesfield Bank còn Đoàn Sa để chỉ Spratleys. Từ năm 1939 tên Nam Sa mới được dùng để chỉ Trường Sa của Việt Nam, tên Đoàn Sa mất đi, còn Maccelesfield Bank được đặt tên là Trung Sa.
[2] Phan Thạch Anh, The ptropolitics of the Nansha islands-China’s indisputable legal case, Beijing, December 19955 

Kỳ 5: Độ chênh của lịch sử trong Sách trắng Trung Quốc

Để hiểu rõ câu chuyện, có thể tham khảo Sách trắng của Bộ Ngoại giao nước CHND Trung Hoa năm 1980 và Sách trắng của Bộ Ngoại giao CHXHCN VN năm 1979, 1981 và 1988. Nhằm chứng minh sự quản lý của Trung Quốc (TQ) trên các đảo tranh chấp này từ hàng nghìn năm, Bộ Ngoại giao TQ chỉ đưa ra được ba sự kiện sau:
- Sự kiện thứ nhất: Từ thời nhà Tống (960 - 1127) Hải quân TQ đã đi tuần tra đến vùng biển quần đảo Tây Sa. Sự khẳng định này dựa trên cơ sở đoạn văn trích từ Vũ Kinh tổng yếu có lời tựa của vua Nhân Tông đời Bắc Tống. Đoạn trích trong văn kiện chính thức của TQ như sau: “Triều đình Bắc Tống lệnh cho Vương Sư đi phòng giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở Quảng Nam (tức Quảng Đông ngày nay) và “đóng tàu chiến đao ngư”.
Tác phẩm trên còn khẳng định: “Từ Đồn Môn Sơn, dùng gió Đông hướng Tây Nam 7 ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu. Cửu Nhũ Loa Châu là quần đảo Tây Sa ngày nay. Điều đó chứng tỏ quần đảo Tây Sa đã thuộc phạm vi cai quản của đời Bắc Tống”.
Theo Sách trắng 1981 của VN thì đoạn trích từ Vũ Kinh tổng yếu này là sự kết hợp ba đoạn riêng rẽ khác nhau trong một đoạn sau lời tựa:
“Lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở hai cửa biển phía Đông và phía Tây rộng 280 trượng đến Đồn Môn Sơn 200 lý đóng tàu chiến đao ngư. Từ Đồn Môn Sơn dùng gió Đông đi về hướng Tây Nam bảy ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu, đi ba ngày nữa đến Bất Lao Sơn (thuộc địa giới nước Hoàn Châu), ([1]) đi 300 hải lý nữa về phía Nam đến lăng Sơn Đông. Phía Tây Nam nơi đó là các nước Đại Thực Phật, Sư Tử, Thiên Trúc không thể tính được hành trình”.
Theo Nguyên sử (bộ sử chính thức của nhà Nguyên - TQ), “lãnh thổ TQ” dưới thời Nguyên phía Nam chỉ tới đảo Hải Nam, phía Bắc không quá sa mạc Gobi - Nguồn: gis.chinhphu
Rõ ràng trong đoạn trích kể trên của Vũ Kinh tổng yếu, có đoạn văn Bắc Tống “lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở Quảng Nam (Quảng Đông ngày nay)”, “đóng tàu chiến đao ngư”, có đoạn mô tả vị trí địa lý của đồn binh nhắc trên, đoạn khác tả lộ trình đi từ cảng Quảng Nam tới tận Ấn Độ Dương. Đó là hành trình khảo sát địa lý, đúng hơn là tuần tra lãnh thổ TQ. Không có gì trong đoạn trích trên cho phép khẳng định rằng Cửu Nhũ Loa Châu chính là quần đảo Tây Sa. Đối với chúng ta, đó không thể là bằng chứng đầy đủ chứng minh rằng ngay từ thời nhà Tống, quần đảo Hoàng Sa đã thuộc quyền quản lý của TQ và “Hải quân TQ đã đi tuần tới các đảo Tây Sa”.
- Sự kiện thứ hai: Việc đo thiên văn trong biển Nam Hải vào đầu đời Nguyên đã khẳng định rằng các đảo là một bộ phận của lãnh thổ TQ.
Sách trắng của Bộ Ngoại giao TQ 1980 viết:
“Năm thứ nhất đời Nguyên tiến hành đo đạc thiên văn 27 nơi trong nước, nhà Nguyên năm thứ 16 (Công nguyên năm 1279) Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đích thân sai Đồng Trí Thái, Sử viện sử Quách Thụ Kinh, nhà thiên văn nổi tiếng đến biển Nam tiến hành đo đạc. Theo Nguyên Sử, điểm thiên văn Nam Hải nằm ở phía Nam Châu Nhai (thuộc đảo Hải Nam) và kết quả đo đạc cho thấy Nam Hải ở vĩ tuyến Bắc 15 độ. Điểm thiên văn Nam Hải chính là ở quần đảo Tây Sa ngày nay. Điều đó nói rõ quần đảo Tây Sa thời Nguyên đã là nằm trong biên thùy TQ”.
Thực ra, Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn được ghi chép như sau:
“Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi. Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc”.
Khái niệm “bốn biển”, theo ngôn từ TQ, chỉ rằng các lãnh thổ này nằm ngoài lãnh thổ quốc gia. Trên thực tế, dưới đầu đề “đo đạc bốn biển”, Nguyên Sử chép rõ tên 27 nơi đo đạc thiên văn trong đó có những địa danh hoàn toàn không thuộc cương vực TQ như Cao Ly (Triều Tiên), Thiết Lặc (Siberia). Chính Nguyên Sử cũng nói rõ “lãnh thổ TQ” dưới thời Nguyên phía Nam chỉ tới đảo Hải Nam, phía Bắc không quá sa mạc Gobi.
Các quan trắc thiên văn trên có phần tiến hành trên lãnh thổ TQ, có phần nằm ngoài cương vực TQ. Do đó, nó không thể tạo ra bằng chứng xác đáng cho chủ quyền TQ. Ngay cả khi điểm quan sát thiên văn “Nam Hải” nằm trên các đảo Tây Sa, thì việc quan sát thiên văn đó… cũng không đủ để thể hiện ý chí của “Chính phủ đó thực hiện chủ quyền trên các đảo đá nhỏ này”. Hơn nữa một hành động nghiên cứu khoa học không thể tạo nên một danh nghĩa chủ quyền.  
TS Nguyễn Hồng Thao – Nguồn Báo Thanh Niên
Tin liên quan

Trại Davis Sài Gòn – Ngày ấy, bây giờ…

Lai lịch một cái tên

LTS: Trại Davis là trụ sở của Ban Liên hợp Quân sự 4 bên Trung ương trong giai đoạn 60 ngày và sau đó là trụ sở Ban Liên hợp quân sự 2 bên Trung ương, đồng thời là trụ sở, nơi đóng quân của hai phái đoàn quân sự ta từ ngày 28-1-1973 đến ngày 30-4-1975. Cái tên Trại Davis gắn liền với Hiệp định Paris, với Ngày toàn thắng 30-4.
Nhân kỷ niệm 36 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Hànộimới xin giới thiệu với bạn đọc loạt bài viết và một số tư liệu về quá trình đấu tranh gian khổ, hy sinh thầm lặng, nhưng cũng vô cùng hào hùng của các chiến sỹ giải phóng suốt 823 ngày trong hang ổ của kẻ thù.
Trại Davis (Davis Camp) Sài Gòn trước năm 1973. Tiền cảnh là Nhà tưởng niệm lính Mỹ Davis.
Ngày 27-1-1973, sau gần 5 năm đàm phán, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết, đánh dấu một thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện một phần Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đánh cho Mỹ cút. Theo khoản d, Điều 16, Chương VI của Hiệp định Paris, 4 bên gồm Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa sẽ cử ngay đại diện để thành lập Ban Liên hợp Quân sự 4 bên. Theo Điều 17, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ cử ngay đại diện để thành lập Ban Liên hợp Quân sự 2 bên. Ban Liên hợp Quân sự có nhiệm vụ bảo đảm sự phối hợp hành động của các bên nhằm thực hiện các điều khoản về quân sự mà hiệp định đã quy định (về ngừng bắn, rút quân Mỹ và chư hầu, hủy bỏ căn cứ quân sự của Mỹ và chư hầu, về trao trả nhân viên quân sự, nhân viên dân sự và tìm kiếm người mất tích…).
Trại Davis nguyên là một trại lính của quân đội Mỹ, nằm gần sát phía Tây nam sân bay Tân Sơn Nhất, nay thuộc phường 4, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh. Ban đầu, đây là nơi đóng quân của Tổ Viễn thám số 3 (3rd Radio Research-RR) Lục quân Mỹ. 3rd RR có nhiệm vụ giúp Nha An ninh quân đội Sài Gòn dò tìm, xác định chính xác vị trí các đài phát sóng truyền tin của quân Giải phóng, từ đó lần tìm vị trí đóng quân của ta, chỉ điểm cho máy bay, pháo binh địch bắn phá hoặc đưa quân đến càn quét tiêu diệt. Ngày 22-12-1961, thành viên của Tổ Viễn thám số 3 là Hạ sỹ quân báo James Thomas Davis, người gốc Caucase, sinh năm 1936 tại Livingston, tiểu bang Tennessee, cùng quân ngụy đi càn, bị phục kích chết tại Đức Hòa, Hậu Nghĩa (nay là Long An). Ngày 10-1-1962, đồng đội của J.T.Davis lấy tên anh ta đặt cho doanh trại nơi họ đóng quân, gọi là Trạm Davis (Davis Station), đồng thời lập cho Davis một cái nhà tưởng niệm (miếu thờ) nhỏ kiểu Công giáo trong doanh trại. Năm 1966, Nhóm Viễn thám 509 (509th Radio Research Group-RRG) đến thay Tổ Viễn thám 3, Trạm Davis được “nâng cấp”, gọi là Trại Davis (Davis Camp). Cuối năm 1972 Nhóm Viễn thám 509 rút về Mỹ, Trại Davis bị bỏ hoang cho đến ngày 28-1-1973, khi trở thành trụ sở của Ban Liên hợp Quân sự và là nơi hai đoàn đại biểu quân sự ta đóng quân, ngay giữa sào huyệt địch.
Nhiều tài liệu cho rằng Trại Davis Sài Gòn được đặt theo tên người lính Mỹ đầu tiên chết trận tại miền Nam Việt Nam. Cứ theo logic ấy mà suy thì James Thomas Davis có cái “vinh dự” là quân nhân Mỹ đầu tiên bỏ mạng trên chiến trường xứ nhiệt đới này, nhưng không phải như vậy. Sự thật thì người lính Mỹ đầu tiên chết tại miền Nam Việt Nam là Trung sỹ Không quân Richard B. Fitzgibbon, sinh năm 1920, bị tai nạn chết ngày 6-8-1956. R.B Fitzgibbon cũng không phải là lính Mỹ đầu tiên chết trận tại Việt Nam. Do vậy, trên bức tường đá đen khắc 58.261 cái tên tại Khu tưởng niệm lính Mỹ chết tại Việt Nam (Vietnam Veterans Memorial) ở thủ đô Washington, đứng đầu danh sách là Thiếu tá Bael Buis và Trung sỹ Chester Ovman. Hai quân nhân này bị đặc công ta tiêu diệt ngày 7-7-1959 trong trận tập kích vào trụ sở của Phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ tại Biên Hòa đóng tại Biệt thự Nhà Xanh.
Davis Camp Sài Gòn là một trại lính dã chiến nằm trong khuôn viên hình năm cạnh lệch nhau, các cạnh dài khoảng 100 và 200m. Một bên là hào bảo vệ sâu 3m giáp đường băng, hai mặt khác là khu gia binh và một cơ sở bỏ hoang. Cổng Trại Davis mở ra đường Lê Văn Lộc, đối diện trại lính dù ngụy. Các nhà trong trại làm bằng gỗ thông cưa xẻ mang từ Mỹ sang, xây theo kiểu nhà sàn, quy cách thống nhất, mái lợp phibroximăng, tất cả hợp thành ba dãy nhà hình chữ U và một dãy nhà chéo, ở giữa có vài nhà trệt. Nội thất, đồ dùng giường tủ bàn ghế hoàn toàn bằng sắt. Với cái nắng nóng của Sài Gòn, nhiệt độ trong phòng có lúc lên đến hơn 40 độ C, cộng thêm tiếng máy bay cứ 5 phút lại một chuyến lên xuống suốt ngày đêm ngay sát doanh trại, sống ở đó giữa vòng vây kẻ thù suốt 2 năm, 3 tháng, 3 ngày, cán bộ chiến sỹ hai đoàn đại biểu quân sự ta đã lập một kỳ tích về ý chí kiên cường, hơn thế, đã góp phần đặc biệt xuất sắc, phối hợp với quân dân cả nước buộc quân Mỹ và chư hầu rút khỏi nước ta, đánh sụp đổ quân ngụy ngay trong sào huyệt của chúng.
Năng Lực

Mũi tên cắm giữa tim thù

(HNM) – Có thể nói trong lịch sử chiến tranh thế giới cũng như của dân tộc ta, chưa từng có trường hợp nào mà một bên đối địch lại hợp pháp cắm được một bộ phận lực lượng của mình công khai, hiên ngang ngay tại trung tâm đầu não của đối phương, được thế giới công nhận và dư luận quốc tế quan tâm theo dõi.
Hang hùm ổ rắn
CBCS Đoàn B và các sĩ quan Mỹ trước cổng Trại Davis. Ảnh: Q.K
Trưa 29-1-1973, máy bay chở Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa (VNDCCH – Đoàn A) do Thiếu tướng Lê Quang Hòa, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam làm Trưởng đoàn và các bộ phận tiền trạm hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn. Đây là lần đầu tiên một lực lượng quân ta công khai đặt chân trên đất Sài Gòn trong tư thế khiến địch hoang mang, lúng túng. Đại diện chính quyền Sài Gòn yêu cầu Đoàn ta phải làm thủ tục xin “visa” nhập cảnh mới cho xuống máy bay. Ta không chịu, vì đi từ miền Bắc vào miền Nam là trong cùng một nước, Việt Nam Cộng hòa (chính quyền Sài Gòn) không thể yêu sách như vậy. Hơn một ngày ngồi trên máy bay, cuối cùng địch phải chịu thua, cho xe bus đưa Đoàn ta về Trại Davis.
Tại Trại Davis nằm sâu trong sân bay Tân Sơn Nhất, chính quyền Sài Gòn cho rào kín nhiều tầng dây thép gai, cô lập hai phái đoàn ta với bên ngoài. Xung quanh trại, đối phương dựng 13 tháp canh lúc nào cũng thấp thoáng bóng lính, suốt ngày đêm chĩa súng vào trại. Trong nhà ở của cán bộ chiến sĩ đoàn ta, địch cài máy nghe trộm. Dựa vào ưu thế kỹ thuật, địch phá sóng, gây nhiễu, đánh cắp bí mật thông tin của ta. Sĩ quan, nhân viên trong phái đoàn địch hầu hết là nhân viên tình báo, phản gián, tâm lý chiến, an ninh quân đội, CIA…
Sau ngày giải phóng Sài Gòn, qua lời khai của nhiều sĩ quan an ninh, tình báo ngụy và tài liệu thu được, ta biết rằng tất cả những hoạt động chống phá hai đoàn ta đều nằm trong một kế hoạch tình báo hỗn hợp do 5 cơ quan đầu sỏ của địch cùng thực hiện. Đó là Phủ đặc ủy Trung ương tình báo, Tổng nha Cảnh sát, Phòng 2 Bộ Tổng tham mưu, Cục An ninh quân đội ngụy và Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA). Đối phương đã chuẩn bị kế hoạch này từ trước khi Hiệp định Paris được ký kết. Trong kế hoạch có cả việc tổ chức đầu độc, mua chuộc, chiêu hồi, bắt cóc, thậm chí xóa sổ hoàn toàn cả hai phái đoàn ta trong trường hợp đặc biệt. Có thể nói “quan điểm” xuyên suốt của địch là lòng hận thù cách mạng. Đỉnh cao của lòng hận thù đó là chỉ thị ngày 28-4-1975 của Cao Văn Viên, Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn mà ta thu được tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu địch. Bản chỉ thị gồm 4 nội dung: Bắn pháo và cối vào Trại Davis; Cho xe tăng và bộ binh tràn ngập; Ném bom; Rải chất độc hóa học với điều kiện gió không thổi về phía thành phố. Chỉ thị của tướng Viên ghi rõ là nếu phát hiện có tiếng súng từ Trại Davis bắn ra thì thi hành ngay, không cần báo cáo xin chỉ thị.
Sáng ngời chính nghĩa
Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Quân ủy Miền (B2), theo Hiệp định Paris, ta thành lập hai đoàn đại biểu quân sự gồm các tướng lĩnh, sĩ quan, cán bộ, chiến sĩ ưu tú của các lực lượng quân đội, công an, ngoại giao, an ninh Trung ương Cục miền Nam, thông tấn, báo chí và một số ban, ngành tham gia mặt trận đấu tranh ngoại giao quân sự thi hành Hiệp định Paris. Quân số mỗi đoàn có 825 người, gồm 275 sĩ quan, 550 nhân viên và cảnh vệ.
“Đối thủ” của ta là Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Hoa Kỳ do Thiếu tướng Gilbert Woodward làm trưởng đoàn; Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam Cộng hòa do Trung tướng Ngô Du (sau này là Trung tướng Dư Quốc Đống) làm trưởng đoàn. Đến thời kỳ hai bên, Đoàn ta do Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn lãnh đạo, đoàn địch do Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp làm trưởng đoàn.
Nhắc lại những ngày đấu tranh trong sào huyệt địch, Đại tá Nguyễn Văn Khả (tức Vũ Nam Bình), nguyên Trưởng ban Bảo vệ an ninh đoàn B cho biết, nhiều nhà báo quốc tế, các sĩ quan Đoàn Hungary và Ba Lan trong Ủy ban quốc tế Kiểm soát và giám sát việc thi hành Hiệp định Paris ở Việt Nam (ICCS) đã phải thốt lên: Chỉ có mỗi đạo quân giải phóng này chịu đựng được như thế. Ông mỉm cười nói thêm: “Chúng tôi không chỉ vượt qua khó khăn mà còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”.
Trong thư gửi đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Thứ nhất BCH TƯ Đảng Lê Duẩn đánh giá: “Đối với ta, điều quan trọng của Hiệp định Paris không phải ở chỗ thừa nhận hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, tiến tới thành lập chính phủ ba thành phần mà mấu chốt ở chỗ quân Mỹ phải ra, còn quân ta thì ở lại”. (Thư vào Nam – NXB Sự thật – Hà Nội 1986, tr.372, 373).
Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Di Niên đánh giá: “Nếu như Hội nghị Paris về Việt Nam là thắng lợi của cuộc đấu tranh ngoại giao kéo dài, đầy khó khăn và phức tạp thì cuộc đấu tranh buộc đối phương phải tuân thủ các điều khoản của Hiệp định Paris là cuộc đấu trí, đấu lý hết sức cam go và quyết liệt”.
Kiên quyết, tỉnh táo, khôn khéo và sáng tạo, mặc dù địch luôn tìm cách dây dưa, cố tình trì hoãn việc thi hành hiệp định, hai đoàn ta đã bằng mọi cách buộc Mỹ phải rút quân đúng, đủ số lượng cả về người và vũ khí, trang bị, đúng thời gian từng đợt theo quy định dưới sự giám sát chặt chẽ của ta và ICCS. Ngày 29-3-1973, đúng thời hạn 60 ngày, người lính Mỹ cuối cùng, kể cả nhân viên quân sự Hoa Kỳ trong Ban Liên hợp quân sự 4 bên và 159 lính thủy đánh bộ canh gác Đại sứ quán của họ đã phải rút khỏi miền Nam sau 18 năm 8 tháng có mặt với vai trò đạo quân xâm lược. Cũng trong giai đoạn 60 ngày, hai đoàn ta đã đấu tranh quyết liệt, buộc địch phải thực hiện việc trao trả nhân viên quân sự và nhân viên dân sự của các bên bị bắt. Mặt trận này cũng rất quyết liệt, hai đoàn đã đấu tranh giành giật với địch từng người của ta. Trên lĩnh vực đấu tranh buộc địch chấm dứt chiến sự, buộc địch ngừng bắn, hai đoàn ta đã vạch trần kế hoạch phá hoại hiệp định đã được chuẩn bị trước của địch. Trong tổng số 390 cuộc điều tra, ICCS đã kết luận 5 vụ quân ngụy vi phạm hiệp định, không có bất cứ kết luận vi phạm nào đối với ta, kể cả những vụ địch làm rùm beng vu cáo ta. Cũng trong những ngày chiến đấu giữa lòng địch, hai phái đoàn ta đã tranh thủ được giới báo chí Sài Gòn và quốc tế, tạo dư luận hỗ trợ chiến trường.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định: “Đây là một hàn thử biểu báo thời tiết chính trị, quân sự lúc này đặt ngay trong lòng địch” (Tổng Hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng).
Sau này, nguyên Đại tá, Trưởng phòng Tình báo quân đội ngụy Nguyễn Văn Học khai: “Chúng tôi đã gặp một đối thủ quá cứng rắn. Tất cả những lần tiếp xúc thông thường thì không sao, nhưng khi đụng vào những nội dung cần thiết thì đều bị đánh bật ra, khiến những sĩ quan có hạng như chúng tôi cũng phải lắc đầu”.
Từ tháng 10-1974, thực tế không còn hoạt động nào của Ban Liên hợp quân sự hai bên do tình hình phức tạp, địch ngày càng lộ mặt phá hoại hiệp định. Thế nhưng Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vẫn hiên ngang trụ vững giữa sào huyệt kẻ thù. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, những người chiến sĩ cách mạng kiên cường tại Trại Davis đã bám trụ, phối hợp với quân chủ lực tổ chức sẵn sàng chiến đấu. Trong những ngày hấp hối, chính quyền Sài Gòn đã nhiều lần cử người đến xin gặp phái đoàn ta, mong được liên hệ với Bộ chỉ huy để “bàn giao chính quyền”. 9h30 ngày 30-4-1975, chiến sĩ Phạm Văn Lãi, 22 tuổi, đã được lệnh cắm cờ giải phóng trên đỉnh tháp nước Trại Davis. Đây là một trong những lá cờ giải phóng đầu tiên tung bay trên bầu trời Sài Gòn trong ngày toàn thắng.
Năng Lực

Lịch sử không lãng quên


(HNM) – Bây giờ, những người lính cách mạng tại Trại Davis cách nay gần 40 năm đã ở vào tuổi 60, 70, có người đã ngoại 80 như Thiếu tướng Trưởng đoàn Hoàng Anh Tuấn, Đại tá Vũ Nam Bình…
Trăm công nghìn việc của thời kỳ sau chiến tranh, xây dựng lại đất nước, của cuộc mưu sinh thời bao cấp cuốn họ đi. Không ai trong số họ có dịp trở lại căn trại mang cái tên Mỹ đã gắn bó với họ suốt 823 ngày đêm hào hùng. Cũng rất ít người trong số họ biết được số phận của căn cứ Trại Davis…
Sau ngày Sài Gòn giải phóng, Trại Davis được giao cho Ủy ban Quân quản thành phố quản lý, sau đó thuộc quyền quản lý của Quân chủng Phòng không – Không quân.
Tháng 4-2003, thể theo nguyện vọng của anh em, Ban Liên lạc Cựu chiến binh Ban Liên hợp Quân sự Trại Davis được thành lập, hằng năm cứ đến ngày 30-4 lại tụ họp ở hai đầu đất nước, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, thăm hỏi nhau đời sống, gia đình, con cái, công việc… nhưng ai cũng đau đáu mong có một ngày về thăm chiến trường xưa. Trại Davis, nơi họ đã thân quen từng ngọn cây, góc nhà, từng con hào chiến đấu họ đào trong những ngày tháng Tư 1975 sôi động, nơi đồng đội họ ngã xuống, nơi họ cống hiến tuổi xuân đẹp nhất của đời người vì lý tưởng Độc lập – Tự do, vì mục tiêu đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Bây giờ Trại Davis ra sao?
Cổng Trại Davis thời Hiệp định Paris năm 1973.
Năm 1994, nhà báo Trần Duy Hinh, phóng viên Trại Davis năm xưa đi làm phim “Mùa Xuân toàn thắng” nhân kỷ niệm 20 năm thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Anh mang giấy giới thiệu của Tổng cục Chính trị đến gặp lãnh đạo đơn vị quản lý sân bay Tân Sơn Nhất, trong đó có Trại Davis. Chỉ huy sở đơn vị chỉ cách Trại Davis vài trăm mét, người chỉ huy đơn vị ngơ ngác: “Trại Davis là cái gì, tôi không biết gì cả, nó ở chỗ nào?”.
Tháng 4-2005, kỷ niệm 30 năm Ngày Toàn thắng, Đại tá Đinh Quốc Kỳ cùng nhiều đồng đội một thời Trại Davis có dịp vào sân bay, cùng đi với những người bạn đương chức mới vào được Trại Davis. Cũng trong dịp này, Đại tá Kỳ gặp lại cái bàn gỗ lát mỗi cạnh dài gần 4m, hình vuông, là vật chứng của 125 cuộc họp cấp Trưởng đoàn 4 bên, rồi 2 bên năm nào. Cái bàn ấy hiện ở Văn phòng đơn vị C59B, Cục Hậu cần Cơ quan Bộ Quốc phòng phía Nam. Đại tá Kỳ ngậm ngùi: Gắn liền với cuộc đấu tranh vì hòa bình ở Việt Nam có hai chiếc bàn. Chiếc bàn tròn ở Hội nghị Paris đường kính 8m và chiếc bàn vuông diện tích hơn 10m2 tại Trại Davis. Liệu có ai có ý thức giữ gìn, bảo quản cái bàn vuông không, hay một lúc nào đó nó lại thất lạc?
Kỷ niệm 36 năm Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-1975), 36 năm Ngày kết thúc thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh ngoại giao quân sự của hai đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, sáng 30-4, tại Hà Nội, Ban Liên lạc CCB Ban Liên hợp quân sự “Trại Davis” đã tổ chức giao lưu, gặp mặt truyền thống. Nhân dịp này, Bộ Ngoại giao đã trao tặng Kỷ niệm chương “về thành tích đóng góp to lớn vào việc thi hành Hiệp định Paris tại Việt Nam” cho 34 CCB.
Khánh Thu
Ngày 31-3-2010, Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Nghệ sỹ Ưu tú Trần Duy Hinh cùng đồng đội Trại Davis năm xưa vào thăm “trận địa” cũ. Anh kể lại: Vượt qua vọng gác khá nghiêm ngặt của đoàn Không quân quản lý sân bay, chúng tôi vào sát sân bay, phải vất vả lắm mới nhận ra con hào bảo vệ, còn tất cả đã thành bình địa, chia lô. Hỏi mấy người đang cắt cỏ gần đấy xem đây có phải đất của Trại Davis không, họ ngơ ngác, cuối cùng có người reo lên: “Còn cái miếu Davis kia kìa… các chú đến mà xem”. Cuối cùng, nhờ cái miếu thờ viên hạ sỹ quân báo Mỹ năm xưa, cái miếu còn nguyên mái hình mui rùa, mà anh em mình mới tin rằng đây là Trại Davis, họ đứng lặng dưới cái nắng xiên khoai để tưởng tượng đâu là dãy nhà A, nhà B, đâu là nhà chỉ huy, phòng họp, sân chơi bóng rổ, sân đậu ô tô… Những người làm cho Trại Davis trở thành một cứ điểm quân sự huyền thoại độc nhất vô nhị trên thế giới còn đây, nhưng Trại Davis đâu rồi?
Một PV Báo Hànộimới năm 2010 đã mầy mò vào được đến Trại Davis, khi về anh có viết một bài về hiện trạng di tích này. Anh cho biết khu vực Trại Davis đã được chia lô, cho thuê làm chỗ đá bóng, chơi tennis, bi-a… Cái miếu thờ hạ sỹ Davis nằm giữa sân tennis.
Cũng từ sau ngày giải phóng, nhất là từ đầu những năm 2000 đến nay, các cựu chiến binh Trại Davis cùng nhiều cơ quan chức năng đã bắt đầu hành trình đề nghị công nhận địa điểm Trại Davis là Di tích lịch sử – cách mạng và đề nghị phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho hai đoàn đại biểu quân sự ta trong thời kỳ đấu tranh thi hành Hiệp định Paris. Năm 2003, Bộ Quốc phòng có công văn gửi UBND TP Hồ Chí Minh khẳng định: “Trại Davis là chứng cứ lịch sử, ở đó đã chứng kiến quá trình đấu tranh kiên cường của cán bộ, chiến sỹ ta, thể hiện ý chí Việt Nam, tính độc đáo về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng và hoạt động ngoại giao quân sự của ta trong quá trình đấu tranh buộc địch thi hành Hiệp định Paris”. Được biết, đến nay đã có nhiều tổ chức, cá nhân có uy tín hết sức ủng hộ việc công nhận này.
Hy vọng một ngày không xa, ước nguyện của những cựu chiến binh Trại Davis và cũng là đòi hỏi chính đáng của lịch sử sẽ được đáp ứng.
Năng Lực
About these ads


About these ads