| Phần 3 . Kỳ 20, 21 |
|
|
Kỳ 20: Lắp ráp và khởi động "cỗ máy" H.63
(VietNamNet) -
Đầu năm 1962, vượt Trường Sơn, Trần Văn Quang từ miền Bắc trở về chiến
khu R (Tây Ninh). Quang có tên hoạt động là Tư Cang và nhận nhiệm vụ:
Chỉ huy lưới tình báo A18 (tiền thân của lưới H.63 sau này). Đây là
những năm tháng chiến trường miền Nam trong tình thế khó khăn. Lưới
tình báo hàng trăm người, chỉ để phục vụ và bảo vệ các điệp viên. Họ có
an toàn và hiệu quả trong lòng địch?
"Máy trưởng" nhận nhiệm vụ
H.63
là được ví như một "cỗ máy". "Máy trưởng" Tư Cang trở về từ miền Bắc,
nhiệm vụ: khởi động và vận hành trơn tru "cỗ máy" này.
Đầu
năm 1961, cụm tình báo quân sự A18 (tiền thân của cụm H.63) ra đời,
đóng tại căn cứ Bời Lời (Tây Ninh). Tất cả để phục vụ điệp viên nổi
tiếng Hai Trung. Đằng sau những tin tức, tài liệu chuyển về của Hai
Trung, là cả hệ thống phục vụ, cả trong nội đô và ngoài căn cứ.
Thời
kỳ đầu, H.63 là bộ phận địch tình của thành ủy Sài Gòn. Khi Hai Trung
(Phạm Xuân Ẩn) từ Mỹ trở về, hoạt động giữa Sài Gòn với tư cách phóng
viên báo nước ngòai, ông Mười Nho (Xuân Mạnh, Nguyễn Nho Quý - cán bộ
Cục Tình báo) là người trực tiếp chỉ đạo.
Năm
1962, ông Mười Nho bị bệnh, không thể chỉ huy H.63. Cả mạng lưới với
một điệp viên đã nằm sâu trong lòng địch như Hai Trung, cần một chỉ huy
giỏi và mưu trí. Tư Cang là người được ông Ba Trần, Thủ trưởng Phòng
tình báo miền lúc bấy giờ lựa chọn. Tháng 5/1962, Tư Cang chính thức
được giao nhiệm vụ chỉ huy cụm H.63.
"Khởi động" H.63!
"Cỗ máy" đã có "máy trưởng", sẽ kết nối các "bộ phận" và hoạt động như thế nào?
Đó
là một bình phong tốt, trí nhớ cao, thuộc nhiều địa danh trên đường
phố, địa bàn, thông thạo các phương tiện công cộng, các nơi tập trung
đông người như tiệm ăn, rạp hát, chợ... để dễ thay đổi chỗ hẹn. Liên
lạc viên nội đô phải có óc quan sát sắc bén, biết nhận diện tướng mạo
con người để phát hiện khi bị theo dõi, đủ tài đánh lạc hướng.
Ai sẽ dấn thân vào nguy hiểm và đáp ứng được những điều kiện khắt khe của nhiệm vụ kết nối này?
Nhiều
giao thông được đưa vào thành giới thiệu với Hai Trung. Nhưng ông
không đồng ý một ai. Hai Trung hoạt động trong thành, lường trước được
những điều xảy ra với một giao thông viên nội đô. Người trẻ quá dễ bị
bọn lính chọc ghẹo. Có người là thanh niên, dễ bị bắt lính bất cứ lúc
nào.
Giao
liên Nguyễn Thị Ba (quê Long An) được giới thiệu với Hai Trung. Chị Ba
(còn gọi là chị Ba già) đáp ứng được những yêu cầu mà điệp viên và tổ
chức đặt ra. Chị Ba có tuổi, giàu kinh nghiệm, thông thuộc địa bàn,
chưa bị bắt lần nào và có bình phong tốt. Hai Trung mới nghe tổ chức
giới thiệu, đã nhận ngay.
Trong
một tài liệu tổng kết về giao thông viên lưới H.63, vai trò của Nguyễn
Thị Ba được đánh giá: một giao liên gan dạ, mưu trí bên cạnh điệp
viên. Và những yếu tố khác: Chị Ba là đảng viên, chồng cũng là cách
mạng lão thành. Xa chồng, xa con, chị một mình vào Sài Gòn lấy bình
phong bán đồ vàng giả, đồ chơi trẻ con để làm liên lạc cho Hai Trung.
Theo
quy ước, chị Ba bán hàng tại khu vực Chợ Cũ (chợ Bà Chiểu - TP.HCM bây
giờ) để nhận tin tức và tài liệu từ Hai Trung chuyển ra. Thông thường,
vào sáng chủ nhật hoặc giờ nghỉ, Hai Trung đi xe đến chợ, gửi xe rồi
dắt chó vào chợ. Như một người đi mua đồ cho chó, cho chim. Đến hàng
của giao liên, Hai Trung giả vờ tìm một vài đồ vàng giả mua về cho trẻ
con.
Khi
có tín hiệu an toàn, thư được bỏ vào hàng của Nguyễn Thị Ba. Nhận tài
liệu, tin tức, Nguyễn Thị Ba sẽ trực tiếp chuyển cho giao liên đưa về
căn cứ hoặc qua các liên lạc dự bị. Cứ vậy, gánh hàng trang sức giả là
bình phong vững chắc cho liên lạc Nguyễn Thị Ba trong cả quá trình đứng
đằng sau hoạt động của điệp viên Phạm Xuân Ẩn.
10
năm làm liên lạc cho Hai Trung, Nguyễn Thị Ba chưa bao giờ sai một
buổi hẹn nào, chưa có một sai sót nào. Chỉ có Hai Trung là thất hẹn một
số ít lần vì bận đi ra ngoài thành phố không trở về kịp. Ông không thể
thông báo trước, bởi vì bình phong bắt buộc Hai Trung phải đi xa thành
phố đột xuất.
Bản
năng cẩn trọng của người giao liên họat động trong nội thành thường
trực trong con người Nguyễn Thị Ba. Chị luôn rất cảnh giác trước khi
gặp Hai Trung, cũng như khi trao nhận tài liệu, tin tức. Cụm trưởng Tư
Cang kể lại, cũng vì quá cảnh giác, nhiều khi gặp nhau trong chợ, Hai
Trung phải khuyên Nguyễn Thị Ba đừng quá nhìn xuôi ngó ngược trong lúc
nói chuyện. Vì điều này có thể gây chú ý cho bọn an ninh VNCH, vốn đầy
rẫy xung quanh.
Chị
Ba già đã giữ đường liên lạc an toàn và hiệu quả suốt mười mấy năm.
Mãi đến 3/1975, chị Ba mới được đổi bằng người khác. Sau này, thiếu tá
Nguyễn Thị Ba được phong Anh hùng LLVT.
Khi
còn sống, nhà tình báo huyền thoại Phạm Xuân Ẩn từng đúc kết về giao
liên với các nhà báo đến hỏi chuyện ông: "Điệp viên giỏi mà không có
giao liên giỏi đưa tài liệu ra căn cứ thì chỉ có... ăn cám!".
Điệp viên không cô độc
Hai
Trung, Tám Thảo và Nguyễn Thị Ba hoạt động trong lòng địch nhưng chưa
bao giờ cô độc. Bởi lẽ, từ năm 1966, cụm trưởng Tư Cang nhận nhiệm vụ
thường xuyên ra vào thành. Cụm trưởng vào vùng địch hậu hoạt động một
thời gian dài và bất hợp pháp như Tư Cang được đánh giá là cấp chỉ huy
không còn vị trí an toàn và công khai. Cụm trưởng cũng hoạt động mật
như một điệp viên.
Cụ
thể, Tư Cang nhận lệnh từ Phòng tình báo miền: Vào nội thành kiểm tra,
điều nghiên tình trạng của toàn lưới một cách cụ thể. Cụm trưởng tiếp
xúc với điệp viên, với giao thông nội đô để hướng dẫn, bồi dưỡng và
trực tiếp chỉ đạo.
Việc
ra vào thành như con thoi của Tư Cang còn có nhiệm vụ khác: lắng nghe
điệp viên, làm giảm sự cô đơn và căng thẳng từ điệp viên. Tư Cang là
cụm trưởng luôn kiểm soát được điệp viên trong mọi tình huống.
Tuy
nhiên, theo các tài liệu đánh giá sau này, sự liên lạc trực tiếp giữa
tổ trưởng và điệp viên liên tục cũng sẽ có hại đến sự an tòan của điệp
viên. Nhưng thật tài tình, chưa một lần hoạt động của điệp viên và các
mũi của H.63 bộc lộ sai sót.
Điều
này thật thú vị khi lúc đầu Hai trung không biết ai là tổ trưởng của
mình. Trung chỉ biết có một tập thể chỉ huy mình. Trong thời gian hoạt
động trong thành, từ 1966-1969, Tư Cang lấy tên là Khanh. Và trong thư
từ báo cáo, Hai Trung gọi Tư Cang là Robert. Bởi lẽ, đây là nguyên tắc
để giữ bí mật tung tích cấp chỉ đạo. Hai Trung luôn ý thức về nguyên
tắc này.
Giữa
Hai Trung và Tư Cang sau này đã trở thành 2 người bạn thân, lúc những
thông tin về 2 người đã được công bố. Chiến công của Hai Trung thì
nhiều, nhưng Đại tá Tư Cang nhớ rất rõ khoảnh khắc một buổi trưa năm
1967. Hai Trung lái xe Renault chở Tư Cang đi trên đường, cụm trưởng
báo tin cho điệp viên, tập tài liệu Hai Trung chuyển ra vừa qua rất có
giá trị. Trung ương đã quyết định tặng thưởng cho Hai Trung một huân
chương chiến công hạng nhất.
Nghe thủ trưởng nói vậy, Hai Trung mừng và nhớ ơn cấp trên. Nhưng rồi lại trầm hẳn xuống, và nói thật từ đáy lòng: đời người tình báo chẳng biết có cơ hội đeo huân chương không! Tư Cang không khỏi xót xa khi nghe cấp dưới nói vậy.
Sau
chiến tranh, "bộ máy" H.63 đã 2 lần trở thành anh hùng. Trong những
tài liệu tổng kết được công bố, H.63 được đánh giá tinh cán, gọn gàng,
nhịp nhàng giữa điệp báo và giao thông cả trong nội đô và từ nội đô ra
khu căn cứ, có sự chỉ đạo liên tục từ cụm trưởng.
Và dĩ nhiên, H.63 đã cống hiến cho cách mạng nhiều thông tin có hiệu lực và giá trị.
Nhưng,
trước khi vào thành hoạt động, vị chỉ huy bắn súng 2 tay như một đã có
những tháng ngày "ăn cùng bom, ngủ cùng đạn" tại căn cứ Bến Đình. Tất
cả để duy trì lưới và bảo vệ những tin tức, tài liệu điệp viên gửi ra.
(VietNamNet)
- Trong thành, điệp viên và giao thông nội đô đối diện với những hiểm
nguy rình rập. Ở căn cứ, cả cụm H.63 cũng thường xuyên đối mặt với các
trận vây ráp, càn quét của địch. Trước khi vào thành hoạt động, vị chỉ
huy bắn súng 2 tay như một đã có những tháng ngày "ăn cùng bom, ngủ
cùng đạn" tại căn cứ Bến Đình.
Đối diện với "anh cả đỏ"!
Năm
1965, tình hình miền Nam ngày càng căng thẳng. Bước sang năm 1965, Mỹ
liên tục đưa các sự đòan lính thủy đánh bộ, Sư đoàn 1 bộ binh, kỵ binh
không vận vào miền Nam. Trong đó, nổi lên nhất là sư đoàn kỵ binh số 1.
Địch tuyên truyền rùm beng, đây là sư đoàn thiện chiến nhất với biệt
danh "anh cả đỏ". Cạnh đó, chúng chuẩn bị đưa vào miền Nam sư đoàn bộ
binh số 25. Chúng rêu rao: Đây là sư đoàn có khả năng giải quyết nhanh
chóng chiến trường vùng nhiệt đới, nên được tôn vinh là "Sư đoàn tia
chớp nhiệt đới".
Theo
chiến lược dồn dân, lập ấp để tạo ra các vùng trắng, quân địch bắt tất
cả người dân nơi cụm đóng quân ra các ấp chiến lược. Để khủng bố và
gây áp lực bắt nhân dân phải bỏ làng mạc ra đi, chúng không tiếc pháo,
bom ném vào từng nhà một. Không ai có thể ở nổi. Cụm H.63 sống ẩn dưới
địa đạo trong các khu dân cư, chống lại những cuộc truy lùng của địch.
Cụm
trưởng Tư Cang (Nguyễn Văn Tàu) là người chứng kiến và có nhiều kỷ
niệm nhất với mảnh đất Phú Hòa Đông. Không thể hình dung nổi cảnh máy
bay ném bom trên mặt đất, cả cụm tình báo ở dưới lòng đất. "Ác liệt!" -
Hơn 30 năm sau, đại tá Nguyễn Văn Tàu nhắc đi nhắc lại cụm từ này. Ông
chợt "trở về" với Bến Đình, với những tháng ngày nằm sâu trong lòng địa
đạo oanh liệt xưa... Bến Đình trở thành quê hương thứ 2 của Tư Cang và
nhiều đồng đội trong cụm H.63. Sau ngày thống nhất đất nước, Bến Đình
là nơi ông và đồng đội thường chọn để trở về, vào mỗi dịp quan trọng.
Trận
chống càn đầu đầu tiên của cụm H.63 vào năm 1965, tại căn cứ Củ Chi.
Sư đoàn "anh cả đỏ" từ căn cứ Bắc Bến Cát, hướng về đất Củ Chi càn
quét. Quân địch được trang bị cực kỳ hiện đại và chuyên nghiệp. Lực
lượng không quân và pháo binh đi trước dọn đường. Xe tăng âm ầm rung
chuyển mặt đất. Lính bộ binh của chúng được trang bị tận răng, mỗi thằng
cầm một khẩu tiểu liên M.16 "cực nhanh" đi sau xe tăng.
Khi
chỉ còn cách Tư Cang và 2 đồng đội Năm Hải và Tư Lâm 200m, toàn bộ đội
quân của chúng bị khựng lại. Xe tăng không thể qua được vùng sình lầy.
Bọn Mỹ tức giận. Tiếng máy nổ vang một góc trời. Tổ 3 người do Tư Cang
làm tổ trưởng đang núp trong một bụi cây rậm giữa đường và sông Sài
Gòn theo dõi chúng. Thời cơ tiêu diệt những tên lĩnh Mỹ đầu tiên trên
đất thép Củ Chi đã đến. Hồi đó, anh em chỉ được trang bị súng trường
báng đỏ bắn từng phát một. Mỗi người một khẩu, riêng khẩu của Tư Lâm có
gắn thêm bộ phận lắp được đạn chống tăng.
Ba
tiếng nổ vang lên cùng lúc. Thằng Mỹ chỉ huy chết ngay tại chỗ. Thằng
mang điện đài bổ nhào xuống sông. Một cột khói bao quanh chiếc xe tăng
vừa trúng đạn của Tư Lâm. Sau phút định thần, chúng rút súng bắn loạn
xạ ra hướng sau lưng, chúng không biết tiếng súng nổ ra từ hướng nào.
Tổ 3 người lặn xuống sông và rời khỏi khu vực chiến đấu.
Ngay hôm sau, Tư Cang gửi một báo cáo gấp về trung tâm: Quân Mỹ bắt đầu chết trên đất Củ Chi!
H.63 trở thành "con mồi"!
Đội
võ trang của cụm H.63, có thành tích đặc biệt là đội đầu tiên giết
chết quân Mỹ dưới địa đạo. Cuối năm 1965, Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ được
điều qua và đóng căn cứ tại Đồng Dù (Củ Chi). Căn cứ của địch chỉ cách
căn cứ của H.63 khoảng 5-6 cây số. Đây là sư đoàn được đào tạo, huấn
luyện chiến tranh chống du kích, cách đánh du kích.
Một
ngày đầu năm 1966, không biết có chỉ điểm hay không, Sư đoàn này tính
chuyện săn cụm H.63. Khi Tư Cang và Năm Hải đi công tác trong ấp Phú An
về, anh em báo có 5 xe tăng của địch mò đến. Với kiến thức quân sự,
cụm trưởng Tư Cang nhận ngay ra đây là một cuộc hành quân trinh sát của
bọn Mỹ. Chúng đang chuẩn bị cho một trận tập kích đánh úp vào H.63.
Một cuộc họp chớp nhoáng diễn ra.
Tư
Cang đưa ra phán đoán: Có thể, chúng biết ta là một bộ phận quan
trọng, muốn dùng lực lượng mạnh đánh úp bất ngờ. Và người chỉ huy đưa
ra quyết định: đại bộ phận cụm sẽ tránh đi một địa điểm khác để giữ
liên lạc mật vụ với nội đô và cấp trên!
Cụm
trưởng cho một tổ 3 người ở lại duy trì liên lạc với các đơn vị bạn
trong vùng. Cơ bản nhất, tổ có nhiệm vụ "đánh cho bọn Mỹ một trận, cho
chúng biết tay!" Đúng như phán đoán, "anh cả đỏ" và Sư đoàn "tia chớp
nhiệt đới" bị tổ 3 người Tám Phương, Đạo và Lợi cho "phơi áo" ngay
trong lòng địa đạo.
Hôm
sau, đại quân Mỹ cỡ chừng 50 xe tăng ào ào kéo đến. Có lẽ vì nắm vững
vị trí và lực lượng H.63 theo bọn chỉ điểm nên bọn Mỹ định "ăn gọn",
bắt sống cả cụm. Sau khi ngụy trang kỹ địa đạo, tổ 3 người cầm vũ khí
chạy ra miệng địa đạo, mở nắp sẵn ngồi chờ địch tới. Đúng lúc đó, một
tình huống ngoàii dự đoán ập đến. Khi xe tăng Mỹ đang tiến vào như 2
gọng kìm khép chặt địa đạo thì một toán khoảng 20 người của ta đang chạy
đến địa đạo. Người dẫn đầu là Tư Kiếng, một cán bộ ban quân báo I4
(mật danh của Quân khu Sài Gòn - Gia Định).
Tư
Kiếng đi móc nối cơ sở bí mật trong Sài Gòn ra, vừa đến đây thì gặp
quân Mỹ đi càn. Trong quan hệ công tác, Tư Kiếng biết ở đây có lực
lượng vũ trang của cụm H.63 nên dẫn cả đoàn chạy vào ẩn náu. Cả đoàn Tư
Kiếng chui xuống địa đạo. Tám Phương là người xuống cuối cùng. Đó là
lúc gọng kìm của địch khép lại. Một chiếc xe tăng địch đã đậu trên...
nắp hầm.
Cả
đoàn quân hùng hậu của Mỹ không thấy một bóng người. Địch tức tối đi
tìm các nắp hầm bí mật. Thêm một số xe cơ giới hạng nặng từ Đồng Dù
tới. Xe tăng chạy qua chạy lại trên mặt đất để nắp hầm bật lên. Ba nắp
hầm bí mật bị khám phá.
Bọn
Mỹ cười hô hố khi thấy các nắp bị bật tung. Điện đài được đánh về
trung tâm chỉ huy ở Đồng Dù, yêu cầu trực thăng chở đội chuyên đánh
đường hầm đến. Đó là "phi đội chuột cống". Toàn những tên không to con,
vốn được huấn luyện đặc biệt tại Ha-oai, về môn đánh đường hầm.
Chuột cống "quốc tịch"... Mỹ
"Phi
đội chuột cống" chụi ngay xuống hầm. Vừa mò mẫm vừa gõ dò tìm các nắp
trầm, nắp bổng. Địa đạo được thiết kế đặc biệt và nhiều cấu trúc phức
tạp. Một đoạn đường hầm từ 8 đến 10 mét trông như bịt kín 2 đầu. Nhưng
nếu dùng đèn pin quan sát kỹ và dùng cán xẻng gõ tìm đường trong lòng
đất, gần cuối đường hầm có một nắp khi thì trồi lên để sang hầm khác,
khi thì tụt xuống. Đó là những nắm bổng, nắp trầm. Những sáng tạo khi
đào địa đạo của cụm H.63 bọn địch có đoán trước cũng không tài nào qua
nhanh được.
Mất
mấy tiếng đồng hồ, "phi đội chuột cống" mới qua được các chướng ngại
vật giăng sẵn. Chiến sĩ Đạo được giao nhiệm vụ ngồi gác trên một nắp
bổng của đoạn kế tiếp. Tám Phương chỉ đạo: Đạo giương lưỡi lê ra, khi
"chuột cống" đội nắp lên thì... xỏ lê ngang cổ, nó sẽ mắc kẹt ngang
miệng hầm. Tay cầm lưỡi lê theo lời tổ trưởng nhưng Đạo run thật sự.
Anh mới rời gia đình, nhập ngũ chưa đầy một tháng vào lực lượng vũ trang
H.63. Ở nhà, Đạo tên là Hiến. Nhập ngũ, vì đào địa đạo giỏi nên anh em
đặt tên là Đạo.
Đã
thấy lính Mỹ dậm bịch bịch ngay dưới chân Đạo. Cái nắp chuyển động.
Chúng cố sức mở nắp ra. Đạo lại đè xuống. Trong lúc bối rồi, Đạo quên
lời tổ trưởng Tám Phương dặn. Anh bỏ cây súng đã giương lê sang một
bên, toàn thân nằm trên nắp, dùng hai tay đè xuống. Phía dưới "chuột
cống" đẩy càng mạnh.
(VietNamNet) -
Tư Cang hoạt động nhiều ở căn cứ nhưng vẫn ra vô thành như con thoi.
Dù có các giao liên nội đô sống thường trực trong thành và giao liên từ
căn cứ vào, cụm trưởng vẫn phải trực tiếp vào thành nhận tin và giao
những nhiệm vụ quan trọng cho Hai Trung. Nhưng, vào thành là đối mặt
với gian nguy luôn giăng sẵn...
Về thành
Năm
1966, Phòng tình báo miền ra một chỉ thị: cụm trưởng cần sát cánh bên
điệp viên và giao thông nội đô. Tư Cang rời căn cứ Bến Đình, di chuyển
vào thành với nhiều vỏ bọc khác nhau. Bắt đầu từ buổi trưa ngày
20/8/1966. Tư Cang và chiến sĩ của mình là Sáu Ẩn dùng xuồng qua sông
Sài Gòn. Hai người theo đường tỉnh lộ 14 lên ngã ba Rạch Bắp rồi đi vào
Sở cao su Ginết.
Người
anh ruột của Sáu Ẩn là Năm Be đang phụ trách một cánh biệt động thành.
Năm Be có cơ sở mật tên là Sào đang làm lái xe tải nhẹ chở mủ cao su
từ đây về Sài Gòn. Đây cũng là cách anh em biệt động chuyển thuốc nổ,
súng ống về thành phố. Tư Cang sẽ đi nhờ xe chở cao su vào thành.
Được
dặn trước, Tư Cang đóng vai người chú của lái xe Sào từ Sài Gòn vào
thăm gia đình đứa cháu, nay tiện xe về Sài Gòn luôn. Xe vào thị trấn
Bến Cát, rẽ sang quốc lộ 13 và bon bon về Sài Gòn. Dọc đường, liên tục
qua các bốt gác của địch.
Mỗi
lần bị chặn lại, bà chủ sở cao su lại xuống trình giấy. Quá quen xe
cao su 2-3 ngày một chuyến vào ra, không tên địch nào buồn đến khám xe.
Tư Cang di chuyển ra thành phố một cách nhẹ nhàng.
12
năm rồi anh mới trở lại Sài Gòn. Tháng 6/1954, lúc đó đang là tổ
trưởng quân báo liên huyện Cần Đuốc - Cần Giờ - Nhà Bè, anh được giao
vào Sài Gòn vẽ bản đồ, điều tra các đồn bốt thuộc lực lượng Bình Xuyên,
bên kia cầu chữ Y. Sài Gòn bây giờ đã khác. Cảnh đông đúc, sầm uất
hiện ra trước mắt người cụm trưởng tình báo vốn chỉ sống ẩn mình dưới
địa đạo khắp vùng Bến Đình.
Nơi
Tư Cang đang tìm đến là một nơi đặc biệt. Đó như "căn cứ" an toàn ngay
bên hông địch. Ở đó có những con người sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy,
dung dưỡng người cụm trưởng tình báo như đứa con trong gia đình mình. Ở
đó cũng là nơi chứng kiến một tình cảm đẹp... Nơi đó là nơi Tám Thảo và gia đình đang sống.
Được
Tám Thảo dặn trước, Tư Cang mang phong thái tự nhiên đi thẳng vào ngôi
nhà 136B, hẻm 136, đường Gia Long. Anh như người thân của gia đình đã
đến đây nhiều lần. Gia đình Tám Thảo được biết đến như một gia đình
người Bắc khá giả, cách Dinh Độc Lập chưa đầy trăm mét nên bọn lính
cảnh sát, an ninh ít nghi ngờ. Gia đình có một sạp vải "Tân Mỹ" ngoài
chợ cũng là một trong những hộp thư của cụm H.63 trong thành.
Cả gia đình nhiệt tình đón tiếp Tư Cang.
Anh
nhớ lại, hôm đưa Tám Thảo vào căn cứ Bến Đình học nghị quyết, đã đặt
vấn đề vào Sài Gòn và ở tại gia đình với cô. Tám Thảo không chút do dự.
Cô nhận thấy người thủ trưởng của mình có dáng dấp thành phố, lại biết
ngoại ngữ nên dễ nhập vai.
Nhưng
cô vẫn do dự về ba mình, một người gốc Bắc vốn rất khắt khe. Tư Cang
và Tám Thảo móc nối giao liên đưa ba Tám Thảo vào căn cứ. Ông cụ đã
đồng ý với kế hoạch ở lại nhà mình của Tư Cang.
Tư
Cang trở thành người thân trong gia đình Tám Thảo lúc nào không biết.
Anh coi ba Tám Thảo như ba mình. Đêm đêm, anh nằm bên ông, vừa đấm
lưng, bóp chân cho ông vừa nói chuyện về Bác Hồ, về cách mạng. Anh dạy
thêm tiếng Anh, tiếng Pháp cho mấy đứa cháu trong nhà.
Nhiều
đêm, một tên chỉ điểm cạnh nhà lảng vảng đến, hắn đứng lại nghe Tư
Cang giảng bài rồi lặng lẽ bỏ đi. Hắn không thể ngờ người thanh niên
trắng trẻo, ưa nhìn đêm đêm giảng ngoại ngữ cho trẻ con lại là một cán
bộ Việt Cộng, một thiếu tá tình báo quân đội.
Người bạn chơi chim, chơi chó
Ở
thành phố đã yên ổn, Tư Cang nhờ Tám Thảo báo cho Hai Trung đến. Hồi
đó, giữa Hai Trung và gia đình Tám Thảo rất thân mật. Từ khi Tư Cang
lãnh đạo H.63, chỉ đạo Hai Trung chỉ qua thư. Khi gặp nhau, Hai Trung
bảo với Tư Cang: "Thằng cha này trong rừng mà ngó ngon quá!". Hai Trung
nhìn Tư Cang từ đầu đến chân.
Ông
yêu cầu Tư Cang thay áo. Chiếc áo Tư Cang đang mặc mới quá, ra đường
giặc sẽ nghi. Tiếp đến là đôi giày. Hai Trung bỏ tiền ra mua cho thủ
trưởng một đôi giày thật xịn.
Hai
người lúc nào cũng đi cùng nhau. Hai Trung đưa Tư Cang vào toàn những
nơi sang trọng để làm quen và nghe thông tin từ các nhân vật cỡ bự của
địch. Có người hỏi về Tư Cang, Hai Trung bảo đây là một người bạn là
chủ sở trên Dầu Tiếng, là bạn chơi chim, chơi chó. Hai Trung lái xe chở
Tư Cang đi khắp nơi. Phía sau bao giờ cũng có con chó cưng của Hai
Trung.
Ít
ai ngờ con chó này được Hai Trung điều khiển bằng... tiếng Pháp. Đi
bất cứ đâu Trung cũng cho chó đi theo. Con chó nằm ngoan ngoãn dưới
bàn. Hai Trung kể lại với cụm trưởng, đây là con chó của một người bên
Pháp cho Nguyễn Cao Kỳ. Một lần vào Phủ Tổng thống, ông thấy thích con
chó đẹp.
Hai
Trung móc với tên quản lý chó, làm cho chó ốm đói và ghẻ để thanh lý
cho mình, lại được thêm tiền tiêu. Tên quản lý chó nghe cũng khoái chí,
vì không phải chó của mình. Chỉ vài tuần sau, con chó đẹp đẽ trở nên
ốm đói, ghẻ lở. Nó bảo với Nguyễn Cao Kỳ, chắc là con chó này không hợp
với khí hậu Việt Nam, nên thanh lý. Hai Trung mua lại được con chó.
Bên Pháp nó đã được điều khiển bằng tiếng Pháp, Hai Trung mua về cứ thế
"nói chuyện" với nó bằng tiếng Pháp.
Điều
này gây ngạc nhiên với Tư Cang. Một lần Hai Trung dẫn Tư Cang vào nhà
hàng Victory. Sau khi đã xong việc, Hai Trung đứng lên trả tiền, con
chó đi theo. Hai Trung quát bằng tiếng Pháp: "Đứng lại!". Con chó đứng
yên. Khi trả tiền xong, trở lại bàn, Hai Trung lại nói: "Nằm xuống!"
(bằng tiếng Pháp). Con chó lại nằm xuống. Xung quanh không thể nghi ngờ
2 ông chủ giàu có, điều khiển chó bằng tiếng Pháp lại là một điệp viên
cỡ bự và một cụm trưởng tình báo cỡ bự của Việt Cộng.
Gặp
Tư Cang, Hai Trung rất mừng. Lúc này mục đích lớn nhất cấp trên giao
cho Hai Trung đang là nghiên cứu về quân sự để chuẩn bị cho cuộc Tổng
tấn công Mậu Thân 1968. Tư Cang và Hai Trung phải bám xem Mỹ Ngụy thi
hành kế hoạch quân sự 142 như thế nào? Kế hoạch bình định được chúng
cập nhật hóa ra sao? Theo dõi khi nào chúng đưa kế hoạch mới là AB 143
để thi hành năm 1968, phải lấy bằng được vào cuối năm 1967. Ngoài ra,
nhiệm vụ của Hai Trung còn xem Mỹ ngụy có nghi ngờ cuộc Tổng tấn công
của ta sắp tới không? Có sự chỉ đạo trực tiếp của Tư Cang, Hai Trung làm
tốt tất cả mọi việc.
Sát
cánh bên điệp viên, cụm trưởng Tư Cang hoạt động mật trong thành như
không khác gì một điệp viên thực thụ. Cụm trưởng H.63 được giao chỉ thị
kiểm tra, điều nghiên tình trạng của toàn lưới một cách cụ thể. Thỉnh
thoảng lại về vùng an toàn, không được ở vùng địch hậu lâu dài. Tư Cang
còn có nhiệm vụ hướng dẫn, bồi dưỡng cho điệp viên những nhiệm vụ,
nghị quyết của trên để lấy tài liệu thích ứng với tình hình.
Trực
tiếp vào thành hoạt động hỗ trợ điệp viên và nắm tình hình, cụm trưởng
H.63 đối mặt với nhiều hiểm nguy. Bằng sự mưu trí, bình tĩnh Tư Cang
đã nhiều lần vượt qua. Kể cả vượt qua chính mình...
(VietNamNet) -
Có những cuộc xét giấy "căng như dây đàn". Chỉ cần cái gật đầu nhẹ của
tên chỉ huy, Tư Cang và giao liên sẽ bị bắt, điệp viên và cơ sở ắt sẽ
lung lay. Đây cũng là dịp xạ thủ "hai tay như một" suýt nữa đã dùng đến
viên đạn giành cho riêng mình. Cụm trưởng H.63 đã vượt qua như thế
nào?
Cuộc xét giấy... thót tim
Năm
1968, sau đợt 2 chiến dịch Mậu Thân, cấp trên gọi ông về để chỉnh
huấn. Giao liên Tám Kiên lại là người đi cùng Tư Cang từ trong thành về
cứ. Hai người đi trên chiếc xe honda nữ của Tám Kiên. Trước khi đưa Tư
Cang ra cứ, Tám Kiên đã điều tra và nắm rõ tình hình đường sá. Chỗ nào
có bốt, có bốt nghiêm, bốt sơ hở, nhiều quân Mỹ, làm gắt gao... đều đã
nằm trong đầu nữ giao liên trẻ.
Hai
người vừa đi vừa nói chuyện như một đôi vợ chồng trẻ. Tám Kiên thông
tin cho thủ trưởng biết, mấy hôm nay lực lượng Mỹ - Ngụy đang càn quét
trên một vùng lớn từ Củ Chi đến Trảng Bàng. Sự liên lạc giữa khu căn cứ
và ấp chiến lược Phú Hòa Đông gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm.
Hôm
nay, Tám Kiên sẽ đưa thủ trưởng về ấp chiến lược Mỹ Phước (huyện Bến
Cát). Xe chạy bon bon về hướng Lái Thiêu. Qua trạm gác thị xã Bình
Dương, cả hai không bị xét hỏi gì. Nhìn cặp vợ chồng ăn mặc sang trọng
trên chiếc xe honda mới, các tốp lính không thể nghi ngờ.
Chỉ
còn 10 cây số nữa sẽ đến Mỹ Phước. Tư Cang nhìn thấy cách mình 100m có
một tên lính, trên tay hắn là khẩu súng cac-bin. Phía trong, dưới các
gốc xoài, mấy chiếc xe Jep đã đậu sẵn. Tình huống bất ngờ xảy ra mà lúc
sáng Tám Kiên đi không gặp.
Tư
Cang đang dùng giấy tờ giả do Tám Chứa, một cán bộ kỹ thuật Phòng tình
báo cấp. Tên lính cầm thẻ căn cước xem đi xem lại. Nó đã nghi giấy
giả. Nó nắm tay lại, bóp tờ thẻ rồi bung ra. Lại bóp và thả cho bung ra
một lần nữa. Tên này đã có kinh nghiệm trong việc xét hỏi căn cước.
Tên
lính cười gằn rồi nói: "Giấy này kỳ quá!". Tư Cang chống chế: "Mấy ông
cấp sao, tôi đi vậy chứ kỳ gì!". Nó tiếp tục "vần con mồi" bằng cách
đưa giấy ra sau lưng rồi nhìn thẳng vào mắt Tư Cang, hỏi tên cha ông.
"Ba tôi hả? Nguyễn Văn Muốn!". Cô giao thông Tám Kiên đứng bên bắt đầu
lo. Trong trường hợp này, nhiều người sẽ trả lời sai với thông tin trên
giấy. Vì đây là giấy giả, cha giả. Đây là tên ông cậu của Tư Cang.
Trả
lời xong, Tư Cang trêu lại nó: “Tía (cha) mà cũng hỏi nữa”! Nó vẫn
không chịu thua, ngó tiếp và hỏi : "Giấy cho ngày mấy?”. Giấy này là
giả, khi ra ngoài thành, ông đã cẩn thận so với giấy thật để xem và
nghiên cứu trước. Nhưng nếu trả lời quá chính xác tụi nó cũng nghi. Tư
Cang từ tốn: "Giấy mấy ông cho đâu hồi giữa năm 1962, bây giờ hỏi ngày
làm sao nhớ nổi!".
Vẫn
chưa chịu thua. Tên lính cầm tờ giấy đi vào trong, nói với tên Trung
úy chỉ huy: "Thưa Trung úy, tờ giấy này coi kỳ quá, có nhiều khả
nghi!". Tên Trung úy cầm giấy và lật đi lật lại xem. Trung uý nhìn về
phía Tư Cang, thấy anh đang vui vẻ, lại còn lấy thuốc ra hút rất tự
nhiên. Anh bảo nhỏ Tám Kiên: cứ tươi tỉnh lên!
Tên
Trung úy thấy thái độ của Tư Cang và Tám Kiên như vậy nên quay sang
thằng lính bảo: Người Sài Gòn giấy như vậy đó! Trả cho người ta đi. Tên
lính ra trả giấy, mồm vẫn lẩm bẩm: mình đã phát hiện ra giấy giả, thế
mà ổng vẫn cho đi. Khi đã thoát xa khỏi trạm xét giấy đó, Tư Cang và
Tám Kiên vẫn không hiểu sao tên Trung úy chỉ huy lại dễ dãi đến vậy.
Viên đạn cuối cùng
Trong
đợt 1 cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, nhiều tình huống nguy hiểm khi
đối mặt với giặc đã được cụm trưởng và các giao thông viên H.63 hóa
giải. Nhớ lại, ngay trong những ngày ta và địch đang đánh nhau dữ dội,
giao thông Hai Ánh vẫn mang trót lọt vũ khí từ ấp chiến lược vào cho
thủ trưởng Tư Cang.
Bữa
đầu tiên, đúng hôm đang đánh ác liệt, bọn lính ở Ba Ri - Tân Quy đuổi
cô về. Hôm sau Hai Ánh ngụy trang vũ khí trong một chồng bánh tráng.
Giả vờ là người đi bán, gặp Tư Cang hỏi mua. 2 cây súng cùng 27 viên
đạn được trao tận tay Tư Cang.
Hai
Ánh giả vờ làm rơi chỉ thị đã được cuốn tròn như viên bi nhỏ xuống
đất. Cô nhanh chân đạp lên nó. Thừa lúc không ai để ý, giả bộ cúi xuống
gãi kiến cắn, Ánh nhặt chỉ thị lên và cho vào mồm nuốt. Qua khỏi bốt
gác, cô tới ngã tư Bảy Hiền mua 2 trái dừa to để uống rồi móc họng. Tài
liệu được ói cho ra, chuyển về an toàn cho thủ trưởng Tư Cang.
Sau
này, khi chiến tranh đã qua đi, thủ trưởng Tư Cang vẫn tự hào, trong
quá trình hoạt động trong thành, lực lượng mật của H.63 không ai hy
sinh, không ai bị bắt cả. Tư Cang điều khiển lưới trơn tru đâu ra đấy.
Lực lượng mật toàn vẹn cho đến ngày giải phóng.
Trong
đợt 1 Mậu Thân, khi Tư Cang đang núp trong nhà Tám Thảo, một chuyện
ngoài dự tính đã xảy đến. Nhưng sự thông minh, khéo léo của Tám Thảo đã
giúp Tư Cang không bị lộ, gia đình không bị địch quấy rầy. Đó là những
ngày quân ta và địch đang giằng co tại khu vực Dinh Độc Lập.
Từ
trên căn xép nhỏ, Tám Thảo và Tư Cang quan sát hết được diễn biến trận
đánh. Nhìn thấy mấy tên Mỹ đứng lố nhố phía bên kia đường, Tám Thảo
bảo Tư Cang dùng tài nghệ bắn súng hạ bọn chúng. Hai phát súng của Tư
Cang hạ hai tên giặc. Bắn xong anh đi qua giường ngủ của Tám Thảo, len
qua những bành vải cùng vật dụng phế thải của gia đình và chui vào một
lỗ nhỏ bị bể trên tường gạch. Đó là nơi ẩn náu của anh.
Tức
tối, nghi vấn, địch mò vào nhà Tám Thảo lùng sục. Còn 25 viên đạn. Anh
lấy 1 viên bỏ vào túi. Bao giờ cam go, cận kề cái chết anh cũng làm
vậy. Một viên đạn luôn để dành cho chính mình. Sợ 1 viên dễ bị kẹt, anh
bỏ thêm viên nữa vào túi. Đây là lúc rất có thể viên đạn dành riêng
cho Tư Cang được sử dụng.
Ông
xác định nếu bị lộ, sẽ sống còn với chúng, và viên đạn dành cho mình
sẽ găm vào tim. Nếu không làm thế, địch sẽ bắt được và cả lưới được gây
dựng lâu nay, cả điệp viên đang an toàn trong lòng địch sẽ dễ bị vỡ.
Người chiến sĩ tình báo, trong cận kề cái chết, nhiệm vụ bảo vệ đường
dây vẫn là cao cả nhất.
Bọn
địch đã lao xao ngoài ngõ. Chúng phỏng đoán hướng bắn từ ngôi nhà này.
Tư Cang thấy thương gia đình Tám Thảo. Mọi người trong nhà đã xem Tư
Cang như người thân. Nếu chúng phát hiện ra ông, không chỉ Tám Thảo, mà
cả gia đình cô cũng liên lụy nặng.
Tư
Cang thấy thương Tám Thảo vô hạn. Với cô, không chỉ còn là tình đồng
chí đồng đội, trong những lúc cam go của cuộc chiến, những phút lãng
mạn trong lòng địch, Tư Cang đã có chút tình cảm với cô.
Tiếng
tên chỉ huy nói to: "Bắt thằng Việt Cộng ra xem gan lớn như thế nào mà
dám ở vùng này!". Có lẽ tên chỉ điểm gần nhà đã nghi từ lâu, vì thấy
Tư Cang hay đi ra đi vào với Tám Thảo. Đang ngồi thu mình trong bóng
tối, Tư Cang nghe tiếng động phát ra từ mái nhà. Bọn địch cho cả 1 tốp
đi trên ngói truy tìm kẻ bắn ra 2 phát súng vừa nãy. Chúng đã bao vây
kín nhà Tám Thảo.
Địch
đập cửa đòi kiểm tra sổ gia đình. Chúng lần mò lên tầng trên, chỗ Tư
Cang đang núp. Nó chỉ cách anh có mười mấy thước. Lúc đó, Tám Thảo
trong màn bước ra, cô làm bộ không biết gì và đối đáp với nó. Thảo cố
tình nói thông tin mình làm cho Mỹ. Tụi nó lại nhìn thấy hình tên sếp
Mỹ của Tám Thảo để trên bàn. Tên Đại úy trinh sát dẫn đầu đám lùng sục
xua quân ra về (Phần thông tin này VietNamNet đã đưa chi tiết trong loạt bài về nữ điệp viên Tám Thảo).
Sau
này, một người thuộc thế hệ sau của Tư Cang - Tám Thảo khi biết chuyện
đã viết bài thơ "Bức hình kỷ niệm" tặng 2 người. Đại tá Tư Cang đã
trân trọng in bức ảnh Tám Thảo và bài thơ trong cuốn hồi ký về trận Mậu
Thân năm 1968, như một kỷ niệm đẹp:
"Đã nhiều năm sau cuộc chiến tranh
Tôi vẫn để tấm hình em bên ngực trái Nơi ngày đó tôi cất viên đạn cuối cùng Giành cho mình khi giặc xét nhà em...
...Giờ bức hình tôi vẫn để bên tim
Nơi viên đạn tôi giành riêng ngày đó Tim tôi vẫn cuộn sôi dòng máu đỏ Bên bức hình người đã chở che tôi".
Trong
quá trình hoạt động của H.63, thời điểm trước và sau cuộc Tổng tấn
công Tết Mậu Thân năm 1968 được coi như một trong những thời kỳ hiệu
quả nhất...
Hà Trường - Việt Hà - Thế Vinh | |||||||||||||||









Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét