Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Huyền thoại về Cụm tình báo H.63

Phần 3 . Kỳ 20, 21 In
Kỳ 20: Lắp ráp và khởi động "cỗ máy" H.63
(VietNamNet) - Đầu năm 1962, vượt Trường Sơn, Trần Văn Quang từ miền Bắc trở về chiến khu R (Tây Ninh). Quang có tên hoạt động là Tư Cang và nhận nhiệm vụ: Chỉ huy lưới tình báo A18 (tiền thân của lưới H.63 sau này). Đây là những năm tháng chiến trường miền Nam trong tình thế khó khăn. Lưới tình báo hàng trăm người, chỉ để phục vụ và bảo vệ các điệp viên. Họ có an toàn và hiệu quả trong lòng địch?
"Máy trưởng" nhận nhiệm vụ
H.63 là được ví như một "cỗ máy". "Máy trưởng" Tư Cang trở về từ miền Bắc, nhiệm vụ: khởi động và vận hành trơn tru "cỗ máy" này.
h
Đầu năm 1962, Trần Văn Quang từ miền Bắc trở về chiến khu R, lấy tên hoạt động là Tư Cang và nhận nhiệm vụ: Chỉ huy lưới tình báo A18 (tiền thân của lưới H.63 sau này).
Những năm 60, tình hình miền Nam gặp nhiều khó khăn với những đợt vây ráp gắt gao của địch. Việc di chuyển cán bộ tình báo từ miền Bắc vào Nam hoạt động cũng gặp trở ngại. Đường bộ bị ngăn, đường biển càng nguy hiểm hơn. Trung ương Cục miền Nam có sáng kiến thành lập các cụm tình báo hoạt động xung quanh Sài Gòn. Cụm tình báo sẽ khắc phục được liên lạc đường dài giữa Cục tình báo và các điệp viên họat động trong lòng địch. Mỗi cụm phụ trách và phục vụ chỉ 1, 2 điệp viên.
Đầu năm 1961, cụm tình báo quân sự A18 (tiền thân của cụm H.63) ra đời, đóng tại căn cứ Bời Lời (Tây Ninh). Tất cả để phục vụ điệp viên nổi tiếng Hai Trung. Đằng sau những tin tức, tài liệu chuyển về của Hai Trung, là cả hệ thống phục vụ, cả trong nội đô và ngoài căn cứ.
Thời kỳ đầu, H.63 là bộ phận địch tình của thành ủy Sài Gòn. Khi Hai Trung (Phạm Xuân Ẩn) từ Mỹ trở về, hoạt động giữa Sài Gòn với tư cách phóng viên báo nước ngòai, ông Mười Nho (Xuân Mạnh, Nguyễn Nho Quý - cán bộ Cục Tình báo) là người trực tiếp chỉ đạo.
Năm 1962, ông Mười Nho bị bệnh, không thể chỉ huy H.63. Cả mạng lưới với một điệp viên đã nằm sâu trong lòng địch như Hai Trung, cần một chỉ huy giỏi và mưu trí. Tư Cang là người được ông Ba Trần, Thủ trưởng Phòng tình báo miền lúc bấy giờ lựa chọn. Tháng 5/1962, Tư Cang chính thức được giao nhiệm vụ chỉ huy cụm H.63. 
"Khởi động" H.63!
"Cỗ máy" đã có "máy trưởng", sẽ kết nối các "bộ phận" và hoạt động như thế nào?
f
 
Đầu tiên là liên lạc. Trong một lưới tình báo, khâu liên lạc là khâu khó khăn nhất, đặc biệt là liên lạc trong nội đô. Tài liệu, tin tức điệp viên đưa ra, dù điệp viên có giỏi đến đâu nhưng liên lạc kém cũng sẽ thất bại. Thất bại, đồng nghĩa với sinh mệnh của điệp viên nguy nan. Liên lạc viên nội đô của H.63 trực tiếp nhận tin từ Hai Trung phải là người đảm bảo được nhiều yếu tố.
Đó là một bình phong tốt, trí nhớ cao, thuộc nhiều địa danh trên đường phố, địa bàn, thông thạo các phương tiện công cộng, các nơi tập trung đông người như tiệm ăn, rạp hát, chợ... để dễ thay đổi chỗ hẹn. Liên lạc viên nội đô phải có óc quan sát sắc bén, biết nhận diện tướng mạo con người để phát hiện khi bị theo dõi, đủ tài đánh lạc hướng.
Ai sẽ dấn thân vào nguy hiểm và đáp ứng được những điều kiện khắt khe của nhiệm vụ kết nối này?
Nhiều giao thông được đưa vào thành giới thiệu với Hai Trung. Nhưng ông không đồng ý một ai. Hai Trung hoạt động trong thành, lường trước được những điều xảy ra với một giao thông viên nội đô. Người trẻ quá dễ bị bọn lính chọc ghẹo. Có người là thanh niên, dễ bị bắt lính bất cứ lúc nào.
Giao liên Nguyễn Thị Ba (quê Long An) được giới thiệu với Hai Trung. Chị Ba (còn gọi là chị Ba già) đáp ứng được những yêu cầu mà điệp viên và tổ chức đặt ra. Chị Ba có tuổi, giàu kinh nghiệm, thông thuộc địa bàn, chưa bị bắt lần nào và có bình phong tốt. Hai Trung mới nghe tổ chức giới thiệu, đã nhận ngay.
Trong một tài liệu tổng kết về giao thông viên lưới H.63, vai trò của Nguyễn Thị Ba được đánh giá: một giao liên gan dạ, mưu trí bên cạnh điệp viên. Và những yếu tố khác: Chị Ba là đảng viên, chồng cũng là cách mạng lão thành. Xa chồng, xa con, chị một mình vào Sài Gòn lấy bình phong bán đồ vàng giả, đồ chơi trẻ con để làm liên lạc cho Hai Trung.
Theo quy ước, chị Ba bán hàng tại khu vực Chợ Cũ (chợ Bà Chiểu - TP.HCM bây giờ) để nhận tin tức và tài liệu từ Hai Trung chuyển ra. Thông thường, vào sáng chủ nhật hoặc giờ nghỉ, Hai Trung đi xe đến chợ, gửi xe rồi dắt chó vào chợ. Như một người đi mua đồ cho chó, cho chim. Đến hàng của giao liên, Hai Trung giả vờ tìm một vài đồ vàng giả mua về cho trẻ con.
Khi có tín hiệu an toàn, thư được bỏ vào hàng của Nguyễn Thị Ba. Nhận tài liệu, tin tức, Nguyễn Thị Ba sẽ trực tiếp chuyển cho giao liên đưa về căn cứ hoặc qua các liên lạc dự bị. Cứ vậy, gánh hàng trang sức giả là bình phong vững chắc cho liên lạc Nguyễn Thị Ba trong cả quá trình đứng đằng sau hoạt động của điệp viên Phạm Xuân Ẩn.
10 năm làm liên lạc cho Hai Trung, Nguyễn Thị Ba chưa bao giờ sai một buổi hẹn nào, chưa có một sai sót nào. Chỉ có Hai Trung là thất hẹn một số ít lần vì bận đi ra ngoài thành phố không trở về kịp. Ông không thể thông báo trước, bởi vì bình phong bắt buộc Hai Trung phải đi xa thành phố đột xuất.
Bản năng cẩn trọng của người giao liên họat động trong nội thành thường trực trong con người Nguyễn Thị Ba. Chị luôn rất cảnh giác trước khi gặp Hai Trung, cũng như khi trao nhận tài liệu, tin tức. Cụm trưởng Tư Cang kể lại, cũng vì quá cảnh giác, nhiều khi gặp nhau trong chợ, Hai Trung phải khuyên Nguyễn Thị Ba đừng quá nhìn xuôi ngó ngược trong lúc nói chuyện. Vì điều này có thể gây chú ý cho bọn an ninh VNCH, vốn đầy rẫy xung quanh. 
Chị Ba già đã giữ đường liên lạc an toàn và hiệu quả suốt mười mấy năm. Mãi đến 3/1975, chị Ba mới được đổi bằng người khác. Sau này, thiếu tá Nguyễn Thị Ba được phong Anh hùng LLVT.
Khi còn sống, nhà tình báo huyền thoại Phạm Xuân Ẩn từng đúc kết về giao liên với các nhà báo đến hỏi chuyện ông: "Điệp viên giỏi mà không có giao liên giỏi đưa tài liệu ra căn cứ thì chỉ có... ăn cám!".
Điệp viên không cô độc
Hai Trung, Tám Thảo và Nguyễn Thị Ba hoạt động trong lòng địch nhưng chưa bao giờ cô độc. Bởi lẽ, từ năm 1966, cụm trưởng Tư Cang nhận nhiệm vụ thường xuyên ra vào thành. Cụm trưởng vào vùng địch hậu hoạt động một thời gian dài và bất hợp pháp như Tư Cang được đánh giá là cấp chỉ huy không còn vị trí an toàn và công khai. Cụm trưởng cũng hoạt động mật như một điệp viên.
Cụ thể, Tư Cang nhận lệnh từ Phòng tình báo miền: Vào nội thành kiểm tra, điều nghiên tình trạng của toàn lưới một cách cụ thể. Cụm trưởng tiếp xúc với điệp viên, với giao thông nội đô để hướng dẫn, bồi dưỡng và trực tiếp chỉ đạo.
Việc ra vào thành như con thoi của Tư Cang còn có nhiệm vụ khác: lắng nghe điệp viên, làm giảm sự cô đơn và căng thẳng từ điệp viên. Tư Cang là cụm trưởng luôn kiểm soát được điệp viên trong mọi tình huống.
Tuy nhiên, theo các tài liệu đánh giá sau này, sự liên lạc trực tiếp giữa tổ trưởng và điệp viên liên tục cũng sẽ có hại đến sự an tòan của điệp viên. Nhưng thật tài tình, chưa một lần hoạt động của điệp viên và các mũi của H.63 bộc lộ sai sót.
Điều này thật thú vị khi lúc đầu Hai trung không biết ai là tổ trưởng của mình. Trung chỉ biết có một tập thể chỉ huy mình. Trong thời gian hoạt động trong thành, từ 1966-1969, Tư Cang lấy tên là Khanh. Và trong thư từ báo cáo, Hai Trung gọi Tư Cang là Robert. Bởi lẽ, đây là nguyên tắc để giữ bí mật tung tích cấp chỉ đạo. Hai Trung luôn ý thức về nguyên tắc này.
Giữa Hai Trung và Tư Cang sau này đã trở thành 2 người bạn thân, lúc những thông tin về 2 người đã được công bố. Chiến công của Hai Trung thì nhiều, nhưng Đại tá Tư Cang nhớ rất rõ khoảnh khắc một buổi trưa năm 1967. Hai Trung lái xe Renault chở Tư Cang đi trên đường, cụm trưởng báo tin cho điệp viên, tập tài liệu Hai Trung chuyển ra vừa qua rất có giá trị. Trung ương đã quyết định tặng thưởng cho Hai Trung một huân chương chiến công hạng nhất.

Nghe thủ trưởng nói vậy, Hai Trung mừng và nhớ ơn cấp trên. Nhưng rồi lại trầm hẳn xuống, và nói thật từ đáy lòng: đời người tình báo chẳng biết có cơ hội đeo huân chương không! Tư Cang không khỏi xót xa khi nghe cấp dưới nói vậy.
Sau chiến tranh, "bộ máy" H.63 đã 2 lần trở thành anh hùng. Trong những tài liệu tổng kết được công bố, H.63 được đánh giá tinh cán, gọn gàng, nhịp nhàng giữa điệp báo và giao thông cả trong nội đô và từ nội đô ra khu căn cứ, có sự chỉ đạo liên tục từ cụm trưởng.
Và dĩ nhiên, H.63 đã cống hiến cho cách mạng nhiều thông tin có hiệu lực và giá trị.
Nhưng, trước khi vào thành hoạt động, vị chỉ huy bắn súng 2 tay như một đã có những tháng ngày "ăn cùng bom, ngủ cùng đạn" tại căn cứ Bến Đình. Tất cả để duy trì lưới và bảo vệ những tin tức, tài liệu điệp viên gửi ra.
  • Việt Hà - Thế Vinh - Hà Trường

     
Kỳ 21: Sống trong hủy diệt
(VietNamNet) - Trong thành, điệp viên và giao thông nội đô đối diện với những hiểm nguy rình rập. Ở căn cứ, cả cụm H.63 cũng thường xuyên đối mặt với các trận vây ráp, càn quét của địch. Trước khi vào thành hoạt động, vị chỉ huy bắn súng 2 tay như một đã có những tháng ngày "ăn cùng bom, ngủ cùng đạn" tại căn cứ Bến Đình.
 
Đối diện với "anh cả đỏ"!
 
Năm 1965, tình hình miền Nam ngày càng căng thẳng. Bước sang năm 1965, Mỹ liên tục đưa các sự đòan lính thủy đánh bộ, Sư đoàn 1 bộ binh, kỵ binh không vận vào miền Nam. Trong đó, nổi lên nhất là sư đoàn kỵ binh số 1. Địch tuyên truyền rùm beng, đây là sư đoàn thiện chiến nhất với biệt danh "anh cả đỏ". Cạnh đó, chúng chuẩn bị đưa vào miền Nam sư đoàn bộ binh số 25. Chúng rêu rao: Đây là sư đoàn có khả năng giải quyết nhanh chóng chiến trường vùng nhiệt đới, nên được tôn vinh là "Sư đoàn tia chớp nhiệt đới".
 
 
h
Tư Cang và những khoảnh khắc nhớ lại hồi đối diện với "anh cả đỏ"
 
Theo chiến lược dồn dân, lập ấp để tạo ra các vùng trắng, quân địch bắt tất cả người dân nơi cụm đóng quân ra các ấp chiến lược. Để khủng bố và gây áp lực bắt nhân dân phải bỏ làng mạc ra đi, chúng không tiếc pháo, bom ném vào từng nhà một. Không ai có thể ở nổi. Cụm H.63 sống ẩn dưới địa đạo trong các khu dân cư, chống lại những cuộc truy lùng của địch.
 
Cụm trưởng Tư Cang (Nguyễn Văn Tàu) là người chứng kiến và có nhiều kỷ niệm nhất với mảnh đất Phú Hòa Đông. Không thể hình dung nổi cảnh máy bay ném bom trên mặt đất, cả cụm tình báo ở dưới lòng đất. "Ác liệt!" - Hơn 30 năm sau, đại tá Nguyễn Văn Tàu nhắc đi nhắc lại cụm từ này. Ông chợt "trở về" với Bến Đình, với những tháng ngày nằm sâu trong lòng địa đạo oanh liệt xưa... Bến Đình trở thành quê hương thứ 2 của Tư Cang và nhiều đồng đội trong cụm H.63. Sau ngày thống nhất đất nước, Bến Đình là nơi ông và đồng đội thường chọn để trở về, vào mỗi dịp quan trọng.
 
Trận chống càn đầu đầu tiên của cụm H.63 vào năm 1965, tại căn cứ Củ Chi. Sư đoàn "anh cả đỏ" từ căn cứ Bắc Bến Cát, hướng về đất Củ Chi càn quét. Quân địch được trang bị cực kỳ hiện đại và chuyên nghiệp. Lực lượng không quân và pháo binh đi trước dọn đường. Xe tăng âm ầm rung chuyển mặt đất. Lính bộ binh của chúng được trang bị tận răng, mỗi thằng cầm một khẩu tiểu liên M.16 "cực nhanh" đi sau xe tăng.
 
Khi chỉ còn cách Tư Cang và 2 đồng đội Năm Hải và Tư Lâm 200m, toàn bộ đội quân của chúng bị khựng lại. Xe tăng không thể qua được vùng sình lầy. Bọn Mỹ tức giận. Tiếng máy nổ vang một góc trời. Tổ 3 người do Tư Cang làm tổ trưởng đang núp trong một bụi cây rậm giữa đường và sông Sài Gòn theo dõi chúng. Thời cơ tiêu diệt những tên lĩnh Mỹ đầu tiên trên đất thép Củ Chi đã đến. Hồi đó, anh em chỉ được trang bị súng trường báng đỏ bắn từng phát một. Mỗi người một khẩu, riêng khẩu của Tư Lâm có gắn thêm bộ phận lắp được đạn chống tăng.
 
Ba tiếng nổ vang lên cùng lúc. Thằng Mỹ chỉ huy chết ngay tại chỗ. Thằng mang điện đài bổ nhào xuống sông. Một cột khói bao quanh chiếc xe tăng vừa trúng đạn của Tư Lâm. Sau phút định thần, chúng rút súng bắn loạn xạ ra hướng sau lưng, chúng không biết tiếng súng nổ ra từ hướng nào. Tổ 3 người lặn xuống sông và rời khỏi khu vực chiến đấu.
 
Ngay hôm sau, Tư Cang gửi một báo cáo gấp về trung tâm: Quân Mỹ bắt đầu chết trên đất Củ Chi!
 
H.63 trở thành "con mồi"!
 
Đội võ trang của cụm H.63, có thành tích đặc biệt là đội đầu tiên giết chết quân Mỹ dưới địa đạo. Cuối năm 1965, Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ được điều qua và đóng căn cứ tại Đồng Dù (Củ Chi). Căn cứ của địch chỉ cách căn cứ của H.63 khoảng 5-6 cây số. Đây là sư đoàn được đào tạo, huấn luyện chiến tranh chống du kích, cách đánh du kích.
 
Một ngày đầu năm 1966, không biết có chỉ điểm hay không, Sư đoàn này tính chuyện săn cụm H.63. Khi Tư Cang và Năm Hải đi công tác trong ấp Phú An về, anh em báo có 5 xe tăng của địch mò đến. Với kiến thức quân sự, cụm trưởng Tư Cang nhận ngay ra đây là một cuộc hành quân trinh sát của bọn Mỹ. Chúng đang chuẩn bị cho một trận tập kích đánh úp vào H.63. Một cuộc họp chớp nhoáng diễn ra.
 
Tư Cang đưa ra phán đoán: Có thể, chúng biết ta là một bộ phận quan trọng, muốn dùng lực lượng mạnh đánh úp bất ngờ. Và người chỉ huy đưa ra quyết định: đại bộ phận cụm sẽ tránh đi một địa điểm khác để giữ liên lạc mật vụ với nội đô và cấp trên!
 
Cụm trưởng cho một tổ 3 người ở lại duy trì liên lạc với các đơn vị bạn trong vùng. Cơ bản nhất, tổ có nhiệm vụ "đánh cho bọn Mỹ một trận, cho chúng biết tay!" Đúng như phán đoán, "anh cả đỏ" và Sư đoàn "tia chớp nhiệt đới" bị tổ 3 người Tám Phương, Đạo và Lợi cho "phơi áo" ngay trong lòng địa đạo.
 
Hôm sau, đại quân Mỹ cỡ chừng 50 xe tăng ào ào kéo đến. Có lẽ vì nắm vững vị trí và lực lượng H.63 theo bọn chỉ điểm nên bọn Mỹ định "ăn gọn", bắt sống cả cụm. Sau khi ngụy trang kỹ địa đạo, tổ 3 người cầm vũ khí chạy ra miệng địa đạo, mở nắp sẵn ngồi chờ địch tới. Đúng lúc đó, một tình huống ngoàii dự đoán ập đến. Khi xe tăng Mỹ đang tiến vào như 2 gọng kìm khép chặt địa đạo thì một toán khoảng 20 người của ta đang chạy đến địa đạo. Người dẫn đầu là Tư Kiếng, một cán bộ ban quân báo I4 (mật danh của Quân khu Sài Gòn - Gia Định).
 
Tư Kiếng đi móc nối cơ sở bí mật trong Sài Gòn ra, vừa đến đây thì gặp quân Mỹ đi càn. Trong quan hệ công tác, Tư Kiếng biết ở đây có lực lượng vũ trang của cụm H.63 nên dẫn cả đoàn chạy vào ẩn náu. Cả đoàn Tư Kiếng chui xuống địa đạo. Tám Phương là người xuống cuối cùng. Đó là lúc gọng kìm của địch khép lại. Một chiếc xe tăng địch đã đậu trên... nắp hầm.
 
Cả đoàn quân hùng hậu của Mỹ không thấy một bóng người. Địch tức tối đi tìm các nắp hầm bí mật. Thêm một số xe cơ giới hạng nặng từ Đồng Dù tới. Xe tăng chạy qua chạy lại trên mặt đất để nắp hầm bật lên. Ba nắp hầm bí mật bị khám phá.
 
Bọn Mỹ cười hô hố khi thấy các nắp bị bật tung. Điện đài được đánh về trung tâm chỉ huy ở Đồng Dù, yêu cầu trực thăng chở đội chuyên đánh đường hầm đến. Đó là "phi đội chuột cống". Toàn những tên không to con, vốn được huấn luyện đặc biệt tại Ha-oai, về môn đánh đường hầm.
 
Chuột cống "quốc tịch"... Mỹ
 
"Phi đội chuột cống" chụi ngay xuống hầm. Vừa mò mẫm vừa gõ dò tìm các nắp trầm, nắp bổng. Địa đạo được thiết kế đặc biệt và nhiều cấu trúc phức tạp. Một đoạn đường hầm từ 8 đến 10 mét trông như bịt kín 2 đầu. Nhưng nếu dùng đèn pin quan sát kỹ và dùng cán xẻng gõ tìm đường trong lòng đất, gần cuối đường hầm có một nắp khi thì trồi lên để sang hầm khác, khi thì tụt xuống. Đó là những nắm bổng, nắp trầm. Những sáng tạo khi đào địa đạo của cụm H.63 bọn địch có đoán trước cũng không tài nào qua nhanh được.
 

Tư Cang đưa ra phán đoán: Có thể, chúng biết ta là một bộ phận quan trọng, muốn dùng lực lượng mạnh đánh úp bất ngờ. Và người chỉ huy đưa ra quyết định: đại bộ phận cụm sẽ tránh đi một địa điểm khác để giữ liên lạc mật vụ với nội đô và cấp trên!
 
Mất mấy tiếng đồng hồ, "phi đội chuột cống" mới qua được các chướng ngại vật giăng sẵn. Chiến sĩ Đạo được giao nhiệm vụ ngồi gác trên một nắp bổng của đoạn kế tiếp. Tám Phương chỉ đạo: Đạo giương lưỡi lê ra, khi "chuột cống" đội nắp lên thì... xỏ lê ngang cổ, nó sẽ mắc kẹt ngang miệng hầm. Tay cầm lưỡi lê theo lời tổ trưởng nhưng Đạo run thật sự. Anh mới rời gia đình, nhập ngũ chưa đầy một tháng vào lực lượng vũ trang H.63. Ở nhà, Đạo tên là Hiến. Nhập ngũ, vì đào địa đạo giỏi nên anh em đặt tên là Đạo.
 
Đã thấy lính Mỹ dậm bịch bịch ngay dưới chân Đạo. Cái nắp chuyển động. Chúng cố sức mở nắp ra. Đạo lại đè xuống. Trong lúc bối rồi, Đạo quên lời tổ trưởng Tám Phương dặn. Anh bỏ cây súng đã giương lê sang một bên, toàn thân nằm trên nắp, dùng hai tay đè xuống. Phía dưới "chuột cống" đẩy càng mạnh.


Kỳ 22: Giáp mặt với gian nguy
(VietNamNet) - Tư Cang hoạt động nhiều ở căn cứ nhưng vẫn ra vô thành như con thoi. Dù có các giao liên nội đô sống thường trực trong thành và giao liên từ căn cứ vào, cụm trưởng vẫn phải trực tiếp vào thành nhận tin và giao những nhiệm vụ quan trọng cho Hai Trung. Nhưng, vào thành là đối mặt với gian nguy luôn giăng sẵn...

Về thành
Năm 1966, Phòng tình báo miền ra một chỉ thị: cụm trưởng cần sát cánh bên điệp viên và giao thông nội đô. Tư Cang rời căn cứ Bến Đình, di chuyển vào thành với nhiều vỏ bọc khác nhau. Bắt đầu từ buổi trưa ngày 20/8/1966. Tư Cang và chiến sĩ của mình là Sáu Ẩn dùng xuồng qua sông Sài Gòn. Hai người theo đường tỉnh lộ 14 lên ngã ba Rạch Bắp rồi đi vào Sở cao su Ginết.
a
Dù có các giao liên nội đô sống thường trực trong thành và giao liên từ căn cứ vào, cụm trưởng vẫn phải trực tiếp vào thành nhận tin và giao những nhiệm vụ quan trọng cho Hai Trung. Nhưng, vào thành là đối mặt với gian nguy luôn giăng sẵn...
Người anh ruột của Sáu Ẩn là Năm Be đang phụ trách một cánh biệt động thành. Năm Be có cơ sở mật tên là Sào đang làm lái xe tải nhẹ chở mủ cao su từ đây về Sài Gòn. Đây cũng là cách anh em biệt động chuyển thuốc nổ, súng ống về thành phố. Tư Cang sẽ đi nhờ xe chở cao su vào thành.
Được dặn trước, Tư Cang đóng vai người chú của lái xe Sào từ Sài Gòn vào thăm gia đình đứa cháu, nay tiện xe về Sài Gòn luôn. Xe vào thị trấn Bến Cát, rẽ sang quốc lộ 13 và bon bon về Sài Gòn. Dọc đường, liên tục qua các bốt gác của địch.
Mỗi lần bị chặn lại, bà chủ sở cao su lại xuống trình giấy. Quá quen xe cao su 2-3 ngày một chuyến vào ra, không tên địch nào buồn đến khám xe. Tư Cang di chuyển ra thành phố một cách nhẹ nhàng.
12 năm rồi anh mới trở lại Sài Gòn. Tháng 6/1954, lúc đó đang là tổ trưởng quân báo liên huyện Cần Đuốc - Cần Giờ - Nhà Bè, anh được giao vào Sài Gòn vẽ bản đồ, điều tra các đồn bốt thuộc lực lượng Bình Xuyên, bên kia cầu chữ Y. Sài Gòn bây giờ đã khác. Cảnh đông đúc, sầm uất hiện ra trước mắt người cụm trưởng tình báo vốn chỉ sống ẩn mình dưới địa đạo khắp vùng Bến Đình.
Nơi Tư Cang đang tìm đến là một nơi đặc biệt. Đó như "căn cứ" an toàn ngay bên hông địch. Ở đó có những con người sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy, dung dưỡng người cụm trưởng tình báo như đứa con trong gia đình mình. Ở đó cũng là nơi chứng kiến một tình cảm đẹp... Nơi đó là nơi Tám Thảo và gia đình đang sống.
Được Tám Thảo dặn trước, Tư Cang mang phong thái tự nhiên đi thẳng vào ngôi nhà 136B, hẻm 136, đường Gia Long. Anh như người thân của gia đình đã đến đây nhiều lần. Gia đình Tám Thảo được biết đến như một gia đình người Bắc khá giả, cách Dinh Độc Lập chưa đầy trăm mét nên bọn lính cảnh sát, an ninh ít nghi ngờ. Gia đình có một sạp vải "Tân Mỹ" ngoài chợ cũng là một trong những hộp thư của cụm H.63 trong thành.
Cả gia đình nhiệt tình đón tiếp Tư Cang.
Anh nhớ lại, hôm đưa Tám Thảo vào căn cứ Bến Đình học nghị quyết, đã đặt vấn đề vào Sài Gòn và ở tại gia đình với cô. Tám Thảo không chút do dự. Cô nhận thấy người thủ trưởng của mình có dáng dấp thành phố, lại biết ngoại ngữ nên dễ nhập vai.
Nhưng cô vẫn do dự về ba mình, một người gốc Bắc vốn rất khắt khe. Tư Cang và Tám Thảo móc nối giao liên đưa ba Tám Thảo vào căn cứ. Ông cụ đã đồng ý với kế hoạch ở lại nhà mình của Tư Cang.
Tư Cang trở thành người thân trong gia đình Tám Thảo lúc nào không biết. Anh coi ba Tám Thảo như ba mình. Đêm đêm, anh nằm bên ông, vừa đấm lưng, bóp chân cho ông vừa nói chuyện về Bác Hồ, về cách mạng. Anh dạy thêm tiếng Anh, tiếng Pháp cho mấy đứa cháu trong nhà.
Nhiều đêm, một tên chỉ điểm cạnh nhà lảng vảng đến, hắn đứng lại nghe Tư Cang giảng bài rồi lặng lẽ bỏ đi. Hắn không thể ngờ người thanh niên trắng trẻo, ưa nhìn đêm đêm giảng ngoại ngữ cho trẻ con lại là một cán bộ Việt Cộng, một thiếu tá tình báo quân đội. 
Người bạn chơi chim, chơi chó
Ở thành phố đã yên ổn, Tư Cang nhờ Tám Thảo báo cho Hai Trung đến. Hồi đó, giữa Hai Trung và gia đình Tám Thảo rất thân mật. Từ khi Tư Cang lãnh đạo H.63, chỉ đạo Hai Trung chỉ qua thư. Khi gặp nhau, Hai Trung bảo với Tư Cang: "Thằng cha này trong rừng mà ngó ngon quá!". Hai Trung nhìn Tư Cang từ đầu đến chân.
Ông yêu cầu Tư Cang thay áo. Chiếc áo Tư Cang đang mặc mới quá, ra đường giặc sẽ nghi. Tiếp đến là đôi giày. Hai Trung bỏ tiền ra mua cho thủ trưởng một đôi giày thật xịn.

f
Trên chiếc xe này, Hai Trung đã chở thủ trưởng đi khắp nơi trong thành, đi đâu cũng giới thiệu Tư Cang là chủ sở trên Dầu Tiếng, là bạn chơi chim, chơi chó.
Mãi sau này, khi được hỏi về thủ trưởng của mình, Phạm Xuân Ẩn vẫn cười và nhắc về lần gặp đầu tiên của hai người: Tư Cang đẹp trai, lịch lãm dũng cảm. Nhưng ăn mặc thì lỗi mốt, cửa ô tô không biết mở!
Hai người lúc nào cũng đi cùng nhau. Hai Trung đưa Tư Cang vào toàn những nơi sang trọng để làm quen và nghe thông tin từ các nhân vật cỡ bự của địch. Có người hỏi về Tư Cang, Hai Trung bảo đây là một người bạn là chủ sở trên Dầu Tiếng, là bạn chơi chim, chơi chó. Hai Trung lái xe chở Tư Cang đi khắp nơi. Phía sau bao giờ cũng có con chó cưng của Hai Trung.
Ít ai ngờ con chó này được Hai Trung điều khiển bằng... tiếng Pháp. Đi bất cứ đâu Trung cũng cho chó đi theo. Con chó nằm ngoan ngoãn dưới bàn. Hai Trung kể lại với cụm trưởng, đây là con chó của một người bên Pháp cho Nguyễn Cao Kỳ. Một lần vào Phủ Tổng thống, ông thấy thích con chó đẹp.
Hai Trung móc với tên quản lý chó, làm cho chó ốm đói và ghẻ để thanh lý cho mình, lại được thêm tiền tiêu. Tên quản lý chó nghe cũng khoái chí, vì không phải chó của mình. Chỉ vài tuần sau, con chó đẹp đẽ trở nên ốm đói, ghẻ lở. Nó bảo với Nguyễn Cao Kỳ, chắc là con chó này không hợp với khí hậu Việt Nam, nên thanh lý. Hai Trung mua lại được con chó. Bên Pháp nó đã được điều khiển bằng tiếng Pháp, Hai Trung mua về cứ thế "nói chuyện" với nó bằng tiếng Pháp. 
Điều này gây ngạc nhiên với Tư Cang. Một lần Hai Trung dẫn Tư Cang vào nhà hàng Victory. Sau khi đã xong việc, Hai Trung đứng lên trả tiền, con chó đi theo. Hai Trung quát bằng tiếng Pháp: "Đứng lại!". Con chó đứng yên. Khi trả tiền xong, trở lại bàn, Hai Trung lại nói: "Nằm xuống!" (bằng tiếng Pháp). Con chó lại nằm xuống. Xung quanh không thể nghi ngờ 2 ông chủ giàu có, điều khiển chó bằng tiếng Pháp lại là một điệp viên cỡ bự và một cụm trưởng tình báo cỡ bự của Việt Cộng.
Gặp Tư Cang, Hai Trung rất mừng. Lúc này mục đích lớn nhất cấp trên giao cho Hai Trung đang là nghiên cứu về quân sự để chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968. Tư Cang và Hai Trung phải bám xem Mỹ Ngụy thi hành kế hoạch quân sự 142 như thế nào? Kế hoạch bình định được chúng cập nhật hóa ra sao? Theo dõi khi nào chúng đưa kế hoạch mới là AB 143 để thi hành năm 1968, phải lấy bằng được vào cuối năm 1967. Ngoài ra, nhiệm vụ của Hai Trung còn xem Mỹ ngụy có nghi ngờ cuộc Tổng tấn công của ta sắp tới không? Có sự chỉ đạo trực tiếp của Tư Cang, Hai Trung làm tốt tất cả mọi việc.
Sát cánh bên điệp viên, cụm trưởng Tư Cang hoạt động mật trong thành như không khác gì một điệp viên thực thụ. Cụm trưởng H.63 được giao chỉ thị kiểm tra, điều nghiên tình trạng của toàn lưới một cách cụ thể. Thỉnh thoảng lại về vùng an toàn, không được ở vùng địch hậu lâu dài. Tư Cang còn có nhiệm vụ hướng dẫn, bồi dưỡng cho điệp viên những nhiệm vụ, nghị quyết của trên để lấy tài liệu thích ứng với tình hình.
Trực tiếp vào thành hoạt động hỗ trợ điệp viên và nắm tình hình, cụm trưởng H.63 đối mặt với nhiều hiểm nguy. Bằng sự mưu trí, bình tĩnh Tư Cang đã nhiều lần vượt qua. Kể cả vượt qua chính mình...
  • Thế Vinh - Việt Hà - Hà Trường
     
Kỳ 23: Cơ hội của... viên đạn giành riêng
(VietNamNet) - Có những cuộc xét giấy "căng như dây đàn". Chỉ cần cái gật đầu nhẹ của tên chỉ huy, Tư Cang và giao liên sẽ bị bắt, điệp viên và cơ sở ắt sẽ lung lay. Đây cũng là dịp xạ thủ "hai tay như một" suýt nữa đã dùng đến viên đạn giành cho riêng mình. Cụm trưởng H.63 đã vượt qua như thế nào?

Cuộc xét giấy... thót tim
Năm 1968, sau đợt 2 chiến dịch Mậu Thân, cấp trên gọi ông về để chỉnh huấn. Giao liên Tám Kiên lại là người đi cùng Tư Cang từ trong thành về cứ. Hai người đi trên chiếc xe honda nữ của Tám Kiên. Trước khi đưa Tư Cang ra cứ, Tám Kiên đã điều tra và nắm rõ tình hình đường sá. Chỗ nào có bốt, có bốt nghiêm, bốt sơ hở, nhiều quân Mỹ, làm gắt gao... đều đã nằm trong đầu nữ giao liên trẻ.

a
Có những cuộc xét giấy căng như dây đàn...
Hai người vừa đi vừa nói chuyện như một đôi vợ chồng trẻ. Tám Kiên thông tin cho thủ trưởng biết, mấy hôm nay lực lượng Mỹ - Ngụy đang càn quét trên một vùng lớn từ Củ Chi đến Trảng Bàng. Sự liên lạc giữa khu căn cứ và ấp chiến lược Phú Hòa Đông gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm.
Hôm nay, Tám Kiên sẽ đưa thủ trưởng về ấp chiến lược Mỹ Phước (huyện Bến Cát). Xe chạy bon bon về hướng Lái Thiêu. Qua trạm gác thị xã Bình Dương, cả hai không bị xét hỏi gì. Nhìn cặp vợ chồng ăn mặc sang trọng trên chiếc xe honda mới, các tốp lính không thể nghi ngờ.
Chỉ còn 10 cây số nữa sẽ đến Mỹ Phước. Tư Cang nhìn thấy cách mình 100m có một tên lính, trên tay hắn là khẩu súng cac-bin. Phía trong, dưới các gốc xoài, mấy chiếc xe Jep đã đậu sẵn. Tình huống bất ngờ xảy ra mà lúc sáng Tám Kiên đi không gặp.
Tư Cang đang dùng giấy tờ giả do Tám Chứa, một cán bộ kỹ thuật Phòng tình báo cấp. Tên lính cầm thẻ căn cước xem đi xem lại. Nó đã nghi giấy giả. Nó nắm tay lại, bóp tờ thẻ rồi bung ra. Lại bóp và thả cho bung ra một lần nữa. Tên này đã có kinh nghiệm trong việc xét hỏi căn cước.
Tên lính cười gằn rồi nói: "Giấy này kỳ quá!". Tư Cang chống chế: "Mấy ông cấp sao, tôi đi vậy chứ kỳ gì!". Nó tiếp tục "vần con mồi" bằng cách đưa giấy ra sau lưng rồi nhìn thẳng vào mắt Tư Cang, hỏi tên cha ông. "Ba tôi hả? Nguyễn Văn Muốn!". Cô giao thông Tám Kiên đứng bên bắt đầu lo. Trong trường hợp này, nhiều người sẽ trả lời sai với thông tin trên giấy. Vì đây là giấy giả, cha giả. Đây là tên ông cậu của Tư Cang.
Trả lời xong, Tư Cang trêu lại nó: “Tía (cha) mà cũng hỏi nữa”! Nó vẫn không chịu thua, ngó tiếp và hỏi : "Giấy cho ngày mấy?”. Giấy này là giả, khi ra ngoài thành, ông đã cẩn thận so với giấy thật để xem và nghiên cứu trước. Nhưng nếu trả lời quá chính xác tụi nó cũng nghi. Tư Cang từ tốn: "Giấy mấy ông cho đâu hồi giữa năm 1962, bây giờ hỏi ngày làm sao nhớ nổi!".
Vẫn chưa chịu thua. Tên lính cầm tờ giấy đi vào trong, nói với tên Trung úy chỉ huy: "Thưa Trung úy, tờ giấy này coi kỳ quá, có nhiều khả nghi!". Tên Trung úy cầm giấy và lật đi lật lại xem. Trung uý nhìn về phía Tư Cang, thấy anh đang vui vẻ, lại còn lấy thuốc ra hút rất tự nhiên. Anh bảo nhỏ Tám Kiên: cứ tươi tỉnh lên!
Tên Trung úy thấy thái độ của Tư Cang và Tám Kiên như vậy nên quay sang thằng lính bảo: Người Sài Gòn giấy như vậy đó! Trả cho người ta đi. Tên lính ra trả giấy, mồm vẫn lẩm bẩm: mình đã phát hiện ra giấy giả, thế mà ổng vẫn cho đi. Khi đã thoát xa khỏi trạm xét giấy đó, Tư Cang và Tám Kiên vẫn không hiểu sao tên Trung úy chỉ huy lại dễ dãi đến vậy.
Viên đạn cuối cùng
Trong đợt 1 cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, nhiều tình huống nguy hiểm khi đối mặt với giặc đã được cụm trưởng và các giao thông viên H.63 hóa giải. Nhớ lại, ngay trong những ngày ta và địch đang đánh nhau dữ dội, giao thông Hai Ánh vẫn mang trót lọt vũ khí từ ấp chiến lược vào cho thủ trưởng Tư Cang.
Bữa đầu tiên, đúng hôm đang đánh ác liệt, bọn lính ở Ba Ri - Tân Quy đuổi cô về. Hôm sau Hai Ánh ngụy trang vũ khí trong một chồng bánh tráng. Giả vờ là người đi bán, gặp Tư Cang hỏi mua. 2 cây súng cùng 27 viên đạn được trao tận tay Tư Cang.

f
Ông xác định nếu bị lộ, sẽ sống còn với chúng, và viên đạn dành cho mình sẽ găm vào tim. Nếu không làm thế, địch sẽ bắt được và cả lưới được gây dựng lâu nay, cả điệp viên đang an toàn trong lòng địch sẽ dễ bị vỡ. Người chiến sĩ tình báo, trong cận kề cái chết, nhiệm vụ bảo vệ đường dây vẫn là cao cả nhất.
Tư Cang đặc biệt nhớ về chị giao liên dũng cảm này. Có lần, Hai Ánh mang một chỉ thị xuống cho Tư Cang. Đi tới Hoóc Môn, chị bị chặn lại tại một bốt cảnh sát kiểm tra giấy tờ gắt gao. Không thể để tài liệu rơi vào tay giặc.
Hai Ánh giả vờ làm rơi chỉ thị đã được cuốn tròn như viên bi nhỏ xuống đất. Cô nhanh chân đạp lên nó. Thừa lúc không ai để ý, giả bộ cúi xuống gãi kiến cắn, Ánh nhặt chỉ thị lên và cho vào mồm nuốt. Qua khỏi bốt gác, cô tới ngã tư Bảy Hiền mua 2 trái dừa to để uống rồi móc họng. Tài liệu được ói cho ra, chuyển về an toàn cho thủ trưởng Tư Cang.
Sau này, khi chiến tranh đã qua đi, thủ trưởng Tư Cang vẫn tự hào, trong quá trình hoạt động trong thành, lực lượng mật của H.63 không ai hy sinh, không ai bị bắt cả. Tư Cang điều khiển lưới trơn tru đâu ra đấy. Lực lượng mật toàn vẹn cho đến ngày giải phóng.
Trong đợt 1 Mậu Thân, khi Tư Cang đang núp trong nhà Tám Thảo, một chuyện ngoài dự tính đã xảy đến. Nhưng sự thông minh, khéo léo của Tám Thảo đã giúp Tư Cang không bị lộ, gia đình không bị địch quấy rầy. Đó là những ngày quân ta và địch đang giằng co tại khu vực Dinh Độc Lập.
Từ trên căn xép nhỏ, Tám Thảo và Tư Cang quan sát hết được diễn biến trận đánh. Nhìn thấy mấy tên Mỹ đứng lố nhố phía bên kia đường, Tám Thảo bảo Tư Cang dùng tài nghệ bắn súng hạ bọn chúng. Hai phát súng của Tư Cang hạ hai tên giặc. Bắn xong anh đi qua giường ngủ của Tám Thảo, len qua những bành vải cùng vật dụng phế thải của gia đình và chui vào một lỗ nhỏ bị bể trên tường gạch. Đó là nơi ẩn náu của anh.

d
Khi còn hoạt động trong thành, lúc nào trong túi Tư Cang cũng có viên đạn giành riêng cho mình...

Tức tối, nghi vấn, địch mò vào nhà Tám Thảo lùng sục. Còn 25 viên đạn. Anh lấy 1 viên bỏ vào túi. Bao giờ cam go, cận kề cái chết anh cũng làm vậy. Một viên đạn luôn để dành cho chính mình. Sợ 1 viên dễ bị kẹt, anh bỏ thêm viên nữa vào túi. Đây là lúc rất có thể viên đạn dành riêng cho Tư Cang được sử dụng.
Ông xác định nếu bị lộ, sẽ sống còn với chúng, và viên đạn dành cho mình sẽ găm vào tim. Nếu không làm thế, địch sẽ bắt được và cả lưới được gây dựng lâu nay, cả điệp viên đang an toàn trong lòng địch sẽ dễ bị vỡ. Người chiến sĩ tình báo, trong cận kề cái chết, nhiệm vụ bảo vệ đường dây vẫn là cao cả nhất.
Bọn địch đã lao xao ngoài ngõ. Chúng phỏng đoán hướng bắn từ ngôi nhà này. Tư Cang thấy thương gia đình Tám Thảo. Mọi người trong nhà đã xem Tư Cang như người thân. Nếu chúng phát hiện ra ông, không chỉ Tám Thảo, mà cả gia đình cô cũng liên lụy nặng.
Tư Cang thấy thương Tám Thảo vô hạn. Với cô, không chỉ còn là tình đồng chí đồng đội, trong những lúc cam go của cuộc chiến, những phút lãng mạn trong lòng địch, Tư Cang đã có chút tình cảm với cô.
Tiếng tên chỉ huy nói to: "Bắt thằng Việt Cộng ra xem gan lớn như thế nào mà dám ở vùng này!". Có lẽ tên chỉ điểm gần nhà đã nghi từ lâu, vì thấy Tư Cang hay đi ra đi vào với Tám Thảo. Đang ngồi thu mình trong bóng tối, Tư Cang nghe tiếng động phát ra từ mái nhà. Bọn địch cho cả 1 tốp đi trên ngói truy tìm kẻ bắn ra 2 phát súng vừa nãy. Chúng đã bao vây kín nhà Tám Thảo.
Địch đập cửa đòi kiểm tra sổ gia đình. Chúng lần mò lên tầng trên, chỗ Tư Cang đang núp. Nó chỉ cách anh có mười mấy thước. Lúc đó, Tám Thảo trong màn bước ra, cô làm bộ không biết gì và đối đáp với nó. Thảo cố tình nói thông tin mình làm cho Mỹ. Tụi nó lại nhìn thấy hình tên sếp Mỹ của Tám Thảo để trên bàn. Tên Đại úy trinh sát dẫn đầu đám lùng sục xua quân ra về (Phần thông tin này VietNamNet đã đưa chi tiết trong loạt bài về nữ điệp viên Tám Thảo).
Sau này, một người thuộc thế hệ sau của Tư Cang - Tám Thảo khi biết chuyện đã viết bài thơ "Bức hình kỷ niệm" tặng 2 người. Đại tá Tư Cang đã trân trọng in bức ảnh Tám Thảo và bài thơ trong cuốn hồi ký về trận Mậu Thân năm 1968, như một kỷ niệm đẹp:
"Đã nhiều năm sau cuộc chiến tranh
Tôi vẫn để tấm hình em bên ngực trái
Nơi ngày đó tôi cất viên đạn cuối cùng
Giành cho mình khi giặc xét nhà em...
...Giờ bức hình tôi vẫn để bên tim
Nơi viên đạn tôi giành riêng ngày đó
Tim tôi vẫn cuộn sôi dòng máu đỏ
Bên bức hình người đã chở che tôi".
Trong quá trình hoạt động của H.63, thời điểm trước và sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 được coi như một trong những thời kỳ hiệu quả nhất...
 Hà Trường - Việt Hà - Thế Vinh
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét