Hiển thị các bài đăng có nhãn BIỆT KÍCH. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn BIỆT KÍCH. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2021

Ông Cố vấn, điệp viên hoàn hảo và bí số H3

 Cụm A-22 gồm một số những người đã từng bị Ðoàn Công Tác Ðặc Biệt Miền Trung phát hiện và giam giữ tại Huế. Ðây là một sơ hở của ông Nhạ khiến cho CIA phát hiện được cụm A-22 và lập hồ sơ chuyển giao cho Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam. Giữa tháng 7-1969, tất cả 42 người hoạt động cho Cụm A-22 đều bị bắt và đưa ra toà xét xử vào tháng 11-1969. Ðây là một vụ án gián điệp rất nghiêm trọng gây chấn động trong chính trường của VNCH vì các bị cáo đều là người có chức vụ khá cao trong chính phủ như sau:

- Vũ Ngọc Nhạ: “Cố vấn” bán chính thức của Tổng Thống Thiệu

- Huỳnh Văn Trọng: Cố vấn về đối ngoại của Tổng Thống Thiệu

- Vũ Hữu Ruật: Tổng Thư Ký của Ðảng Dân Chủ, Thành bộ Sài Gòn

- Lê Hữu Thúy: Công Cán Ủy Viên Bộ Thông Tin – Chiêu Hồi

- Nguyễn Xuân Hòe: Công Cán Ủy Viên Phủ Tổng Thống

- Hoàng Hồ: Dân Biểu Quốc Hội (đã bỏ trốn; sau đó Quốc Hội đã bỏ phiếu truất quyền)  

Ông Cố vấn, điệp viên hoàn hảo và bí số H3 - 1

Huỳnh Văn Trọng (giữa) và Vũ Ngọc Nhạ đùa vui sau khi lãnh án 20 năm

Vũ Ngọc Nhạ bị kết án tù chung thân và đưa ra Côn Ðảo. Năm 1973, sau Hiệp Ðịnh Paris, Nhạ được trao trả cho miền Bắc. Sau năm 1975, Nhạ công tác tại Cục 2 (cơ quan phụ trách tình báo của Việt Nam) với cấp bậc Thượng tá và sau đó thăng lên Ðại tá. Năm 1988, ông được thăng cấp Thiếu Tướng. Ông Nhạ mất ngày 7-8-2002 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Người điệp viên nổi tiếng nhất của Miền Bắc hoạt động tại Miền Nam là Phạm Xuân Ẩn. 

Ông Cố vấn, điệp viên hoàn hảo và bí số H3 - 2

“Điệp viên hoàn hảo” Phạm Xuân Ẩn

Khác với Phạm Ngọc Thảo và Vũ Ngọc Nhạ, ông Ần đã tạo được kỳ tích là hoạt động trong suốt mấy chục năm mà hoàn toàn không bị phát hiện hay tạo ra nghi ngờ gì cả trong giới tình báo Hoa Kỳ và VNCH. 

Phạm Xuân Ần sinh ngày 12-9-1927 tại Biên Hòa, học tiểu học tại Trường Tiểu học Marc Ferrando ở Sài Gòn, học trung học ở Cần Thơ. Năm 1954 ông bị động viên và làm việc cho quân đội Pháp một thời gian. 

Ông là điệp viên duy nhất của Miền Bắc đã từng du học 2 năm (1957-1959) về ngành báo chí tại Ðại học Cộng Ðồng Orange Coast College, thuộc thành phố Costa Mesa, tiểu bang California, Hoa Kỳ. 

Nhờ vào đó, ông là một trong số rất ít người Việt Nam được nhận làm phóng viên cho các hãng truyền thông Anh Mỹ như Reuters, Time, Christian Science Monitor. 

Nhờ vỏ bọc này, Phạm Xuân Ần đã có giao thiệp rộng rãi với các nhà báo Mỹ, qua đó tạo được quan hệ rất tốt với nhiều giới chức Mỹ-Việt, và nhờ vậy đã cung cấp được cho Hà Nội nhiều tin tức tình báo chiến lược rất quan trọng. 

Sau năm 1975, ông được phong Thiếu Tướng, và được ban danh hiệu Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ông mất ngày 20-9-2006 tại Thành phố Hồ Chí Minh. 

Cuộc đời ông đã được ghi lại trong một cuốn sách thuộc loại bán chạy nhất (Best-seller) tại Hoa Kỳ của tác giả Giáo sư Chính Trị Học Larry Berman thuộc Ðại Học California, Davis với nhan đề là: Perfect spy: The incredible double life of Pham Xuan An, Time Magazine reporter and Vietnamese Communist agent (New York: Smithsonian Books, 2007). 

Một điều cũng đáng được lưu ý là cả 3 điệp viên nổi tiếng này của Miền Bắc, Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ và Phạm Xuân Ần, sau khi qua đời, đã được an táng gần nhau trong cùng nghĩa trang Lạc Cảnh tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài 3 điệp viên nổi tiếng trên mà phần đông mọi người đều có nghe nói đến, cũng nên kể đến một điệp viên thứ tư, ít người biết, là điệp viên H3, là một hạ sĩ quan, tên Nguyễn Văn Minh (sinh năm 1933, tại Hưng Yên, vào Nam sinh sống từ lúc còn nhỏ), làm việc ngay trong văn phòng của Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. 

Ông Cố vấn, điệp viên hoàn hảo và bí số H3 - 3

Sau năm 1975, H3 được phong quân hàm Ðại tá, và ban danh hiệu Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân. 

Nói chung, nhờ có được nhiều điều kiện thuận lợi hơn, Miền Bắc tương đối thành công hơn Miền Nam trong việc cài người xâm nhập vào hệ thống chính trị và quân sự của đối phương.

Khám Phá

Tình báo Miền Bắc hoạt động khắp Miền Nam

Phần lớn tình báo của miền Bắc có một vỏ bọc rất tốt, giúp họ dễ dàng xâm nhập, len lỏi, và “chui sâu, trèo cao” trong guồng máy chính trị và quân sự của VNCH

So với VNCH, Miền Bắc có nhiều thuận lợi hơn trong việc cài người ở Miền Nam. Có 2 lý do chính cho việc này: 1) Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, 1945-1954, Việt Minh nắm trọn quyền điều khiển Kháng chiến; đảng viên Cộng sản có mặt khắp nơi trong Miền Nam; khi Hiệp Ðịnh Genève được ký kết, trong việc tập kết quân đội tại Miền Nam để chuyển ra Bắc, một số khá lớn đảng viên Cộng sản đã nhận được lệnh ở lại Miền Nam; và 2) Phong trào di cư của người Bắc vào Nam trong thời gian 100 ngày sau khi Hiệp Ðịnh Genève được ký kết vào tháng 7-1954 tạo cơ hội quá tốt cho Hà Nội cài người. 

Tình báo Miền Bắc hoạt động khắp Miền Nam - 1

Quang cảnh lễ ký kết Hiệp định Geneve tháng 7/1954

Ðó là nguồn nhân lực rất quan trọng cho miền Bắc sử dụng trong việc cài người trong dân chúng cũng như bộ máy chính quyền (cả chính trị và quân sự) của VNCH. 

Phần lớn những người này đã có mặt, sinh sống, và làm việc như mọi người dân khác của Miền Nam, ngay cả trước khi VNCH được thành lập, nên họ đều có một vỏ bọc rất tốt, giúp họ dễ dàng xâm nhập, len lỏi, và “chui sâu, trèo cao” trong guồng máy chánh trị và quân sự của VNCH. Sau đây là một vài nhận vật thật nổi tiếng trong số những người này.

Tình báo Miền Bắc hoạt động khắp Miền Nam - 2

Ông Phạm Ngọc Thảo tại Sài Gòn, năm 1965

Trong số những người theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp nhưng đã không tập kết ra Bắc mà ở lại miền Nam nổi tiếng nhất là Phạm Ngọc Thảo.

Trong thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, ông đã xâm nhập được vào quân đội miền Nam, được chế độ Ngô Ðình Diệm tin dùng và bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre) lúc ông đang mang cấp Trung tá. Sau tháng 11-1963, ông thăng lên cấp Ðại tá và đã tham gia vào cuộc đảo chính ngày 19-2-1965 chống Tướng Nguyễn Khánh nhưng thất bại vì sự chống đối của các tướng trẻ. Sau vụ này ông bỏ trốn nhưng bị bắt và bị giết chết. 

Tình báo Miền Bắc hoạt động khắp Miền Nam - 3

Mãi đến năm 1987, Việt Nam mới công khai xác nhận ông Thảo là người của họ, truy tặng ông cấp bậc Ðại tá của Quân Ðội Nhân Dân và danh hiệu Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân.  

Trong số những người Cộng sản lợi dụng phong trào di cư năm 1954 để vào Nam hoạt động nổi tiếng nhất phải kể đến Vũ Ngọc Nhạ, đảng viên Cộng sản từ năm 1947.  

Tình báo Miền Bắc hoạt động khắp Miền Nam - 4

Tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ: “Người Mỹ và Tổng thống Thiệu đã thành con rối trong tay tôi”

Tên thật là Vũ Xuân Nhã, sinh ngày 30-3-1928 tại Thái Bình, Bắc Việt, xuất thân từ một gia đình theo Công giáo, sinh sống trong vùng Phát Diệm nổi tiếng chống Cộng dưới sự lãnh đạo của Giám Mục Lê Hữu Từ, bản thân có theo học mấy năm ở một chủng viện, và đã theo làn sóng người Công giáo di cư vào Nam sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, và sau đó lại được Linh Mục Hoàng Quỳnh đỡ đầu, Vũ Ngọc Nhạ đã thoát được không bị kết án sau khi bị Ðoàn công tác đặc biệt Miền Trung của Ngô Ðình Cẩn phát hiện và bắt giam tại Huế vào tháng 12-1958. 

Một thời gian sau, cũng lại với cái vỏ bọc Công giáo đó, cùng với bài viết vào cuối năm 1959 “Bốn nguy cơ đe dọa chế độ” dự đoán sẽ có đảo chánh và sau đó có đảo chánh xảy ra thật sự vào ngày 11-11-1960, Nhạ đã được Ngô Ðình Cẩn tin dùng và sau đó giới thiệu cho hai người anh là Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và Cố vấn Ngô Ðình Nhu. 

Tình báo Miền Bắc hoạt động khắp Miền Nam - 5

Báo chí Sài Gòn viết về Vũ Ngọc Nhạ

Vũ Ngọc Nhạ được hai anh em họ Ngô giao cho nhiệm vụ liên lạc với khối Công giáo di cư nhưng chưa làm được thì chế độ nhà Ngô sụp đổ. Sau đảo chính 1-11-1963, ông Nhạ tiếp tục làm việc với cha Hoàng Quỳnh, và sau đó được cha Hoàng Quỳnh giới thiệu với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Ông Nhạ lại được Tướng Thiệu sử dụng trong việc móc nối với khối Công giáo. 

Khi Tướng Thiệu trở thành Tổng Thống, ông Nhạ thường được Tổng Thống Thiệu tham khảo về một số vấn đề chính trị có liên quan đến khối Công giáo. Vũ Ngọc Nhạ được lệnh của Hà Nội tổ chức 1 cụm tình báo chiến lược với bí danh A-22, trong đó có Huỳnh Văn Trọng, lúc đó chính thức là Cố vấn của Tổng Thống Thiệu. 

Khám Phá

CIA thừa nhận thất bại

 Williams Colby, người được CIA chỉ định trình bày về Chương trình đưa biệt kích xâm nhập miền Bắc đã tỏ ra rất bi quan khi cho biết, phần lớn các toán biệt kích gửi ra Miền Bắc đều “đã bị bắt hay bị giết chết.”

Vào đầu năm 1963, Sở Khai thác địa hình được cải danh thành Bộ Tư lệnh lực lượng đặc biệt (LLÐB) và vẫn do Ðại tá Lê Quang Tung chỉ huy. Sau cuộc đảo chính 1-11-1963, LLĐB không còn đảm nhận công tác tình báo nữa. Sở Bắc (Phòng 45 đổi tên) được tách ra khỏi LLÐB, và cải danh thành Sở Khai thác và trực thuộc Bộ Tổng tham mưu (BTTM). Sau đó Sở Khai thác được đổi tên một lần nữa thành Sở Kỹ thuật, và ngày 12-2-1965 được nâng cấp lên thành Nha Kỹ thuật thuộc BTTM

CIA thừa nhận thất bại - 1

Phù hiệu Nha Kỹ thuật, Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH

Các công tác của Nha Kỹ Thuật được phân chia cho các cơn vị trực thuộc như sau:

- Sở Công tác: đóng tại Sơn Trà, Ðà Nẵng; nhiệm vụ của các Ðoàn thuộc Sở này là xâm nhập bằng đường hàng không hay đường bộ vào lòng địch tại Miền Bắc hay các vùng biên giới với Lào và Campuchia.

- Sở Liên lạc: đóng tại Sài Gòn; nhiệm vụ của các Chiến Ðoàn (Biệt kích Lôi Hổ) thuộc Sở này là xâm nhập vào hậu tuyến của địch trong lãnh thổ của VNCH từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam.

- Sở Phòng Vệ duyên hải: đóng tại Tiên Sa, Ðà Nẵng; Lực Lượng Hải Tuần có trách nhiệm tuần tra, bảo vệ bờ biển, chận bắt tàu bè của địch xâm nhập vùng biển của VNCH; Lực Lượng Biệt Hải có nhiệm vụ huấn luyện và đưa người nhái xâm nhập Miền Bắc với phương tiện của Hải Tuần

- Sở Tâm lý chiến: đóng tại Sài Gòn; với nhiệm vụ tổ chức và điều hành hai đài phát thanh Tiếng nói tự do và Gươm thiêng Ái quốc hướng về miền Bắc.

- Sở Không yểm: đóng tại Sài Gòn; có nhiệm vụ phối hợp các phi đoàn của Không Quân VNCH trong việc thả, rút, liên lạc và hướng dẫn các toán kiệt kích xâm nhập Miền Bắc và hậu phương địch. 

- Trung Tâm huấn luyện Quyết Thắng: đóng tại Long Thành; có nhiệm vụ huấn luyện cho các toán biệt kích.

CIA thừa nhận thất bại - 2

 Các biệt kích VNCH trog thời gian huấn luyện, chuẩn bị đưa ra Miền Bắc

Sự thành lập Nha Kỹ thuật của BTTM với đầy đủ tất cả các đơn vị và phương tiện cần thiết cho việc xâm nhập miền Bắc, với sự yểm trợ tích cực của SOG về phía Hoa Kỳ, thật ra không cải thiện được hiệu quả của công tác này.

Ngay từ cuối năm 1963, vào ngày 20 tháng 11, một cuộc họp hết sức quan trọng đã diễn ra tại Honolulu, Hawaii, với các giới chức cao cấp nhất của chính phủ Mỹ, gồm Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara, Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk, Thứ Trưởng Ngoại Giao George Ball, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Kennedy McGeorge Bundy, Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (CINCPAC) Ðô Ðốc Harry D. Felt, Giám Ðốc CIA John McCone, Ðại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Henry Cabot Lodge và Tư Lệnh MACV Ðại Tướng Paul Harkins. 

Cuộc họp có mục đích thảo luận về việc chuyển giao công tác xâm nhập người của VNCH ra miền Bắc từ CIA sang cho MACV-SOG. William Colby, cựu Trưởng Trạm CIA tại Sài Gòn, người từng chủ trương, cổ vũ, và đích thân thực hiện công tác này tại VNCH, lúc đó đã thăng cấp và đảm nhiệm chức vụ Trưởng phận bộ Viễn Ðông (Far Eastern Division Chief) của CIA, đã được Giám Ðốc CIA McCone chỉ định thuyết trình về công tác gửi người xâm nhập Miền Bắc.

Ông đã tỏ ra rất bi quan khi ông cho biết phần lớn các toán biệt kích gửi ra Miền Bắc đều “đã bị bắt hay đã bị giết chết.” Trong phần kết luận, ông nói trắng ra như sau: “It isn’t working, and it won’t work any better with the military in charge.” (tạm dịch: “Chuyện đó không làm được, và cũng sẽ không làm được gì khá hơn với đội quân nhận trách nhiệm”).

CIA thừa nhận thất bại - 3

Ông Williams Colby, Cựu trạm trưởng CIA tại Sài Gòn.

Dĩ nhiên, lời cảnh báo này của Colby không được nghe theo và SOG cùng với các đơn vị của Nha Kỹ Thuật thuộc BTTM QLVNCH vẫn tiếp tục việc gửi các toán biệt kích xâm nhập ra Miền Bắc, với kết quả là “đem con bỏ chợ.” Tất cả biệt kích đều bị bắt và đưa vào các trại lao cải ở Miền Bắc trong hàng chục năm trời. 

Gia đình của một số biệt kích quân được báo tin là họ đã tử trận, một số được lãnh tiền bồi thường tử tuất. CIA và quân đội Mỹ đã hoàn toàn bỏ rơi họ. Dân quân VNCH hoàn toàn không biết gì hết về số phận của những người lính biệt kích này. Mãi đến sau năm 1975, khi một số sĩ quan QLVNCH đi học tập cải tạo ở Miền Bắc được thả về, kể lại chuyện được gặp các biệt kích quân đó trong các trại cải tạo, dân chúng Miền Nam mới có những thông tin đầu tiên về số phận của các biệt kích quân này. 

Chương trình gửi người xâm nhập Miền Bắc để thực hiện các công tác tình báo của VNCH, trong một thời gian khá dài, với những chi phí rất tốn kém, đã thất bại hoàn toàn. Có 2 lý do chính cho sự thất bại này: 1) VNCH không có được một hạ tầng cơ sở tạimMiền Bắc để hỗ trợ cho loại công tác này và 2) Hệ thống an ninh của miền Bắc quá chặt chẽ khiến cho các biệt kích rất dễ bị phát hiện, truy lùng và bắt giữ. 

Khám Phá

Bi kịch cho mọi toán biệt kích khi ra miền Bắc

 Mọi toán biệt kích mà CIA và VNCH đưa ra miền Bắc đều bị bắt ngay sau khi vừa nhảy dù. Những nhóm này được miền Bắc giữ kín thân phận, coi như đã xâm nhập thành công và điện về tổng hành dinh các cuộc hành quân để “đón tiếp” những toán biệt kích tiếp theo.

CIA, thật ra, đã chuẩn bị từ trước. Họ đã tuyển người (tất cả đều là người gốc Miền Bắc), huấn luyện (tại căn cứ huấn luyện ở Long Thành, về sau trở thành Trung tâm huấn luyện Quyết Thắng) và chuẩn bị cho chuyến xuất phát đầu tiên vào ngày 27-5-1961. Toán biệt kích gồm 4 người này được đặt bí danh là CASTOR, với người chỉ huy là Trung sĩ Hà Văn Chấp, cùng 3 toán viên là Ðinh Văn, Quách Thưởng và Phạm Công Thương, được thả xuống vùng đồi 828, thuộc tỉnh Sơn La. 

Người phi công lái chiếc máy bay C-47 chở toán CASTOR đó chính là Tướng Nguyễn Cao Kỳ (lúc đó ông còn mang lon Thiếu tá và là Chỉ huy trưởng Liên đoàn vận tải của Không quân VNCH). 

Bi kịch cho mọi toán biệt kích khi ra miền Bắc - 1

Vũ khí, trang bị của một biệt kích VNCH khi nhảy dù xuống miền Bắc

Toán CASTOR không tồn tại được lâu, họ bị Công An vũ trang của miền Bắc phát hiện, bao vây và đã phải đầu hàng sau 3 ngày. Cũng như với vụ ARES, Bắc Việt cũng giữ kín vụ bắt được toán CASTOR. CIA hoàn toàn không nghi ngờ gì cả và tiếp tục gửi toán thứ nhì gồm 3 người với bí danh là ECHO vào ngày 2-6-1961. 

Còn tệ hơn toán CASTOR, cả toán ECHO 3 người này đều bị bắt vào ngay hôm sau. CIA không biết là toán ECHO đã bị địch bắt và 12 ngày sau lại gửi toán thứ ba, bí danh DIDO, gồm 4 người thuộc sắc dân thiểu số Thái Ðen, vào Lai Châu. Lần này, phi công của chiếc máy may C-47 vẫn là Thiếu Tá Nguyễn Cao Kỳ. 

Toán DIDO cũng không may mắn hơn toán ECHO. Họ bị bắt hết tại biên giới Việt-Lào vào khoảng 10 ngày sau. Khoảng hơn một tháng sau ngày toán CASTOR nhảy xuống Sơn La, ngày 29-6-1961, đài tiếp vận BUGS của CIA ở Philippines nhận được điện của CASTOR. Không biết CASTOR đã bị bắt và hàng địch, CIA rất vui mừng và thông báo cho CASTOR biết 4 ngày sau sẽ gửi đồ tiếp tế cho CASTOR. 

Bi kịch cho mọi toán biệt kích khi ra miền Bắc - 2

Máy bay C-47, chuyên chở biệt kích VNCH nhảy dù xuống miền Bắc

Theo kế hoạch, chuyến bay này sẽ lại do Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ điều khiển nhưng vào giờ chót đã có sự thay đổi và phi công là Trung úy Phan Thanh Vân. Chiếc C-47 này đã bị đơn vị phòng không của Bắc Việt bắn hạ khi bay ngang không phận của Hòn Né, gần bờ biển của tỉnh Ninh Bình, và rớt trong một khu đồn điền cách bờ biển khoảng 20 km. Tất cả phi hành đoàn đều bị thương, sau đó có 4 người chết vì vết thương quá nặng, 3 người còn sống bị đưa ra tòa xét xử vào tháng 11-1961. 

Ðể tiếp tục đánh lừa CIA và cơ quan tình báo của VNCH về CASTOR, miền Bắc đã dàn cảnh cho 3 người này khai trước tòa là phi vụ của họ là để tiếp tế cho 1 toán biệt kích trong vùng tỉnh Hòa Bình (chứ không phải cho toán CASTOR ở Sơn La). Phòng 45 của Trung tá Lê Quang Tung và CIA tin là toán CASTOR chưa bị lộ thân phận, chương trình cài biệt kích này đã thành công nên lại tiếp tục gửi các toán biệt kích ra Bắc. 

Toán biệt kích kế tiếp mang bí danh là EUROPA và gồm 5 người gốc Mường. Lần này, phi cơ được sử dụng là loại C-54, phi công vẫn là ông Kỳ, lúc này đã thăng lên cấp Trung tá. Chiếc C-54 bay thẳng từ Sài Gòn (không cần phải ghé để được tiếp nhiên liệu như chiếc C-47 của các lần trước) ra Bắc và thả toán EUROPA xuống vùng Hòa Bình. 

Bi kịch cho mọi toán biệt kích khi ra miền Bắc - 3

Sau C-47, máy bay C-54 cũng được dùng để đưa biệt kích ra miền Bắc.

Ngày hôm sau cả toán EUROPA 5 người Mường này đều bị bắt. Lại dùng phương thức cũ, tình báo miền Bắc lại để cho người của toán EUROPA gửi điện về. CIA và Phòng 45 lại tin là thêm một phi vụ thành công nữa.

Việc đưa biệt kích ra Bắc lại được CIA tiếp tục với các toán ATLAS (tháng 3-1962), REMUS (tháng 4-1962), TOURBILLON (tháng 5-1962), và EROS (tháng 6-1962), và cũng như các toán trước, các toán này đều bị Công an vũ trang của miền Bắc phát hiện, truy lùng và bắt giữ hết. 

Kể từ mùa Hè năm 1962, Chính phủ Hoa Kỳ giao lại công tác thực thi NSAM 55, 56 và 57 cho Bộ Quốc phòng, và CIA chỉ còn giữ vai trò yểm trợ. Phái bộ quân sự Mỹ tại VN, MACV (thành lập ngày 8-2-1962 thay thế cho MAAG = Military Assistance Advisory Group) cho thành lập đơn vị SOG (lúc đầu mang tên là Special Operations Group, sau đổi tên lại là Studies and Observations Group).

Thành viên của SOG hoàn toàn là người tình nguyện, phần lớn thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt của quân đội Mỹ. Trong thời gian 1962-1963, VNCH trải qua nhiều xáo trộn chính trị nghiêm trọng. Vì những xáo trộn chính trị này của VNCH, nên mãi đến tháng 4-1964, SOG mới triển khai hoạt động với các đơn vị của cơ quan tình báo mới của QLVNCH là Nha Kỹ thuật thuộc Bộ Tổng tham mưu. 

Khám phá

Việt Nam Cộng hòa đưa biệt kích xâm nhập miền Bắc

 Trong thập niên 1960, VNCH, với sự yểm trợ tích cực về tài chính và kỹ thuật của CIA đã gửi nhiều điệp viên và các toán biệt kích ra Miền Bắc với mục đích thực hiện một số công tác về thu thập tin tức, tuyển mộ điệp viên, và phá hoại.

Theo đánh giá của chính người Mỹ và Việt Nam Cộng hòa (VNCH), các bên tham chiến trong Chiến tranh Việt Nam, bao gồm cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đều sử dụng tình báo đến “mức độ tinh vi”. Nhà nghiên cứu Lâm Vĩnh Thế, một người có điều kiện tiếp xúc nhiều nguồn tài liệu từ chế độ Sài Gòn và đồng minh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam trước đây đã có một nghiên cứu tổng hợp về vấn đề này, trong đó có nêu chi tiết về những chiến dịch tình báo thất bại mà Mỹ và VNCH đã thực hiện tại miền Bắc và chiến trường miền Nam Việt Nam. Tạp chí Khám phá trân trọng trích đăng, gửi tới bạn đọc góc nhìn khá thú vị về Tình báo trong chiến tranh Việt Nam. Qua đó, chúng ta có thể hình dung ra tầm vóc cuộc chiến và những chiến công mà Tình báo Quốc phòng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đạt được trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của toàn Đảng, toàn dân ta.

Trong thời gian 300 ngày chuyển tiếp của việc thi hành Hiệp Ðịnh Genève 1954, một tổ CIA, dưới sự chỉ huy của Ðại Tá Edward Lansdale, đã tuyển mộ (từ các đảng viên của 2 chính đảng có chủ trương chống Cộng là Ðại Việt và Quốc Dân Ðảng), huấn luyện và gài đặt lại một số tổ tình báo ở miền Bắc. 

Kế hoạch “trường kỳ mai phục” này của CIA tương đối thành công vì lúc đó Miền Bắc chưa kiện toàn bộ máy an ninh của họ. Các tổ tình báo này hoạt động được hơn một thập niên nhưng sau cùng cũng bị lộ, bị bắt giam, và đưa ra tòa xét xử. 

Vụ án xét xử 10 gián điệp (tất cả đều là đảng viên Quốc Dân Ðảng, với 2 bản án tử hình) tại tòa án Hải Phòng vào tháng 4-1965 đã làm chấn động miền Bắc, như chúng ta thấy trong hình sau

Trong thập niên 1960, VNCH, với sự yểm trợ tích cực về tài chính và kỹ thuật của CIA, đã gửi nhiều điệp viên và các toán biệt kích ra Miền Bắc với mục đích thực hiện một số công tác về thu thập tin tức, tuyển mộ điệp viên, và phá hoại. 

Cơ quan của VNCH hợp tác với CIA trong kế hoạch này là một đơn vị tình báo lúc đầu trực thuộc Phủ Tổng thống dưới quyền chỉ huy của Trung tá Lê Quang Tung (sau thăng lên cấp Ðại tá, Chỉ Huy trưởng Lực lượng đặc biệt), với tên gọi thay đổi nhiều lần: Phòng Liên Lạc Phủ Tổng Thống, Phòng 45, Sở Bắc, Sở Khai Thác Ðịa Hình.  

Việt Nam Cộng hòa đưa biệt kích xâm nhập miền Bắc - 2

Lê Quang Tung, Trung tá QLVNCH, chỉ huy trưởng lực lượng đặc biệt của cơ quan tình báo với cái tên Sở Khai thác địa hình.

Sau cuộc đảo chính ngày 1-11-1963, Sở Khai thác địa hình bị giải tán, và ngày 12-2-1965, Nha Kỹ thuật được thành lập để đảm nhận công tác tình báo này và được đặt trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu QLVNCH. 

Lúc đầu, kế hoạch này chỉ gửi từng điệp viên đơn độc ra nằm vùng tại miền Bắc (trong ngữ vựng của CIA gọi là các “singletons”). Ðiệp viên đầu tiên được gửi ra Miền Bắc trong kế hoạch này là Phạm Chuyên, một cựu Đảng viên Cộng sản của tỉnh bộ Quảng Ninh, đã từ bỏ Đảng và di cư vào Nam. Chuyên được huấn luyện rất kỹ trong hơn 1 năm và sau đó được bí mật đưa ra ém ở Cẩm Phả, trong vùng Vịnh Hạ Long, vào tháng 4-1961, với bí danh là ARES. Nhưng chỉ được hơn 2 tháng thì ARES đã bị bắt. 

ARES đầu hàng, trở thành công cụ của Miền Bắc, và gửi nhiều điện văn về để lừa CIA. Lúc đó CIA vẫn chưa biết sự thật về ARES, vẫn tiếp tục chương trình ”singletons” này. Kết quả là, cũng giống như ARES, các “singletons” kế tiếp, với các bí danh HIRONDELLE, HERO, TRITON, ATHENA, đều “biến mất” hết một cách bí mật. 

Sang năm 1962, tuy vẫn chưa nghi ngờ ARES, CIA đã bắt đầu không còn tin tưởng vào hiệu quả của chương trình “singletons” nữa và bắt đầu chuyển sang chương trình cho các toán biệt kích, từ 3 đến 8 người, nhảy dù xuống Miền Bắc.

Việt Nam Cộng hòa đưa biệt kích xâm nhập miền Bắc - 3

Một toán biệt kích bị bắt ngay khi vừa nhảy dù xuống miền Bắc. 

Riêng về “singleton” ARES thì từ 1966, CIA đã bắt đầu nghi ngờ và khi họ bố trí cho ARES “trở ra” (exfiltrate) thì ARES không làm theo chỉ thị; lúc đó CIA mới biết chắc ARES đã trở thành công cụ của tình báo Bắc Việt và chấm dứt liên hệ với ARES. Tuy nhiên, tình báo Bắc Việt vẫn tiếp tục sử dụng ARES và ARES vẫn tiếp tục gửi điện về cho mãi đến tận năm 1968.

Chương trình đưa biệt kích ra miền Bắc chính thức bắt đầu bằng NSAM 28 (NSAM = National Security Action Memorandum No. 28,) ngày 9-3-1961, theo đó Tổng thống John F. Kennedy (1961-1963) ra chỉ thị cho CIA phát động chiến tranh du kích tại Miền Bắc. 

Việt Nam Cộng hòa đưa biệt kích xâm nhập miền Bắc - 4

Nhóm biệt kích VNCH được chuyên gia Mỹ huấn luyện trước khi tung ra miền Bắc.

Tháng 4-1961, vụ đổ bộ tại Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) ở Cuba do CIA tổ chức bị thất bại nặng nề, Tổng thống Kennedy mất tin tưởng vào khả năng tổ chức những công tác bán quân sự bí mật của CIA. Cuối tháng 6-1961, một loạt NSAM ra đời (NSAM 55, 56 và 57, cùng ngày 28-6-1961) nhằm chuyển giao loại công tác đó qua cho Bộ Quốc Phòng, trong khi CIA chỉ đóng vai trò yểm trợ mà thôi.

Khám phá

TIN TỨC NỔI BẬT