Thứ Tư, 12 tháng 5, 2021
Cuộc Truy Đuổi Đầu Mối Tình Báo Số 1 Của Việt Nam Cộng Hòa Tại Miền Nam VN || Lật Mặt Bí Số X92
LẬT MẶT X92 TÌNH BÁO SỐ 1 CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM I TRUYỆN TÌNH BÁO (6)
Giải Mã Bí Ẩn Nhật Kí Tổng Bí Thư Lê Duẩn - Bè Lũ Bành Trướng Bắc Kinh
Chủ Nhật, 9 tháng 5, 2021
TK( Phần 9). LI KÌ CUỘC ĐỐI ĐẦU GIỮA ĐỘI ĐẶC NHIỆM VIỆT NAM VÀ CIA MẼO(349)
TK.( Phần 8). LI KÌ CUỘC ĐỐI ĐẦU GIỮA ĐỘI ĐẶC NHIỆM VIỆT NAM VÀ CIA MẼO(348)
Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2021
Những đòn nghi binh chết người
Tại phiên họp ngày 18-2-1975, chính Tổng Thống Thiệu tái xác định khả năng địch có thể tấn công Pleiku ở Vùng II. Ðiều này càng làm cho Tướng Phú thêm tin tưởng là ông đã nghĩ đúng về mục tiêu tấn công sắp tới của miền Bắc.
Ðầu tháng 2-1975, một đơn vị của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh QLVNCH bắt được 1 binh sĩ miền Bắc tại một địa điểm ở phía Tây tỉnh Bình Ðịnh, gần đèo An Khê. Qua thẩm vấn được biết binh sĩ này đã tháp tùng viên tư lệnh của Sư đoàn 3 miền Bắc đi thám sát đèo An Khê. Trong mình binh sĩ này có giữ một bản đồ ghi rõ các địa điểm mà Sư đoàn 3 dự định sẽ đóng chốt để cắt đứt Quốc Lộ 19 là con đường huyết mạch nối liền Qui Nhơn (tỉnh lỵ của tỉnh Bình Ðịnh) với Pleiku.
Cùng lúc đó, phòng 2 của Quân đoàn II cũng nắm được tin Sư đoàn 968 của miền Bắc đang đóng tại Lào đã di chuyển sang lãnh thổ VNCH. Tướng Phú tin rằng những người Cộng sản đang chuẩn bị tấn công Pleiku, và ông đã ra lệnh cho Trung Ðoàn 47 của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh đến trấn giữ đèo An Khê.

Đèo An Khê trên Quốc lộ 19 nối Quy Nhơn với Pleiku
Lý do Trung đoàn 47 được giao cho nhiệm vụ này vì sĩ quan Trung đoàn trưởng, Trung tá Lê Cầu, là người rất quen thuộc địa hình vùng đèo An Khê. Ông đã từng chiến đấu tại đây trong trận Tổng tấn công mùa hè 1972.
Trong suốt tháng 2-1975, các đơn vị miền Bắc hiện diện trong vùng liên tục pháo kích Kontum và Pleiku cũng như đánh phá các chốt bảo vệ đèo An Khê trên Quốc Lộ 19 của Trung Ðoàn 47.
Các đơn vị này do 2 Sư Ðoàn F10 và 320 để lại nhằm thực hiện kế hoạch nghi binh, còn toàn bộ 2 sư đoàn này đã di chuyển xuống phía Nam để chuẩn bị tấn công Buôn Ma Thuột. Tất cả những hoạt động này của địch làm cho Tướng Phú càng thêm tin là Pleiku sẽ là mục tiêu chính của cuộc tấn công sắp tới của miền Bắc.
Giữa tháng 2-1975, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Nguyễn Tú của báo Chính Luận, Tướng Phú đã nói ra tất cả những gì ông suy nghĩ và phân tích về cuộc tấn công sắp tới của địch. Ṓng tin rằng địch sẽ sử dụng một lực lượng cấp sư đoàn để cắt đứt Quốc lộ 19 trước khi tấn công Pleiku.

Lính VNCH được điều động phòng thủ Quốc lộ 19 nối Quy Nhơn và Pleiku
Ngày 18-2-1975, Tướng Phú về Sài Gòn dự phiên họp với các tướng tư lệnh quân đoàn do Tổng Thống Thiệu triệu tập để duyệt lại kế hoạch phòng thủ cho năm 1975. Tại phiên họp này, chính Tổng Thống Thiệu tái xác định khả năng miền Bắc có thể tấn công Pleiku ở Vùng II. Ðiều này càng làm cho Tướng Phú thêm tin tưởng là ông đã nghĩ đúng về mục tiêu tấn công sắp tới của đối phương.
Do đó, ông đã một lần nữa bác bỏ nhận định của Ðại tá Tiếu về khả năng địch sẽ tấn công Buôn Ma Thuột tại phiên họp của ban tham mưu Quân Ðoàn II ở Pleiku vào ngày hôm sau, 19-2-1975.
Ðầu tháng 3-1975, trước một số tin tình báo về các hoạt động của đối phương xung quanh Buôn Ma Thuột làm Tướng Phú có phần nao núng. Ngày 4-3-1975, ông ra lệnh cho Trung đoàn 45 của Sư đoàn 23 Bộ binh di chuyển về Buôn Ma Thuột. Việc di chuyển này sắp bắt đầu thì vào lúc 2 giờ trưa cùng ngày, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II tại Pleiku bị địch quân pháo kích, Tướng Phú ra lệnh hủy bỏ việc chuyển quân này.

Các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam giải phóng Chi khu Đức Lập trong Chiến dịch Tây Nguyên
Cùng ngày đối phương tấn công dữ dội vào các đơn vị của Trung đoàn 47 và cắt đứt Quốc lộ 19 tại hai nơi. Tướng Phú tin chắc là miền Bắc đã bắt đầu chiến dịch tấn công vào Pleiku.
Việc chuyển quân của Sư đoàn 316 từ Bắc vào Nam cũng như của Sư đoàn 968 từ Lào sang Việt Nam, mặc dù được ngụy trang rất kỹ như đã trình bày bên trên, sau cùng vẫn bị SIGINT (tình báo tín hiệu) của QLVNCH phát hiện.
Sau khi phân tích tín hiệu, và đánh giá, Phòng 7 BTTM QLVNCH nhận định quân đội VNDCCH sẽ tấn công Buôn Ma Thuột.

Bản đồ của Mỹ mô tả các mũi tấn công của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào Buôn Ma Thuột tháng 3/1975
Ngày 7-3-1975, 3 ngày trước khi trận Buôn Ma Thuột nổ ra, Chuẩn Tướng Phạm Hữu Nhơn, Trưởng phòng 7, BTTM QLVNCH, cùng với Tom Glenn là Trưởng đơn vị của Cơ quan An ninh quốc gia (National Security Agency – NSA) của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã bay lên Pleiku để đích thân báo cho Thiếu Tướng Phú về nhận định của Phòng 7 là đối phương sẽ tấn công Buôn Ma Thuột (cuộc họp này có mặt cả Ðại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 của Quân đoàn 2) nhưng Tướng Phú vẫn không tin.
Ngay cả vào lúc 10 giờ sáng ngày 9-3-1975, sau khi Thuần Mẫn, thuộc tỉnh Phú Bổn, đã mất, và Ðức Lập, thuộc tỉnh Quảng Ðức cũng đã bị chiếm, ông bay xuống Ban Mê Thuột để họp với các đơn vị trưởng tại đây để duyệt xét tình hình, Tướng Phú vẫn còn tiếp tục nghĩ và tin là tất cả chỉ là nghi binh. Ông vẫn chờ cuộc tấn công vào Pleiku, một cuộc tấn công chẳng bao giờ xảy ra.
Sáng sớm ngày hôm sau, 10-3-1975, trận tấn công vào Buôn Ma Thuột nổ ra và chỉ trong 2 ngày toàn bộ thị xã này đã lọt vào tay VNDCCH.

Ngày 11/3/1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam giải phóng Buôn Ma Thuột
QLVNCH thua trận Buôn Ma Thuột không phải vì tình báo yếu kém mà rõ ràng là do Tướng Phú, Tư lệnh Quân đoàn II bị định kiến quá nặng nề.
Việc phản công tái chiếm Buôn Ma Thuột đã không thể thực hiện được. Và đó là một trong những lý do đưa đến quyết định triệt thoái Quân đoàn II rất tai hại của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong phiên họp định mệnh ngày 14-3-1975 tại Cam Ranh.
Việt Nam Cộng hòa đã chủ quan ở Buôn Ma Thuột
Trước khi cuộc tấn công nổ ra, những hoạt động tình báo của hai bên đã diễn ra như thế nào và phía VNDCCH đã làm gì để chuẩn bị cho cuộc tấn công?
Việc VNDCCH quyết định tấn công Buôn Ma Thuột thay vì Pleiku một phần lớn là do họ đã nắm được tin tức về buổi họp của Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia của VNCH vào 2 ngày 9-10 tháng 12/1974. Toàn bộ kế hoạch phòng thủ cho năm 1975 của Ðại Tướng Cao Văn Viên trình bày tại buổi họp đã được một điệp viên thuộc loại “trường kỳ mai phục,” làm việc ngay trong văn phòng của Tướng Viên tại BTTM QLVNCH, báo cáo đầy đủ về Hà Nội.

Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH
Trong khi đó, nội bộ ban tham mưu của Quân Ðoàn II lại không đồng ý với nhau về mục tiêu tấn công của miền Bắc tại Vùng II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn II tin rằng họ sẽ tấn công Pleiku, trong khi đó thì Ðại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 (phụ trách về tình báo) của Quân Ðoàn II thì lại tin là miền Bắc sẽ tấn công Buôn Ma Thuột.
Việc Tướng Phú không tin vào nhận định của Ðại Tá Tiếu có thể do 3 lý do. Thứ nhất, Tướng Phú tin tưởng và dựa vào kế hoạch phòng thủ năm 1975 của BTTM như đã trình bày trên.
Thứ hai, sự tin tưởng này của Tướng Phú được tăng cường thêm sau buổi họp ngày 18-2-1975 tại Sài Gòn để duyệt lại kế hoạch phòng thủ 1975 này và chính Tổng Thống Thiệu lưu ý ông việc Cộng quân có thể sẽ đánh Pleiku. Chính vì vậy, trong buổi họp ngày hôm sau, 19-2-1975, tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn ở Pleiku, ông đã một lần nữa bác bỏ báo cáo của Ðại Tá Tiếu về khả năng tấn công Buôn Ma Thuột dựa trên những tin tình báo mới.
Thứ ba, khi nhận chức Tư Lệnh Quân Ðoàn II, Tướng Phú không chọn được những sĩ quan thân tín của mình mà phải chấp nhận những sĩ quan đang phục vụ trong bộ tham mưu của Quân Ðoàn (trong đó có Ðại Tá Tiếu).

Tướng Phạm Văn Phú
Về phía VNDCCH, dựa vào kế hoạch phòng thủ năm 1975 của VNCH mà họ đã nắm được cộng thêm việc bố trí lực lượng phòng thủ dày đặc của Quân Ðoàn II ở phía Bắc của Vùng II, họ thấy rõ là Tướng Phú tin rằng họ sẽ tấn công Pleiku. Do đó, họ cố gắng làm mọi động tác giả để đánh lừa Tướng Phú, làm cho ông tin rằng ông đã tính toán đúng là họ sẽ đánh Pleiku chứ không phải Buôn Ma Thuột.
Nhìn chung, những người Cộng sản đã lại áp dụng phương thức mà họ đã từng sử dụng trong lúc chuẩn bị trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân để đạt được mục tiêu này. Phương thức đó gồm 2 phần: 1) Bảo mật tối đa về mục tiêu thật của trận tấn công là Buôn Ma Thuột; và, 2) Thực hiện môt số động tác giả để đánh lừa đối phương khiến cho đối phương tin là mục tiêu thật của trận tấn công sẽ là Pleiku-Kontum.

Tóm tắt Chiến dịch Tây Nguyên
Về phương diện bảo mật, rút kinh nghiệm từ trận Mậu Thân, mục tiêu Buôn Ma Thuột của trận tấn công được giữ kín tối đa. Các tư lệnh tại mặt trận chỉ được biết vào cuối tháng 1-1975, và tư lệnh các đơn vị sẽ tham gia tấn công chỉ được thông báo từ đầu tháng 2-1975.
Hà Nội cũng quyết định giữ nguyên các đơn vị đang có mặt ở phía Bắc của Vùng II (Pleiku-Kontum) là các Sư Ðoàn 2, Sư Ðoàn 3, Sư Ðoàn F10 và 2 Trung Ðoàn độc lập 25 và 95A, và ra lệnh cho các đơn vị đó tăng cường các hoạt động đe dọa vùng này.
Trong khi đó, các đơn vị sẽ tham gia tấn công Buôn Ma Thuột đều là các đơn vị trừ bị đang đóng quân tại Lào hay tại Bắc Việt được bí mật di chuyển vào các vị trí chung quanh Buôn Ma Thuột để chuẩn bị tấn công.
Sư Ðoàn 316, đơn vị chủ lực của trận tấn công vào Buôn Ma Thuột, trước kia chỉ hoạt động tại Lào, sau đó được điều dộng trở về Miền Bắc, đã nhận được lệnh di chuyển vào Nam vào ngày 15-1-1975, nhưng để lại bộ phận truyền tin tại Miền Bắc để tiếp tục gửi đi các báo cáo nhằm đánh lừa các đơn vị SIGINT của QLVNCH.
Buôn Ma Thuột bất ngờ bị tấn công
Tình báo trong chiến tranh Việt Nam, như phía Mỹ đã từng tổng kết: Các bên đã thực hiện công việc với mức độ “tinh vi”. Qua thực tế, cả Mỹ và Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đều thừa nhận họ đã bị miền Bắc Việt Nam (VNDCCH) nhiều lần đánh bại trong cuộc chiến âm thầm nhưng không kém phần khốc liệt này. Tạp chí Khám phá tiếp tục gửi tới quý độc giả loạt bài của nhà nghiên cứu VNCH trước đây, ông Lâm Vĩnh Thế. Đây là tài liệu nghiên cứu được tác giả tổng hợp từ các nguồn tài liệu của CIA và hệ thống các cơ quan tình báo của VNCH trước đây. Kính mời quý độc giả cùng theo dõi.
Trận Buôn Ma Thuột diễn ra chỉ trong khoảng 1 tuần lễ ngắn ngủi (từ ngày 10-3 đến ngày 18-3-1975) nhưng có tầm vóc hết sức quan trọng trong cuộc chiến kéo dài gần 20 năm.
Bộ binh và xe tăng Mặt trận Tây Nguyên đột kích tấn công trụ sở Sư đoàn 23 VNCH
Trận đánh mở màn cho Chiến dịch Tây Nguyên của những người cộng sản, trực tiếp đưa đến quyết định tai hại của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệt thoái khỏi Vùng II và gián tiếp tạo ra sự sụp đổ của VNCH vào cuối tháng 4-1975.
Sau khi mất tỉnh Phước Long (vào đầu tháng 1-1975, mà chính quyền VNCH quyết định bỏ luôn, không tìm cách đánh chiếm lại như đối với tỉnh Quảng Trị trong mùa Hè 1972), các nhà lãnh đạo quân sự của VNCH đều nghĩ và tin rằng VNDCCH sẽ tấn công mạnh ở Vùng II, tại Cao Nguyên Trung Phần.
Thật ra, ngay từ trước khi xảy ra trận Phước Long, vào 2 ngày 9-10 tháng 12-1974, Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia đã nhóm họp tại Dinh Ðộc Lập dưới sự chủ tọa của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, để thảo luận về kế hoạch phòng thủ cho năm 1975 Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH đã tiên đoán là miền Bắc sẽ không tiến hành một cuộc tổng tấn công như họ đã làm trong mùa Hè năm 1972, mà chỉ thực hiện những cuộc tấn công có quy mô lớn, khởi sự tại Vùng II và thời điểm sẽ là trong tháng 3-1975.
Tại Vùng II, ông dự đoán là họ sẽ tập trung các cố gắng ở phía Bắc của vùng chiến thuật này, cụ thể là Kontum và phía Bắc của Bình Ðịnh.
Chính vì vậy, dự kiến VNDCCH sẽ cắt đứt các quốc lộ chính từ duyên hải lên cao nguyên, từ cuối tháng 1-1975, BTTM đã cho chuyển lên Pleiku và Kontum một số lượng rất lớn về lương thực và đạn dược đủ để cho lực lượng phòng thủ Pleiku và Kontum (ước lượng khoảng 20.000 quân) sử dụng trong 60 ngày mà không cần tiếp tế.
Bản đồ dưới đây cho thấy rõ sự tập trung phòng thủ dày đặc của QLVNCH ở phía Bắc của Vùng II (Pleiku và Kontum) vào đầu tháng 3-1975 như sau:

Bản đồ bố trí các lực lựợng phòng thủ tại Vùng II vào đầu tháng 3-1975
- 3 Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân (BÐQ) bảo vệ Kontum và 1 Liên Ðoàn BÐQ bảo vệ Quốc Lộ 14 (nối liền Kontum và Pleiku; chạy thẳng xuống phía Nam, đến Ban Mê Thuột)
- 2 Trung Ðoàn 44 và 45 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh bảo vệ Pleiku
- 4 Trung Ðoàn 40, 41, 42 và 47 của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh bảo vệ phía Bắc Bình Ðịnh và các đèo Mang Giang và An Khê trên Quốc Lộ 19 (nối liền Qui Nhơn – tỉnh lỵ của Bình Ðịnh – với Kontum).
Ðể bảo vệ Ban Mê Thuột chỉ có Liên Ðoàn 21 BÐQ đóng ở Buôn Hồ (một thị trấn nằm cách Ban Mê Thuột khoảng 40 km về hướng Ðông Bắc), các đơn vị cơ hữu của tỉnh Đắk Lắc, và Trung Ðoàn 53 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh.
Theo Ðại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Darlac, trên thực tế, Trung Ðoàn 53, đóng tại Phi trường Phụng Dực (cách Ban Mê Thuột khoảng 8 km về hướng Ðông), vào lúc đó chỉ gồm có bộ chỉ huy Trung Ðoàn và 1 Tiểu Ðoàn mà thôi.
Khi trận tấn công Ban Mê Thuột nổ ra vào ngày 10-3-1975, lực lượng hai bên được bố trí như trong bản đồ sau đây:

Bản đồ trận Ban Mê Thuột
Nhìn vào bản đồ bên trên, chúng ta thấy rõ quân đội VNDCCH đã tấn công vào Ban Mê Thuột từ 5 phía với các lực lượng như sau:
- Từ hướng Tây Bắc: với Trung Ðoàn 148, thuộc Sư Ðoàn 316
- Từ hướng Ðông Bắc: với Trung Ðoàn 95B, thuộc Sư Ðoàn 325
- Từ hướng Ðông Nam: với Trung Ðoàn 149, thuộc Sư Ðoàn 316
- Từ hướng Tây: với Tiểu Ðoàn 4, thuộc Trung Ðoàn 24, Sư Ðoàn F10
- Từ hướng Nam: với Trung Ðoàn 174, thuộc Sư Ðoàn 316
Như vậy, lực lượng chính tấn công Buôn Ma Thuột là Sư Ðoàn 316, với 3 Trung Ðoàn cơ hữu là 148, 149, và 174, tăng cường thêm với 1 trung đoàn của Sư Ðoàn 325 và 1 tiểu đoàn của Sư Ðoàn F10, và, dĩ nhiên, với các đơn vị pháo binh, chiến xa, và đặc công.
Sư Ðoàn 316 trước đây chỉ hoạt động tại Lào và từ năm 1974 đã được lệnh quay trở về Bắc Việt. Sư hiện diện của sư đoàn này tại Miền Nam sẽ là một bất ngờ cho giới tình báo VNCH.
Ông Cố vấn, điệp viên hoàn hảo và bí số H3
Cụm A-22 gồm một số những người đã từng bị Ðoàn Công Tác Ðặc Biệt Miền Trung phát hiện và giam giữ tại Huế. Ðây là một sơ hở của ông Nhạ khiến cho CIA phát hiện được cụm A-22 và lập hồ sơ chuyển giao cho Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam. Giữa tháng 7-1969, tất cả 42 người hoạt động cho Cụm A-22 đều bị bắt và đưa ra toà xét xử vào tháng 11-1969. Ðây là một vụ án gián điệp rất nghiêm trọng gây chấn động trong chính trường của VNCH vì các bị cáo đều là người có chức vụ khá cao trong chính phủ như sau:
- Vũ Ngọc Nhạ: “Cố vấn” bán chính thức của Tổng Thống Thiệu
- Huỳnh Văn Trọng: Cố vấn về đối ngoại của Tổng Thống Thiệu
- Vũ Hữu Ruật: Tổng Thư Ký của Ðảng Dân Chủ, Thành bộ Sài Gòn
- Lê Hữu Thúy: Công Cán Ủy Viên Bộ Thông Tin – Chiêu Hồi
- Nguyễn Xuân Hòe: Công Cán Ủy Viên Phủ Tổng Thống
- Hoàng Hồ: Dân Biểu Quốc Hội (đã bỏ trốn; sau đó Quốc Hội đã bỏ phiếu truất quyền)

Huỳnh Văn Trọng (giữa) và Vũ Ngọc Nhạ đùa vui sau khi lãnh án 20 năm
Vũ Ngọc Nhạ bị kết án tù chung thân và đưa ra Côn Ðảo. Năm 1973, sau Hiệp Ðịnh Paris, Nhạ được trao trả cho miền Bắc. Sau năm 1975, Nhạ công tác tại Cục 2 (cơ quan phụ trách tình báo của Việt Nam) với cấp bậc Thượng tá và sau đó thăng lên Ðại tá. Năm 1988, ông được thăng cấp Thiếu Tướng. Ông Nhạ mất ngày 7-8-2002 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Người điệp viên nổi tiếng nhất của Miền Bắc hoạt động tại Miền Nam là Phạm Xuân Ẩn.

“Điệp viên hoàn hảo” Phạm Xuân Ẩn
Khác với Phạm Ngọc Thảo và Vũ Ngọc Nhạ, ông Ần đã tạo được kỳ tích là hoạt động trong suốt mấy chục năm mà hoàn toàn không bị phát hiện hay tạo ra nghi ngờ gì cả trong giới tình báo Hoa Kỳ và VNCH.
Phạm Xuân Ần sinh ngày 12-9-1927 tại Biên Hòa, học tiểu học tại Trường Tiểu học Marc Ferrando ở Sài Gòn, học trung học ở Cần Thơ. Năm 1954 ông bị động viên và làm việc cho quân đội Pháp một thời gian.
Ông là điệp viên duy nhất của Miền Bắc đã từng du học 2 năm (1957-1959) về ngành báo chí tại Ðại học Cộng Ðồng Orange Coast College, thuộc thành phố Costa Mesa, tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Nhờ vào đó, ông là một trong số rất ít người Việt Nam được nhận làm phóng viên cho các hãng truyền thông Anh Mỹ như Reuters, Time, Christian Science Monitor.
Nhờ vỏ bọc này, Phạm Xuân Ần đã có giao thiệp rộng rãi với các nhà báo Mỹ, qua đó tạo được quan hệ rất tốt với nhiều giới chức Mỹ-Việt, và nhờ vậy đã cung cấp được cho Hà Nội nhiều tin tức tình báo chiến lược rất quan trọng.
Sau năm 1975, ông được phong Thiếu Tướng, và được ban danh hiệu Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ông mất ngày 20-9-2006 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuộc đời ông đã được ghi lại trong một cuốn sách thuộc loại bán chạy nhất (Best-seller) tại Hoa Kỳ của tác giả Giáo sư Chính Trị Học Larry Berman thuộc Ðại Học California, Davis với nhan đề là: Perfect spy: The incredible double life of Pham Xuan An, Time Magazine reporter and Vietnamese Communist agent (New York: Smithsonian Books, 2007).
Một điều cũng đáng được lưu ý là cả 3 điệp viên nổi tiếng này của Miền Bắc, Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ và Phạm Xuân Ần, sau khi qua đời, đã được an táng gần nhau trong cùng nghĩa trang Lạc Cảnh tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài 3 điệp viên nổi tiếng trên mà phần đông mọi người đều có nghe nói đến, cũng nên kể đến một điệp viên thứ tư, ít người biết, là điệp viên H3, là một hạ sĩ quan, tên Nguyễn Văn Minh (sinh năm 1933, tại Hưng Yên, vào Nam sinh sống từ lúc còn nhỏ), làm việc ngay trong văn phòng của Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH.

Sau năm 1975, H3 được phong quân hàm Ðại tá, và ban danh hiệu Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Nói chung, nhờ có được nhiều điều kiện thuận lợi hơn, Miền Bắc tương đối thành công hơn Miền Nam trong việc cài người xâm nhập vào hệ thống chính trị và quân sự của đối phương.
Tình báo Miền Bắc hoạt động khắp Miền Nam
Phần lớn tình báo của miền Bắc có một vỏ bọc rất tốt, giúp họ dễ dàng xâm nhập, len lỏi, và “chui sâu, trèo cao” trong guồng máy chính trị và quân sự của VNCH
So với VNCH, Miền Bắc có nhiều thuận lợi hơn trong việc cài người ở Miền Nam. Có 2 lý do chính cho việc này: 1) Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, 1945-1954, Việt Minh nắm trọn quyền điều khiển Kháng chiến; đảng viên Cộng sản có mặt khắp nơi trong Miền Nam; khi Hiệp Ðịnh Genève được ký kết, trong việc tập kết quân đội tại Miền Nam để chuyển ra Bắc, một số khá lớn đảng viên Cộng sản đã nhận được lệnh ở lại Miền Nam; và 2) Phong trào di cư của người Bắc vào Nam trong thời gian 100 ngày sau khi Hiệp Ðịnh Genève được ký kết vào tháng 7-1954 tạo cơ hội quá tốt cho Hà Nội cài người.

Quang cảnh lễ ký kết Hiệp định Geneve tháng 7/1954
Ðó là nguồn nhân lực rất quan trọng cho miền Bắc sử dụng trong việc cài người trong dân chúng cũng như bộ máy chính quyền (cả chính trị và quân sự) của VNCH.
Phần lớn những người này đã có mặt, sinh sống, và làm việc như mọi người dân khác của Miền Nam, ngay cả trước khi VNCH được thành lập, nên họ đều có một vỏ bọc rất tốt, giúp họ dễ dàng xâm nhập, len lỏi, và “chui sâu, trèo cao” trong guồng máy chánh trị và quân sự của VNCH. Sau đây là một vài nhận vật thật nổi tiếng trong số những người này.

Ông Phạm Ngọc Thảo tại Sài Gòn, năm 1965
Trong số những người theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp nhưng đã không tập kết ra Bắc mà ở lại miền Nam nổi tiếng nhất là Phạm Ngọc Thảo.
Trong thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, ông đã xâm nhập được vào quân đội miền Nam, được chế độ Ngô Ðình Diệm tin dùng và bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre) lúc ông đang mang cấp Trung tá. Sau tháng 11-1963, ông thăng lên cấp Ðại tá và đã tham gia vào cuộc đảo chính ngày 19-2-1965 chống Tướng Nguyễn Khánh nhưng thất bại vì sự chống đối của các tướng trẻ. Sau vụ này ông bỏ trốn nhưng bị bắt và bị giết chết.

Mãi đến năm 1987, Việt Nam mới công khai xác nhận ông Thảo là người của họ, truy tặng ông cấp bậc Ðại tá của Quân Ðội Nhân Dân và danh hiệu Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân.
Trong số những người Cộng sản lợi dụng phong trào di cư năm 1954 để vào Nam hoạt động nổi tiếng nhất phải kể đến Vũ Ngọc Nhạ, đảng viên Cộng sản từ năm 1947.

Tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ: “Người Mỹ và Tổng thống Thiệu đã thành con rối trong tay tôi”
Tên thật là Vũ Xuân Nhã, sinh ngày 30-3-1928 tại Thái Bình, Bắc Việt, xuất thân từ một gia đình theo Công giáo, sinh sống trong vùng Phát Diệm nổi tiếng chống Cộng dưới sự lãnh đạo của Giám Mục Lê Hữu Từ, bản thân có theo học mấy năm ở một chủng viện, và đã theo làn sóng người Công giáo di cư vào Nam sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, và sau đó lại được Linh Mục Hoàng Quỳnh đỡ đầu, Vũ Ngọc Nhạ đã thoát được không bị kết án sau khi bị Ðoàn công tác đặc biệt Miền Trung của Ngô Ðình Cẩn phát hiện và bắt giam tại Huế vào tháng 12-1958.
Một thời gian sau, cũng lại với cái vỏ bọc Công giáo đó, cùng với bài viết vào cuối năm 1959 “Bốn nguy cơ đe dọa chế độ” dự đoán sẽ có đảo chánh và sau đó có đảo chánh xảy ra thật sự vào ngày 11-11-1960, Nhạ đã được Ngô Ðình Cẩn tin dùng và sau đó giới thiệu cho hai người anh là Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và Cố vấn Ngô Ðình Nhu.

Báo chí Sài Gòn viết về Vũ Ngọc Nhạ
Vũ Ngọc Nhạ được hai anh em họ Ngô giao cho nhiệm vụ liên lạc với khối Công giáo di cư nhưng chưa làm được thì chế độ nhà Ngô sụp đổ. Sau đảo chính 1-11-1963, ông Nhạ tiếp tục làm việc với cha Hoàng Quỳnh, và sau đó được cha Hoàng Quỳnh giới thiệu với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Ông Nhạ lại được Tướng Thiệu sử dụng trong việc móc nối với khối Công giáo.
Khi Tướng Thiệu trở thành Tổng Thống, ông Nhạ thường được Tổng Thống Thiệu tham khảo về một số vấn đề chính trị có liên quan đến khối Công giáo. Vũ Ngọc Nhạ được lệnh của Hà Nội tổ chức 1 cụm tình báo chiến lược với bí danh A-22, trong đó có Huỳnh Văn Trọng, lúc đó chính thức là Cố vấn của Tổng Thống Thiệu.
CIA thừa nhận thất bại
Williams Colby, người được CIA chỉ định trình bày về Chương trình đưa biệt kích xâm nhập miền Bắc đã tỏ ra rất bi quan khi cho biết, phần lớn các toán biệt kích gửi ra Miền Bắc đều “đã bị bắt hay bị giết chết.”
Vào đầu năm 1963, Sở Khai thác địa hình được cải danh thành Bộ Tư lệnh lực lượng đặc biệt (LLÐB) và vẫn do Ðại tá Lê Quang Tung chỉ huy. Sau cuộc đảo chính 1-11-1963, LLĐB không còn đảm nhận công tác tình báo nữa. Sở Bắc (Phòng 45 đổi tên) được tách ra khỏi LLÐB, và cải danh thành Sở Khai thác và trực thuộc Bộ Tổng tham mưu (BTTM). Sau đó Sở Khai thác được đổi tên một lần nữa thành Sở Kỹ thuật, và ngày 12-2-1965 được nâng cấp lên thành Nha Kỹ thuật thuộc BTTM

Phù hiệu Nha Kỹ thuật, Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH
Các công tác của Nha Kỹ Thuật được phân chia cho các cơn vị trực thuộc như sau:
- Sở Công tác: đóng tại Sơn Trà, Ðà Nẵng; nhiệm vụ của các Ðoàn thuộc Sở này là xâm nhập bằng đường hàng không hay đường bộ vào lòng địch tại Miền Bắc hay các vùng biên giới với Lào và Campuchia.
- Sở Liên lạc: đóng tại Sài Gòn; nhiệm vụ của các Chiến Ðoàn (Biệt kích Lôi Hổ) thuộc Sở này là xâm nhập vào hậu tuyến của địch trong lãnh thổ của VNCH từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam.
- Sở Phòng Vệ duyên hải: đóng tại Tiên Sa, Ðà Nẵng; Lực Lượng Hải Tuần có trách nhiệm tuần tra, bảo vệ bờ biển, chận bắt tàu bè của địch xâm nhập vùng biển của VNCH; Lực Lượng Biệt Hải có nhiệm vụ huấn luyện và đưa người nhái xâm nhập Miền Bắc với phương tiện của Hải Tuần
- Sở Tâm lý chiến: đóng tại Sài Gòn; với nhiệm vụ tổ chức và điều hành hai đài phát thanh Tiếng nói tự do và Gươm thiêng Ái quốc hướng về miền Bắc.
- Sở Không yểm: đóng tại Sài Gòn; có nhiệm vụ phối hợp các phi đoàn của Không Quân VNCH trong việc thả, rút, liên lạc và hướng dẫn các toán kiệt kích xâm nhập Miền Bắc và hậu phương địch.
- Trung Tâm huấn luyện Quyết Thắng: đóng tại Long Thành; có nhiệm vụ huấn luyện cho các toán biệt kích.

Các biệt kích VNCH trog thời gian huấn luyện, chuẩn bị đưa ra Miền Bắc
Sự thành lập Nha Kỹ thuật của BTTM với đầy đủ tất cả các đơn vị và phương tiện cần thiết cho việc xâm nhập miền Bắc, với sự yểm trợ tích cực của SOG về phía Hoa Kỳ, thật ra không cải thiện được hiệu quả của công tác này.
Ngay từ cuối năm 1963, vào ngày 20 tháng 11, một cuộc họp hết sức quan trọng đã diễn ra tại Honolulu, Hawaii, với các giới chức cao cấp nhất của chính phủ Mỹ, gồm Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara, Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk, Thứ Trưởng Ngoại Giao George Ball, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Kennedy McGeorge Bundy, Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (CINCPAC) Ðô Ðốc Harry D. Felt, Giám Ðốc CIA John McCone, Ðại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Henry Cabot Lodge và Tư Lệnh MACV Ðại Tướng Paul Harkins.
Cuộc họp có mục đích thảo luận về việc chuyển giao công tác xâm nhập người của VNCH ra miền Bắc từ CIA sang cho MACV-SOG. William Colby, cựu Trưởng Trạm CIA tại Sài Gòn, người từng chủ trương, cổ vũ, và đích thân thực hiện công tác này tại VNCH, lúc đó đã thăng cấp và đảm nhiệm chức vụ Trưởng phận bộ Viễn Ðông (Far Eastern Division Chief) của CIA, đã được Giám Ðốc CIA McCone chỉ định thuyết trình về công tác gửi người xâm nhập Miền Bắc.
Ông đã tỏ ra rất bi quan khi ông cho biết phần lớn các toán biệt kích gửi ra Miền Bắc đều “đã bị bắt hay đã bị giết chết.” Trong phần kết luận, ông nói trắng ra như sau: “It isn’t working, and it won’t work any better with the military in charge.” (tạm dịch: “Chuyện đó không làm được, và cũng sẽ không làm được gì khá hơn với đội quân nhận trách nhiệm”).

Ông Williams Colby, Cựu trạm trưởng CIA tại Sài Gòn.
Dĩ nhiên, lời cảnh báo này của Colby không được nghe theo và SOG cùng với các đơn vị của Nha Kỹ Thuật thuộc BTTM QLVNCH vẫn tiếp tục việc gửi các toán biệt kích xâm nhập ra Miền Bắc, với kết quả là “đem con bỏ chợ.” Tất cả biệt kích đều bị bắt và đưa vào các trại lao cải ở Miền Bắc trong hàng chục năm trời.
Gia đình của một số biệt kích quân được báo tin là họ đã tử trận, một số được lãnh tiền bồi thường tử tuất. CIA và quân đội Mỹ đã hoàn toàn bỏ rơi họ. Dân quân VNCH hoàn toàn không biết gì hết về số phận của những người lính biệt kích này. Mãi đến sau năm 1975, khi một số sĩ quan QLVNCH đi học tập cải tạo ở Miền Bắc được thả về, kể lại chuyện được gặp các biệt kích quân đó trong các trại cải tạo, dân chúng Miền Nam mới có những thông tin đầu tiên về số phận của các biệt kích quân này.
Chương trình gửi người xâm nhập Miền Bắc để thực hiện các công tác tình báo của VNCH, trong một thời gian khá dài, với những chi phí rất tốn kém, đã thất bại hoàn toàn. Có 2 lý do chính cho sự thất bại này: 1) VNCH không có được một hạ tầng cơ sở tạimMiền Bắc để hỗ trợ cho loại công tác này và 2) Hệ thống an ninh của miền Bắc quá chặt chẽ khiến cho các biệt kích rất dễ bị phát hiện, truy lùng và bắt giữ.
Bi kịch cho mọi toán biệt kích khi ra miền Bắc
Mọi toán biệt kích mà CIA và VNCH đưa ra miền Bắc đều bị bắt ngay sau khi vừa nhảy dù. Những nhóm này được miền Bắc giữ kín thân phận, coi như đã xâm nhập thành công và điện về tổng hành dinh các cuộc hành quân để “đón tiếp” những toán biệt kích tiếp theo.
CIA, thật ra, đã chuẩn bị từ trước. Họ đã tuyển người (tất cả đều là người gốc Miền Bắc), huấn luyện (tại căn cứ huấn luyện ở Long Thành, về sau trở thành Trung tâm huấn luyện Quyết Thắng) và chuẩn bị cho chuyến xuất phát đầu tiên vào ngày 27-5-1961. Toán biệt kích gồm 4 người này được đặt bí danh là CASTOR, với người chỉ huy là Trung sĩ Hà Văn Chấp, cùng 3 toán viên là Ðinh Văn, Quách Thưởng và Phạm Công Thương, được thả xuống vùng đồi 828, thuộc tỉnh Sơn La.
Người phi công lái chiếc máy bay C-47 chở toán CASTOR đó chính là Tướng Nguyễn Cao Kỳ (lúc đó ông còn mang lon Thiếu tá và là Chỉ huy trưởng Liên đoàn vận tải của Không quân VNCH).

Vũ khí, trang bị của một biệt kích VNCH khi nhảy dù xuống miền Bắc
Toán CASTOR không tồn tại được lâu, họ bị Công An vũ trang của miền Bắc phát hiện, bao vây và đã phải đầu hàng sau 3 ngày. Cũng như với vụ ARES, Bắc Việt cũng giữ kín vụ bắt được toán CASTOR. CIA hoàn toàn không nghi ngờ gì cả và tiếp tục gửi toán thứ nhì gồm 3 người với bí danh là ECHO vào ngày 2-6-1961.
Còn tệ hơn toán CASTOR, cả toán ECHO 3 người này đều bị bắt vào ngay hôm sau. CIA không biết là toán ECHO đã bị địch bắt và 12 ngày sau lại gửi toán thứ ba, bí danh DIDO, gồm 4 người thuộc sắc dân thiểu số Thái Ðen, vào Lai Châu. Lần này, phi công của chiếc máy may C-47 vẫn là Thiếu Tá Nguyễn Cao Kỳ.
Toán DIDO cũng không may mắn hơn toán ECHO. Họ bị bắt hết tại biên giới Việt-Lào vào khoảng 10 ngày sau. Khoảng hơn một tháng sau ngày toán CASTOR nhảy xuống Sơn La, ngày 29-6-1961, đài tiếp vận BUGS của CIA ở Philippines nhận được điện của CASTOR. Không biết CASTOR đã bị bắt và hàng địch, CIA rất vui mừng và thông báo cho CASTOR biết 4 ngày sau sẽ gửi đồ tiếp tế cho CASTOR.

Máy bay C-47, chuyên chở biệt kích VNCH nhảy dù xuống miền Bắc
Theo kế hoạch, chuyến bay này sẽ lại do Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ điều khiển nhưng vào giờ chót đã có sự thay đổi và phi công là Trung úy Phan Thanh Vân. Chiếc C-47 này đã bị đơn vị phòng không của Bắc Việt bắn hạ khi bay ngang không phận của Hòn Né, gần bờ biển của tỉnh Ninh Bình, và rớt trong một khu đồn điền cách bờ biển khoảng 20 km. Tất cả phi hành đoàn đều bị thương, sau đó có 4 người chết vì vết thương quá nặng, 3 người còn sống bị đưa ra tòa xét xử vào tháng 11-1961.
Ðể tiếp tục đánh lừa CIA và cơ quan tình báo của VNCH về CASTOR, miền Bắc đã dàn cảnh cho 3 người này khai trước tòa là phi vụ của họ là để tiếp tế cho 1 toán biệt kích trong vùng tỉnh Hòa Bình (chứ không phải cho toán CASTOR ở Sơn La). Phòng 45 của Trung tá Lê Quang Tung và CIA tin là toán CASTOR chưa bị lộ thân phận, chương trình cài biệt kích này đã thành công nên lại tiếp tục gửi các toán biệt kích ra Bắc.
Toán biệt kích kế tiếp mang bí danh là EUROPA và gồm 5 người gốc Mường. Lần này, phi cơ được sử dụng là loại C-54, phi công vẫn là ông Kỳ, lúc này đã thăng lên cấp Trung tá. Chiếc C-54 bay thẳng từ Sài Gòn (không cần phải ghé để được tiếp nhiên liệu như chiếc C-47 của các lần trước) ra Bắc và thả toán EUROPA xuống vùng Hòa Bình.

Sau C-47, máy bay C-54 cũng được dùng để đưa biệt kích ra miền Bắc.
Ngày hôm sau cả toán EUROPA 5 người Mường này đều bị bắt. Lại dùng phương thức cũ, tình báo miền Bắc lại để cho người của toán EUROPA gửi điện về. CIA và Phòng 45 lại tin là thêm một phi vụ thành công nữa.
Việc đưa biệt kích ra Bắc lại được CIA tiếp tục với các toán ATLAS (tháng 3-1962), REMUS (tháng 4-1962), TOURBILLON (tháng 5-1962), và EROS (tháng 6-1962), và cũng như các toán trước, các toán này đều bị Công an vũ trang của miền Bắc phát hiện, truy lùng và bắt giữ hết.
Kể từ mùa Hè năm 1962, Chính phủ Hoa Kỳ giao lại công tác thực thi NSAM 55, 56 và 57 cho Bộ Quốc phòng, và CIA chỉ còn giữ vai trò yểm trợ. Phái bộ quân sự Mỹ tại VN, MACV (thành lập ngày 8-2-1962 thay thế cho MAAG = Military Assistance Advisory Group) cho thành lập đơn vị SOG (lúc đầu mang tên là Special Operations Group, sau đổi tên lại là Studies and Observations Group).
Thành viên của SOG hoàn toàn là người tình nguyện, phần lớn thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt của quân đội Mỹ. Trong thời gian 1962-1963, VNCH trải qua nhiều xáo trộn chính trị nghiêm trọng. Vì những xáo trộn chính trị này của VNCH, nên mãi đến tháng 4-1964, SOG mới triển khai hoạt động với các đơn vị của cơ quan tình báo mới của QLVNCH là Nha Kỹ thuật thuộc Bộ Tổng tham mưu.
Việt Nam Cộng hòa đưa biệt kích xâm nhập miền Bắc
Trong thập niên 1960, VNCH, với sự yểm trợ tích cực về tài chính và kỹ thuật của CIA đã gửi nhiều điệp viên và các toán biệt kích ra Miền Bắc với mục đích thực hiện một số công tác về thu thập tin tức, tuyển mộ điệp viên, và phá hoại.
Theo đánh giá của chính người Mỹ và Việt Nam Cộng hòa (VNCH), các bên tham chiến trong Chiến tranh Việt Nam, bao gồm cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đều sử dụng tình báo đến “mức độ tinh vi”. Nhà nghiên cứu Lâm Vĩnh Thế, một người có điều kiện tiếp xúc nhiều nguồn tài liệu từ chế độ Sài Gòn và đồng minh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam trước đây đã có một nghiên cứu tổng hợp về vấn đề này, trong đó có nêu chi tiết về những chiến dịch tình báo thất bại mà Mỹ và VNCH đã thực hiện tại miền Bắc và chiến trường miền Nam Việt Nam. Tạp chí Khám phá trân trọng trích đăng, gửi tới bạn đọc góc nhìn khá thú vị về Tình báo trong chiến tranh Việt Nam. Qua đó, chúng ta có thể hình dung ra tầm vóc cuộc chiến và những chiến công mà Tình báo Quốc phòng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đạt được trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của toàn Đảng, toàn dân ta.
Trong thời gian 300 ngày chuyển tiếp của việc thi hành Hiệp Ðịnh Genève 1954, một tổ CIA, dưới sự chỉ huy của Ðại Tá Edward Lansdale, đã tuyển mộ (từ các đảng viên của 2 chính đảng có chủ trương chống Cộng là Ðại Việt và Quốc Dân Ðảng), huấn luyện và gài đặt lại một số tổ tình báo ở miền Bắc.
Kế hoạch “trường kỳ mai phục” này của CIA tương đối thành công vì lúc đó Miền Bắc chưa kiện toàn bộ máy an ninh của họ. Các tổ tình báo này hoạt động được hơn một thập niên nhưng sau cùng cũng bị lộ, bị bắt giam, và đưa ra tòa xét xử.
Vụ án xét xử 10 gián điệp (tất cả đều là đảng viên Quốc Dân Ðảng, với 2 bản án tử hình) tại tòa án Hải Phòng vào tháng 4-1965 đã làm chấn động miền Bắc, như chúng ta thấy trong hình sau
Trong thập niên 1960, VNCH, với sự yểm trợ tích cực về tài chính và kỹ thuật của CIA, đã gửi nhiều điệp viên và các toán biệt kích ra Miền Bắc với mục đích thực hiện một số công tác về thu thập tin tức, tuyển mộ điệp viên, và phá hoại.
Cơ quan của VNCH hợp tác với CIA trong kế hoạch này là một đơn vị tình báo lúc đầu trực thuộc Phủ Tổng thống dưới quyền chỉ huy của Trung tá Lê Quang Tung (sau thăng lên cấp Ðại tá, Chỉ Huy trưởng Lực lượng đặc biệt), với tên gọi thay đổi nhiều lần: Phòng Liên Lạc Phủ Tổng Thống, Phòng 45, Sở Bắc, Sở Khai Thác Ðịa Hình.

Lê Quang Tung, Trung tá QLVNCH, chỉ huy trưởng lực lượng đặc biệt của cơ quan tình báo với cái tên Sở Khai thác địa hình.
Sau cuộc đảo chính ngày 1-11-1963, Sở Khai thác địa hình bị giải tán, và ngày 12-2-1965, Nha Kỹ thuật được thành lập để đảm nhận công tác tình báo này và được đặt trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu QLVNCH.
Lúc đầu, kế hoạch này chỉ gửi từng điệp viên đơn độc ra nằm vùng tại miền Bắc (trong ngữ vựng của CIA gọi là các “singletons”). Ðiệp viên đầu tiên được gửi ra Miền Bắc trong kế hoạch này là Phạm Chuyên, một cựu Đảng viên Cộng sản của tỉnh bộ Quảng Ninh, đã từ bỏ Đảng và di cư vào Nam. Chuyên được huấn luyện rất kỹ trong hơn 1 năm và sau đó được bí mật đưa ra ém ở Cẩm Phả, trong vùng Vịnh Hạ Long, vào tháng 4-1961, với bí danh là ARES. Nhưng chỉ được hơn 2 tháng thì ARES đã bị bắt.
ARES đầu hàng, trở thành công cụ của Miền Bắc, và gửi nhiều điện văn về để lừa CIA. Lúc đó CIA vẫn chưa biết sự thật về ARES, vẫn tiếp tục chương trình ”singletons” này. Kết quả là, cũng giống như ARES, các “singletons” kế tiếp, với các bí danh HIRONDELLE, HERO, TRITON, ATHENA, đều “biến mất” hết một cách bí mật.
Sang năm 1962, tuy vẫn chưa nghi ngờ ARES, CIA đã bắt đầu không còn tin tưởng vào hiệu quả của chương trình “singletons” nữa và bắt đầu chuyển sang chương trình cho các toán biệt kích, từ 3 đến 8 người, nhảy dù xuống Miền Bắc.

Một toán biệt kích bị bắt ngay khi vừa nhảy dù xuống miền Bắc.
Riêng về “singleton” ARES thì từ 1966, CIA đã bắt đầu nghi ngờ và khi họ bố trí cho ARES “trở ra” (exfiltrate) thì ARES không làm theo chỉ thị; lúc đó CIA mới biết chắc ARES đã trở thành công cụ của tình báo Bắc Việt và chấm dứt liên hệ với ARES. Tuy nhiên, tình báo Bắc Việt vẫn tiếp tục sử dụng ARES và ARES vẫn tiếp tục gửi điện về cho mãi đến tận năm 1968.
Chương trình đưa biệt kích ra miền Bắc chính thức bắt đầu bằng NSAM 28 (NSAM = National Security Action Memorandum No. 28,) ngày 9-3-1961, theo đó Tổng thống John F. Kennedy (1961-1963) ra chỉ thị cho CIA phát động chiến tranh du kích tại Miền Bắc.

Nhóm biệt kích VNCH được chuyên gia Mỹ huấn luyện trước khi tung ra miền Bắc.
Tháng 4-1961, vụ đổ bộ tại Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) ở Cuba do CIA tổ chức bị thất bại nặng nề, Tổng thống Kennedy mất tin tưởng vào khả năng tổ chức những công tác bán quân sự bí mật của CIA. Cuối tháng 6-1961, một loạt NSAM ra đời (NSAM 55, 56 và 57, cùng ngày 28-6-1961) nhằm chuyển giao loại công tác đó qua cho Bộ Quốc Phòng, trong khi CIA chỉ đóng vai trò yểm trợ mà thôi.
TIN TỨC NỔI BẬT
Thứ Hai, 26 tháng 4, 2021
TIẾN VÀO DINH ĐỘC LẬP
https://www.youtube.com/watch?v=bPyy6rmmzwg TIẾN VÀO DINH ĐỌC LẬP
Chân dung Phạm Xuân Ẩn - Kỳ 1: 30 năm vẫn còn là bí mật
TTO - Peter Ross Range - “burô”, sếp của ông thời kỳ ở Việt Nam khi ông làm cho tờ Time đã nghĩ ra hẳn tên một cuốn sách để khuyến khích ông viết lại cuộc đời mình. Nếu không có câu chuyện của anh, một mảnh quan trọng của lịch sử sẽ bị thiếu - Peter viết - Không ai có một câu chuyện như anh để kể lại: làm việc trong một cơ quan báo chí Mỹ trong khi cung cấp tin tức cho miền Bắc. Không ai có một cuộc đời như đời anh, tham gia Việt Minh ở một lứa tuổi rất trẻ - Một câu chuyện lý thú biết bao!
Phạm Xuân Ẩn - Ông là ai?
Thiếu tướng tình báo, Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân Phạm Xuân Ẩn.sinh ngày 12-9-1927 tại Biên Hòa và mất ngày 20-9-2006 tại TP.Hồ Chí Minh, hưởng thọ 80 tuổi.
Những ngày này, trên các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, một số hãng thông tấn nước ngoài đều đưa tin nhà tình báo vĩ đại, tầm cỡ thế giới, nhà báo chuyên nghiệp đã ra đi.
Những nhân vật nổi tiếng thường chinh phục người khác bằng tài năng của chiến công, nghị lực và sức tỏa sáng từ phẩm chất của họ. Nhưng với Phạm Xuân Ẩn, hình như là một ngoại lệ. Trông bề ngoài ông cũng như bao người bình thường khác, thật khó phát hiện điều gì ẩn chứa bên trong.
Năm 2002, sau gần 10 năm tiếp cận ông Ẩn, nhà báo, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hải đã hoàn thành cuốn sách về ông với tựa đề Phạm Xuân Ẩn - Tên người như cuộc đời. Tác giả đã đi vào chiều sâu tinh tế rất khó lột tả về tư chất, phong thái, nghề nghiệp ở ông.
Vẻ thầm lặng đôi lúc hài hước của ông có cái gì đó rất đặc biệt. Cuốn sách đã phác họa chân dung với đầy đủ ý nghĩa cao quý của con người như lúc sinh thời ông Ẩn thường tâm niệm: Tôi chiến đấu cho độc lập và công lý xã hội.
Trong sách có đoạn viết: “Vị tướng đã yếu do bệnh và tuổi cao. Dáng đi của ông hơi còng xuống, do cao gầy, hay là do thân thể ấy đã mang vác một cuộc đời quá phong phú và gian truân. Chỉ vẻ mặt, đôi mắt to đen, thông minh và đôi tai to, người trong nghề nhạc gọi là đôi tai thẩm âm tốt, làm toát lên vẻ linh hoạt trẻ trung của một trí tuệ vẫn mạnh mẽ”.
Cùng chung một cảm nhận với nhà báo, nhà văn Ngọc Hải, năm 2005, Jean-Claude Pomonti, nhà báo Pháp kỳ cựu của nhật báo Le Monde, người nhiều năm quen biết, tác nghiệp cùng ông Ẩn đã viết cuốn sách về ông với tựa đề: Người Việt thầm lặng (Nhà xuất bản Editions des Equateurs) đánh giá rất cao phẩm chất làm báo của ông Ẩn. Hơn thế, từ vỏ bọc một nhà báo chuyên nghiệp ở văn phòng tạp chí Time, ông Ẩn đã làm nên sự bất ngờ, bởi chiến công của nhà tình báo chiến lược trong cuộc chiến tranh Việt Nam. “Phạm Xuân Ẩn, người Việt Nam mà phía Mỹ ưa chuộng nhất đã lừa chính quyền Hoa Kỳ từ đầu đến cuối”.
Với trên 200 trang sách, Phạm Xuân Ẩn - Tên người như cuộc đời, một cuốn truyện ký văn học của Nguyễn Thị Ngọc Hải lần đầu tiên đã giới thiệu con người này với công chúng. Sau đó có các nhà văn, nhà báo trong và ngoài nước đã và sẽ viết về ông. Nhưng với tác phẩm này, đã gây được dấu ấn đối với bạn đọc, đặc biệt trong giới chính trị, quân sự, tình báo và với những người viết văn. Cuốn sách đã đoạt giải thưởng loại A của “Giải thưởng văn học về đề tài Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống 1995-2005” do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức.
Rất nhiều bạn đọc đã đề nghị chúng tôi cung cấp thêm thông tin về con người vĩ đại mà bí ẩn này. Được sự cho phép của tác giả, chúng tôi xin giới thiệu lần lượt từng chương sách. Hy vọng với bút lực của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hải, bạn đọc sẽ được gặp gỡ Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn trong cuộc đời, như một con người bằng xướng bằng thịt.
.......................................
![]() |
Peter thuyết phục một cách đầy hứng khởi. Ông ta còn đề nghị cái tựa cho quyển sách ấy: A man of honor: The life of Pham Xuan An.
Bây giờ Peter đi dạy học và viết sách: Khi Miền Nam giải phóng, ông ta về nước, dẫn theo cô bồ người Việt. Trong khoảng thời gian dài sau này hình như họ đã ly dị. Thì Phạm Xuân Ẩn, năm nay cũng đã ngoài 70, vẫn tính hài hước đặc sắc: “Thành họ nhà ma rồi còn gì” - Thời gian đang trôi nhanh. Nói như triết, thì chẳng có gì mất đi hết, mặc dù chẳng có cái gì tồn tại mãi. “Chuyển từ dạng này sang dạng khác”. Các yếu tố tinh thần có như vậy không? Nó có chuyển các đặc điểm của mình vào các thế hệ sau? Hay là nó mang đi theo các người già nằm xuống? Có người không chịu viết hồi ký, vì dù có khách quan đến mấy thì cũng viết về mình - Mà con người ta thường nhớ kỹ những điều hay, quên đi điều dở… Nhưng cuộc đời của vô số trong số họ, đã là tài sản tinh thần, là những số phận cụ thể không có viện bảo tàng nào giữ được, nếu họ không ghi lại… Rồi đến con cái cũng chẳng hiểu ngày xưa bố mẹ mình làm gì. Đó là những lý thuyết đối chọi nhau trong việc viết hồi ký.
Với Phạm Xuân Ẩn, lý do cũng mang đậm màu sắc khó tả: Ông không viết hồi ký, từ chối tất cả các cuộc gặp gỡ báo chí để viết về ông. Tuy nhiên ông sẵn sàng gặp với tư cách đồng nghiệp hay tình bạn. Vừa mang đặc điểm thận trọng của nghề tình báo, vừa là ý thích của một “ông già” tự thấy cần một cuộc sống thanh thản. Luôn tự trào, nhìn mọi việc bằng cái nhìn hài hước: “Chẳng có ông già nào không bảo thủ hết. Thay đổi là khó chịu. Dọn nhà là khổ. Tụi trẻ đang lên, anh này lấy cô kia, chẳng sợ thay đổi. Nó chưa trải. Hồi nhỏ mình bạt mạng, nay thấy con cái bạt mạng lại không cho. Thì mày trả giá bằng cuộc đời mày. Học bài người khác trả tiền hơn là học bài mình trả…”
Ông đã trải đời mình cùng với lịch sử kháng chiến của Việt Nam, là quân nhân trong ba quân đội khác nhau. Tham gia Vệ quốc đoàn khi 18 tuổi, bị trả về vì thiếu súng đạn, vũ khí lúc đó dành cho thành phần cơ bản. Ông hòa vào phong trào học sinh sinh viên Trần Văn Ơn tại Sài Gòn năm 1950.
Trở thành lính trong quân đội Pháp, không phải lính bộ binh, mà là bí thư cho trưởng phòng lo về chính trị trong quân đội. Khi hòa bình lập lại ở Đông Dương sau hội nghị Genève, Mỹ can thiệp dựng Ngô Đình Diệm với chủ trương phá hoại Hiệp định, không chịu tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam sau hai năm như đã ký kết. Mỹ đổ tiền của vào Việt Nam để giúp họ Ngô đứng vững. Ba cơ quan như cái trụ ba chân được thành lập: Phòng thông tin Mỹ (USIS), Quân sự (MAAG) và kinh tế hành chính (USOM). Đến năm 1962 USIS đổi tên là JUSPAO và MAAG lấy tên là MACV, USOM lấy tên là USAID. Ông Ẩn do có tiếng Anh và thạo nghề, nên lại trở thành nhân viên dịch thuật tại Bộ Tổng tham mưu, tham dự vào việc thành lập những sư đoàn đầu tiên do Mỹ tuyển chọn và đào tạo.
Năm 1957 ông là sinh viên Việt Nam đầu tiên đến học về báo chí ở quận Cam và sống ở California trong hai năm. Ngày nay trong cuốn niên giám của trường Đại học Columbia của Mỹ, ở trang 2 in hình và giới thiệu về chàng sinh viên Việt Nam với tên Pham An, như mọi cuốn kỷ yếu của các trường học. Nhưng không ai biết được ngoài việc học thực sự kiến thức, chàng sinh viên ấy đã trở thành Đảng viên Cộng sản từ năm 1953, được chính bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tuyển vào Chiến khu D từ 1952.
Sang Mỹ học, Ẩn còn có nhiệm vụ tìm hiểu về văn hóa Mỹ vì Đảng đã nhìn thấy sự dính líu sâu sắc của Mỹ đối với Việt Nam. Muốn chiến thắng kẻ thù này, việc đào tạo những người có điều kiện như Ẩn, “chuyển qua làm với Mỹ, phải được đào tạo trình độ phù hợp với yêu cầu của Mỹ”. Sau khi học ở Mỹ về, Phạm Xuân Ẩn hành nghề báo chí, từ Việt Tấn xã dưới thời Ngô Đình Diệm, cho tới làm phóng viên cho các hãng nước ngoài tại Việt Nam như Reuters, Time… Ông là người Việt Nam duy nhất vào biên chế của hãng nước ngoài với lương rất cao thời đó, 750 đô la một tháng. Phạm Xuân Ẩn hành nghề báo chí và trở thành ký giả thực sự có tên tuổi. Chỉ có điều khác lạ là ông còn trở thành một vị Thiếu tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Vì sao sau khi đất nước giải phóng, cả nước và thế giới biết rõ ông là tình báo, vậy mà người Mỹ trong giới báo chí hoạt động cùng thời với ông nay trở lại Việt Nam vẫn đem lòng tin tưởng và kính trọng ông? Đó là một nhân cách, một tài năng. Đời ông là một câu trả lời lớn cho nhiều câu hỏi vẫn làm đau đầu nhiều người bạn Mỹ của ông. Đến hôm nay họ quay lại đất nước này vẫn tìm ông để mong có câu giải đáp vì sao Mỹ thất bại ở Việt Nam. Vì sao một trí thức giỏi và sống có nhân cách theo “kiểu Mỹ” như ông Ẩn lại có thể là người đứng trong tổ chức chặt chẽ của Quân đội Nhân dân Việt Nam, của ngành tình báo vốn đầy hiểm nguy? Có những người Mỹ là bạn cũ trong giới báo chí của ông, nay đã mất nhưng dặn lại con cái họ sang Việt Nam hãy tìm đến ông Ẩn. Họ nói sẽ học được nhiều ở con người đó. Quả thật, cuốn sách viết về ông nên có tên là “Người có cuộc đời bí ẩn như cái tên” - chứ không cần đến cái tựa đề của Peter Ross Range đề nghị.
Bởi vì, cuộc đời ông không được ông viết ra bao giờ. Năm 1989, 14 năm sau ngày miền Nam giải phóng, Morley Safer chủ biên Chương trình 60 phút nổi tiếng của đài truyền hình CBS đã trở lại Sài Gòn, gặp ông Phạm Xuân Ẩn như người bạn làm báo cũ trong thời kỳ chiến tranh. Cuộc gặp gỡ này đã được viết thành hẳn một chương trong cuốn sách Hồi tưởng: Khi trở lại thăm Việt Nam của Morley Safer do Nhà xuất bản Random House xuất bản năm 1989.
Hãy xem dưới mắt nhà báo phương Tây, ông Ẩn đã hiện ra như thế nào:
“Phạm Xuân Ẩn đang đứng nơi cổng sắt đã mở sẵn với một cặp chó Đức kèm sát bên. Ẩn và những con chó thân yêu của anh ta. Anh ta thường dắt chó đi khắp nơi, hay uống café buổi sáng ở khách sạn Continental với con chó Đức thò cái mõm đen ra khỏi gầm bàn. Anh ta tiến về phía tôi, mở rộng vòng tay choàng ôm hôn, một cung cách ít thấy ở người Việt”.
Có lẽ Morley Safer đang sống lại những cảm xúc của một thời đã xa, khi họ còn làm báo ở Sài Gòn và Continental là nơi họ tụ họp mỗi buổi sáng vừa điểm tâm vừa trao đổi tin tức. Với Morley, lúc đó Ẩn là nhà báo thực thụ của tuần báo Time, người rất nhạy bén về các vấn đề thời cuộc, cả chính trị lẫn quân sự. Anh có nhiều mối quen biết quan trọng.
Lại lời Morley Safer: “Ở tòa báo Time anh được coi là người khôn khéo. Ẩn luôn luôn được giao nhiệm vụ thuyết trình cho nhóm phóng viên mới tới. Và cũng chính anh ta là người gỡ mối cho những vấn đề chính trị rối mù của chính giới Việt Nam lúc đó. Anh là người cởi mở, dấn thân và có óc hài hước, luôn được niềm nở tiếp đón trong các giới quân sự và ngoại giao Việt - Mỹ và cũng là một trong số rất ít ký giả Việt được cho phép tham dự các buổi thuyết trình hạn chế của phái bộ Mỹ”.
Khi Morley đến gặp Phạm Xuân Ẩn muốn có người cùng đi là Patti Hassler - nhà sản xuất Chương trình 60 phút vì Morley không muốn ghi chép như mọi lần hành nghề khác. Ông muốn có một nhân chứng cho cuộc gặp này, để mọi chi tiết đều được ghi nhớ. Morley đã bộc bạch cái cảm giác của người bình thường vẫn có khi bị làm nhân vật cho người khác phỏng vấn. Đấy là cảm giác rất thật mà dân nhà nghề đã quan sát được ở các nhân vật của mình. Thật chẳng an tâm chút nào khi đang nói mà có người ghi chép, hoặc dễ sợ hơn nữa là có người dùng máy ghi âm. Và Morley đã gặp ông Ẩn trong tư thế những bạn bè cũ cùng nghề, trao đổi về thời cuộc.
“Ẩn rất ít thay đổi” - Morley viết - “Nay đã 61 nhưng trông anh vẫn ở cái tuổi cách đây 30 năm. Có thể nói dáng anh vốn lòng khòng nay thêm gầy đi và khô đét…”
Morley nói ông Ẩn còn là một bí mật. Thật ra điều đó chỉ đúng với cảm giác của Morley, còn với người Việt Nam thì ông nếu có là một bí mật thì chỉ là vì ông ít bộc bạch cuộc đời mình. Người Việt Nam đều biết ông là Anh hùng tình báo, một Thiếu tướng được kính trọng. Không ai còn hỏi như Morley hỏi hôm đó: “Anh đang còn là một bí mật. Dân chúng vẫn chưa biết chắc là anh hoạt động cho phe nào. Vậy sự thật ra sao?”
“Ẩn cười lớn: Sự thật? Sự thật nào mới được chứ? Có một sự thật là trong 10 năm tôi là phóng viên cho tòa soạn tuần báo Time và trước đó làm cho hãng Reuters. Một sự thật khác nữa là tôi gia nhập phong trào cách mạng từ năm 1944 và là thành viên của họ từ đó với các chức vụ khác nhau. Hai sự thật, hai sự thật… đều thật”.
Trong cái nhìn của Morley, ông Ẩn là một sự bí ẩn, cũng khó giải thích và có những vấn đề chưa thể hiểu hết như chính cuộc chiến ở Việt Nam mà Mỹ thất bại. Vậy là đối với các ký giả Mỹ như thế này, nhiệm vụ của họ là “hai trong một”. Hiểu được những con người như Phạm Xuân Ẩn cũng có thể tiến gần tới việc hiểu vì sao Mỹ thua cuộc. Và nếu nghề nghiệp thúc đẩy họ với bản chất nghề báo “A nose for news” thì họ còn muốn biết hơn thế: Nhìn nhận con đường phát triển hiện tại của nước Việt Nam thông qua một con người đáng tin cậy. Ý muốn đó thôi thúc Morley do phẩm chất cá nhân, và cũng do sự khách quan của một ký giả lỗi lạc. Theo Morley, trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, chính ông Ẩn là người đã thuyết phục giới chức Mỹ đem đi di tản một số bạn hữu của mình rời khỏi Việt Nam. Ông Ẩn cũng thu xếp để vợ và 4 con lên máy bay, còn mình thì ở lại.
Nhà báo Morley sau gần 15 năm Sài Gòn được giải phóng, vẫn không hiểu làm thế nào ông Ẩn có thể giữ được bí mật tung tích riêng trong suốt thời gian đó. Ông Ẩn đã bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng ra sao? Ông phải làm nhiệm vụ gì trong suốt thời gian làm báo, và ông có “làm gì” trong báo Time không? Ông có cách nào chuyển tin tức đi? Ông có sợ mình bị phát hiện không? Điều gì xảy ra sau cái hôm mọi người di tản? Tại sao cuộc cách mạng lại còn nhiều điều chưa thành công trong cải cách? Người ta có rình rập ông không? Ông có được quyền ra đi không? Ông có bao giờ hối tiếc về những điều đã làm và bây giờ ông đã thấy kết quả?...
Chỉ xem qua những câu Morley hỏi cũng đủ biết người Mỹ còn vất vả, thậm chí có những điều họ sẽ không sao hiểu hết trong mọi câu trả lời của Phạm Xuân Ẩn. Dĩ nhiên, ông không trả lời theo công thức hoặc ít ra cũng là để “giữ mình” một cách cần thiết. “Tại sao cuộc cách mạng gặp những thất bại?” Morley hỏi về những suy thoái và khó khăn trong cải cách hiện nay. Ông Ẩn không “sửa gáy” người hỏi để giữ cho mình “có lập trường”. Ông đã nói thẳng thắn như xưa nay phân tích thực chất các hiện tượng một cách khách quan. “Có nhiều lý do. Có quá nhiều lỗi lầm chỉ vì sự dốt. Như mọi cuộc cách mạng, chúng tôi gọi đây là cuộc cách mạng nhân dân, nhưng dĩ nhiên chính nhân dân là thành phần đầu tiên chịu khốn khổ”.
Ông cũng không ngại ngần nhận định: “Khi nào mà dân chúng còn ngủ đầu đường xó chợ thì khi đó cuộc cách mạng còn thất bại. Không phải do giới lãnh đạo là những người tàn nhẫn, nhưng đó là hậu quả của chính sách cha chú của nhân dân cũng như các lý thuyết lỗi thời về kinh tế”. Morley nhận thấy còn nhiều người nằm vỉa hè khi ông tản bộ trên đường phố Sài Gòn vào ban đêm. “Khi tôi đề cập điều này thì Ẩn có vẻ bối rối như là chính anh đã tiếp tay cho tấn thảm kịch. Tôi nghĩ, theo một nghĩa nào đó anh ta đã có sự liêm khiết để biết hổ thẹn”.
Khi nghe ông Ẩn nhận xét về “những thất bại của cách mạng”, nhà báo Mỹ không khỏi bật ra câu hỏi: “Anh không ngại phải nói thẳng ra như vậy sao? Có nguy hiểm không?”
Ông Ẩn đã nói rằng mọi người đều biết ông nghĩ gì, vì ông không giấu giếm những suy nghĩ trung thực của mình. Không phải bây giờ, mà là từ ngày xưa, từ bản chất. Ông nhắc lại cho Morley nhớ cái thời họ cùng làm báo ở Sài Gòn trước 1975: “Thời Thiệu, chính quyền ấy biết rõ là tôi nghĩ gì về bọn trộm cắp ấy. Tôi đã quá già để có thể thay đổi”. Ẩn cười lớn: “Tôi cũng quá già để mà câm miệng lại”.
Trả lời cho câu hỏi: “Trong những năm hoạt động đó anh có sợ mình sẽ bị phát hiện không?” Ông Ẩn bộc bạch không lên gân giả dối: ông nói mình sợ thường xuyên. Bởi luôn có nguy hiểm. “Anh đã biết vào khoảng những năm 60 có tin đồn tôi làm việc cho CIA. Tôi muốn duy trì những tin đồn như vậy vì nghĩ rằng điều ấy sẽ che chở tôi phần nào. Nhưng dĩ nhiên về sau điều này trở thành một đe dọa. Tôi hoạt động trong phạm vi an ninh rất chặt chẽ, rất ít người biết được hoạt động của tôi. Vào khoảng những năm 70 khi chính quyền Sài Gòn ngày càng tồi tệ, tôi sợ rằng kkhi tình hình suy sụp, tôi sẽ chẳng có thì giờ đâu để giải thích với mấy cậu lính giải phóng trẻ với cây AK.47 trên tay rằng tôi là đại tá trong quân đội của họ. Tôi thường nói với mọi người: Có lẽ tụi nhỏ đó sẽ giết tôi đồng thời nướng sống mấy con chó của tôi nữa”.
Những mối lo rất thực tế ấy càng chứng tỏ thêm nhiều hoàn cảnh phức tạp mà nghề tình báo luôn gặp phải. Vậy mà Morley cho rằng những giải thích của ông Ẩn không làm sáng sủa gì hơn mà lại càng khiến ông thêm bí ẩn. “Anh có hối tiếc gì về điều đã làm không? Và bây giờ anh đã thấy kết quả?” Câu hỏi này được đặt ra sau khi Morley đã hỏi ông Ẩn về những ngày đầu sau giải phóng “Ẩn ở trong trại… không phải trại cải tạo nhưng là một trại đặc biệt gần Hà Nội dành cho các “đồng chí” có thể đã bị nhiễm độc vì quá gần gũi với người Mỹ”.
Ông có phút giây nào hối tiếc không? “Tôi ghét câu hỏi đó, tôi đã tự hỏi tôi câu hỏi ấy hàng ngàn lần. Nhưng tôi lại càng ghét câu trả lời hơn nữa. Không, không hối tiếc. Tôi phải làm như vậy. Hòa bình mà chúng tôi giành được có thể phải trả giá bằng sự khốn khổ của xứ sở này nhưng chiến tranh cũng đã giết chết bao nhiêu sinh linh. Cho dù tôi yêu nước Mỹ đến như thế nào, Mỹ không thể có quyền gì ở đây. Bằng cách này hay cách khác người Mỹ cũng bị đẩy ra khỏi Việt Nam. Chúng tôi phải tự chọn cách xây dựng xứ sở mình”. Đó là những câu kết trong một chương sách của Morley.
(còn tiếp)...nguyễn thị ngọc hải
