Chiến
tranh biên giới Việt - Trung, 1979 (còn gọi là Chiến tranh biên giới
phía Bắc, 1979 hay Công cuộc phòng thủ biên giới phía Bắc, 1979) là tên
gọi cuộc chiến tranh của Trung Quốc nhằm đánh chiếm 6 tỉnh biên giới của
Việt Nam vào năm 1979 (còn có tên gọi khác là Chiến tranh bành trướng
Bắc Kinh,1979) Nguyên nhân
Nhận thấy
Việt Nam đưa quân vào Campuchia lật đổ chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ
do Trung Quốc bảo trợ trong cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Campuchia,
Trung Quốc quyết định tấn công xâm lược Việt Nam với lý do "dạy cho
Việt Nam một bài học" (lời Đặng Tiểu Bình) nhưng mục đích chính là phân
chia lực lượng quân đội của Việt Nam để giúp chính quyền diệt chủng
Khmer Đỏ. Đồng thời, Trung Quốc muốn thử nghiệm chiến thuật quân sự
phòng thủ chủ động, đưa cuộc phòng thủ biên giới vào sâu lãnh thổ đối
phương.
Ngoài ra, theo một
số nhà nghiên cứu quân sự Tây phương, về mặt chiến lược, Trung Quốc thử
nghiệm một cuộc chiến tranh biên giới có giới hạn để thăm dò khả năng
tương trợ của Liên xô, sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh
tế SEV, và ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô (1978), trong đó
có điều khoản về tương trợ quân sự . Nếu thảo ước này được tuân thủ
nghiêm ngặt, theo nhận định của Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc, nó sẽ là hiểm họa quốc phòng lớn vì đặt Trung Quốc vào tình thế
lưỡng đầu thọ địch khi xảy ra chiến tranh với Việt Nam hoặc Liên Xô.
Kế hoạch của Trung Quốc
Kế hoạch của Trung Quốc gồm ba giai đoạn.
Giai
đoạn đầu (từ 17 đến 25-2): phá vỡ hàng phòng thủ đầu tiên của Việt Nam
và chiếm Cao Bằng, Lào Cai, cùng hai thị trấn Cam Đường và Đồng Đăng,
cửa ngõ dẫn vào Lạng Sơn.
Giai đoạn hai (từ 26-2 đến 5-3): tấn công Lạng Sơn và khu vực bao quanh ở phía đông, Sa Pa và Phong Thổ ở phía tây bắc.
Giai đoạn cuối: bình định và phá hủy các căn cứ quân sự ở khu vực biên giới với Trung Quốc trước khi rút về vào ngày 16-3.
Tương quan lực lượng tham chiến
Để tiến công Việt
Nam, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh
độc lập (tổng cộng trên 30 sư đoàn), 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn và
nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không. Lực lượng được huy động trên
400.000 binh sĩ, 550 xe tăng, 3.000 khẩu pháo, cối và dàn hỏa tiễn, chưa
kể hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay sẵn sàng phía
sau. Tướng Hứa Thế Hữu, tư lệnh Đại Quân khu Quảng Châu chỉ huy hướng
tiến công vào đông bắc Việt Nam với trọng điểm là Lạng Sơn và Cao Bằng.
Tướng Dương Đắc Chí, tư lệnh Đại Quân khu Côn Minh đảm nhiệm hướng tây
bắc với trọng điểm là Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai). Đây là đợt huy
động quân sự lớn nhất của Trung Quốc kể từ chiến tranh Triều Tiên.
Về
phía Việt Nam, do phần lớn các quân đoàn chính quy (3 trong số 4 quân
đoàn) đang chiến đấu ở Campuchia nên phòng thủ ở biên giới với Trung
Quốc chỉ có một số sư đoàn chủ lực quân khu (chủ yếu là tân binh) của
Quân khu I và II cùng các lực lượng vũ trang địa phương (như các sư đoàn
3, 327, 337, sư đoàn Tây Sơn, sư đoàn 567, B46, sư đoàn pháo binh M66 ở
Cao Bằng, các sư đoàn 316, 345, đoàn B 68, M63 ở quân khu II, cùng các
trung đoàn chủ lực tỉnh, các huyện đội, và lực lượng công an biên phòng.
Quân đoàn 1 vẫn đóng quanh Hà Nội đề phòng Trung Quốc đổi ý tiến sâu
vào trung châu.
Diễn biến
Quân Trung Quốc tiến công vào biên giới Việt Nam
Sáng
ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân đội Trung Quốc áp dụng chiến thuật biển
người bất kể tổn thất tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt
Nam.
Hướng Lạng Sơn có quân đoàn 43, 54, 55.
Hướng Cao Bằng có quân đoàn 41, 42, 50.
Hướng Hoàng Liên Sơn có quân đoàn 13, 14.
Hướng Lai Châu có quân đoàn 11.
Hướng Quảng Ninh, Hà Tuyên (nay là Hà Giang) mỗi nơi cũng có từ 1-2 sư đoàn.
Tất cả các hướng tấn công đều có xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Không quân và hải quân không được sử dụng trong toàn bộ cuộc chiến.
Trong
giai đoạn đầu đến ngày 28 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc chiếm được
các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang và một số thị trấn. Các cơ sở vật
chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để. Tuy nhiên, do vấp
phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất
chậm và bị thiệt hại nặng.
Quân Việt Nam phản kích ở mặt trận Lạng Sơn (2-1979)
Quân
Việt Nam còn phản kích đánh cả vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh
(thuộc tỉnh Quảng Tây) và Malypo (thuộc tỉnh Vân Nam) của Trung Quốc
nhưng chỉ có ý nghĩa quấy rối.
Ngày 19 tháng 2 năm 1979, nhóm cố
vấn quân sự cao cấp của Liên Xô tới Hà Nội để gặp các tướng lĩnh chỉ huy
của Việt Nam. Moskva yêu cầu Trung Quốc rút quân. Liên Xô cũng viện trợ
gấp vũ khí cho Việt Nam qua cảng Hải Phòng, đồng thời dùng máy bay vận
tải chuyển một số sư đoàn chính quy Việt Nam từ Campuchia về.
Trong
giai đoạn sau, cả hai bên đều tăng cường thêm lực lượng và cuộc chiến
tiếp tục, trong đó quyết liệt nhất là hướng Lạng Sơn. Tại đây sư đoàn bộ
binh 3 Sao Vàng, một đơn vị thiện chiến của Việt Nam từng qua đánh Mỹ
cùng một số sư đoàn khác đã tổ chức phòng thủ chu đáo. Sau nhiều trận
đánh đẫm máu bất kể tổn thất, quân Trung Quốc vào được thị xã Lạng Sơn
chiều ngày 4 tháng 3 năm 1979. Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Việt Nam ra lệnh
tổng động viên toàn quốc. Đồng thời phía Việt Nam cũng điều các sư đoàn
chủ lực có xe tăng, pháo binh hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản
công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng.
Cũng trong ngày 5
tháng 3 năm 1979,do áp lực của Liên Xô, sự phản đối của quốc tế, đồng
thời cũng đã chiếm được các thị xã lớn của Việt Nam ở biên giới, Bắc
Kinh tuyên bố hoàn thành mục tiêu chiến tranh, chiến thắng và bắt đầu
rút quân. Mặc dù chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi nhưng đến ngày 18
tháng 3 năm 1979 quân Trung Quốc đã hoàn tất rút khỏi Việt Nam.
Kết quả cuộc chiến
Theo
tuyên bố của phía Trung Quốc: quân Trung Quốc có 6.900 người chết,
14.800 người bị thương và 240 người bị bắt. Quân Việt Nam có 60.000
người chết và bị thương, 1.600 người bị bắt.
Theo
tuyên bố của phía Việt Nam: quân Trung Quốc có 62.500 người chết và bị
thương, tổn thất 280 xe tăng, 115 khẩu pháo cối và 270 xe quân sự. Phía
Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, không có số liệu về
tổn thất của các lực lượng vũ trang.
Cuộc chiến cũng đã gây ra
những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt Nam : 4/4 thị xã bị hủy diệt
hoàn toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá,
41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha
hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp. Khoảng một nửa
trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống.
Về
lâu dài, nó mở đầu cho hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung đột
vũ trang dọc biên giới giữa hai quốc gia, buộc Việt Nam phải thường
xuyên duy trì một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, gây hậu quả
xấu đến nền kinh tế. Sinh hoạt và sản xuất của người dân vùng biên giới
bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài ra, nhiều cột mốc biên giới cũng bị
quân Trung Quốc phá hủy, gây khó khăn cho việc hoạch định biên giới sau
này.
Các nhà quan sát phương Tây nhận định như sau:
Về
mặt chiến thuật, Trung Quốc thất bại vì tuy Việt Nam chưa kịp đưa các
đơn vị ở Campuchia về tham chiến mà quân Trung Quốc vẫn chịu tổn thất
nặng.
Về mặt chiến lược, Trung Quốc thành công vì đã chứng minh
rõ bản chất không thật của hiệp ước tương trợ quân sự giữa Liên Xô và
Việt Nam, và đã chứng minh khả năng lưỡng đầu thọ địch sẽ không xảy ra.
Cũng có một số nhà quan sát cho rằng Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc lúc bấy giờ có hai khuynh hướng, một thiên về Đặng Tiểu Bình,
người muốn cải tổ quân sự trong toàn bộ chiến lược cải cách Trung Quốc,
và một chống đối lại cải tổ. Tài liệu phương Tây cho rằng tai hại chiến
lược to lớn nhất cho Việt Nam là cuộc chiến này đưa đến việc phe cải tổ
thắng thế: Trung Quốc dồn sức hiện đại hóa các đơn vị chủ lực và đã
thành công. Điều này sẽ thấy rõ sau này trong Chiến tranh biên giới Việt
Trung 1984-1988, khi Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn.
Sau khi Liên Xô tan rã, đến năm 1992 quan hệ giữa hai nước mới được bình thường hóa.
Cuối
năm 1978, để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược mà phía Trung Quốc
gọi là “phản kích tự vệ chống Việt Nam”, giới cầm quyền Bắc Kinh đã tập
trung một bộ phận lớn quân đội ở khu vực biên giới. Ngoài Quân đoàn 41,
42, 55 của quân khu Quảng Châu và 11, 14 của quân khu Côn Minh có sẵn ở
phía nam, họ còn điều động các đơn vị dự bị gồm Quân đoàn 20, 43, 54
của quân khu Vũ Hán ở phía đông và 13, 50 thuộc quân khu Thành Đô ở phía
bắc. Binh lực tham chiến trực tiếp lên tới 28 sư đoàn chủ lực cùng 2 sư
đoàn và nhiều trung đoàn, tiểu đoàn địa phương, biên phòng và dân binh.
Đạo quân này được sự chi viện của 7 trung đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng, 2
sư đoàn và 39 trung đoàn pháo binh, 2 sư đoàn phòng không và nhiều
trung đoàn bảo đảm (công binh, thông tin, vận tải…). Tổng cộng, Trung
Quốc huy động vào cuộc chiến trên bộ khoảng 600.000 quân; 550 xe tăng
thiết giáp Type-62, Type-59, Type-63; 2.000 khẩu pháo mặt đất
85mm-152mm, súng cối 160mm và dàn phóng hỏa tiễn 107mm, 130mm.
Bên
cạnh đó, không quân và hải quân Trung Quốc cũng triển khai 948 máy bay
chiến đấu trên 15 căn cứ ở Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Hải Nam gồm
706 tiêm kích J-5, J-6, J-7; 120 tiêm kích bom J-6, Q-5 và 122 máy bay
ném bom H-5, H-6 sẵn sàng chi viện khi có yêu cầu. Hạm đội Nam Hải với
300 tàu chiến cũng được đặt trong tình trạng báo động cao, đồng thời
tăng cường một biên đội tàu tên lửa xuống khu vực quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam mà Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép.
Quân Trung Quốc chuẩn bị tiến công xâm lược Việt Nam.
Cuộc xâm lược được Bắc Kinh được tiến hành trên hai hướng.
Cánh
đông do Thượng tướng Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou), Tư lệnh Đại quân khu
Quảng Châu chỉ huy có 18 sư đoàn chủ lực, 1 sư đoàn địa phương, 3 trung
đoàn biên phòng cùng các đơn vị địa phương và dân binh. Hỗ trợ cho hướng
này là 6 trung đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 sư đoàn pháo binh và 1 sư
đoàn phòng không. Cánh quân này đảm nhiệm tiến công ba tỉnh Cao Bằng,
Lạng Sơn, Quảng Ninh của Việt Nam, cụ thể:
-
Hướng Cao Bằng có 10 sư đoàn bộ binh: 58 (Quân đoàn 20), 121, 122, 123
(Quân đoàn 41), 124, 125, 126 (Quân đoàn 42), 129 (Quân đoàn 43), 150
(Quân đoàn 50), 160, 162 (Quân đoàn 54).
-
Hướng Lạng Sơn có 8 sư đoàn bộ binh: 127, 128 (Quân đoàn 43), 148 (Quân
đoàn 50), 160, 161 (Quân đoàn 54), 163, 164, 165 (Quân đoàn 55).
- Hướng Quảng Ninh có sư đoàn địa phương quân Quảng Tây.
Cánh
tây do Thượng tướng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi), Tư lệnh Đại quân khu
Côn Minh chỉ huy có 10 sư đoàn chủ lực, 1 sư đoàn địa phương, 4 trung
đoàn biên phòng. Hỗ trợ cho hướng này là 1 trung đoàn xe tăng, 1 sư đoàn
pháo binh và 1 sư đoàn phòng không. Lực lượng này đảm nhiệm tiến công
ba tỉnh Hà Tuyên (nay là Hà Giang), Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai), Lai
Châu của Việt Nam, cụ thể:
- Hướng Hà Tuyên có Trung đoàn 12 biên phòng cùng lực lượng dân binh.
-
Hướng Hoàng Liên Sơn có 8 sư đoàn bộ binh: 32 (Quân đoàn 11), 37, 38,
39 (Quân đoàn 13), 40, 41, 42 (Quân đoàn 14), 149 (Quân đoàn 50).
- Hướng Lai Châu có Sư đoàn 31 Quân đoàn 11 và sư đoàn địa phương quân Vân Nam.
Việt Nam
Đương
đầu với đạo quân xâm lược hùng hậu của Trung Quốc là các lực lượng vũ
trang tại chỗ cùng nhân dân 6 tỉnh biên giới Việt Nam.
Quân khu 1 do
Thiếu tướng Đàm Quang Trung làm tư lệnh kiêm chính ủy có 4 sư đoàn và 1
lữ đoàn chủ lực, 7 trung đoàn và 21 tiểu đoàn địa phương. Bố trí trên
tuyến biên giới Đông Bắc như sau:
Bộ đội chủ lực:
-
Sư đoàn bộ binh 3 (đoàn Sao Vàng) gồm Trung đoàn bộ binh 2 (đoàn An
Lão), 12 (đoàn Tây Sơn), 141 (đoàn Hoài Ân) và Trung đoàn pháo binh 68;
bố trí tại khu vực Đồng Đăng, Văn Lãng, Cao Lộc và thị xã Lạng Sơn của
tỉnh Lạng Sơn.
-
Sư đoàn bộ binh 338 gồm Trung đoàn bộ binh 460, 461, 462 và Trung đoàn
pháo binh 208; bố trí tại khu vực nam Lộc Bình và Đình Lập của tỉnh Lạng
Sơn.
-
Sư đoàn bộ binh 346 (đoàn Lam Sơn) gồm Trung đoàn bộ binh 246 (đoàn Tân
Trào), 677, 851 và Trung đoàn pháo binh 188; bố trí tại khu vực Trà
Lĩnh, Hà Quảng, Hòa An của tỉnh Cao Bằng.
-
Sư đoàn bộ binh 325B (về sau đổi thành 395) gồm Trung đoàn bộ binh 8,
41, 288 và Trung đoàn pháo binh 189 bố trí tại khu vực Tiên Yên, Bình
Liêu của tỉnh Quảng Ninh.
- Lữ đoàn bộ binh 242 đảm nhiệm phòng thủ khu vực bờ biển và tuyến đảo Quảng Ninh.
Phần
lớn các đơn vị binh chủng trực thuộc Quân khu 1 như Trung đoàn pháo
binh 166, Trung đoàn phòng không 272, Trung đoàn xe tăng 407, Trung đoàn
công binh 522 cùng tiểu đoàn pháo tầm xa 130mm thuộc Lữ đoàn pháo binh
675 (đoàn Anh Dũng) tăng cường được tập trung chi viện cho hướng Lạng
Sơn.
Bộ đội địa phương:
- Hướng Cao Bằng có
Trung đoàn bộ binh 567 của BCHQS tỉnh ở khu vực Quảng Hòa; 1 tiểu đoàn
pháo binh, 1 tiểu đoàn cao xạ, 7 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Bảo
Lạc, Hà Quảng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Quảng Hòa, Hòa An, Ba Bể và 3 đại
đội của Thông Nông, Thạch An, thị xã Cao Bằng.
- Hướng Lạng Sơn có
2 trung đoàn bộ binh trực thuộc BCHQS tỉnh là Trung đoàn 123 ở khu vực
Lộc Bình và Trung đoàn 199 ở khu vực Tràng Định; 7 tiểu đoàn bộ binh của
các huyện Tràng Định, Văn Lãng, Cao Lộc, Lộc Bình, Đình Lập, Văn Quan
và thị xã Lạng Sơn.
- Hướng Quảng Ninh có
2 trung đoàn bộ binh trực thuộc BCHQS tỉnh là Trung đoàn 43 ở khu vực
Móng Cái và Trung đoàn 244 ở khu vực Quảng Hà; 1 tiểu đoàn pháo binh, 4
tiểu đoàn cao xạ và 5 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Bình Liêu, Quảng
Hà, Móng Cái, Hà Cối, Cẩm Phả.
Lực lượng công an vũ trang có
Trung đoàn công an vũ trang cơ động 12 (đoàn Thanh Xuyên) bố trí ở Lạng
Sơn, 4 tiểu khu (tương đương tiểu đoàn) ở Cao Bằng và Quảng Ninh, một
số đại đội cơ động và đồn biên phòng.
Lực
lượng tuyến sau của Quân khu 1 có Sư đoàn 431 và Trung đoàn 852 là
khung huấn luyện tân binh; 2 trung đoàn và 2 tiểu đoàn bộ binh của tỉnh
Hà Bắc, Bắc Thái.
Quân khu 2 do Thiếu tướng Vũ Lập làm tư lệnh kiêm chính ủy có 3 sư đoàn chủ lực, 8 trung đoàn và tiểu đoàn địa phương. Bố trí trên tuyến biên giới Tây Bắc như sau:
Bộ đội chủ lực:
-
Sư đoàn bộ binh 316 (đoàn Bông Lau) gồm Trung đoàn bộ binh 98, 148
(đoàn Sơn La), 174 (đoàn Cao Bắc Lạng) và Trung đoàn pháo binh 187; bố
trí tại khu vực Bình Lư, Phong Thổ của tỉnh Lai Châu.
-
Sư đoàn bộ binh 345 gồm Trung đoàn bộ binh 118, 121, 124 và Trung đoàn
pháo binh 190; bố trí tại khu vực Bảo Thắng của tỉnh Hoàng Liên Sơn.
-
Sư đoàn bộ binh 326 gồm Trung đoàn bộ binh 19, 46, 541 và Trung đoàn
pháo binh 200 bố trí tại khu vực Tuần Giáo, Điện Biên của tỉnh Lai Châu.
Phần
lớn các đơn vị binh chủng trực thuộc Quân khu 2 như Trung đoàn pháo
binh 168, Trung đoàn phòng không 297, Trung đoàn công binh 89 được tập
trung chi viện cho hướng Hoàng Liên Sơn.
Bộ đội địa phương:
- Hướng Hà Tuyên có
Trung đoàn bộ binh 122, 191 của BCHQS tỉnh, 1 tiểu đoàn pháo binh và 8
tiểu đoàn bộ binh của các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Quản Bạ, Hoàng Su
Phì, Xìn Mần, Na Hang.
- Hướng Hoàng Liên Sơn có
2 trung đoàn bộ binh của BCHQS tỉnh là Trung đoàn 192 ở thị xã Lào Cai
và Trung đoàn 254 ở Bảo Thắng; 1 tiểu đoàn pháo binh và 8 tiểu đoàn bộ
binh của các huyện Mường Khương, Bát Xát, Bảo Thắng, thị xã Lào Cai, Yên
Bái.
- Hướng Lai Châu có
Trung đoàn 193 và 741 (ở Sìn Hồ) của BCHQS tỉnh, 1 tiểu đoàn pháo binh
và 5 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Phong Thổ, Mường Tè, Mường , Điện Biên, Sìn Hồ.
Lực lượng công an vũ trang có Trung đoàn công an vũ trang cơ động 16 ở Hoàng Liên Sơn, một số đại đội cơ động và 39 đồn biên phòng.
Lực
lượng tuyến sau của Quân khu 2 có Sư đoàn 411 là khung huấn luyện tân
binh cùng 2 trung đoàn và 8 tiểu đoàn bộ binh của tỉnh Sơn La, Vĩnh Phú.
Đóng
góp vào thế trận phòng thủ chung trên địa bàn 6 tỉnh biên giới còn có
các đơn vị binh chủng (pháo cối, ĐKZ, cao xạ, trinh sát, công binh,
thông tin, quân y, vận tải) của các BCHQS tỉnh và huyện, thị; lực lượng
công an, cảnh sát và đông đảo dân quân, tự vệ ở khắp các làng bản,
huyện thị, nông lâm trường và nhà máy xí nghiệp... được tổ chức ở quy mô
từ cấp trung đội đến cấp trung đoàn (ở mỗi quân khu có khoảng 500.000
dân quân tự vệ).
Lực lượng vũ trang Việt Nam luyện tập sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới.
Từ
tháng 1-1979, đối phương bắt đầu ráo riết đẩy mạnh các hoạt động trinh
sát vũ trang dọc biên giới. Chỉ trong tháng 1 và tuần đầu tiên của tháng
2-1979, phía Trung Quốc đã gây ra 230 vụ xâm phạm vũ trang vào lãnh thổ
Việt Nam, từ gây hấn, khiêu khích cho tới phục kích, giết hại, bắt cóc
người đưa về Trung Quốc, tập kích, bắn phá các đồn biên phòng và trạm
gác của công an, dân quân Việt Nam cũng như các cơ sở sản xuất của nhân
dân. Trong những vụ xâm phạm này, lính Trung Quốc đã giết hại trên 40
dân thường và chiến sĩ, làm bị thương hàng trăm người và bắt đi hơn 20
người. Đặc biệt có những vụ diễn ra sâu trong lãnh thổ Việt Nam tới 5km
như vụ tập kích trạm gác của dân quân ở Bản Lầu (Hoàng Liên Sơn) ngày
14-1, có những vụ quy mô lớn như huy động 1 tiểu đoàn chính quy tấn công
bình độ 400 ở Thanh Lòa, Cao Lộc (Lạng Sơn) ngày 10-2, có những vụ pháo
kích lớn đã sử dụng cả tới pháo 85mm, súng cối, ĐKZ... Cùng với đó là
hàng chục lần tốp máy bay và tàu thuyền xâm phạm vùng trời, vùng biển
của Việt Nam.
Rạng
sáng ngày 17-2-1979, pháo binh Trung Quốc khai hỏa bắn phá các mục tiêu
trong lãnh thổ Việt Nam, mở màn cuộc xâm lược. Cuộc chiến đấu bảo vệ
biên giới phía Bắc của quân và dân Việt Nam chính thức bắt đầu.
DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU TRÊN MẶT TRẬN LAI CHÂU
Trên
mặt trận Lai Châu, quân Trung Quốc chia thành hai mũi tiến công. Mũi
chủ công đảm nhiệm tiến công Ma Ly Pho, Pa Nậm Cúm vào ngã ba Phong Thổ.
Mũi thứ hai tiến công từ Huổi Luông, Pa Tần (Sìn Hồ). Ngoài ra địch còn
sử dụng một lực lượng đánh chiếm khu vực bắc Dào San và Mù San (Phong
Thổ).
Từ
ngày 17-2 địch bắt đầu thực hành tấn công vào các điểm cao 1562 Mù San,
1112 Ma Ly Pho, Hoàng Thểm, Khao Chải, điểm cao 262… cùng một số vị trí
khác do Trung đoàn 741 và 193, Tiểu đoàn 2 Sìn Hồ, đồn biên phòng Ma Lù
Thàng, Si Lờ Lầu, A Pa Chải… bảo vệ. Đến ngày 19-2 đối phương chiếm các
vị trí này và tiến xuống ngã ba Nậm Cáy, Mô Sy Câu, ngã ba Pa So và bắc
Pa Tần. Lực lượng ta chặn đánh quyết liệt nhưng đến 24-2 địch làm chủ
các mục tiêu trên và tiếp tục tăng cường lực lượng để đột phá tiếp.
Chốt của lực lượng vũ trang Phong Thổ, Lai Châu.
Trước
tình hình này, Bộ tư lệnh Quân khu 2 điều động lực lượng của Trung đoàn
98 Sư đoàn 316 và Trung đoàn 46 Sư đoàn 326 tăng cường cho khu vực
phòng thủ Pa Tần. Tại đây chiến sự diễn ra ác liệt, hai bên giành giật
từng điểm chốt như ở cao điểm 805, 551 hay 553 bắc Pa Tần. Sau nhiều đợt
tiến công liên tục, ngày 3-3, quân Trung Quốc chiếm được thị trấn Phong
Thổ, Pa Tần và đến 5-3 chiếm được Dào San. Tuy nhiên trước sức kháng cự
của các lực lượng vũ trang ta, đối phương đã không thể thực hiện được
âm mưu đánh chiếm Bình Lư (Tam Đường) để bắt tay với cánh quân trên
hướng Hoàng Liên Sơn. Đến 10-3 trên mặt trận Lai Châu địch rút về bên biên giới.
Kết
thúc đợt chiến đấu này đã có 11 cá nhân và 6 đơn vị chiến đấu trên
hướng Lai Châu được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
Nhân dân.
DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU TRÊN MẶT TRẬN QUẢNG NINH
Trên
hướng Quảng Ninh, ngày 17-2-1979, quân Trung Quốc huy động một bộ phận
địa phương quân, biên phòng, dân binh của tỉnh Quảng Tây tiến đánh một
số trận địa phòng ngự do các đơn vị thuộc Trung đoàn 41 và 288 Sư đoàn
325B, Trung đoàn 43 và 244 bộ đội địa phương, Đồn biên phòng Pò Hèn… đảm
nhiệm ở khu vực Hoành Mô, Đồng Văn (Bình Liêu), Thán Phún (Hải Ninh) và
pháo kích vào thị xã Móng Cái. Trong các trận tiến công này địch chiếm
được bình độ 300, đồn Pò Hèn và điểm cao 1050 Cao Ba Lanh nhưng đến
chiều 19-2 ta phản kích khôi phục lại trận địa.
Ngày
26-2, địch mở đợt tiến công mới nhằm vào khu vực chốt của Trung đoàn
288 Sư đoàn 325B ở điểm cao 1050, 585, đồi Cây Xanh, đồi Không Tên… và
ngày 28-2 đánh vào trận địa Trung đoàn 41 Sư đoàn 325B ở điểm cao 500,
600, 781, đồi Khẩu Hiệu… Các đợt tiến công này đều bị đánh bại.
Ngày
28-2, Tư lệnh Quân khu 1 quyết định thành lập Bộ tư lệnh Mặt trận Quảng
Ninh do Thiếu tướng Nguyễn Sùng Lãm mới được cử về làm Phó tư lệnh quân
khu đứng đầu.
Ngày
1-3, quân Trung Quốc đồng loạt tiến công vào các điểm tựa của Trung
đoàn 41 và 288 Sư đoàn 325B, Tiểu đoàn 130 Bình Liêu, Đồn biên phòng
Hoành Mô, Đồng Văn, Móng Cái và Đại đội 6 công an vũ trang… chiếm được
đồn Hoành Mô và một phần điểm cao 600 và 781 nhưng bị chặn lại trên các
hướng khác. Ngày 4-3, địch tập trung đánh chiếm điểm cao 1050 nhưng một
lần nữa bị đẩy lui với thiệt hại nặng nề. Cũng trong ngày hôm đó Trung
đoàn 41 Sư đoàn 325B phản kích lấy lại điểm cao 600 và 781. Đến đây, mọi
nỗ lực tấn công vào tuyến biên giới Quảng Ninh của Trung Quốc đều bị bẻ
gãy.
Biệt kích Trung Quốc đổ bộ lên bờ biển Quảng Ninh bị lực lượng vũ trang Việt Nam bắt giữ ngày 26-2-1979.
Ngày
5-3, Bắc Kinh tuyên bố rút quân khỏi Việt Nam. Chiến sự trên hướng
Quảng Ninh tạm thời chấm dứt. Trong đợt chiến đấu này, 2 cá nhân và 5
đơn vị đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân
dân.
DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU TRÊN MẶT TRẬN HÀ TUYÊN
Hà
Tuyên là hướng phối hợp, địch không tiến công lớn mà chỉ sử dụng biên
phòng và dân binh tỉnh Vân Nam đánh vào các chốt của ta ở xã Thượng
Phùng, Lũng Làn (Mèo Vạc), Lũng Cú, Ma Ly (Đồng Văn), Nghĩa Thuận (Quản
Bạ), Thanh Thủy, Lao Chải (Vị Xuyên), Bản Păng, Bản Máy (Xìn Mần), Na
Khê (Yên Minh). Tại đây bộ đội địa phương, công an vũ trang và dân quân
tự vệ đã phối hợp chặn địch. Ngoài ra lực lượng vũ trang Hà Tuyên còn
chủ động tổ chức một số trận đánh ngay vào vị trí xuất phát tiến công
của đối phương như trận đánh ngày 23-2 của Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 122
vào điểm cao 1875 hoặc trận ngày 25-2 của Tiểu đoàn 1 Mèo Vạc tập kích
địch đột nhập xã Thượng Phùng và tập kích đồn Hoà Bình.
Từ
4-3, để hỗ trợ cho hai cánh quân trên hướng Hoàng Liên Sơn và Lai Châu,
ở Hà Tuyên địch đẩy mạnh các hoạt động tiến công cấp đại đội, tiểu đoàn
nhằm vào các đồn biên phòng và các xã biên giới: Ngày 5-3 tiến công đồn
Lũng Làn và điểm cao 1379 Phìn Lò (Mèo Vạc), ngày 6 và 7-3 đánh Bản
Păng, Bản Máy (Xín Mần); ngày 8 và 9-3 đánh Phó Bảng (Đồng Văn); ngày
11-3 tiến công khu vực Lao Chải (Vị Xuyên); ngày 13-3 tiến công điểm tựa
của Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 122… đều bị đẩy lui. Đến ngày 14-3 chiến sự
tạm dừng. Trong đợt chiến đấu này lực lượng vũ trang Hà Tuyên đã tham
gia chiến đấu 61 trận, có 1 cá nhân và 1 đơn vị công an biên phòng được
phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
Theo
công bố chính thức, trên cả ba mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà
Tuyên, các lực lượng vũ trang và nhân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng
chiến 14.000 quân Trung Quốc (trong đó Hà Tuyên tiêu diệt khoảng 1.000
địch), đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn địch, phá hủy 4 xe tăng và 6 xe
quân sự.
DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU TRÊN MẶT TRẬN HOÀNG LIÊN SƠN
Hoàng
Liên Sơn là trọng điểm tiến công chính của quân Trung Quốc trên tuyến
biên giới Tây Bắc. Tại đây địch tổ chức tiến công quy mô lớn theo hai
trục: từ Quang Kim (Bát Xát) đánh xuống Cam Đường, Bến Đền và từ Nà Lốc
vào Bản Phiệt (Bảo Thắng) theo quốc lộ 70 đánh xuống Phong Hải, Phố Lu.
Để hỗ trợ cho các hướng chính, đối phương còn cho các mũi vu hồi đánh
vào Sa Pa, Mường Khương.
Ngay
trong đêm 16 rạng 17-2-1979, lợi dụng trời tối và sương mù, quân Trung
Quốc đã bí mật cho một lực lượng lớn vượt biên giới, luồn sâu ém sẵn ở
các khu vực Na Lốc, Lều Nương (bắc Bản Phiệt), bản Vược Duyên Hải (bờ
nam sông Hồng phía tây bắc thị xã Lào Cai), Mường Khương (Hoàng Liên
Sơn), đồng thời triển khai đội hình chủ lực sáp sát biên giới Việt Nam.
6
giờ sáng 17-2-1979, sau khi cho pháo binh bắn chuẩn bị với mật độ cao,
trên hướng chủ yếu quân Trung Quốc bắc cầu phao vượt sông Hồng và tổ
chức tấn công. Các đơn vị của ta lúc đầu bị bất ngờ, bị động nhưng ngay
sau đó đã kịp thời triển khai đội hình chiến đấu. Trung đoàn bộ binh
192, 254 bộ đội Hoàng Liên Sơn, Trung đoàn 16 công an vũ trang, Đồn biên
phòng Vạn Hòa, Pha Long, Mường Khương, Nà Lốc, Nậm Chảy… cùng bộ đội
địa phương huyện và dân quân tự vệ tổ chức đánh trả quyết liệt trên tất
cả các hướng, trong khi pháo binh ta vừa chi viện bộ binh vừa phản pháo
các trận địa hỏa lực ở Hà Khẩu và bắn phá các điểm vượt sông của địch.
Tuy nhiên nhờ có ưu thế vượt trội về binh hỏa lực, đến trưa 17-2 quân
Trung Quốc đã chiếm các điểm cao ở phía bắc ngã ba Bản Phiệt, toàn bộ
cánh đồng Quang Kim, Bản Qua, Bản Vược, thị xã Lào Cai và thị trấn Mường
Khương, Bát Xát. Các đơn vị ta bị tổn thất phải lùi về phía sau tổ chức
phòng ngự, tuy nhiên vẫn tiếp tục cho lực lượng bám đánh ngay cả ở
những khu vực đối phương đã làm chủ và phải đến tận 19-2 quân Trung Quốc
mới thực sự kiểm soát được thị xã Lào Cai.
Trung đoàn pháo binh 168 Quân khu 2 chi viện cho bộ binh chiến đấu bảo vệ Hoàng Liên Sơn
Trước
tình hình đó, Bộ tư lệnh Quân khu 2 ra lệnh cho Sư đoàn bộ binh 316
(thiếu Trung đoàn bộ binh 98) từ Bình Lư, Phong Thổ (Lai Châu) cơ động
lên tổ chức trận địa phòng ngự ở khu vực Sa Pa từ ngày 19-2. Đồng thời,
Sư đoàn 345 ở Bảo Thắng nhanh chóng đưa Trung đoàn bộ binh 124 vào xây
dựng tuyến phòng thủ ở khu vực nông trường Phong Hải (cây số 18 trên
quốc lộ 70).
Ngày
19-2, quân Trung Quốc tiếp tục tiến công chiếm ngã ba Bản Phiệt, dãy
Nhạc Sơn và cây số 4 Kim Tân. Ở phía hữu ngạn sông Hồng đối phương chiếm
khu vực Đá Đinh, mỏ a-pa-tít Cam Đường. Trên hướng Mường Khương, sau
khi chiếm thị trấn địch theo đường 4D phát triển xuống khu vực nông
trường Thanh Bình. Trên hướng Sa Pa một bộ phận địch luồn lách từ khu
vực Quang Kim lên Bản Khoang rồi đánh lên Ô Quý Hồ (cây số 8 trên đường
4D Sa Pa đi Bình Lư (Lai Châu), một bộ phận khác tiến công từ Cốc San
lên Cầu Đôi để phối hợp với mũi vu hồi Ô Quý Hồ đánh chiếm Sa Pa.
Ngày
22-2, cuộc chiến đấu của Sư đoàn 316 trên hướng Sa Pa bắt đầu. Sư đoàn
345 cũng tiến hành chặn đánh địch trên hướng từ Lào Cai đi Bảo Thắng.
Trên tất cả các trục tiến công của đối phương, lực lượng vũ trang ta đã
dũng cảm chiến đấu tuy nhiên do tương quan quá chênh lệch nên không thể
cản được đà phát triển của chúng, phải vừa đánh vừa rút lui để bảo toàn
lực lượng. Ngày 25-2, địch chiếm được thị xã Cam Đường (cách thị xã Lào
Cai 10km). Ngày 1-3, địch chiếm thị trấn Sa Pa (cách thị xã Lào Cai
38km) và tiếp tục đánh về Bình Lư. Đến ngày 4 và 5-3 quân Trung Quốc đã
tiến xuống cây số 36 trên quốc lộ 70, chiếm được Phố Lu (cách thị xã Lào
Cai 32km), Bến Đền. Ngày 5-3, nhà cầm quyền Bắc Kinh tuyên bố rút quân.
Từ ngày 6-3 trên hướng này quân Trung Quốc bắt đầu tổ chức rút về bên biên giới và hoàn tất vào 13-3-1979.
Pháo phản lực H12 của Trung Quốc, bị Sư đoàn 316 tịch thu trên mặt trận Hoàng Liên Sơn
Theo
công bố chính thức, các lực lượng vũ trang và nhân dân trên mặt trận
Hoàng Liên Sơn từ ngày 17-2 đến 18-3-1979 đã loại khỏi vòng chiến 11.500
quân Trung Quốc, đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn địch, phá hủy 66 xe
tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự. 12 cá nhân và 6 đơn vị được phong
tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU TRÊN MẶT TRẬN LẠNG SƠN
Tại Lạng Sơn, cuộc xâm lược của Bắc Kinh được tiến hành trên các hướng chính Đồng Đăng-Văn Lãng, bắc Cao Lộc và Lộc Bình.
Trên
hướng Tràng Định, Trung đoàn 199, Tiểu đoàn 6 Tràng Định, Đồn biên
phòng Pò Mã, Bình Nghi… cùng dân quân Đội Cấn, Tri Phương, Quốc Khánh
vừa bám đánh, ngăn chặn địch ở chốt Pò Mã, Pò Pùn, Lũng Xá, Khau Mười,
Bản Tang… vừa tổ chức sơ tán hơn 10.000 đồng bào khỏi khu vực chiến sự.
Ngày 25-2, trên hướng này quân Trung Quốc chiếm được thị trấn Thất Khê.
Trên
hướng Lộc Bình, Trung đoàn 123, Tiểu đoàn 9 Lộc Bình. Đồn biên phòng
Chi Ma cùng dân quân Tú Mịch, Yên Khoái… chiến đấu bảo vệ các điểm cao
540, 468, 557 (Chi Ma), khu vực Bản Thín, Bản Lan, điểm cao 412, 481,
402 (Tú Mịch), phản kích buộc địch phải co cụm lại ở phía nam núi Mẫu
Sơn. Đến ngày 28-2 trên hướng này quân Trung Quốc chiếm được thị trấn
Lộc Bình.
Trên
hướng Đình Lập, Sư đoàn 338, Tiểu đoàn 131 Đình Lập, Đồn biên phòng Bắc
Xa, Chi Lăng hiệp đồng với tự vệ các nông lâm trường… chặn đánh địch ở
điểm cao 899 (Chè Mùng), 538 (Bản Chắt), 476, 549… Đặc biệt, để chia lửa
cho sư đoàn bạn, ngày 22-2 Sư đoàn 338 đã chủ động dùng Trung đoàn 460
tổ chức tiến công vào hậu phương của địch, loại khỏi vòng chiến 1 tiểu
đoàn Trung Quốc và phá hủy toàn bộ khu doanh trại, hậu cần của chúng.
Ngoài ra sư đoàn còn cho công binh luồn sâu 20km vào sau lưng địch đánh
sập 2 cầu và dùng một bộ phận tinh nhuệ tập kích sân bay Ninh Minh
(Quảng Tây).
Trên
hướng Văn Lãng, một bộ phận của Trung đoàn 12 Sư đoàn 3, Tiểu đoàn 7
Văn Lãng, Đồn biên phòng Tân Thanh, Na Hình... đã phối hợp phòng ngự có
hiệu quả ở Nà Nôi, Bản Thấu (Tân Yên), Thụy Hùng… buộc địch phải tạm
dừng tiến công trong ngày 17-2.
Trên
hướng Cao Lộc, Tiểu đoàn 8 Cao Lộc, Đồn biên phòng Thanh Lòa, Ba Sơn
cùng một bộ phận Trung đoàn 141 Sư đoàn 3 chặn địch ở điểm cao 499 (Xuất
Lễ), trên hướng Bản Xâm, Thanh Lòa...
Đặc
biệt, tại hướng trọng điểm Đồng Đăng, từ sáng 17-2 cuộc chiến đấu ác
liệt diễn ra liên tục xung quanh thị trấn Đồng Đăng (cách thị xã Lạng
Sơn 14km) và ngã ba Tam Lung (cách thị xã Lạng Sơn 7km) với các điểm
nóng ở khu vực cửa khẩu Hữu Nghị và điểm cao 402, cụm chốt Thâm Mô-Pháo
đài-điểm cao 339, ga Đồng Đăng, khu đồi Chậu Cảnh, điểm cao Khôn Làng….
Mặc dù bị tổn thất, các đơn vị hỗn hợp của Sư đoàn 3, Trung đoàn 12
Thanh Xuyên, Tiểu đoàn 11 bộ đội địa phương thị xã, Tiểu đoàn 1 cảnh sát
cơ động, Đại đội 5 công an vũ trang, Đồn biên phòng Hữu Nghị Quan...
cùng dân quân tự vệ tại chỗ đã kiên cường bám trụ trận địa, đồng thời tổ
chức tiến công giành giật lại các vị trí bị chiếm đóng, gây cho đối
phương những thiệt hại hết sức nặng nề.
Bị
giam chân suốt nhiều ngày, đến ngày 22-2, quân Trung Quốc tăng cường
lực lượng mở một đợt tiến công mới vào Tân Yên, Đồng Đăng. Nhờ ưu thế
vượt trội về binh hỏa lực, sau hàng loạt trận đánh liên tục, đến ngày
23-2-1979, địch chiếm được khu vực Tân Yên, Đồng Đăng. Đến ngày 27-2,
chúng chiếm được khu vực Tam Lung.
Ngày
24-2-1979, Quân khu 1 quyết định thành lập Mặt trận Lạng Sơn, Thiếu
tướng Hoàng Đan, Phó giám đốc Học viện quân sự cấp cao được điều về giữ
chức Phó tư lệnh Quân khu kiêm Tư lệnh Mặt trận. Đồng thời, hai sư đoàn
chủ lực cùng nhiều tiểu đoàn bộ binh, binh chủng và dân quân tự vệ ở
tuyến sau được điều động lên chi viện cho tiền tuyến.
Từ
ngày 23-2, sau khi tiến hành sơ tán các cơ quan và nhân dân trong thị
xã Lạng Sơn, đội hình phòng thủ của ta được điều chỉnh lại: Sư đoàn bộ
binh 3 và Trung đoàn 197 Bắc Thái đảm nhiệm phòng ngự khu vực phía tây
và tây nam; Sư đoàn bộ binh 327, Trung đoàn xe tăng 407 và các đơn vị
của BCHQS tỉnh đảm nhiệm khu vực phía bắc và đông; Trung đoàn phòng
không 272 bố trí ở cả phía bắc và nam thị xã.
Từ
ngày 28-2, cuộc chiến đấu trên mặt trận Lạng Sơn bước sang một giai
đoạn cam go mới. Phía Trung Quốc huy động thêm bộ binh, xe tăng, pháo
binh mở cuộc tiến công quy mô lớn trên cả ba hướng đông, bắc và tây nhằm
đánh chiếm thị xã. Lực lượng vũ trang ta tổ chức kháng cự quyết liệt.
Các trận đánh phòng ngự, tập kích và phản kích dữ dội diễn ra trên các
trục đường 1A, 1B, Bản Sâm, Cao Lộc vào thị xã, khu vực Tam Thanh, Nhị
Thanh, Hoàng Đồng, Mai Pha và thị trấn Kỳ Lừa… Ở phía sau, Sư đoàn 337
lên tăng cường từ chiều 25-2 cũng bước vào chiến đấu với mũi vu hồi
chiến dịch của địch trên hướng cầu Khánh Khê, đường 1B. Chiến sự diễn ra
vô cùng căng thẳng, có những nơi như điểm cao 500, 607, 649 (đường 1B),
449, 473 (Cao Lộc)… hai bên liên tục giành đi giật lại nhiều lần.
Ngày
2-3, Quân đoàn 5 trực thuộc Quân khu 1 do Thiếu tướng Hoàng Đan làm tư
lệnh và Đại tá Phí Triệu Hàm làm chính ủy được thành lập. Các sư đoàn bộ
binh đang chiến đấu bảo vệ Lạng Sơn (3, 327, 337, 338) cùng các trung
đoàn binh chủng của Quân khu 1 được đặt dưới quyền chỉ huy chung của Bộ
tư lệnh Quân đoàn.
Chiều
tối cùng ngày hôm đó, quân Trung Quốc chiếm được thị trấn Kỳ Lừa, các
đơn vị của ta rút về giữ phía nam sông Kỳ Cùng và khu vực Tam Thanh, Nhị
Thanh. Bộ tư lệnh Quân đoàn 5 quyết định điều Sư đoàn 3 về làm lực
lượng dự bị, riêng Trung đoàn 12 Sư đoàn 3 tiếp tục bám trụ trên đường
1B đánh vào sau lưng địch, phối hợp với Sư đoàn 337 kiên quyết chốt chặn
tuyến giao thông này, không cho địch vượt qua cầu Khánh Khê tiến sang
thị xã và huyện Văn Quan.
Ngày
3-3, đối phương tiếp tục tung thêm lực lượng vào tiến công. Trên hướng
chính, địch tổ chức 3 mũi đột kích từ điểm cao 520, Hoàng Đồng và Kỳ
Lừa. Trên hướng Mai Pha địch cũng tổ chức 2 mũi đánh từ phía bắc sông Kỳ
Cùng và đông nam thị xã. Đến chiều 4-3, trên hướng đông-đông nam quân
Trung Quốc chiếm được khu vực nam sông Kỳ Cùng, sân bay Mai Pha và các
khu phố trong thị xã Lạng Sơn.
Tối
4-3, Bộ tư lệnh Quân đoàn 5 thông qua và bắt đầu triển khai phương án
mở chiến dịch phản công. Cùng thời điểm này lực lượng tăng cường của
Quân đoàn 1 cũng đã hoàn tất triển khai vào vị trí chiến đấu trên tuyến
Chi Lăng-Đồng Mỏ-Hữu Kiên phía nam thị xã. Trung đoàn pháo binh 204 với
36 dàn hỏa tiễn bắn loạt 40 nòng BM-21 đã tập kết và lấy phần tử sẵn
sàng khai hỏa. Ngày 5-3, giữa lúc các sư đoàn trên mặt trận đang ráo
riết chuẩn bị thì trưa hôm đó, nhà cầm quyền Bắc Kinh tuyên bố rút quân
khỏi Việt Nam và ngày hôm sau quân Trung Quốc rút về phía bắc sông Kỳ
Cùng. Bộ Quốc phòng quyết định cho dừng chiến dịch phản công.
Từ
ngày 6-3, lực lượng vũ trang ta tiếp tục tiến đánh những bộ phận địch
còn chiếm đóng trên lãnh thổ Việt Nam, buộc đối phương phải rút khỏi Cao
Lộc (9-3), Lộc Bình (13-3), Đồng Đăng, Tân Thanh (15-3)… về bên biên giới.
Theo
công bố chính thức, Lạng Sơn đã loại khỏi vòng chiến 19.000 quân Trung
Quốc, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn và 4 tiểu đoàn địch,
phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp, 52 xe quân sự. Để lập nên chiến công
này, quân dân Lạng Sơn cũng đã phải chịu hy sinh to lớn: Sư đoàn 3 hy
sinh 6,6% và bị thương 8,4% quân số; Sư đoàn 337 hy sinh 650 cán bộ
chiến sĩ, Sư đoàn 338 hy sinh 260 cán bộ chiến sĩ… 20 cá nhân và 14 đơn
vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, Quân
đoàn 5 được mang danh hiệu “Binh đoàn Chi Lăng”, Sư đoàn 337 được tặng
danh hiệu “Sư đoàn Khánh Khê”.
Ngày
17-2-2014 năm nay là ngày vừa tròn 35 năm cuộc chiến tranh biên giới
phía Bắc hay cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung. Đây chính là ngày
mà hàng vạn thanh niên Việt Nam đang trong tuổi đôi mươi lên đường anh
dũng đấu tranh và đã có không ít người đã nằm lại nơi biên cương của Tổ
quốc trong cuộc chiến bất ngờ chống quân xâm lược này.
Có
thể như nhiều người đã biết, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã trải qua
nhiều thử thách, thăng trầm. Chúng ta ghi nhận những chi viện về tinh
thần và vật chất của Trung Quốc trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của
dân tộc. Trong thời gian đó, hầu hết người dân Việt Nam đều biết đến
những miếng lương khô, tấm vải hay quân nhu cho bộ đội ta từ chiếc mũ
cối đến cái thắt lưng; thực sự, sự giúp đỡ quý giá đó đã góp một phần
không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc của
chúng ta. Tôi đã được xem những bài báo, những phóng sự nói về sự giúp
đỡ nhiệt tình, vô tư trên tinh thần vừa là đồng chí, vừa là anh em của
nhân dân Trung Quốc cho Việt Nam chúng ta, điều đó thật đáng trân trọng.
Nhưng cuộc chiến tranh xâm lược năm ấy đã gần như xóa đi tất cả…
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Việt Nam đã nhận được rất nhiều sự
trợ giúp của các nước XHCN anh em, đặc biệt là từ Liên Xô và Trung Quốc,
do vậy việc cân bằng các mối quan hệ quốc tế này là vô cùng cần thiết.
Nhưng lịch sử đã không cho Việt Nam lựa chọn… Năm 1972, Tổng thống Mỹ
Nixon có chuyến thăm lịch sử tới Bắc Kinh trong giai đoạn ác liệt của
cuộc chiến tranh tại Việt Nam, dọn đường cho việc Trung Quốc im lặng ủng
hộ Mỹ rải thảm B52 xuống miền Bắc, gây thương vong nặng nề cho nhân dân
ta. Ba năm sau đó, đất nước ta thống nhất, trong niềm hân hoan vô bờ
bến của nhân dân và bè bạn quốc tế, Trung Quốc lại ngỏ ý muốn Việt Nam
liên minh chống Liên Xô, tất nhiên chúng ta đã thẳng thừng từ chối lời
đề nghị vô lý đó. Kể từ ấy, mối quan hệ hai nước đi vào ngõ cụt với hàng
loạt những hành động đi ngược lại tình anh em của Trung Quốc như cắt
viện trợ, rút chuyên gia, cho phỉ quấy rối vùng biên, tâm lý chiến với
các dân tộc thiểu số nhằm gây khó khăn cho chúng ta phát triển kinh tế.
Một
chuỗi các sự kiện khiến cho Trung Quốc “phải ức chế” như Việt Nam ký
Hiệp ước Hữu nghị Toàn diện với Liên Xô (1978); đồng ý tham gia Hội đồng
Tương trợ Kinh tế SEV của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu; gửi chuyên
gia, đào tạo quân đội cho nước bạn Lào và đỉnh cao là quân đội Việt Nam
tổng phản công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, tiến vào Campuchia lật
đổ chế độ diệt chủng Khơ-me Đỏ thân Trung Quốc. Khi ấy Phó Thủ tướng
Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đang đi thăm Mỹ và tuyên bố sẽ “dạy cho Việt
Nam một bài học”.
Và điều tồi tệ đối với nhân dân ta đã xảy ra… Rạng sáng ngày 17/2/1979, trong tiết trời se
lạnh của mùa xuân, dư âm của Tết vẫn vương vấn trên những cây, bông
hoa, nóc nhà của đồng bào vùng biên ải. Trung Quốc đã bất ngờ đồng loạt
xua quân tấn công 6 tỉnh biên giới nước ta gồm Lai Châu, Hoàng Liên Sơn,
Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh với chiều dài 1.200 km. Vì
đa phần người dân nước ta, thậm chí có những lãnh đạo đều nghĩ rằng hai
nước là anh em đồng chí
với nhau, nên sẽ không có chuyện dùng vũ lực, có chăng chỉ là những xung
đột nhỏ, tranh chấp và có thể giải quyết qua con đường ngoại giao nên
chúng ta đã khá bất ngờ trước vụ việc này.
Theo
con số từ phía Trung Quốc thì họ đã triển khai 600.000 quân, trong khi
đó lực lượng tại chỗ của Việt Nam tại khu vực này chỉ có 5.000 quân -
một con số quá chênh lệch vì khi ấy hầu hết quân chủ lực của chúng ta
đang ở Campuchia. Trung Quốc đã chọn thời điểm thích hợp để “dằn mặt”
Việt Nam, đặt nước ta vào tình thế
“lưỡng đầu thọ địch”. Tuy nhiên, họ đã lầm… Với tinh thần sẵn sàng
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, nhân dân, Đảng ta đã huy động và tổ chức lực
lượng đấu tranh, mà trước hết là bộ đội địa phương, công an vũ trang (bộ
đội biên phòng), dân quân tự vệ và đồng bào các dân tộc 6 tỉnh biên
giới.
Mục
tiêu chính của chúng là Lạng Sơn vì khoảng cách từ đây xuống thủ đô là
ngắn nhất (158km), đường đi lại thông thoáng, không có nhiều đồi núi
cao. Chúng đã sử dụng phần lớn quân chủ lực từ quân khu Quảng Châu, dự
định sẽ chiếm Lạng Sơn trong vòng một đến hai ngày, nhưng trên thực tế
10 ngày sau (27/2) quân Trung Quốc mới vào được thị xã. Cùng với Lạng
Sơn, các địa phương như Cao Bằng, Lào Cai… cũng lập nhiều chiến công.
Như vậy, trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, đồng bào và bộ đội ta đã
chặn đứng được bước tiến công của địch, không cho chúng đạt được mục
tiêu mà những nhà cầm quyền đã rêu rao như “Sáng ăn mì Bắc Kinh, chiều
ăn phở Hà Nội”.
Quân
và dân Lạng Sơn nói riêng và các tỉnh biên giới nói chung đã thực hiện
tốt chiến lược “chiến tranh nhân dân”, “dùng ít địch nhiều” của Đảng ta,
tổ chức đánh du kích, làm tiêu hao quân lực địch. Do Trung Quốc từ rất
lâu không có chiến tranh kể từ cuộc chiến Triều Tiên (1950) nên quân đội
mất tính chiến đấu, chậm chạp, không bài bản, vũ khí lại lạc hậu chỉ
dựa vào số đông, “chiến thuật biển người” để tấn công nước ta. Trong khi
đó, nhân dân ta, đặc biệt là nhân dân các tỉnh biên giới được Đảng và
Nhà nước ta tổ chức tập luyện tốt, cộng với tinh thần yêu nước và ý chí
quyết chiến quyết thắng đã đập tan được mưu đồ bành trướng của giới cầm
quyền Bắc Kinh. Theo ông Vương Dương Tường - nguyên bí thư tỉnh ủy Cao
Bằng xúc động cho biết toàn tỉnh không có một ai theo địch.
Sau
khi chiếm được hai thị xã Lào Cai, Cao Bằng (22/2) và thị xã Lạng Sơn
(27/2), lính Trung Quốc chịu nhiều tổn thất nặng nề về lực lượng và tinh
thần mà không thể tiến thêm xuống phía Nam. Đồng bào và quân đội Việt
Nam tiếp tục đáp trả dữ dội, lập tuyến phòng thủ từ Yên Bái tới Quảng
Yên - Quảng Ninh để bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng. Ngày 5/3/1979, Chủ tịch
nước Tôn Đức Thắng ra lời kêu gọi Tổng động viên
toàn quốc chống quân Trung Quốc xâm lược. Cùng lúc, Liên Xô cử máy bay
vận tải chở bộ đội chủ lực từ Campuchia lên biên giới, cho quân đội áp
sát biên giới với Trung Quốc và yêu cầu nếu “Bắc Kinh không rút quân thì
Liên Xô sẽ thực thi nghĩa vụ với Việt Nam…”. Trung Quốc nhận thấy “đã
hoàn thành mục tiêu chiến tranh” liền tuyên bố rút quân. Theo các nhà
nghiên cứu thì việc rút quân của Bắc Kinh là cần thiết nếu không muốn
gặp thất bại hơn nữa. Ngày 7/3/1979, thể hiện thiện chí hòa bình, Việt
Nam đồng ý cho Trung Quốc rút quân và tới 18/3/1979, lính Trung Quốc rút
hoàn toàn khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, trước khi về nước, quân xâm lược đã
phá hủy các công trình giao thông, trường, trạm ở các địa phương, đặc
biệt chúng còn đặt mìn phá sập một nửa hang Pác-bó, di tích gắn liền với
những ngày đầu Bác Hồ, sau 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước
về sống và lãnh đạo cách mạng Việt Nam tại đây.
Tuy
cuộc chiến đã kết thúc nhưng vùng biên cương phía Bắc vẫn không hề được
hòa bình mà vẫn âm ỉ tiếng pháo, tiếng súng cho tới khi hai nước chính
thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1991.
Trong
cuộc chiến chống quân xâm lược này, hàng vạn thanh niên ưu tú của Việt
Nam đã chiến đấu một cách anh dũng, không nề hà nguy nan, sẵn sàng gác
bút xung phong ra chiến trường để bảo vệ từng tấc đất của dân tộc. Sử
sách đã ghi danh anh hùng Lê Đình Chinh tay không chống lại quân phỉ gây
rối tại cửa khẩu Hữu Nghị cuối năm 1978 và hy sinh khi mới 18 tuổi
trong sự tiếc thương vô hạn của chiến sĩ, đồng bào. Nữ anh hùng Hoàng
Thị Hồng Chiêm - cô gái mậu dịch cửa hàng bách hóa Pò Hèn, cùng đồng đội
chiến đấu và hy sinh ngay khi tuổi đời còn rất trẻ… và còn hàng ngàn
những tấm gương anh hùng khác đã truyền sức mạnh mãnh liệt cho toàn quân
và nhân dân Việt Nam thời đó.
35
năm đã qua, quan hệ hai nước Việt - Trung đã bình thường trở lại, tuy
không thể quay về những năm tháng xưa kia, nhưng ít nhất cũng cho vùng
biên cương một không khí hòa bình, nhân dân không phải chịu sự thống khổ
vì cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tại Việt Nam, vì nhiều lý do khác nhau
mà cuộc chiến ít được nhắc tới, nhưng điều đấy không có nghĩa chúng ta
quên những sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ. Hàng năm, cứ tới ngày
này, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các tỉnh biên giới đều tổ chức
thắp hương, cầu nguyện, dọn dẹp vệ sinh nghĩa trang, giữ gìn giấc ngủ
cho các anh. Là một thanh niên sinh ra trong thời bình, tôi cùng nhiều
bạn trẻ khác luôn được ông bà, cha mẹ, thầy cô dạy bảo về truyền thống
“uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc ta và chúng
tôi không bao giờ quên sự hy sinh anh dũng của các anh hùng liệt sĩ đã
ngã xuống vì độc lập - tự do của Tổ quốc. Đặc biệt, được các thế hệ lão
thành cách mạng truyền lửa để thế hệ trẻ hôm nay tiếp nối truyền thống
vẻ vang, dốc sức học tập, rèn luyện và lập nghiệp vì một nước Việt Nam
thịnh vượng. Đâu đâu trên khắp đất nước hình chữ S xinh đẹp chúng ta
cũng nhìn thấy bóng dáng của màu áo xanh tình nguyện, những tấm gương
thanh niên làm giàu, xây dựng quê hương, họ sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu
khi Tổ quốc cần, đúng như câu nói mà Bác Hồ trao tặng “đâu cần thanh
niên có, đâu khó có thanh niên”. Chúng ta - thế hệ thanh niên hôm nay
hãy luôn cố gắng nỗ lực để xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước,
kế tụng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của cha anh để lại./.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi bức thư ngày 14/9/1958 cho Thủ tướng Chu Ân
Lai, nguyên văn như sau: “Thưa đồng chí Tổng lý. Chúng tôi xin trân
trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa (VNDCCH) ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của
Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của
Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết
định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để
tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin gửi đồng chí
Tổng lý lời chào trân trọng”.
Dựa vào đó, Trung Quốc cho rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gián tiếp
công nhận chủ quyền Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa với bằng chứng là
bức công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng hồi năm 1958. Theo Trung Quốc,
như vậy là việc Việt Nam đã mặc nhiên thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa
thuộc về Trung Quốc. Việc này, chính phủ Trung Quốc không thể nào xem
đây là điều kiện có và đủ để chứng minh rằng mình có chủ quyền trên hai
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chúng ta nên nhớ, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ tháng 7/1954 (Trung Quốc có
ký) Việt Nam lúc đó tạm thời chia thành hai miền do hai chính quyền quản
lý. Miền Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa) tiếp quản từ vĩ tuyến 17 trở
ra. Từ vĩ tuyến 17 trở vào là Miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa) hành sử chủ
quyền. Thế cho nên lúc đó (năm 1958) dù Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có gữi
công hàm cho Trung Quốc hoặc một nước khác “ghi nhận”, “tán thành” hoặc
thừa nhận việc gì dưới vĩ tuyến 17 đi nữa thì ngày nay phía Trung Quốc
hoặc ai khác không thể nào cho đó là chủ quyền của Trung Quốc được. Theo
thuyết Esthoppel của luật pháp quốc tế là một nguyên tắc theo đó một
quốc gia không có quyền nói hoặc hoạt động trước kia, nhưng thuyết này
không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều gì thì quốc gia tuyên bố phải
ràng buộc lời tuyên bố đó. Thế cho nên, về sự kiện này tác giả Monique
Chemillier Gendreau cho rằng: “Những lời tuyên bố hoặc lập trường nào đó
của chính phủ miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với chủ quyền.
Đây không phải là chính quyền không có thẩm quyền trên Quần đảo này.
Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không thể kiểm soát
được”.
Ngoài ra, cũng nên lưu ý vào thời ấy (1/6/1956), Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu
của chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và đến ngày
13/7/1961 chính quyền Sài Gòn cũng đã kí nghị định số 174-NV đặt Quần
đảo Hoàng Sa thuộc quản hạt hành chánh tỉnh Quảng Nam với danh xưng là
xã Định Hải, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.
Tiếp theo, ngày 13/7/1971 Ngoại trưởng chính phủ Việt Nam Cộng hòa lúc
đó là Trần Văn Lắm tuyên bố tại Manila (thủ đô Philippines) rằng: “Quần
đảo Trường Sa từ lâu đời là lãnh thổ Việt Nam”. Lúc ấy Quần đảo Trường
Sa là xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy (Nghị định số
420/BNV/HCĐP/26).
Do đó, bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, chắc chắn không định đề cập
vấn đề pháp lý về chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, càng không có ý định từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo này, mà chỉ nhằm một điều duy nhất, đó là: Thể hiện sự ủng hộ
đối với việc quy định lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc mà thôi. Như
vậy, ngày nay Trung Quốc không thể nào cho rằng bức công hàm ngày
14/9/1958 của thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã mặc nhiên thừa nhận
Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ Trung Quốc.
Chính vì vậy, các tài liệu lịch sử mơ hồ cùng các luận cứ vu cớ do phía
Trung Quốc đưa ra nhằm chứng minh cho chủ quyền của mình trên hai Quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều không có giá trị lịch sử, pháp lí mà công
pháp quốc tế có thể công nhận được! Và điều đáng lưu ý là các luận cứ,
bằng chứng giả dối do phía Trung Quốc đưa ra đều xảy ra sau khi họ đã
dùng vũ lực chiếm trọn Hoàng Sa và sau đó tiếp tục gây hấn, lấn chiếm
Trường Sa, xâm phạm nghiêm trọng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam.
Sự
kiện Trung Quốc đặt trái phép giàn khoan HD-981 tại vị trí có tọa độ 15
độ 29’58” vĩ bắc-111 độ 12’06” kinh đông - vị trí nằm hoàn toàn trong
vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, cho thấy sự ngang
ngược bất chấp luật pháp và thông lệ quốc tế, đang đẩy Trung Quốc vào
con đường tự cô lập về ngoại giao và nguy cơ quân sự đầy nguy hiểm. Tuy
nhiên, câu hỏi đặt ra là tại sao Trung Quốc vẫn ngang ngược “làm càn” và
tỏ ra hung hăng trên Biển Đông bất chấp những lời chỉ trích là lên án
mạnh mẽ của dư luận thế giới? Tham vọng của Trung Quốc đã rõ, nhưng âm
mưu của Trung Quốc là gì xung quang sự kiện này? là điều cần tiếp tục
phân tích làm rõ. Dưới đây xin tổng hợp và đưa ra một số phân tích:
1. Về sự lựa chọn thời điểm
Đây
là sự kiện nằm trong chuỗi những hành động mà Bắc Kinh đã có sự chuẩn
bị kỹ lưỡng, cũng giống với tuyên bố về vùng phòng không AIDZ qua biển
Đông, nó nằm trong chuỗi sự kiện mà Trung Quốc đã gây ra với Malaysia
ở bãi ngầm James Shoal, hay với Philippines ở Bãi Cỏ Mây… là tín hiệu
về sự “thèm khát” đơn phương chủ quyền hàng hải của Trung Quốc. Trung
Quốc đã tiến thêm một bước trong việc hiện thực hóa ''đường lưỡi bò'' và
đòi hỏi chủ quyền vô lý của họ. Giàn khoan HD-981 không vô cớ xuất hiện
tại vùng biển của Việt Nam. Nó trùng hợp với rất nhiều sự kiện đáng chú
ý của thế giới trong thời gian vừa qua. Sự kiện này xảy ra ngay sau
chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Barack Obama
tới các nước châu Á và đặc biệt là những tuyên bố mạnh mẽ khi ông Obama
có mặt ở Malaysia và Phillippines liên quan tới Biển Đông.
Xét về mối quan hệ quốc tế, lúc này các thế lực lớn đang bận rộn với điểm nóng Ukraine.
Cao trào là cuộc đối đầu Nga – phương Tây (đứng đầu là Mỹ). Sự đối đầu
Nga – Mỹ tạo ra nhiều kẽ hở cho Trung Quốc tự tung tự tác. Thực tế lịch
sử cho thấy, khi mối quan hệ Nga (lúc đó là Liên Xô) và Mỹ đi đến đối
đầu căng thẳng đến mức các vũ khí hạt nhân đã lên nòng ở cuộc khủng
hoảng tên lửa Cuba năm 1962, cũng là lúc Trung Quốc xua quân ồ ạt tạo ra
cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ. Nhưng ngay sau khi khủng hoảng
tên lửa Cuba kết thúc, cũng là lúc Trung Quốc đơn phương kết thúc chiến
tranh. Thực chất, đây chỉ là một nước cờ cũ, rất quen thuộc của Trung
Quốc. Đương nhiên, vụ đặt giàn khoan trái phép của Trung Quốc là sự kiện
của lịch sử hiện đại sẽ rất khác sự kiện của những năm 60 của thế kỷ
XX.
Sau
đây xin điểm qua tình hình hiện tại của một số quốc gia và khu vực có
ảnh hưởng lớn ở Biển đông cho thấy việc Trung Quốc nhìn nhận và lựa chọn
thời điểm đặt giàn khoan HD-981 trái phép trên vùng biển của Việt Nam:
Trước
hết là với nước Mỹ, Trung Quốc cho rằng quyền lực toàn cầu của Mỹ đang
ngày càng suy giảm nhanh chóng. Bắc Kinh rút ra kết luận này từ một loạt
những thất bại về an ninh quốc gia của Mỹ, chẳng hạn như việc rút quân
quá sớm ở Iraq, việc Mỹ sa lầy ở Afghanistan,
không kiểm soát được chính quyền Libya và bất lực trước sự trỗi dậy của
al Qaeda ở Yemen… Không những thế, Bắc Kinh còn cho rằng Washington
không thể nào hóa giải nổi Pakistan, “người bạn-thù” của Mỹ và gần như
là một đồng minh của Trung Quốc. Họ cũng nhận định chính sách can thiệp
của Mỹ ở khu vực Trung Đông đã thất bại trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa
khủng bố và phong trào Mùa xuân A-rập. Với những nhận định đó, Trung
Quốc cho rằng Biển Đông sẽ dễ dàng rơi vào tay họ. Người Trung Quốc có
câu “nhìn lửa cháy qua sông” ám chỉ việc chờ cho đối thủ tự làm cạn kiệt
sức lực của mình rồi mới ra tay.
Mặt
khác, hiện tại Ukraine đang là điểm nóng cần ưu tiên trước nhất của Mỹ.
Bởi lẽ, nó ảnh hưởng đến an nguy trực tiếp của các đồng minh lâu đời,
thân cận nhất của Mỹ - cụ thể là các nước Bắc Âu hay liên minh quân sự NATO.
Với vấn đề Đông Bắc Á, Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ chưa thể bị Trung Quốc gây
khó dễ ngay, nhưng sự leo thang bất ổn ở Ukraine đang đặt các đồng minh
của nước này trước nhiều nguy cơ không lành. Mỹ đang mở rộng sân chơi ở
châu Á – Thái Bình Dương, điều đó không đồng nghĩa với việc sân nhà ở
châu Âu sẽ bị vứt bỏ. Như vậy, sự bận rộn của Mỹ đi đôi với sự rảnh tay
của Trung Quốc tại Biển Đông.
Với nước Nga, Ukraine đã đặt Moscow
đứng trước một thách thức lớn lao: nền kinh tế bị trừng phạt nặng nề
bởi Mỹ và châu Âu. Dù sao, kinh tế Nga vẫn phụ thuộc vào mối quan hệ với
châu Âu. Trong khi quyền lợi Nga lại đang bị đe dọa nghiêm trọng ở
Ukraine. Để bảo vệ được quyền lợi quốc gia, giảm thiểu sự tác động của
các đòn trừng phạt, Nga buộc phải kết thân với Trung Quốc. Nền kinh tế
thứ hai thế giới, cũng là thị trường rộng lớn nhất thế giới này là chỗ
dựa an toàn nhất trong bối cảnh bị cô lập. Vì thế, Nga khó lòng có thể
phản đối Trung Quốc về bất cứ hành động gì của quốc gia này.
Bên cạnh đó, những ngày đầu của điểm nóng Ukraine, khi Nga can dự vào bán đảo Crimea
và tổ chức tại đây cuộc trưng cầu dân ý dẫn đến sáp nhập vào Nga, Trung
Quốc bày tỏ thái độ trung lập (Thông qua là phiều trắng tại Liên hiệp
quốc). Trung Quốc có thể bất chấp dư luận để trở nên hung hăng hơn ở
Biển Đông sau khi có quan hệ chặt chẽ hơn với một đồng minh mới là Nga.
Cả Nga và Trung Quốc vừa mới thiết lập quan hệ đồng minh chiến
lược trong vòng 3 năm qua nhằm chống lại ảnh hưởng của Mỹ ở châu Á-Thái
Bình Dương nói riêng và vũ đài chính trị thế giới nói chung.
Trong
khi Nga kiểm soát và sáp nhập bán đảo Crimea bất chấp sự phản đối của
phương Tây và sau đó cho máy bay ném bom chiến lược Bear “dằn mặt” châu
Âu, họ đã nhận được sự ủng hộ của Trung Quốc trước nguy cơ bị phương Tây
trừng phạt nặng nề. Đổi lại, có vẻ như Trung Quốc đã nhận được sự “im
lặng” từ Nga sau khi họ kéo giàn khoan HD-981 vào vùng biển Việt Nam. Đó
có thể là lý do Nga đưa ra quan điểm khá chậm chạp và không có bất cứ
tuyên bố nào phản đối hành động này của phía Trung Quốc (ngày 15/5 Nga
mới đưa ra quan điểm ngoại giao dè dặt về sự kiện HD-981), khiến nhiều
người nghi ngờ về vai trò của Nga trong việc gìn giữ hòa bình, ổn định
trên thế giới và trong khi cả Nga và Trung Quốc đang cùng nhau thực hiện
hình thức chiến tranh phi đối xứng, trong đó họ sử dụng những lực lượng
và luận điệu được tính toán kỹ để tránh làm leo thang xung đột. Lực
lượng đó không quá lớn để khiến Mỹ có thể phản ứng bằng biện pháp quân
sự, nhưng cũng đủ để Nga và Trung Quốc đạt được mục đích của mình.
Thêm
nữa, Nga và Trung Quốc đều thừa hiểu rằng chính quyền của Tổng thống Mỹ
Barack Obama không thể nào đối phó được với cuộc chiến trên 2 mặt trận.
Chính vì vậy, có thể Nga và Trung Quốc đang tìm cách dàn mỏng nguồn lực
và sự chú ý của Mỹ, một chiến lược mà người Trung Quốc gọi là “khuấy
nước để bắt cá”.
Về
phía Nhật Bản – quốc gia đang có tranh chấp trên biển với Trung Quốc,
cũng là quốc gia có những quan điểm cứng rắn và thực lực kinh tế - quốc
phòng mạnh nhất của khu vực châu Á trong đòi hỏi chủ quyền với Trung
Quốc, thì hiện nay đang lâm vào tình hình suy yếu tương đối. Vị trí
cường quốc kinh tế thứ hai thế giới của Nhật đã bị Trung Quốc truất ngôi
năm 2012. Mặt khác, dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kép động đất, sóng thần dẫn tới rò rỉ
nhà máy điện hạt nhân, làm cho Nhật Bản trở nên bận rộn hơn.
Về
các quốc gia trong khối ASEAN: vẫn còn tình trạng thiếu thống nhất,
thậm chí là bất đồng trong khối ASEAN (tháng 7-2013, bất đồng về việc
đề cập đến tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên Biển Đông, đã khiến hội
nghị ngoại trưởng ASEAN không ra được tuyên bố chung, điều chưa từng có
trong lịch sử 45 năm tồn tại của Hiệp hội), một số quốc gia ít liên quan
đến tranh chấp trên Biển Đông đã bị Trung Quốc khôn khéo chia rẽ. Xét
về chiến lược khu vực, mặc dù cho rằng Mỹ đang ngày càng suy yếu, song
Trung Quốc vẫn rất cảnh giác với các động thái của Mỹ ở châu Á, đặc biệt
là sau chuyến công du châu Á của Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel.
Chuyến công du này nhằm tăng cường quan hệ quốc phòng giữa Mỹ với các
đồng minh châu Á, gần đây là chuyến thăm của Tổng thống Mỹ đến các nước
đồng minh trong khu vực.
Trước
những động thái đó của Mỹ, Trung Quốc cố tình gây căng thẳng, khiêu
khích trên Biển Đông để “tung một cú đấm thẳng” bằng hình thức chiến
tranh phi đối xứng vào thẳng chính sách “đòn can thiệp khu vực” truyền
thống của Mỹ. Trung Quốc tin rằng bây giờ nếu không làm nhanh, sau này
họ sẽ gặp nhiều khó khăn khi các quốc gia ASEAN tìm kiếm được sự động
thuận, đoàn kết hoặc sẽ nhận được nhiều sự giúp đỡ về quốc phòng hơn từ
phía Mỹ.
Bên
cạnh đó, phải kể đến Thái Lan – một thành viên quan trọng trong khối
ASEAN, lại đang trong tình trạng khủng hoảng chính trị kéo dài, mà chưa
có hồi kết.
Đối
với Việt Nam, việc Trung Quốc lựa chọn thời điểm đặt giàn khoan vào
đúng dịp nghỉ lễ dài ngày (30/4; 1/5), cùng với sự kiện cả đất nước đang
trong những ngày “bận rộn” tổ chức các sự kiện lớn kỷ niệm những chiến
thắng 30/4/1975, chiến thắng Điện Biên Phủ 7/5/1954… dường như là một sự
lựa chọn nhằm tạo ra yếu tố bất ngờ và mang những thông điệp chính trị,
ngoại giao nào đó. Điều này cũng tương tự như thời điểm lịch sử năm
1974, khi Việt Nam đang tiến hành những bước quyết định của cuộc đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì Trung Quốc đã lợi
dụng tình hình và sự sự yếu của lực lượng Việt Nam Cộng hòa để nổ súng
đánh chiếm Hoàng Sa (lúc đó do Việt Nam Cộng hòa quản lý).
Một mũi tên trúng nhiều đích
-
Đối với Trung Quốc: Trung Quốc là cường quốc đang trỗi dậy, với tham
vọng trở thành bá chủ mới trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Biển
Đông được cho là chìa khóa của chiến lược này. Đây là lý do quan trọng
chiến lược khiến Bắc Kinh đưa ra yêu sách chủ quyền với gần như toàn bộ
vùng biển, đồng thời không ngừng có các hành vi nhằm thay đổi hiện trạng
tại đây. Về vấn đề liên quan đến Biển Đông là một trong những chiến
lược của Trung Quốc trong việc vươn ra toàn cầu bằng kinh tế biển mà
người ta vẫn gọi là "giấc mộng Trung Hoa". Và Trung Quốc đang làm mọi
việc để thực hiện giấc mộng đó.
Bên
cạnh đó, tình hình nội tại Trung Quốc đang gặp nhiều vấn đề căng thẳng,
đặc biệt là vấn đề Tân Cương, Tây Tạng. Đồng thời, những vấn đề tha hóa
xuống cấp của các quan chức Trung Quốc, cùng với mâu thuẫn xã hội đang
đặt ra một thách thức với Bắc Kinh: họ cần có một đòn bẩy để kích hoạt
sự đoàn kết dân tộc và chủ nghĩa đại Hán vốn đã ăn sâu vào tiền thức của
người cầm quyền Trung Quốc. Gây xung đột với chiêu bài tự vệ nhằm đẩy
sự quan tâm căng thẳng mâu thuẫn trong nước ra bên ngoài là cách thức
tốt nhất. Đây không phải là cách làm mới mẻ. Nhìn lại lịch sử Trung Quốc
vào thế kỷ XI, dưới triều
đại nhà Tống, nhằm cứu vãn tình thế khó khăn trong nước và sự uy hiếp
của hai nước Liêu – Hạ ở phía Bắc và Tây Bắc Trung Quốc, nhà Tống đã
tiến hành chiến tranh mở rộng lãnh thổ xuống phương Nam (trong đó có Đại
Việt). Mục tiêu là tìm một chiến thắng đối ngoại lấy uy danh cho việc
thi hành chính sách ổn định bên trong.
Một
yếu tố khác nữa là: Trung Quốc còn đang đặt một phép thử mới. Bắc Kinh
đặt chỉ tiêu đòi hỏi chủ quyền “đường lưỡi bò” đến năm 2050 sở hữu trong
tay 80% diện tích Biển Đông. Chỉ còn 35 năm cho cái tâm nguyện đó, và
Bắc Kinh cũng mong làm cho xong càng sớm càng tốt. Vậy là để bắt đầu, họ
phải tìm một cái đích để triển khai: Tuyên bố về vùng phòng không AIDZ
qua biển Đông, gây hấn với Malaysia ở bãi ngầm James Shoal, hay với Philippines ở bãi cạn Scarborough…
là những một phép thử đối với thái độ và quyết tâm chính trị của các
quốc gia có liên quan và dư luận quốc tế, bao hàm cả thái độ của Mỹ. Với
Việt Nam, những phép thử bắn tàu cá ngư dân, cắt cáp thăm dò, cấm đánh
bắt cá… đã được áp dụng. Giàn khoan này mới là một bài toán thực sự.
Trung Quốc cần đáp án cho thái độ của Việt Nam. Lần này, Việt Nam đang
đứng trước thách thức sống còn, không chỉ là toàn vẹn lãnh thổ mà còn là
hòa bình chung cho cả Biển Đông.
-
Đối với Việt Nam: hành động lần này là những bước đi bài bản của tham
vọng bành trướng nước lớn, điều này không quá xa lạ đối với dân tộc Việt
Nam, vấn đề là trong tình hình hiện nay rất cần những cái đầu tỉnh táo,
sáng suốt để không mắc phải mưu đồ thâm hiểm của Trung Quốc. Trước hết
Việt Nam cần hết sức cảnh giác với thủ đoạn “dương đông, kích tây”, “bỏ
hư đánh thực” của Trung Quốc. Bên cạnh việc đấu tranh để Trung Quốc rút
giàn khoan HD-981, cần rất cảnh giác và đấu tranh quyết liệt với những
động thái khác trên Biển Đông. Trong thời gian gần đây, có thông tin
Trung Quốc đang tiến hành xây dựng trên đảo Gạc Ma và một số hòn đảo mà
Việt Nam có chủ quyền. Liệu có sự móc nối nào không giữa việc đặt giàn
khoan với các công trình xây dựng đó? Có hay không việc Trung Quốc cố
tạo ra một sự kiện nhằm tập trung dư luận quốc tế vào đó để tiến hành
những công việc có tầm quan trọng về chiến lược khác? Có hay không sự
kiện giàn khoan chẳng qua chỉ là hành động nhằm phân tán lực lượng và sự
quan tâm của Việt Nam?... Trung Quốc đang cố gắng xây dựng nhiều các
công trình bởi họ muốn lấy đó làm cơ sở để tính chủ quyền mặt nước. Có
thể làm bằng chứng cho họ chiến thắng ở tòa án quốc tế phân xử tranh
chấp chủ quyền, rằng giờ nó là của tôi và các cơ sở quản lý này của tôi
đã ở đây! Nhưng Trung Quốc chắc không có ý định ra bất cứ tòa án nào cả.
Vì thế, việc xây dựng của họ ở đây là nhằm mục đích khác. Trung Quốc
muốn cho dư luận biết rằng không chỉ đánh chiếm, mà còn chiếm giữ trên
thực tế. Điều này cũng tương tự như sự kiện ngày 19/7/2012, Quân ủy
Trung ương Trung Quốc chính thức quyết định thành lập “Cơ quan chỉ huy
quân sự” của cái gọi là “thành phố Tam Sa”, đặt căn cứ trên đảo Phú Lâm
thuộc quần đảo Hoàng Sa, và việc ngày 21/7/2012 Trung Quốc tổ chức bầu
cử đại biểu Đại hội đại biểu Nhân dân khóa I của cái gọi là “thành phố
Tam Sa”.
Bên
cạnh đó, Việt Nam rất cần cảnh giác và có hành động quyết liệt, khôn
khéo với những động thái xúi giục các thế lực phản động trong nước (nếu
có). Hiện nay, chưa có gì chắc chắn rằng những vụ bạo động, quá khích
của công nhân trong những cuộc biểu tình phản đối sự kiện Trung Quốc đặt
giàn khoan HD-981 ở khắp nơi là không có bàn tay của kẻ xấu lợi dụng
nhằm làm xấu hình ảnh của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế, đặc biệt là
các nhà đầu tư nước ngoài.
Thêm
nữa, hiện tại theo thống kê của các cơ quan quản lý nhà nước, đã có hơn
150 website của Việt Nam bị tấn công, và tất cả website này đều đã bị
tin tặc kiểm soát. Hacker đến từ Trung Quốc đã để lại lời tuyên bố chính
những xung đột trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc là nguyên
nhân của vụ tấn công này. Một số chuyên gia an ninh cho rằng nguyên nhân
của vụ tấn công hàng loạt website Việt Nam lần này là do trước đó nhiều
hacker Việt Nam đã thực hiện tấn công từ chối dịch vụ (DDoS) các
website Trung Quốc để thể hiện sự bất bình trước hành động đặt giàn
khoan dầu HD 981 trái phép vào thềm lục địa Việt Nam. Trước những căng
thẳng tiếp tục leo thang giữa hai bên, Việt Nam phải có những bươc chuẩn
bị kỹ lưỡng để ứng phó nếu xảy ra các cuộc tấn công với quy mô lớn.
Trên thực tế, việc hacker các nước chủ mưu thực hiện các cuộc tấn công
vào những nước đối thủ đã trở thành hiện tượng không mới với sự liên
quan về các vấn đề chính trị giữa các nước. Từ năm 2008, xung đột giữa
Nga và Gruzia và mới đây là cuộc chiến giữa Nga và Ukraina cũng đã xuất
hiện những vụ tấn công qua lại giữa hacker hai bên. Người ta ví xung đột
giữa Nga và Ukraina như là một “cuộc chiến không tiếng súng” khi mà các
cuộc giao tranh trên thế giới ảo còn diễn ra gay gắt không kém với cuộc
chiến trên bàn chính sự. đối với “cuộc chiến không tiếng súng” thì rất
khó kiểm soát được mức độ tác động. Điển hình như năm 2009, cuộc tấn
công DDoS với hơn 166.000 máy tính từ 74 nước trên thế giới được huy
động trong cuộc tấn công nhằm vào website của chính phủ Mỹ, Hàn Quốc và
một số quốc gia khác. Đây đều là những quốc gia có hệ thống an ninh mạng
hiện đại nhưng việc chống đỡ lại tin tặc đã gặp khó khăn. Cuộc tấn công
DDoS kéo dài một tuần khiến nhiều website tê liệt, trong đó có website
của Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban thương mại liên bang
(Mỹ) và trang chủ của tổng thống Hàn Quốc.
Do
vậy, Việt Nam cần phải có sự phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách về
bảo mật, giữa cơ quan chính phủ và những nhà cung cấp dịch vụ ISP để
cùng nhau ngăn chặn tin tặc tấn công sâu vào hệ thống.
-
Đối với khu vực và thế giới: theo các chuyên gia quốc tế, vùng biển gần
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà Trung Quốc hạ đặt giàn khoan không hề
có dầu mỏ, hoặc nếu có cũng không đáng kể. Điều này cho thấy, mục đích
thực sự của Trung Quốc chưa phải vì dầu mỏ khi xâm phạm trái phép vùng
biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Thay vì nhắm tới một khu vực có trữ lượng
dầu mỏ lớn, Bắc Kinh hiện chỉ đơn giản là muốn gây sức ép lớn nhất có
thể lên các nước láng giềng, nhằm tối đa hóa phạm vi vùng biển mà nước
này mưu đồ muốn kiểm soát trong tương lai. Như vậy, trước mắt vấn đề của
Trung Quốc trên biển Đông không chỉ là kinh tế. Mục tiêu cao hơn của họ
là an ninh và chính trị. Dầu mỏ là nguyên nhân, nhưng không phải chủ
yếu. Trung Quốc đặt giàn khoan vào vị trí này là có lý do của họ. Tọa độ
đặt giàn khoan đặc biệt quan trọng về vị trí chiến lược. Ở đây có thể
quan sát được toàn bộ 2.360km bờ biển Việt Nam, đặc biệt quan trọng về
an ninh quốc phòng và hàng hải quốc tế. Giàn khoan trên có thể là một
thông điệp mạnh mẽ của về ý định của Trung Quốc trong khu vực, sự mập mờ
về những động thái đơn phương của Trung Quốc khiến cho việc giải đáp
đầy đủ và thuyết phục câu hỏi này khó khăn hơn, nhưng rất nhiều bằng
chứng rõ ràng về vụ họ đưa giàn khoan vào biển Việt Nam đã kiểm tra được
tinh thần của các quốc gia ASEAN và Mỹ. Điều này cũng cho Bắc Kinh cơ
hội để đo lường những phản ứng quốc tế về những tuyên bố quả quyết về
vùng lãnh hải của họ. Thế nên, đưa giàn khoan tới là muốn gửi một thông
điệp chính trị. Bên cạnh đó, có thể Trung Quốc cũng muốn khiêu khích
Việt Nam, muốn Việt Nam có phản ứng vượt giới hạn. Đó chính là bài mà
Bắc Kinh sử dụng lâu nay, đó là dùng các lực lượng phi quân đội nhưng
vẫn đầy khiêu khích để đưa các nước vào bẫy. Chúng ta có thể tham khảo
những gì đã xảy ra ở đảo tranh chấp giữa Nhật và Trung Quốc hay ở bãi
cạn Scarborough khi mà Trung Quốc đã làm cho Philippines
đưa tàu chiến ra và Trung Quốc hô lên rằng, đó là Philippines có hành
động khiêu khích. Thêm nữa, trước khi Trung Quốc có thể bắt đầu “thử
lửa” với các đồng minh của Mỹ trong khu vực, như Philippines – nước vừa
ký một thỏa thuận quốc phòng mới thời hạn 10 năm Mỹ, Trung Quốc muốn
biết Mỹ có muốn bảo vệ lợi ích của họ trong khu vực này hay không?...
Từ
những phân tích trên, chúng ta thấy Trung Quốc có quá nhiều toan tính
trong bước đi mạo hiểm trên Biển Đông thông qua sự kiện đặt giàn khoan
HD-981 trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, và rõ ràng động thái
này của Trung Quốc đã trực tiếp liên quan đến nhiều quốc gia và khu vực.
Đối với Trung Quốc thì đó có thể là mũi tên trúng nhiều đích, trong khi
đó có lẽ họ chưa lường hết được hệ lụy của nó.