PHẦN 1: TƯƠNG QUAN VÀ THẾ TRẬN
Trung Quốc
Cuối
năm 1978, để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược mà phía Trung Quốc
gọi là “phản kích tự vệ chống Việt Nam”, giới cầm quyền Bắc Kinh đã tập
trung một bộ phận lớn quân đội ở khu vực biên giới. Ngoài Quân đoàn 41,
42, 55 của quân khu Quảng Châu và 11, 14 của quân khu Côn Minh có sẵn ở
phía nam, họ còn điều động các đơn vị dự bị gồm Quân đoàn 20, 43, 54
của quân khu Vũ Hán ở phía đông và 13, 50 thuộc quân khu Thành Đô ở phía
bắc. Binh lực tham chiến trực tiếp lên tới 28 sư đoàn chủ lực cùng 2 sư
đoàn và nhiều trung đoàn, tiểu đoàn địa phương, biên phòng và dân binh.
Đạo quân này được sự chi viện của 7 trung đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng, 2
sư đoàn và 39 trung đoàn pháo binh, 2 sư đoàn phòng không và nhiều
trung đoàn bảo đảm (công binh, thông tin, vận tải…). Tổng cộng, Trung
Quốc huy động vào cuộc chiến trên bộ khoảng 600.000 quân; 550 xe tăng
thiết giáp Type-62, Type-59, Type-63; 2.000 khẩu pháo mặt đất
85mm-152mm, súng cối 160mm và dàn phóng hỏa tiễn 107mm, 130mm.
Bên
cạnh đó, không quân và hải quân Trung Quốc cũng triển khai 948 máy bay
chiến đấu trên 15 căn cứ ở Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Hải Nam gồm
706 tiêm kích J-5, J-6, J-7; 120 tiêm kích bom J-6, Q-5 và 122 máy bay
ném bom H-5, H-6 sẵn sàng chi viện khi có yêu cầu. Hạm đội Nam Hải với
300 tàu chiến cũng được đặt trong tình trạng báo động cao, đồng thời
tăng cường một biên đội tàu tên lửa xuống khu vực quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam mà Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép.

Quân Trung Quốc chuẩn bị tiến công xâm lược Việt Nam.
Cuộc xâm lược được Bắc Kinh được tiến hành trên hai hướng.
Cánh
đông do Thượng tướng Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou), Tư lệnh Đại quân khu
Quảng Châu chỉ huy có 18 sư đoàn chủ lực, 1 sư đoàn địa phương, 3 trung
đoàn biên phòng cùng các đơn vị địa phương và dân binh. Hỗ trợ cho hướng
này là 6 trung đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 sư đoàn pháo binh và 1 sư
đoàn phòng không. Cánh quân này đảm nhiệm tiến công ba tỉnh Cao Bằng,
Lạng Sơn, Quảng Ninh của Việt Nam, cụ thể:
-
Hướng Cao Bằng có 10 sư đoàn bộ binh: 58 (Quân đoàn 20), 121, 122, 123
(Quân đoàn 41), 124, 125, 126 (Quân đoàn 42), 129 (Quân đoàn 43), 150
(Quân đoàn 50), 160, 162 (Quân đoàn 54).
-
Hướng Lạng Sơn có 8 sư đoàn bộ binh: 127, 128 (Quân đoàn 43), 148 (Quân
đoàn 50), 160, 161 (Quân đoàn 54), 163, 164, 165 (Quân đoàn 55).
- Hướng Quảng Ninh có sư đoàn địa phương quân Quảng Tây.
Cánh
tây do Thượng tướng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi), Tư lệnh Đại quân khu
Côn Minh chỉ huy có 10 sư đoàn chủ lực, 1 sư đoàn địa phương, 4 trung
đoàn biên phòng. Hỗ trợ cho hướng này là 1 trung đoàn xe tăng, 1 sư đoàn
pháo binh và 1 sư đoàn phòng không. Lực lượng này đảm nhiệm tiến công
ba tỉnh Hà Tuyên (nay là Hà Giang), Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai), Lai
Châu của Việt Nam, cụ thể:
- Hướng Hà Tuyên có Trung đoàn 12 biên phòng cùng lực lượng dân binh.
-
Hướng Hoàng Liên Sơn có 8 sư đoàn bộ binh: 32 (Quân đoàn 11), 37, 38,
39 (Quân đoàn 13), 40, 41, 42 (Quân đoàn 14), 149 (Quân đoàn 50).
- Hướng Lai Châu có Sư đoàn 31 Quân đoàn 11 và sư đoàn địa phương quân Vân Nam.
Việt Nam
Đương
đầu với đạo quân xâm lược hùng hậu của Trung Quốc là các lực lượng vũ
trang tại chỗ cùng nhân dân 6 tỉnh biên giới Việt Nam.
Quân khu 1 do
Thiếu tướng Đàm Quang Trung làm tư lệnh kiêm chính ủy có 4 sư đoàn và 1
lữ đoàn chủ lực, 7 trung đoàn và 21 tiểu đoàn địa phương. Bố trí trên
tuyến biên giới Đông Bắc như sau:
Bộ đội chủ lực:
-
Sư đoàn bộ binh 3 (đoàn Sao Vàng) gồm Trung đoàn bộ binh 2 (đoàn An
Lão), 12 (đoàn Tây Sơn), 141 (đoàn Hoài Ân) và Trung đoàn pháo binh 68;
bố trí tại khu vực Đồng Đăng, Văn Lãng, Cao Lộc và thị xã Lạng Sơn của
tỉnh Lạng Sơn.
-
Sư đoàn bộ binh 338 gồm Trung đoàn bộ binh 460, 461, 462 và Trung đoàn
pháo binh 208; bố trí tại khu vực nam Lộc Bình và Đình Lập của tỉnh Lạng
Sơn.
-
Sư đoàn bộ binh 346 (đoàn Lam Sơn) gồm Trung đoàn bộ binh 246 (đoàn Tân
Trào), 677, 851 và Trung đoàn pháo binh 188; bố trí tại khu vực Trà
Lĩnh, Hà Quảng, Hòa An của tỉnh Cao Bằng.
-
Sư đoàn bộ binh 325B (về sau đổi thành 395) gồm Trung đoàn bộ binh 8,
41, 288 và Trung đoàn pháo binh 189 bố trí tại khu vực Tiên Yên, Bình
Liêu của tỉnh Quảng Ninh.
- Lữ đoàn bộ binh 242 đảm nhiệm phòng thủ khu vực bờ biển và tuyến đảo Quảng Ninh.
Phần
lớn các đơn vị binh chủng trực thuộc Quân khu 1 như Trung đoàn pháo
binh 166, Trung đoàn phòng không 272, Trung đoàn xe tăng 407, Trung đoàn
công binh 522 cùng tiểu đoàn pháo tầm xa 130mm thuộc Lữ đoàn pháo binh
675 (đoàn Anh Dũng) tăng cường được tập trung chi viện cho hướng Lạng
Sơn.
Bộ đội địa phương:
- Hướng Cao Bằng có
Trung đoàn bộ binh 567 của BCHQS tỉnh ở khu vực Quảng Hòa; 1 tiểu đoàn
pháo binh, 1 tiểu đoàn cao xạ, 7 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Bảo
Lạc, Hà Quảng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Quảng Hòa, Hòa An, Ba Bể và 3 đại
đội của Thông Nông, Thạch An, thị xã Cao Bằng.
- Hướng Lạng Sơn có
2 trung đoàn bộ binh trực thuộc BCHQS tỉnh là Trung đoàn 123 ở khu vực
Lộc Bình và Trung đoàn 199 ở khu vực Tràng Định; 7 tiểu đoàn bộ binh của
các huyện Tràng Định, Văn Lãng, Cao Lộc, Lộc Bình, Đình Lập, Văn Quan
và thị xã Lạng Sơn.
- Hướng Quảng Ninh có
2 trung đoàn bộ binh trực thuộc BCHQS tỉnh là Trung đoàn 43 ở khu vực
Móng Cái và Trung đoàn 244 ở khu vực Quảng Hà; 1 tiểu đoàn pháo binh, 4
tiểu đoàn cao xạ và 5 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Bình Liêu, Quảng
Hà, Móng Cái, Hà Cối, Cẩm Phả.
Lực lượng công an vũ trang có
Trung đoàn công an vũ trang cơ động 12 (đoàn Thanh Xuyên) bố trí ở Lạng
Sơn, 4 tiểu khu (tương đương tiểu đoàn) ở Cao Bằng và Quảng Ninh, một
số đại đội cơ động và đồn biên phòng.
Lực
lượng tuyến sau của Quân khu 1 có Sư đoàn 431 và Trung đoàn 852 là
khung huấn luyện tân binh; 2 trung đoàn và 2 tiểu đoàn bộ binh của tỉnh
Hà Bắc, Bắc Thái.
Quân khu 2 do Thiếu tướng Vũ Lập làm tư lệnh kiêm chính ủy có 3 sư đoàn chủ lực, 8 trung đoàn và tiểu đoàn địa phương. Bố trí trên tuyến biên giới Tây Bắc như sau:
Bộ đội chủ lực:
-
Sư đoàn bộ binh 316 (đoàn Bông Lau) gồm Trung đoàn bộ binh 98, 148
(đoàn Sơn La), 174 (đoàn Cao Bắc Lạng) và Trung đoàn pháo binh 187; bố
trí tại khu vực Bình Lư, Phong Thổ của tỉnh Lai Châu.
-
Sư đoàn bộ binh 345 gồm Trung đoàn bộ binh 118, 121, 124 và Trung đoàn
pháo binh 190; bố trí tại khu vực Bảo Thắng của tỉnh Hoàng Liên Sơn.
-
Sư đoàn bộ binh 326 gồm Trung đoàn bộ binh 19, 46, 541 và Trung đoàn
pháo binh 200 bố trí tại khu vực Tuần Giáo, Điện Biên của tỉnh Lai Châu.
Phần
lớn các đơn vị binh chủng trực thuộc Quân khu 2 như Trung đoàn pháo
binh 168, Trung đoàn phòng không 297, Trung đoàn công binh 89 được tập
trung chi viện cho hướng Hoàng Liên Sơn.
Bộ đội địa phương:
- Hướng Hà Tuyên có
Trung đoàn bộ binh 122, 191 của BCHQS tỉnh, 1 tiểu đoàn pháo binh và 8
tiểu đoàn bộ binh của các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Quản Bạ, Hoàng Su
Phì, Xìn Mần, Na Hang.
- Hướng Hoàng Liên Sơn có
2 trung đoàn bộ binh của BCHQS tỉnh là Trung đoàn 192 ở thị xã Lào Cai
và Trung đoàn 254 ở Bảo Thắng; 1 tiểu đoàn pháo binh và 8 tiểu đoàn bộ
binh của các huyện Mường Khương, Bát Xát, Bảo Thắng, thị xã Lào Cai, Yên
Bái.
- Hướng Lai Châu có
Trung đoàn 193 và 741 (ở Sìn Hồ) của BCHQS tỉnh, 1 tiểu đoàn pháo binh
và 5 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Phong Thổ, Mường Tè, Mường , Điện Biên, Sìn Hồ.
Lực lượng công an vũ trang có Trung đoàn công an vũ trang cơ động 16 ở Hoàng Liên Sơn, một số đại đội cơ động và 39 đồn biên phòng.
Lực
lượng tuyến sau của Quân khu 2 có Sư đoàn 411 là khung huấn luyện tân
binh cùng 2 trung đoàn và 8 tiểu đoàn bộ binh của tỉnh Sơn La, Vĩnh Phú.
Đóng
góp vào thế trận phòng thủ chung trên địa bàn 6 tỉnh biên giới còn có
các đơn vị binh chủng (pháo cối, ĐKZ, cao xạ, trinh sát, công binh,
thông tin, quân y, vận tải) của các BCHQS tỉnh và huyện, thị; lực lượng
công an, cảnh sát và đông đảo dân quân, tự vệ ở khắp các làng bản,
huyện thị, nông lâm trường và nhà máy xí nghiệp... được tổ chức ở quy mô
từ cấp trung đội đến cấp trung đoàn (ở mỗi quân khu có khoảng 500.000
dân quân tự vệ).

Lực lượng vũ trang Việt Nam luyện tập sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới.
Từ
tháng 1-1979, đối phương bắt đầu ráo riết đẩy mạnh các hoạt động trinh
sát vũ trang dọc biên giới. Chỉ trong tháng 1 và tuần đầu tiên của tháng
2-1979, phía Trung Quốc đã gây ra 230 vụ xâm phạm vũ trang vào lãnh thổ
Việt Nam, từ gây hấn, khiêu khích cho tới phục kích, giết hại, bắt cóc
người đưa về Trung Quốc, tập kích, bắn phá các đồn biên phòng và trạm
gác của công an, dân quân Việt Nam cũng như các cơ sở sản xuất của nhân
dân. Trong những vụ xâm phạm này, lính Trung Quốc đã giết hại trên 40
dân thường và chiến sĩ, làm bị thương hàng trăm người và bắt đi hơn 20
người. Đặc biệt có những vụ diễn ra sâu trong lãnh thổ Việt Nam tới 5km
như vụ tập kích trạm gác của dân quân ở Bản Lầu (Hoàng Liên Sơn) ngày
14-1, có những vụ quy mô lớn như huy động 1 tiểu đoàn chính quy tấn công
bình độ 400 ở Thanh Lòa, Cao Lộc (Lạng Sơn) ngày 10-2, có những vụ pháo
kích lớn đã sử dụng cả tới pháo 85mm, súng cối, ĐKZ... Cùng với đó là
hàng chục lần tốp máy bay và tàu thuyền xâm phạm vùng trời, vùng biển
của Việt Nam.
Rạng
sáng ngày 17-2-1979, pháo binh Trung Quốc khai hỏa bắn phá các mục tiêu
trong lãnh thổ Việt Nam, mở màn cuộc xâm lược. Cuộc chiến đấu bảo vệ
biên giới phía Bắc của quân và dân Việt Nam chính thức bắt đầu.
DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU TRÊN MẶT TRẬN LAI CHÂU
Trên
mặt trận Lai Châu, quân Trung Quốc chia thành hai mũi tiến công. Mũi
chủ công đảm nhiệm tiến công Ma Ly Pho, Pa Nậm Cúm vào ngã ba Phong Thổ.
Mũi thứ hai tiến công từ Huổi Luông, Pa Tần (Sìn Hồ). Ngoài ra địch còn
sử dụng một lực lượng đánh chiếm khu vực bắc Dào San và Mù San (Phong
Thổ).
Từ
ngày 17-2 địch bắt đầu thực hành tấn công vào các điểm cao 1562 Mù San,
1112 Ma Ly Pho, Hoàng Thểm, Khao Chải, điểm cao 262… cùng một số vị trí
khác do Trung đoàn 741 và 193, Tiểu đoàn 2 Sìn Hồ, đồn biên phòng Ma Lù
Thàng, Si Lờ Lầu, A Pa Chải… bảo vệ. Đến ngày 19-2 đối phương chiếm các
vị trí này và tiến xuống ngã ba Nậm Cáy, Mô Sy Câu, ngã ba Pa So và bắc
Pa Tần. Lực lượng ta chặn đánh quyết liệt nhưng đến 24-2 địch làm chủ
các mục tiêu trên và tiếp tục tăng cường lực lượng để đột phá tiếp.

Chốt của lực lượng vũ trang Phong Thổ, Lai Châu.
Trước
tình hình này, Bộ tư lệnh Quân khu 2 điều động lực lượng của Trung đoàn
98 Sư đoàn 316 và Trung đoàn 46 Sư đoàn 326 tăng cường cho khu vực
phòng thủ Pa Tần. Tại đây chiến sự diễn ra ác liệt, hai bên giành giật
từng điểm chốt như ở cao điểm 805, 551 hay 553 bắc Pa Tần. Sau nhiều đợt
tiến công liên tục, ngày 3-3, quân Trung Quốc chiếm được thị trấn Phong
Thổ, Pa Tần và đến 5-3 chiếm được Dào San. Tuy nhiên trước sức kháng cự
của các lực lượng vũ trang ta, đối phương đã không thể thực hiện được
âm mưu đánh chiếm Bình Lư (Tam Đường) để bắt tay với cánh quân trên
hướng Hoàng Liên Sơn. Đến 10-3 trên mặt trận Lai Châu địch rút về bên biên giới.
Kết
thúc đợt chiến đấu này đã có 11 cá nhân và 6 đơn vị chiến đấu trên
hướng Lai Châu được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
Nhân dân.
DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU TRÊN MẶT TRẬN QUẢNG NINH
Trên
hướng Quảng Ninh, ngày 17-2-1979, quân Trung Quốc huy động một bộ phận
địa phương quân, biên phòng, dân binh của tỉnh Quảng Tây tiến đánh một
số trận địa phòng ngự do các đơn vị thuộc Trung đoàn 41 và 288 Sư đoàn
325B, Trung đoàn 43 và 244 bộ đội địa phương, Đồn biên phòng Pò Hèn… đảm
nhiệm ở khu vực Hoành Mô, Đồng Văn (Bình Liêu), Thán Phún (Hải Ninh) và
pháo kích vào thị xã Móng Cái. Trong các trận tiến công này địch chiếm
được bình độ 300, đồn Pò Hèn và điểm cao 1050 Cao Ba Lanh nhưng đến
chiều 19-2 ta phản kích khôi phục lại trận địa.
Ngày
26-2, địch mở đợt tiến công mới nhằm vào khu vực chốt của Trung đoàn
288 Sư đoàn 325B ở điểm cao 1050, 585, đồi Cây Xanh, đồi Không Tên… và
ngày 28-2 đánh vào trận địa Trung đoàn 41 Sư đoàn 325B ở điểm cao 500,
600, 781, đồi Khẩu Hiệu… Các đợt tiến công này đều bị đánh bại.
Ngày
28-2, Tư lệnh Quân khu 1 quyết định thành lập Bộ tư lệnh Mặt trận Quảng
Ninh do Thiếu tướng Nguyễn Sùng Lãm mới được cử về làm Phó tư lệnh quân
khu đứng đầu.
Ngày
1-3, quân Trung Quốc đồng loạt tiến công vào các điểm tựa của Trung
đoàn 41 và 288 Sư đoàn 325B, Tiểu đoàn 130 Bình Liêu, Đồn biên phòng
Hoành Mô, Đồng Văn, Móng Cái và Đại đội 6 công an vũ trang… chiếm được
đồn Hoành Mô và một phần điểm cao 600 và 781 nhưng bị chặn lại trên các
hướng khác. Ngày 4-3, địch tập trung đánh chiếm điểm cao 1050 nhưng một
lần nữa bị đẩy lui với thiệt hại nặng nề. Cũng trong ngày hôm đó Trung
đoàn 41 Sư đoàn 325B phản kích lấy lại điểm cao 600 và 781. Đến đây, mọi
nỗ lực tấn công vào tuyến biên giới Quảng Ninh của Trung Quốc đều bị bẻ
gãy.

Biệt kích Trung Quốc đổ bộ lên bờ biển Quảng Ninh bị lực lượng vũ trang Việt Nam bắt giữ ngày 26-2-1979.
Ngày
5-3, Bắc Kinh tuyên bố rút quân khỏi Việt Nam. Chiến sự trên hướng
Quảng Ninh tạm thời chấm dứt. Trong đợt chiến đấu này, 2 cá nhân và 5
đơn vị đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân
dân.
DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU TRÊN MẶT TRẬN HÀ TUYÊN
Hà
Tuyên là hướng phối hợp, địch không tiến công lớn mà chỉ sử dụng biên
phòng và dân binh tỉnh Vân Nam đánh vào các chốt của ta ở xã Thượng
Phùng, Lũng Làn (Mèo Vạc), Lũng Cú, Ma Ly (Đồng Văn), Nghĩa Thuận (Quản
Bạ), Thanh Thủy, Lao Chải (Vị Xuyên), Bản Păng, Bản Máy (Xìn Mần), Na
Khê (Yên Minh). Tại đây bộ đội địa phương, công an vũ trang và dân quân
tự vệ đã phối hợp chặn địch. Ngoài ra lực lượng vũ trang Hà Tuyên còn
chủ động tổ chức một số trận đánh ngay vào vị trí xuất phát tiến công
của đối phương như trận đánh ngày 23-2 của Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 122
vào điểm cao 1875 hoặc trận ngày 25-2 của Tiểu đoàn 1 Mèo Vạc tập kích
địch đột nhập xã Thượng Phùng và tập kích đồn Hoà Bình.
Từ
4-3, để hỗ trợ cho hai cánh quân trên hướng Hoàng Liên Sơn và Lai Châu,
ở Hà Tuyên địch đẩy mạnh các hoạt động tiến công cấp đại đội, tiểu đoàn
nhằm vào các đồn biên phòng và các xã biên giới: Ngày 5-3 tiến công đồn
Lũng Làn và điểm cao 1379 Phìn Lò (Mèo Vạc), ngày 6 và 7-3 đánh Bản
Păng, Bản Máy (Xín Mần); ngày 8 và 9-3 đánh Phó Bảng (Đồng Văn); ngày
11-3 tiến công khu vực Lao Chải (Vị Xuyên); ngày 13-3 tiến công điểm tựa
của Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 122… đều bị đẩy lui. Đến ngày 14-3 chiến sự
tạm dừng. Trong đợt chiến đấu này lực lượng vũ trang Hà Tuyên đã tham
gia chiến đấu 61 trận, có 1 cá nhân và 1 đơn vị công an biên phòng được
phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
Theo
công bố chính thức, trên cả ba mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà
Tuyên, các lực lượng vũ trang và nhân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng
chiến 14.000 quân Trung Quốc (trong đó Hà Tuyên tiêu diệt khoảng 1.000
địch), đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn địch, phá hủy 4 xe tăng và 6 xe
quân sự.
DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU TRÊN MẶT TRẬN HOÀNG LIÊN SƠN
Hoàng
Liên Sơn là trọng điểm tiến công chính của quân Trung Quốc trên tuyến
biên giới Tây Bắc. Tại đây địch tổ chức tiến công quy mô lớn theo hai
trục: từ Quang Kim (Bát Xát) đánh xuống Cam Đường, Bến Đền và từ Nà Lốc
vào Bản Phiệt (Bảo Thắng) theo quốc lộ 70 đánh xuống Phong Hải, Phố Lu.
Để hỗ trợ cho các hướng chính, đối phương còn cho các mũi vu hồi đánh
vào Sa Pa, Mường Khương.
Ngay
trong đêm 16 rạng 17-2-1979, lợi dụng trời tối và sương mù, quân Trung
Quốc đã bí mật cho một lực lượng lớn vượt biên giới, luồn sâu ém sẵn ở
các khu vực Na Lốc, Lều Nương (bắc Bản Phiệt), bản Vược Duyên Hải (bờ
nam sông Hồng phía tây bắc thị xã Lào Cai), Mường Khương (Hoàng Liên
Sơn), đồng thời triển khai đội hình chủ lực sáp sát biên giới Việt Nam.
6
giờ sáng 17-2-1979, sau khi cho pháo binh bắn chuẩn bị với mật độ cao,
trên hướng chủ yếu quân Trung Quốc bắc cầu phao vượt sông Hồng và tổ
chức tấn công. Các đơn vị của ta lúc đầu bị bất ngờ, bị động nhưng ngay
sau đó đã kịp thời triển khai đội hình chiến đấu. Trung đoàn bộ binh
192, 254 bộ đội Hoàng Liên Sơn, Trung đoàn 16 công an vũ trang, Đồn biên
phòng Vạn Hòa, Pha Long, Mường Khương, Nà Lốc, Nậm Chảy… cùng bộ đội
địa phương huyện và dân quân tự vệ tổ chức đánh trả quyết liệt trên tất
cả các hướng, trong khi pháo binh ta vừa chi viện bộ binh vừa phản pháo
các trận địa hỏa lực ở Hà Khẩu và bắn phá các điểm vượt sông của địch.
Tuy nhiên nhờ có ưu thế vượt trội về binh hỏa lực, đến trưa 17-2 quân
Trung Quốc đã chiếm các điểm cao ở phía bắc ngã ba Bản Phiệt, toàn bộ
cánh đồng Quang Kim, Bản Qua, Bản Vược, thị xã Lào Cai và thị trấn Mường
Khương, Bát Xát. Các đơn vị ta bị tổn thất phải lùi về phía sau tổ chức
phòng ngự, tuy nhiên vẫn tiếp tục cho lực lượng bám đánh ngay cả ở
những khu vực đối phương đã làm chủ và phải đến tận 19-2 quân Trung Quốc
mới thực sự kiểm soát được thị xã Lào Cai.

Trung đoàn pháo binh 168 Quân khu 2 chi viện cho bộ binh chiến đấu bảo vệ Hoàng Liên Sơn
Trước
tình hình đó, Bộ tư lệnh Quân khu 2 ra lệnh cho Sư đoàn bộ binh 316
(thiếu Trung đoàn bộ binh 98) từ Bình Lư, Phong Thổ (Lai Châu) cơ động
lên tổ chức trận địa phòng ngự ở khu vực Sa Pa từ ngày 19-2. Đồng thời,
Sư đoàn 345 ở Bảo Thắng nhanh chóng đưa Trung đoàn bộ binh 124 vào xây
dựng tuyến phòng thủ ở khu vực nông trường Phong Hải (cây số 18 trên
quốc lộ 70).
Ngày
19-2, quân Trung Quốc tiếp tục tiến công chiếm ngã ba Bản Phiệt, dãy
Nhạc Sơn và cây số 4 Kim Tân. Ở phía hữu ngạn sông Hồng đối phương chiếm
khu vực Đá Đinh, mỏ a-pa-tít Cam Đường. Trên hướng Mường Khương, sau
khi chiếm thị trấn địch theo đường 4D phát triển xuống khu vực nông
trường Thanh Bình. Trên hướng Sa Pa một bộ phận địch luồn lách từ khu
vực Quang Kim lên Bản Khoang rồi đánh lên Ô Quý Hồ (cây số 8 trên đường
4D Sa Pa đi Bình Lư (Lai Châu), một bộ phận khác tiến công từ Cốc San
lên Cầu Đôi để phối hợp với mũi vu hồi Ô Quý Hồ đánh chiếm Sa Pa.
Ngày
22-2, cuộc chiến đấu của Sư đoàn 316 trên hướng Sa Pa bắt đầu. Sư đoàn
345 cũng tiến hành chặn đánh địch trên hướng từ Lào Cai đi Bảo Thắng.
Trên tất cả các trục tiến công của đối phương, lực lượng vũ trang ta đã
dũng cảm chiến đấu tuy nhiên do tương quan quá chênh lệch nên không thể
cản được đà phát triển của chúng, phải vừa đánh vừa rút lui để bảo toàn
lực lượng. Ngày 25-2, địch chiếm được thị xã Cam Đường (cách thị xã Lào
Cai 10km). Ngày 1-3, địch chiếm thị trấn Sa Pa (cách thị xã Lào Cai
38km) và tiếp tục đánh về Bình Lư. Đến ngày 4 và 5-3 quân Trung Quốc đã
tiến xuống cây số 36 trên quốc lộ 70, chiếm được Phố Lu (cách thị xã Lào
Cai 32km), Bến Đền. Ngày 5-3, nhà cầm quyền Bắc Kinh tuyên bố rút quân.
Từ ngày 6-3 trên hướng này quân Trung Quốc bắt đầu tổ chức rút về bên biên giới và hoàn tất vào 13-3-1979.

Pháo phản lực H12 của Trung Quốc, bị Sư đoàn 316 tịch thu trên mặt trận Hoàng Liên Sơn
Theo
công bố chính thức, các lực lượng vũ trang và nhân dân trên mặt trận
Hoàng Liên Sơn từ ngày 17-2 đến 18-3-1979 đã loại khỏi vòng chiến 11.500
quân Trung Quốc, đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn địch, phá hủy 66 xe
tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự. 12 cá nhân và 6 đơn vị được phong
tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU TRÊN MẶT TRẬN LẠNG SƠN
Tại Lạng Sơn, cuộc xâm lược của Bắc Kinh được tiến hành trên các hướng chính Đồng Đăng-Văn Lãng, bắc Cao Lộc và Lộc Bình.
Trên
hướng Tràng Định, Trung đoàn 199, Tiểu đoàn 6 Tràng Định, Đồn biên
phòng Pò Mã, Bình Nghi… cùng dân quân Đội Cấn, Tri Phương, Quốc Khánh
vừa bám đánh, ngăn chặn địch ở chốt Pò Mã, Pò Pùn, Lũng Xá, Khau Mười,
Bản Tang… vừa tổ chức sơ tán hơn 10.000 đồng bào khỏi khu vực chiến sự.
Ngày 25-2, trên hướng này quân Trung Quốc chiếm được thị trấn Thất Khê.
Trên
hướng Lộc Bình, Trung đoàn 123, Tiểu đoàn 9 Lộc Bình. Đồn biên phòng
Chi Ma cùng dân quân Tú Mịch, Yên Khoái… chiến đấu bảo vệ các điểm cao
540, 468, 557 (Chi Ma), khu vực Bản Thín, Bản Lan, điểm cao 412, 481,
402 (Tú Mịch), phản kích buộc địch phải co cụm lại ở phía nam núi Mẫu
Sơn. Đến ngày 28-2 trên hướng này quân Trung Quốc chiếm được thị trấn
Lộc Bình.
Trên
hướng Đình Lập, Sư đoàn 338, Tiểu đoàn 131 Đình Lập, Đồn biên phòng Bắc
Xa, Chi Lăng hiệp đồng với tự vệ các nông lâm trường… chặn đánh địch ở
điểm cao 899 (Chè Mùng), 538 (Bản Chắt), 476, 549… Đặc biệt, để chia lửa
cho sư đoàn bạn, ngày 22-2 Sư đoàn 338 đã chủ động dùng Trung đoàn 460
tổ chức tiến công vào hậu phương của địch, loại khỏi vòng chiến 1 tiểu
đoàn Trung Quốc và phá hủy toàn bộ khu doanh trại, hậu cần của chúng.
Ngoài ra sư đoàn còn cho công binh luồn sâu 20km vào sau lưng địch đánh
sập 2 cầu và dùng một bộ phận tinh nhuệ tập kích sân bay Ninh Minh
(Quảng Tây).
Trên
hướng Văn Lãng, một bộ phận của Trung đoàn 12 Sư đoàn 3, Tiểu đoàn 7
Văn Lãng, Đồn biên phòng Tân Thanh, Na Hình... đã phối hợp phòng ngự có
hiệu quả ở Nà Nôi, Bản Thấu (Tân Yên), Thụy Hùng… buộc địch phải tạm
dừng tiến công trong ngày 17-2.
Trên
hướng Cao Lộc, Tiểu đoàn 8 Cao Lộc, Đồn biên phòng Thanh Lòa, Ba Sơn
cùng một bộ phận Trung đoàn 141 Sư đoàn 3 chặn địch ở điểm cao 499 (Xuất
Lễ), trên hướng Bản Xâm, Thanh Lòa...
Đặc
biệt, tại hướng trọng điểm Đồng Đăng, từ sáng 17-2 cuộc chiến đấu ác
liệt diễn ra liên tục xung quanh thị trấn Đồng Đăng (cách thị xã Lạng
Sơn 14km) và ngã ba Tam Lung (cách thị xã Lạng Sơn 7km) với các điểm
nóng ở khu vực cửa khẩu Hữu Nghị và điểm cao 402, cụm chốt Thâm Mô-Pháo
đài-điểm cao 339, ga Đồng Đăng, khu đồi Chậu Cảnh, điểm cao Khôn Làng….
Mặc dù bị tổn thất, các đơn vị hỗn hợp của Sư đoàn 3, Trung đoàn 12
Thanh Xuyên, Tiểu đoàn 11 bộ đội địa phương thị xã, Tiểu đoàn 1 cảnh sát
cơ động, Đại đội 5 công an vũ trang, Đồn biên phòng Hữu Nghị Quan...
cùng dân quân tự vệ tại chỗ đã kiên cường bám trụ trận địa, đồng thời tổ
chức tiến công giành giật lại các vị trí bị chiếm đóng, gây cho đối
phương những thiệt hại hết sức nặng nề.

Bị
giam chân suốt nhiều ngày, đến ngày 22-2, quân Trung Quốc tăng cường
lực lượng mở một đợt tiến công mới vào Tân Yên, Đồng Đăng. Nhờ ưu thế
vượt trội về binh hỏa lực, sau hàng loạt trận đánh liên tục, đến ngày
23-2-1979, địch chiếm được khu vực Tân Yên, Đồng Đăng. Đến ngày 27-2,
chúng chiếm được khu vực Tam Lung.
Ngày
24-2-1979, Quân khu 1 quyết định thành lập Mặt trận Lạng Sơn, Thiếu
tướng Hoàng Đan, Phó giám đốc Học viện quân sự cấp cao được điều về giữ
chức Phó tư lệnh Quân khu kiêm Tư lệnh Mặt trận. Đồng thời, hai sư đoàn
chủ lực cùng nhiều tiểu đoàn bộ binh, binh chủng và dân quân tự vệ ở
tuyến sau được điều động lên chi viện cho tiền tuyến.
Từ
ngày 23-2, sau khi tiến hành sơ tán các cơ quan và nhân dân trong thị
xã Lạng Sơn, đội hình phòng thủ của ta được điều chỉnh lại: Sư đoàn bộ
binh 3 và Trung đoàn 197 Bắc Thái đảm nhiệm phòng ngự khu vực phía tây
và tây nam; Sư đoàn bộ binh 327, Trung đoàn xe tăng 407 và các đơn vị
của BCHQS tỉnh đảm nhiệm khu vực phía bắc và đông; Trung đoàn phòng
không 272 bố trí ở cả phía bắc và nam thị xã.
Từ
ngày 28-2, cuộc chiến đấu trên mặt trận Lạng Sơn bước sang một giai
đoạn cam go mới. Phía Trung Quốc huy động thêm bộ binh, xe tăng, pháo
binh mở cuộc tiến công quy mô lớn trên cả ba hướng đông, bắc và tây nhằm
đánh chiếm thị xã. Lực lượng vũ trang ta tổ chức kháng cự quyết liệt.
Các trận đánh phòng ngự, tập kích và phản kích dữ dội diễn ra trên các
trục đường 1A, 1B, Bản Sâm, Cao Lộc vào thị xã, khu vực Tam Thanh, Nhị
Thanh, Hoàng Đồng, Mai Pha và thị trấn Kỳ Lừa… Ở phía sau, Sư đoàn 337
lên tăng cường từ chiều 25-2 cũng bước vào chiến đấu với mũi vu hồi
chiến dịch của địch trên hướng cầu Khánh Khê, đường 1B. Chiến sự diễn ra
vô cùng căng thẳng, có những nơi như điểm cao 500, 607, 649 (đường 1B),
449, 473 (Cao Lộc)… hai bên liên tục giành đi giật lại nhiều lần.

Ngày
2-3, Quân đoàn 5 trực thuộc Quân khu 1 do Thiếu tướng Hoàng Đan làm tư
lệnh và Đại tá Phí Triệu Hàm làm chính ủy được thành lập. Các sư đoàn bộ
binh đang chiến đấu bảo vệ Lạng Sơn (3, 327, 337, 338) cùng các trung
đoàn binh chủng của Quân khu 1 được đặt dưới quyền chỉ huy chung của Bộ
tư lệnh Quân đoàn.
Chiều
tối cùng ngày hôm đó, quân Trung Quốc chiếm được thị trấn Kỳ Lừa, các
đơn vị của ta rút về giữ phía nam sông Kỳ Cùng và khu vực Tam Thanh, Nhị
Thanh. Bộ tư lệnh Quân đoàn 5 quyết định điều Sư đoàn 3 về làm lực
lượng dự bị, riêng Trung đoàn 12 Sư đoàn 3 tiếp tục bám trụ trên đường
1B đánh vào sau lưng địch, phối hợp với Sư đoàn 337 kiên quyết chốt chặn
tuyến giao thông này, không cho địch vượt qua cầu Khánh Khê tiến sang
thị xã và huyện Văn Quan.
Ngày
3-3, đối phương tiếp tục tung thêm lực lượng vào tiến công. Trên hướng
chính, địch tổ chức 3 mũi đột kích từ điểm cao 520, Hoàng Đồng và Kỳ
Lừa. Trên hướng Mai Pha địch cũng tổ chức 2 mũi đánh từ phía bắc sông Kỳ
Cùng và đông nam thị xã. Đến chiều 4-3, trên hướng đông-đông nam quân
Trung Quốc chiếm được khu vực nam sông Kỳ Cùng, sân bay Mai Pha và các
khu phố trong thị xã Lạng Sơn.
Tối
4-3, Bộ tư lệnh Quân đoàn 5 thông qua và bắt đầu triển khai phương án
mở chiến dịch phản công. Cùng thời điểm này lực lượng tăng cường của
Quân đoàn 1 cũng đã hoàn tất triển khai vào vị trí chiến đấu trên tuyến
Chi Lăng-Đồng Mỏ-Hữu Kiên phía nam thị xã. Trung đoàn pháo binh 204 với
36 dàn hỏa tiễn bắn loạt 40 nòng BM-21 đã tập kết và lấy phần tử sẵn
sàng khai hỏa. Ngày 5-3, giữa lúc các sư đoàn trên mặt trận đang ráo
riết chuẩn bị thì trưa hôm đó, nhà cầm quyền Bắc Kinh tuyên bố rút quân
khỏi Việt Nam và ngày hôm sau quân Trung Quốc rút về phía bắc sông Kỳ
Cùng. Bộ Quốc phòng quyết định cho dừng chiến dịch phản công.

Từ
ngày 6-3, lực lượng vũ trang ta tiếp tục tiến đánh những bộ phận địch
còn chiếm đóng trên lãnh thổ Việt Nam, buộc đối phương phải rút khỏi Cao
Lộc (9-3), Lộc Bình (13-3), Đồng Đăng, Tân Thanh (15-3)… về bên biên giới.
Theo
công bố chính thức, Lạng Sơn đã loại khỏi vòng chiến 19.000 quân Trung
Quốc, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn và 4 tiểu đoàn địch,
phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp, 52 xe quân sự. Để lập nên chiến công
này, quân dân Lạng Sơn cũng đã phải chịu hy sinh to lớn: Sư đoàn 3 hy
sinh 6,6% và bị thương 8,4% quân số; Sư đoàn 337 hy sinh 650 cán bộ
chiến sĩ, Sư đoàn 338 hy sinh 260 cán bộ chiến sĩ… 20 cá nhân và 14 đơn
vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, Quân
đoàn 5 được mang danh hiệu “Binh đoàn Chi Lăng”, Sư đoàn 337 được tặng
danh hiệu “Sư đoàn Khánh Khê”.
Nguồn FB Giáo dục quốc phòng: https://www.facebook.com/GiaoducQP
Nguồn FB Giáo dục quốc phòng: https://www.facebook.com/GiaoducQP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét