William Trần
Ngày
17-2-2014 năm nay là ngày vừa tròn 35 năm cuộc chiến tranh biên giới
phía Bắc hay cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung. Đây chính là ngày
mà hàng vạn thanh niên Việt Nam đang trong tuổi đôi mươi lên đường anh
dũng đấu tranh và đã có không ít người đã nằm lại nơi biên cương của Tổ
quốc trong cuộc chiến bất ngờ chống quân xâm lược này.
Có
thể như nhiều người đã biết, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã trải qua
nhiều thử thách, thăng trầm. Chúng ta ghi nhận những chi viện về tinh
thần và vật chất của Trung Quốc trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của
dân tộc. Trong thời gian đó, hầu hết người dân Việt Nam đều biết đến
những miếng lương khô, tấm vải hay quân nhu cho bộ đội ta từ chiếc mũ
cối đến cái thắt lưng; thực sự, sự giúp đỡ quý giá đó đã góp một phần
không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc của
chúng ta. Tôi đã được xem những bài báo, những phóng sự nói về sự giúp
đỡ nhiệt tình, vô tư trên tinh thần vừa là đồng chí, vừa là anh em của
nhân dân Trung Quốc cho Việt Nam chúng ta, điều đó thật đáng trân trọng.
Nhưng cuộc chiến tranh xâm lược năm ấy đã gần như xóa đi tất cả…
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Việt Nam đã nhận được rất nhiều sự
trợ giúp của các nước XHCN anh em, đặc biệt là từ Liên Xô và Trung Quốc,
do vậy việc cân bằng các mối quan hệ quốc tế này là vô cùng cần thiết.
Nhưng lịch sử đã không cho Việt Nam lựa chọn… Năm 1972, Tổng thống Mỹ
Nixon có chuyến thăm lịch sử tới Bắc Kinh trong giai đoạn ác liệt của
cuộc chiến tranh tại Việt Nam, dọn đường cho việc Trung Quốc im lặng ủng
hộ Mỹ rải thảm B52 xuống miền Bắc, gây thương vong nặng nề cho nhân dân
ta. Ba năm sau đó, đất nước ta thống nhất, trong niềm hân hoan vô bờ
bến của nhân dân và bè bạn quốc tế, Trung Quốc lại ngỏ ý muốn Việt Nam
liên minh chống Liên Xô, tất nhiên chúng ta đã thẳng thừng từ chối lời
đề nghị vô lý đó. Kể từ ấy, mối quan hệ hai nước đi vào ngõ cụt với hàng
loạt những hành động đi ngược lại tình anh em của Trung Quốc như cắt
viện trợ, rút chuyên gia, cho phỉ quấy rối vùng biên, tâm lý chiến với
các dân tộc thiểu số nhằm gây khó khăn cho chúng ta phát triển kinh tế.
Một
chuỗi các sự kiện khiến cho Trung Quốc “phải ức chế” như Việt Nam ký
Hiệp ước Hữu nghị Toàn diện với Liên Xô (1978); đồng ý tham gia Hội đồng
Tương trợ Kinh tế SEV của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu; gửi chuyên
gia, đào tạo quân đội cho nước bạn Lào và đỉnh cao là quân đội Việt Nam
tổng phản công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, tiến vào Campuchia lật
đổ chế độ diệt chủng Khơ-me Đỏ thân Trung Quốc. Khi ấy Phó Thủ tướng
Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đang đi thăm Mỹ và tuyên bố sẽ “dạy cho Việt
Nam một bài học”.
Và điều tồi tệ đối với nhân dân ta đã xảy ra… Rạng sáng ngày 17/2/1979, trong tiết trời se
lạnh của mùa xuân, dư âm của Tết vẫn vương vấn trên những cây, bông
hoa, nóc nhà của đồng bào vùng biên ải. Trung Quốc đã bất ngờ đồng loạt
xua quân tấn công 6 tỉnh biên giới nước ta gồm Lai Châu, Hoàng Liên Sơn,
Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh với chiều dài 1.200 km. Vì
đa phần người dân nước ta, thậm chí có những lãnh đạo đều nghĩ rằng hai
nước là anh em đồng chí
với nhau, nên sẽ không có chuyện dùng vũ lực, có chăng chỉ là những xung
đột nhỏ, tranh chấp và có thể giải quyết qua con đường ngoại giao nên
chúng ta đã khá bất ngờ trước vụ việc này.
Theo
con số từ phía Trung Quốc thì họ đã triển khai 600.000 quân, trong khi
đó lực lượng tại chỗ của Việt Nam tại khu vực này chỉ có 5.000 quân -
một con số quá chênh lệch vì khi ấy hầu hết quân chủ lực của chúng ta
đang ở Campuchia. Trung Quốc đã chọn thời điểm thích hợp để “dằn mặt”
Việt Nam, đặt nước ta vào tình thế
“lưỡng đầu thọ địch”. Tuy nhiên, họ đã lầm… Với tinh thần sẵn sàng
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, nhân dân, Đảng ta đã huy động và tổ chức lực
lượng đấu tranh, mà trước hết là bộ đội địa phương, công an vũ trang (bộ
đội biên phòng), dân quân tự vệ và đồng bào các dân tộc 6 tỉnh biên
giới.
Mục
tiêu chính của chúng là Lạng Sơn vì khoảng cách từ đây xuống thủ đô là
ngắn nhất (158km), đường đi lại thông thoáng, không có nhiều đồi núi
cao. Chúng đã sử dụng phần lớn quân chủ lực từ quân khu Quảng Châu, dự
định sẽ chiếm Lạng Sơn trong vòng một đến hai ngày, nhưng trên thực tế
10 ngày sau (27/2) quân Trung Quốc mới vào được thị xã. Cùng với Lạng
Sơn, các địa phương như Cao Bằng, Lào Cai… cũng lập nhiều chiến công.
Như vậy, trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, đồng bào và bộ đội ta đã
chặn đứng được bước tiến công của địch, không cho chúng đạt được mục
tiêu mà những nhà cầm quyền đã rêu rao như “Sáng ăn mì Bắc Kinh, chiều
ăn phở Hà Nội”.
Quân
và dân Lạng Sơn nói riêng và các tỉnh biên giới nói chung đã thực hiện
tốt chiến lược “chiến tranh nhân dân”, “dùng ít địch nhiều” của Đảng ta,
tổ chức đánh du kích, làm tiêu hao quân lực địch. Do Trung Quốc từ rất
lâu không có chiến tranh kể từ cuộc chiến Triều Tiên (1950) nên quân đội
mất tính chiến đấu, chậm chạp, không bài bản, vũ khí lại lạc hậu chỉ
dựa vào số đông, “chiến thuật biển người” để tấn công nước ta. Trong khi
đó, nhân dân ta, đặc biệt là nhân dân các tỉnh biên giới được Đảng và
Nhà nước ta tổ chức tập luyện tốt, cộng với tinh thần yêu nước và ý chí
quyết chiến quyết thắng đã đập tan được mưu đồ bành trướng của giới cầm
quyền Bắc Kinh. Theo ông Vương Dương Tường - nguyên bí thư tỉnh ủy Cao
Bằng xúc động cho biết toàn tỉnh không có một ai theo địch.
Sau
khi chiếm được hai thị xã Lào Cai, Cao Bằng (22/2) và thị xã Lạng Sơn
(27/2), lính Trung Quốc chịu nhiều tổn thất nặng nề về lực lượng và tinh
thần mà không thể tiến thêm xuống phía Nam. Đồng bào và quân đội Việt
Nam tiếp tục đáp trả dữ dội, lập tuyến phòng thủ từ Yên Bái tới Quảng
Yên - Quảng Ninh để bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng. Ngày 5/3/1979, Chủ tịch
nước Tôn Đức Thắng ra lời kêu gọi Tổng động viên
toàn quốc chống quân Trung Quốc xâm lược. Cùng lúc, Liên Xô cử máy bay
vận tải chở bộ đội chủ lực từ Campuchia lên biên giới, cho quân đội áp
sát biên giới với Trung Quốc và yêu cầu nếu “Bắc Kinh không rút quân thì
Liên Xô sẽ thực thi nghĩa vụ với Việt Nam…”. Trung Quốc nhận thấy “đã
hoàn thành mục tiêu chiến tranh” liền tuyên bố rút quân. Theo các nhà
nghiên cứu thì việc rút quân của Bắc Kinh là cần thiết nếu không muốn
gặp thất bại hơn nữa. Ngày 7/3/1979, thể hiện thiện chí hòa bình, Việt
Nam đồng ý cho Trung Quốc rút quân và tới 18/3/1979, lính Trung Quốc rút
hoàn toàn khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, trước khi về nước, quân xâm lược đã
phá hủy các công trình giao thông, trường, trạm ở các địa phương, đặc
biệt chúng còn đặt mìn phá sập một nửa hang Pác-bó, di tích gắn liền với
những ngày đầu Bác Hồ, sau 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước
về sống và lãnh đạo cách mạng Việt Nam tại đây.
Tuy
cuộc chiến đã kết thúc nhưng vùng biên cương phía Bắc vẫn không hề được
hòa bình mà vẫn âm ỉ tiếng pháo, tiếng súng cho tới khi hai nước chính
thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1991.
Trong
cuộc chiến chống quân xâm lược này, hàng vạn thanh niên ưu tú của Việt
Nam đã chiến đấu một cách anh dũng, không nề hà nguy nan, sẵn sàng gác
bút xung phong ra chiến trường để bảo vệ từng tấc đất của dân tộc. Sử
sách đã ghi danh anh hùng Lê Đình Chinh tay không chống lại quân phỉ gây
rối tại cửa khẩu Hữu Nghị cuối năm 1978 và hy sinh khi mới 18 tuổi
trong sự tiếc thương vô hạn của chiến sĩ, đồng bào. Nữ anh hùng Hoàng
Thị Hồng Chiêm - cô gái mậu dịch cửa hàng bách hóa Pò Hèn, cùng đồng đội
chiến đấu và hy sinh ngay khi tuổi đời còn rất trẻ… và còn hàng ngàn
những tấm gương anh hùng khác đã truyền sức mạnh mãnh liệt cho toàn quân
và nhân dân Việt Nam thời đó.
35
năm đã qua, quan hệ hai nước Việt - Trung đã bình thường trở lại, tuy
không thể quay về những năm tháng xưa kia, nhưng ít nhất cũng cho vùng
biên cương một không khí hòa bình, nhân dân không phải chịu sự thống khổ
vì cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tại Việt Nam, vì nhiều lý do khác nhau
mà cuộc chiến ít được nhắc tới, nhưng điều đấy không có nghĩa chúng ta
quên những sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ. Hàng năm, cứ tới ngày
này, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các tỉnh biên giới đều tổ chức
thắp hương, cầu nguyện, dọn dẹp vệ sinh nghĩa trang, giữ gìn giấc ngủ
cho các anh. Là một thanh niên sinh ra trong thời bình, tôi cùng nhiều
bạn trẻ khác luôn được ông bà, cha mẹ, thầy cô dạy bảo về truyền thống
“uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc ta và chúng
tôi không bao giờ quên sự hy sinh anh dũng của các anh hùng liệt sĩ đã
ngã xuống vì độc lập - tự do của Tổ quốc. Đặc biệt, được các thế hệ lão
thành cách mạng truyền lửa để thế hệ trẻ hôm nay tiếp nối truyền thống
vẻ vang, dốc sức học tập, rèn luyện và lập nghiệp vì một nước Việt Nam
thịnh vượng. Đâu đâu trên khắp đất nước hình chữ S xinh đẹp chúng ta
cũng nhìn thấy bóng dáng của màu áo xanh tình nguyện, những tấm gương
thanh niên làm giàu, xây dựng quê hương, họ sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu
khi Tổ quốc cần, đúng như câu nói mà Bác Hồ trao tặng “đâu cần thanh
niên có, đâu khó có thanh niên”. Chúng ta - thế hệ thanh niên hôm nay
hãy luôn cố gắng nỗ lực để xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước,
kế tụng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của cha anh để lại./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét