Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013
Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013
Huyền thoại về Cụm tình báo H.63
| Phần 3 . Kỳ 20, 21 |
|
|
Kỳ 20: Lắp ráp và khởi động "cỗ máy" H.63
(VietNamNet) -
Đầu năm 1962, vượt Trường Sơn, Trần Văn Quang từ miền Bắc trở về chiến
khu R (Tây Ninh). Quang có tên hoạt động là Tư Cang và nhận nhiệm vụ:
Chỉ huy lưới tình báo A18 (tiền thân của lưới H.63 sau này). Đây là
những năm tháng chiến trường miền Nam trong tình thế khó khăn. Lưới
tình báo hàng trăm người, chỉ để phục vụ và bảo vệ các điệp viên. Họ có
an toàn và hiệu quả trong lòng địch?
"Máy trưởng" nhận nhiệm vụ
H.63
là được ví như một "cỗ máy". "Máy trưởng" Tư Cang trở về từ miền Bắc,
nhiệm vụ: khởi động và vận hành trơn tru "cỗ máy" này.
Đầu
năm 1961, cụm tình báo quân sự A18 (tiền thân của cụm H.63) ra đời,
đóng tại căn cứ Bời Lời (Tây Ninh). Tất cả để phục vụ điệp viên nổi
tiếng Hai Trung. Đằng sau những tin tức, tài liệu chuyển về của Hai
Trung, là cả hệ thống phục vụ, cả trong nội đô và ngoài căn cứ.
Thời
kỳ đầu, H.63 là bộ phận địch tình của thành ủy Sài Gòn. Khi Hai Trung
(Phạm Xuân Ẩn) từ Mỹ trở về, hoạt động giữa Sài Gòn với tư cách phóng
viên báo nước ngòai, ông Mười Nho (Xuân Mạnh, Nguyễn Nho Quý - cán bộ
Cục Tình báo) là người trực tiếp chỉ đạo.
Năm
1962, ông Mười Nho bị bệnh, không thể chỉ huy H.63. Cả mạng lưới với
một điệp viên đã nằm sâu trong lòng địch như Hai Trung, cần một chỉ huy
giỏi và mưu trí. Tư Cang là người được ông Ba Trần, Thủ trưởng Phòng
tình báo miền lúc bấy giờ lựa chọn. Tháng 5/1962, Tư Cang chính thức
được giao nhiệm vụ chỉ huy cụm H.63.
"Khởi động" H.63!
"Cỗ máy" đã có "máy trưởng", sẽ kết nối các "bộ phận" và hoạt động như thế nào?
Đó
là một bình phong tốt, trí nhớ cao, thuộc nhiều địa danh trên đường
phố, địa bàn, thông thạo các phương tiện công cộng, các nơi tập trung
đông người như tiệm ăn, rạp hát, chợ... để dễ thay đổi chỗ hẹn. Liên
lạc viên nội đô phải có óc quan sát sắc bén, biết nhận diện tướng mạo
con người để phát hiện khi bị theo dõi, đủ tài đánh lạc hướng.
Ai sẽ dấn thân vào nguy hiểm và đáp ứng được những điều kiện khắt khe của nhiệm vụ kết nối này?
Nhiều
giao thông được đưa vào thành giới thiệu với Hai Trung. Nhưng ông
không đồng ý một ai. Hai Trung hoạt động trong thành, lường trước được
những điều xảy ra với một giao thông viên nội đô. Người trẻ quá dễ bị
bọn lính chọc ghẹo. Có người là thanh niên, dễ bị bắt lính bất cứ lúc
nào.
Giao
liên Nguyễn Thị Ba (quê Long An) được giới thiệu với Hai Trung. Chị Ba
(còn gọi là chị Ba già) đáp ứng được những yêu cầu mà điệp viên và tổ
chức đặt ra. Chị Ba có tuổi, giàu kinh nghiệm, thông thuộc địa bàn,
chưa bị bắt lần nào và có bình phong tốt. Hai Trung mới nghe tổ chức
giới thiệu, đã nhận ngay.
Trong
một tài liệu tổng kết về giao thông viên lưới H.63, vai trò của Nguyễn
Thị Ba được đánh giá: một giao liên gan dạ, mưu trí bên cạnh điệp
viên. Và những yếu tố khác: Chị Ba là đảng viên, chồng cũng là cách
mạng lão thành. Xa chồng, xa con, chị một mình vào Sài Gòn lấy bình
phong bán đồ vàng giả, đồ chơi trẻ con để làm liên lạc cho Hai Trung.
Theo
quy ước, chị Ba bán hàng tại khu vực Chợ Cũ (chợ Bà Chiểu - TP.HCM bây
giờ) để nhận tin tức và tài liệu từ Hai Trung chuyển ra. Thông thường,
vào sáng chủ nhật hoặc giờ nghỉ, Hai Trung đi xe đến chợ, gửi xe rồi
dắt chó vào chợ. Như một người đi mua đồ cho chó, cho chim. Đến hàng
của giao liên, Hai Trung giả vờ tìm một vài đồ vàng giả mua về cho trẻ
con.
Khi
có tín hiệu an toàn, thư được bỏ vào hàng của Nguyễn Thị Ba. Nhận tài
liệu, tin tức, Nguyễn Thị Ba sẽ trực tiếp chuyển cho giao liên đưa về
căn cứ hoặc qua các liên lạc dự bị. Cứ vậy, gánh hàng trang sức giả là
bình phong vững chắc cho liên lạc Nguyễn Thị Ba trong cả quá trình đứng
đằng sau hoạt động của điệp viên Phạm Xuân Ẩn.
10
năm làm liên lạc cho Hai Trung, Nguyễn Thị Ba chưa bao giờ sai một
buổi hẹn nào, chưa có một sai sót nào. Chỉ có Hai Trung là thất hẹn một
số ít lần vì bận đi ra ngoài thành phố không trở về kịp. Ông không thể
thông báo trước, bởi vì bình phong bắt buộc Hai Trung phải đi xa thành
phố đột xuất.
Bản
năng cẩn trọng của người giao liên họat động trong nội thành thường
trực trong con người Nguyễn Thị Ba. Chị luôn rất cảnh giác trước khi
gặp Hai Trung, cũng như khi trao nhận tài liệu, tin tức. Cụm trưởng Tư
Cang kể lại, cũng vì quá cảnh giác, nhiều khi gặp nhau trong chợ, Hai
Trung phải khuyên Nguyễn Thị Ba đừng quá nhìn xuôi ngó ngược trong lúc
nói chuyện. Vì điều này có thể gây chú ý cho bọn an ninh VNCH, vốn đầy
rẫy xung quanh.
Chị
Ba già đã giữ đường liên lạc an toàn và hiệu quả suốt mười mấy năm.
Mãi đến 3/1975, chị Ba mới được đổi bằng người khác. Sau này, thiếu tá
Nguyễn Thị Ba được phong Anh hùng LLVT.
Khi
còn sống, nhà tình báo huyền thoại Phạm Xuân Ẩn từng đúc kết về giao
liên với các nhà báo đến hỏi chuyện ông: "Điệp viên giỏi mà không có
giao liên giỏi đưa tài liệu ra căn cứ thì chỉ có... ăn cám!".
Điệp viên không cô độc
Hai
Trung, Tám Thảo và Nguyễn Thị Ba hoạt động trong lòng địch nhưng chưa
bao giờ cô độc. Bởi lẽ, từ năm 1966, cụm trưởng Tư Cang nhận nhiệm vụ
thường xuyên ra vào thành. Cụm trưởng vào vùng địch hậu hoạt động một
thời gian dài và bất hợp pháp như Tư Cang được đánh giá là cấp chỉ huy
không còn vị trí an toàn và công khai. Cụm trưởng cũng hoạt động mật
như một điệp viên.
Cụ
thể, Tư Cang nhận lệnh từ Phòng tình báo miền: Vào nội thành kiểm tra,
điều nghiên tình trạng của toàn lưới một cách cụ thể. Cụm trưởng tiếp
xúc với điệp viên, với giao thông nội đô để hướng dẫn, bồi dưỡng và
trực tiếp chỉ đạo.
Việc
ra vào thành như con thoi của Tư Cang còn có nhiệm vụ khác: lắng nghe
điệp viên, làm giảm sự cô đơn và căng thẳng từ điệp viên. Tư Cang là
cụm trưởng luôn kiểm soát được điệp viên trong mọi tình huống.
Tuy
nhiên, theo các tài liệu đánh giá sau này, sự liên lạc trực tiếp giữa
tổ trưởng và điệp viên liên tục cũng sẽ có hại đến sự an tòan của điệp
viên. Nhưng thật tài tình, chưa một lần hoạt động của điệp viên và các
mũi của H.63 bộc lộ sai sót.
Điều
này thật thú vị khi lúc đầu Hai trung không biết ai là tổ trưởng của
mình. Trung chỉ biết có một tập thể chỉ huy mình. Trong thời gian hoạt
động trong thành, từ 1966-1969, Tư Cang lấy tên là Khanh. Và trong thư
từ báo cáo, Hai Trung gọi Tư Cang là Robert. Bởi lẽ, đây là nguyên tắc
để giữ bí mật tung tích cấp chỉ đạo. Hai Trung luôn ý thức về nguyên
tắc này.
Giữa
Hai Trung và Tư Cang sau này đã trở thành 2 người bạn thân, lúc những
thông tin về 2 người đã được công bố. Chiến công của Hai Trung thì
nhiều, nhưng Đại tá Tư Cang nhớ rất rõ khoảnh khắc một buổi trưa năm
1967. Hai Trung lái xe Renault chở Tư Cang đi trên đường, cụm trưởng
báo tin cho điệp viên, tập tài liệu Hai Trung chuyển ra vừa qua rất có
giá trị. Trung ương đã quyết định tặng thưởng cho Hai Trung một huân
chương chiến công hạng nhất.
Nghe thủ trưởng nói vậy, Hai Trung mừng và nhớ ơn cấp trên. Nhưng rồi lại trầm hẳn xuống, và nói thật từ đáy lòng: đời người tình báo chẳng biết có cơ hội đeo huân chương không! Tư Cang không khỏi xót xa khi nghe cấp dưới nói vậy.
Sau
chiến tranh, "bộ máy" H.63 đã 2 lần trở thành anh hùng. Trong những
tài liệu tổng kết được công bố, H.63 được đánh giá tinh cán, gọn gàng,
nhịp nhàng giữa điệp báo và giao thông cả trong nội đô và từ nội đô ra
khu căn cứ, có sự chỉ đạo liên tục từ cụm trưởng.
Và dĩ nhiên, H.63 đã cống hiến cho cách mạng nhiều thông tin có hiệu lực và giá trị.
Nhưng,
trước khi vào thành hoạt động, vị chỉ huy bắn súng 2 tay như một đã có
những tháng ngày "ăn cùng bom, ngủ cùng đạn" tại căn cứ Bến Đình. Tất
cả để duy trì lưới và bảo vệ những tin tức, tài liệu điệp viên gửi ra.
(VietNamNet)
- Trong thành, điệp viên và giao thông nội đô đối diện với những hiểm
nguy rình rập. Ở căn cứ, cả cụm H.63 cũng thường xuyên đối mặt với các
trận vây ráp, càn quét của địch. Trước khi vào thành hoạt động, vị chỉ
huy bắn súng 2 tay như một đã có những tháng ngày "ăn cùng bom, ngủ
cùng đạn" tại căn cứ Bến Đình.
Đối diện với "anh cả đỏ"!
Năm
1965, tình hình miền Nam ngày càng căng thẳng. Bước sang năm 1965, Mỹ
liên tục đưa các sự đòan lính thủy đánh bộ, Sư đoàn 1 bộ binh, kỵ binh
không vận vào miền Nam. Trong đó, nổi lên nhất là sư đoàn kỵ binh số 1.
Địch tuyên truyền rùm beng, đây là sư đoàn thiện chiến nhất với biệt
danh "anh cả đỏ". Cạnh đó, chúng chuẩn bị đưa vào miền Nam sư đoàn bộ
binh số 25. Chúng rêu rao: Đây là sư đoàn có khả năng giải quyết nhanh
chóng chiến trường vùng nhiệt đới, nên được tôn vinh là "Sư đoàn tia
chớp nhiệt đới".
Theo
chiến lược dồn dân, lập ấp để tạo ra các vùng trắng, quân địch bắt tất
cả người dân nơi cụm đóng quân ra các ấp chiến lược. Để khủng bố và
gây áp lực bắt nhân dân phải bỏ làng mạc ra đi, chúng không tiếc pháo,
bom ném vào từng nhà một. Không ai có thể ở nổi. Cụm H.63 sống ẩn dưới
địa đạo trong các khu dân cư, chống lại những cuộc truy lùng của địch.
Cụm
trưởng Tư Cang (Nguyễn Văn Tàu) là người chứng kiến và có nhiều kỷ
niệm nhất với mảnh đất Phú Hòa Đông. Không thể hình dung nổi cảnh máy
bay ném bom trên mặt đất, cả cụm tình báo ở dưới lòng đất. "Ác liệt!" -
Hơn 30 năm sau, đại tá Nguyễn Văn Tàu nhắc đi nhắc lại cụm từ này. Ông
chợt "trở về" với Bến Đình, với những tháng ngày nằm sâu trong lòng địa
đạo oanh liệt xưa... Bến Đình trở thành quê hương thứ 2 của Tư Cang và
nhiều đồng đội trong cụm H.63. Sau ngày thống nhất đất nước, Bến Đình
là nơi ông và đồng đội thường chọn để trở về, vào mỗi dịp quan trọng.
Trận
chống càn đầu đầu tiên của cụm H.63 vào năm 1965, tại căn cứ Củ Chi.
Sư đoàn "anh cả đỏ" từ căn cứ Bắc Bến Cát, hướng về đất Củ Chi càn
quét. Quân địch được trang bị cực kỳ hiện đại và chuyên nghiệp. Lực
lượng không quân và pháo binh đi trước dọn đường. Xe tăng âm ầm rung
chuyển mặt đất. Lính bộ binh của chúng được trang bị tận răng, mỗi thằng
cầm một khẩu tiểu liên M.16 "cực nhanh" đi sau xe tăng.
Khi
chỉ còn cách Tư Cang và 2 đồng đội Năm Hải và Tư Lâm 200m, toàn bộ đội
quân của chúng bị khựng lại. Xe tăng không thể qua được vùng sình lầy.
Bọn Mỹ tức giận. Tiếng máy nổ vang một góc trời. Tổ 3 người do Tư Cang
làm tổ trưởng đang núp trong một bụi cây rậm giữa đường và sông Sài
Gòn theo dõi chúng. Thời cơ tiêu diệt những tên lĩnh Mỹ đầu tiên trên
đất thép Củ Chi đã đến. Hồi đó, anh em chỉ được trang bị súng trường
báng đỏ bắn từng phát một. Mỗi người một khẩu, riêng khẩu của Tư Lâm có
gắn thêm bộ phận lắp được đạn chống tăng.
Ba
tiếng nổ vang lên cùng lúc. Thằng Mỹ chỉ huy chết ngay tại chỗ. Thằng
mang điện đài bổ nhào xuống sông. Một cột khói bao quanh chiếc xe tăng
vừa trúng đạn của Tư Lâm. Sau phút định thần, chúng rút súng bắn loạn
xạ ra hướng sau lưng, chúng không biết tiếng súng nổ ra từ hướng nào.
Tổ 3 người lặn xuống sông và rời khỏi khu vực chiến đấu.
Ngay hôm sau, Tư Cang gửi một báo cáo gấp về trung tâm: Quân Mỹ bắt đầu chết trên đất Củ Chi!
H.63 trở thành "con mồi"!
Đội
võ trang của cụm H.63, có thành tích đặc biệt là đội đầu tiên giết
chết quân Mỹ dưới địa đạo. Cuối năm 1965, Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ được
điều qua và đóng căn cứ tại Đồng Dù (Củ Chi). Căn cứ của địch chỉ cách
căn cứ của H.63 khoảng 5-6 cây số. Đây là sư đoàn được đào tạo, huấn
luyện chiến tranh chống du kích, cách đánh du kích.
Một
ngày đầu năm 1966, không biết có chỉ điểm hay không, Sư đoàn này tính
chuyện săn cụm H.63. Khi Tư Cang và Năm Hải đi công tác trong ấp Phú An
về, anh em báo có 5 xe tăng của địch mò đến. Với kiến thức quân sự,
cụm trưởng Tư Cang nhận ngay ra đây là một cuộc hành quân trinh sát của
bọn Mỹ. Chúng đang chuẩn bị cho một trận tập kích đánh úp vào H.63.
Một cuộc họp chớp nhoáng diễn ra.
Tư
Cang đưa ra phán đoán: Có thể, chúng biết ta là một bộ phận quan
trọng, muốn dùng lực lượng mạnh đánh úp bất ngờ. Và người chỉ huy đưa
ra quyết định: đại bộ phận cụm sẽ tránh đi một địa điểm khác để giữ
liên lạc mật vụ với nội đô và cấp trên!
Cụm
trưởng cho một tổ 3 người ở lại duy trì liên lạc với các đơn vị bạn
trong vùng. Cơ bản nhất, tổ có nhiệm vụ "đánh cho bọn Mỹ một trận, cho
chúng biết tay!" Đúng như phán đoán, "anh cả đỏ" và Sư đoàn "tia chớp
nhiệt đới" bị tổ 3 người Tám Phương, Đạo và Lợi cho "phơi áo" ngay
trong lòng địa đạo.
Hôm
sau, đại quân Mỹ cỡ chừng 50 xe tăng ào ào kéo đến. Có lẽ vì nắm vững
vị trí và lực lượng H.63 theo bọn chỉ điểm nên bọn Mỹ định "ăn gọn",
bắt sống cả cụm. Sau khi ngụy trang kỹ địa đạo, tổ 3 người cầm vũ khí
chạy ra miệng địa đạo, mở nắp sẵn ngồi chờ địch tới. Đúng lúc đó, một
tình huống ngoàii dự đoán ập đến. Khi xe tăng Mỹ đang tiến vào như 2
gọng kìm khép chặt địa đạo thì một toán khoảng 20 người của ta đang chạy
đến địa đạo. Người dẫn đầu là Tư Kiếng, một cán bộ ban quân báo I4
(mật danh của Quân khu Sài Gòn - Gia Định).
Tư
Kiếng đi móc nối cơ sở bí mật trong Sài Gòn ra, vừa đến đây thì gặp
quân Mỹ đi càn. Trong quan hệ công tác, Tư Kiếng biết ở đây có lực
lượng vũ trang của cụm H.63 nên dẫn cả đoàn chạy vào ẩn náu. Cả đoàn Tư
Kiếng chui xuống địa đạo. Tám Phương là người xuống cuối cùng. Đó là
lúc gọng kìm của địch khép lại. Một chiếc xe tăng địch đã đậu trên...
nắp hầm.
Cả
đoàn quân hùng hậu của Mỹ không thấy một bóng người. Địch tức tối đi
tìm các nắp hầm bí mật. Thêm một số xe cơ giới hạng nặng từ Đồng Dù
tới. Xe tăng chạy qua chạy lại trên mặt đất để nắp hầm bật lên. Ba nắp
hầm bí mật bị khám phá.
Bọn
Mỹ cười hô hố khi thấy các nắp bị bật tung. Điện đài được đánh về
trung tâm chỉ huy ở Đồng Dù, yêu cầu trực thăng chở đội chuyên đánh
đường hầm đến. Đó là "phi đội chuột cống". Toàn những tên không to con,
vốn được huấn luyện đặc biệt tại Ha-oai, về môn đánh đường hầm.
Chuột cống "quốc tịch"... Mỹ
"Phi
đội chuột cống" chụi ngay xuống hầm. Vừa mò mẫm vừa gõ dò tìm các nắp
trầm, nắp bổng. Địa đạo được thiết kế đặc biệt và nhiều cấu trúc phức
tạp. Một đoạn đường hầm từ 8 đến 10 mét trông như bịt kín 2 đầu. Nhưng
nếu dùng đèn pin quan sát kỹ và dùng cán xẻng gõ tìm đường trong lòng
đất, gần cuối đường hầm có một nắp khi thì trồi lên để sang hầm khác,
khi thì tụt xuống. Đó là những nắm bổng, nắp trầm. Những sáng tạo khi
đào địa đạo của cụm H.63 bọn địch có đoán trước cũng không tài nào qua
nhanh được.
Mất
mấy tiếng đồng hồ, "phi đội chuột cống" mới qua được các chướng ngại
vật giăng sẵn. Chiến sĩ Đạo được giao nhiệm vụ ngồi gác trên một nắp
bổng của đoạn kế tiếp. Tám Phương chỉ đạo: Đạo giương lưỡi lê ra, khi
"chuột cống" đội nắp lên thì... xỏ lê ngang cổ, nó sẽ mắc kẹt ngang
miệng hầm. Tay cầm lưỡi lê theo lời tổ trưởng nhưng Đạo run thật sự.
Anh mới rời gia đình, nhập ngũ chưa đầy một tháng vào lực lượng vũ trang
H.63. Ở nhà, Đạo tên là Hiến. Nhập ngũ, vì đào địa đạo giỏi nên anh em
đặt tên là Đạo.
Đã
thấy lính Mỹ dậm bịch bịch ngay dưới chân Đạo. Cái nắp chuyển động.
Chúng cố sức mở nắp ra. Đạo lại đè xuống. Trong lúc bối rồi, Đạo quên
lời tổ trưởng Tám Phương dặn. Anh bỏ cây súng đã giương lê sang một
bên, toàn thân nằm trên nắp, dùng hai tay đè xuống. Phía dưới "chuột
cống" đẩy càng mạnh.
(VietNamNet) -
Tư Cang hoạt động nhiều ở căn cứ nhưng vẫn ra vô thành như con thoi.
Dù có các giao liên nội đô sống thường trực trong thành và giao liên từ
căn cứ vào, cụm trưởng vẫn phải trực tiếp vào thành nhận tin và giao
những nhiệm vụ quan trọng cho Hai Trung. Nhưng, vào thành là đối mặt
với gian nguy luôn giăng sẵn...
Về thành
Năm
1966, Phòng tình báo miền ra một chỉ thị: cụm trưởng cần sát cánh bên
điệp viên và giao thông nội đô. Tư Cang rời căn cứ Bến Đình, di chuyển
vào thành với nhiều vỏ bọc khác nhau. Bắt đầu từ buổi trưa ngày
20/8/1966. Tư Cang và chiến sĩ của mình là Sáu Ẩn dùng xuồng qua sông
Sài Gòn. Hai người theo đường tỉnh lộ 14 lên ngã ba Rạch Bắp rồi đi vào
Sở cao su Ginết.
Người
anh ruột của Sáu Ẩn là Năm Be đang phụ trách một cánh biệt động thành.
Năm Be có cơ sở mật tên là Sào đang làm lái xe tải nhẹ chở mủ cao su
từ đây về Sài Gòn. Đây cũng là cách anh em biệt động chuyển thuốc nổ,
súng ống về thành phố. Tư Cang sẽ đi nhờ xe chở cao su vào thành.
Được
dặn trước, Tư Cang đóng vai người chú của lái xe Sào từ Sài Gòn vào
thăm gia đình đứa cháu, nay tiện xe về Sài Gòn luôn. Xe vào thị trấn
Bến Cát, rẽ sang quốc lộ 13 và bon bon về Sài Gòn. Dọc đường, liên tục
qua các bốt gác của địch.
Mỗi
lần bị chặn lại, bà chủ sở cao su lại xuống trình giấy. Quá quen xe
cao su 2-3 ngày một chuyến vào ra, không tên địch nào buồn đến khám xe.
Tư Cang di chuyển ra thành phố một cách nhẹ nhàng.
12
năm rồi anh mới trở lại Sài Gòn. Tháng 6/1954, lúc đó đang là tổ
trưởng quân báo liên huyện Cần Đuốc - Cần Giờ - Nhà Bè, anh được giao
vào Sài Gòn vẽ bản đồ, điều tra các đồn bốt thuộc lực lượng Bình Xuyên,
bên kia cầu chữ Y. Sài Gòn bây giờ đã khác. Cảnh đông đúc, sầm uất
hiện ra trước mắt người cụm trưởng tình báo vốn chỉ sống ẩn mình dưới
địa đạo khắp vùng Bến Đình.
Nơi
Tư Cang đang tìm đến là một nơi đặc biệt. Đó như "căn cứ" an toàn ngay
bên hông địch. Ở đó có những con người sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy,
dung dưỡng người cụm trưởng tình báo như đứa con trong gia đình mình. Ở
đó cũng là nơi chứng kiến một tình cảm đẹp... Nơi đó là nơi Tám Thảo và gia đình đang sống.
Được
Tám Thảo dặn trước, Tư Cang mang phong thái tự nhiên đi thẳng vào ngôi
nhà 136B, hẻm 136, đường Gia Long. Anh như người thân của gia đình đã
đến đây nhiều lần. Gia đình Tám Thảo được biết đến như một gia đình
người Bắc khá giả, cách Dinh Độc Lập chưa đầy trăm mét nên bọn lính
cảnh sát, an ninh ít nghi ngờ. Gia đình có một sạp vải "Tân Mỹ" ngoài
chợ cũng là một trong những hộp thư của cụm H.63 trong thành.
Cả gia đình nhiệt tình đón tiếp Tư Cang.
Anh
nhớ lại, hôm đưa Tám Thảo vào căn cứ Bến Đình học nghị quyết, đã đặt
vấn đề vào Sài Gòn và ở tại gia đình với cô. Tám Thảo không chút do dự.
Cô nhận thấy người thủ trưởng của mình có dáng dấp thành phố, lại biết
ngoại ngữ nên dễ nhập vai.
Nhưng
cô vẫn do dự về ba mình, một người gốc Bắc vốn rất khắt khe. Tư Cang
và Tám Thảo móc nối giao liên đưa ba Tám Thảo vào căn cứ. Ông cụ đã
đồng ý với kế hoạch ở lại nhà mình của Tư Cang.
Tư
Cang trở thành người thân trong gia đình Tám Thảo lúc nào không biết.
Anh coi ba Tám Thảo như ba mình. Đêm đêm, anh nằm bên ông, vừa đấm
lưng, bóp chân cho ông vừa nói chuyện về Bác Hồ, về cách mạng. Anh dạy
thêm tiếng Anh, tiếng Pháp cho mấy đứa cháu trong nhà.
Nhiều
đêm, một tên chỉ điểm cạnh nhà lảng vảng đến, hắn đứng lại nghe Tư
Cang giảng bài rồi lặng lẽ bỏ đi. Hắn không thể ngờ người thanh niên
trắng trẻo, ưa nhìn đêm đêm giảng ngoại ngữ cho trẻ con lại là một cán
bộ Việt Cộng, một thiếu tá tình báo quân đội.
Người bạn chơi chim, chơi chó
Ở
thành phố đã yên ổn, Tư Cang nhờ Tám Thảo báo cho Hai Trung đến. Hồi
đó, giữa Hai Trung và gia đình Tám Thảo rất thân mật. Từ khi Tư Cang
lãnh đạo H.63, chỉ đạo Hai Trung chỉ qua thư. Khi gặp nhau, Hai Trung
bảo với Tư Cang: "Thằng cha này trong rừng mà ngó ngon quá!". Hai Trung
nhìn Tư Cang từ đầu đến chân.
Ông
yêu cầu Tư Cang thay áo. Chiếc áo Tư Cang đang mặc mới quá, ra đường
giặc sẽ nghi. Tiếp đến là đôi giày. Hai Trung bỏ tiền ra mua cho thủ
trưởng một đôi giày thật xịn.
Hai
người lúc nào cũng đi cùng nhau. Hai Trung đưa Tư Cang vào toàn những
nơi sang trọng để làm quen và nghe thông tin từ các nhân vật cỡ bự của
địch. Có người hỏi về Tư Cang, Hai Trung bảo đây là một người bạn là
chủ sở trên Dầu Tiếng, là bạn chơi chim, chơi chó. Hai Trung lái xe chở
Tư Cang đi khắp nơi. Phía sau bao giờ cũng có con chó cưng của Hai
Trung.
Ít
ai ngờ con chó này được Hai Trung điều khiển bằng... tiếng Pháp. Đi
bất cứ đâu Trung cũng cho chó đi theo. Con chó nằm ngoan ngoãn dưới
bàn. Hai Trung kể lại với cụm trưởng, đây là con chó của một người bên
Pháp cho Nguyễn Cao Kỳ. Một lần vào Phủ Tổng thống, ông thấy thích con
chó đẹp.
Hai
Trung móc với tên quản lý chó, làm cho chó ốm đói và ghẻ để thanh lý
cho mình, lại được thêm tiền tiêu. Tên quản lý chó nghe cũng khoái chí,
vì không phải chó của mình. Chỉ vài tuần sau, con chó đẹp đẽ trở nên
ốm đói, ghẻ lở. Nó bảo với Nguyễn Cao Kỳ, chắc là con chó này không hợp
với khí hậu Việt Nam, nên thanh lý. Hai Trung mua lại được con chó.
Bên Pháp nó đã được điều khiển bằng tiếng Pháp, Hai Trung mua về cứ thế
"nói chuyện" với nó bằng tiếng Pháp.
Điều
này gây ngạc nhiên với Tư Cang. Một lần Hai Trung dẫn Tư Cang vào nhà
hàng Victory. Sau khi đã xong việc, Hai Trung đứng lên trả tiền, con
chó đi theo. Hai Trung quát bằng tiếng Pháp: "Đứng lại!". Con chó đứng
yên. Khi trả tiền xong, trở lại bàn, Hai Trung lại nói: "Nằm xuống!"
(bằng tiếng Pháp). Con chó lại nằm xuống. Xung quanh không thể nghi ngờ
2 ông chủ giàu có, điều khiển chó bằng tiếng Pháp lại là một điệp viên
cỡ bự và một cụm trưởng tình báo cỡ bự của Việt Cộng.
Gặp
Tư Cang, Hai Trung rất mừng. Lúc này mục đích lớn nhất cấp trên giao
cho Hai Trung đang là nghiên cứu về quân sự để chuẩn bị cho cuộc Tổng
tấn công Mậu Thân 1968. Tư Cang và Hai Trung phải bám xem Mỹ Ngụy thi
hành kế hoạch quân sự 142 như thế nào? Kế hoạch bình định được chúng
cập nhật hóa ra sao? Theo dõi khi nào chúng đưa kế hoạch mới là AB 143
để thi hành năm 1968, phải lấy bằng được vào cuối năm 1967. Ngoài ra,
nhiệm vụ của Hai Trung còn xem Mỹ ngụy có nghi ngờ cuộc Tổng tấn công
của ta sắp tới không? Có sự chỉ đạo trực tiếp của Tư Cang, Hai Trung làm
tốt tất cả mọi việc.
Sát
cánh bên điệp viên, cụm trưởng Tư Cang hoạt động mật trong thành như
không khác gì một điệp viên thực thụ. Cụm trưởng H.63 được giao chỉ thị
kiểm tra, điều nghiên tình trạng của toàn lưới một cách cụ thể. Thỉnh
thoảng lại về vùng an toàn, không được ở vùng địch hậu lâu dài. Tư Cang
còn có nhiệm vụ hướng dẫn, bồi dưỡng cho điệp viên những nhiệm vụ,
nghị quyết của trên để lấy tài liệu thích ứng với tình hình.
Trực
tiếp vào thành hoạt động hỗ trợ điệp viên và nắm tình hình, cụm trưởng
H.63 đối mặt với nhiều hiểm nguy. Bằng sự mưu trí, bình tĩnh Tư Cang
đã nhiều lần vượt qua. Kể cả vượt qua chính mình...
(VietNamNet) -
Có những cuộc xét giấy "căng như dây đàn". Chỉ cần cái gật đầu nhẹ của
tên chỉ huy, Tư Cang và giao liên sẽ bị bắt, điệp viên và cơ sở ắt sẽ
lung lay. Đây cũng là dịp xạ thủ "hai tay như một" suýt nữa đã dùng đến
viên đạn giành cho riêng mình. Cụm trưởng H.63 đã vượt qua như thế
nào?
Cuộc xét giấy... thót tim
Năm
1968, sau đợt 2 chiến dịch Mậu Thân, cấp trên gọi ông về để chỉnh
huấn. Giao liên Tám Kiên lại là người đi cùng Tư Cang từ trong thành về
cứ. Hai người đi trên chiếc xe honda nữ của Tám Kiên. Trước khi đưa Tư
Cang ra cứ, Tám Kiên đã điều tra và nắm rõ tình hình đường sá. Chỗ nào
có bốt, có bốt nghiêm, bốt sơ hở, nhiều quân Mỹ, làm gắt gao... đều đã
nằm trong đầu nữ giao liên trẻ.
Hai
người vừa đi vừa nói chuyện như một đôi vợ chồng trẻ. Tám Kiên thông
tin cho thủ trưởng biết, mấy hôm nay lực lượng Mỹ - Ngụy đang càn quét
trên một vùng lớn từ Củ Chi đến Trảng Bàng. Sự liên lạc giữa khu căn cứ
và ấp chiến lược Phú Hòa Đông gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm.
Hôm
nay, Tám Kiên sẽ đưa thủ trưởng về ấp chiến lược Mỹ Phước (huyện Bến
Cát). Xe chạy bon bon về hướng Lái Thiêu. Qua trạm gác thị xã Bình
Dương, cả hai không bị xét hỏi gì. Nhìn cặp vợ chồng ăn mặc sang trọng
trên chiếc xe honda mới, các tốp lính không thể nghi ngờ.
Chỉ
còn 10 cây số nữa sẽ đến Mỹ Phước. Tư Cang nhìn thấy cách mình 100m có
một tên lính, trên tay hắn là khẩu súng cac-bin. Phía trong, dưới các
gốc xoài, mấy chiếc xe Jep đã đậu sẵn. Tình huống bất ngờ xảy ra mà lúc
sáng Tám Kiên đi không gặp.
Tư
Cang đang dùng giấy tờ giả do Tám Chứa, một cán bộ kỹ thuật Phòng tình
báo cấp. Tên lính cầm thẻ căn cước xem đi xem lại. Nó đã nghi giấy
giả. Nó nắm tay lại, bóp tờ thẻ rồi bung ra. Lại bóp và thả cho bung ra
một lần nữa. Tên này đã có kinh nghiệm trong việc xét hỏi căn cước.
Tên
lính cười gằn rồi nói: "Giấy này kỳ quá!". Tư Cang chống chế: "Mấy ông
cấp sao, tôi đi vậy chứ kỳ gì!". Nó tiếp tục "vần con mồi" bằng cách
đưa giấy ra sau lưng rồi nhìn thẳng vào mắt Tư Cang, hỏi tên cha ông.
"Ba tôi hả? Nguyễn Văn Muốn!". Cô giao thông Tám Kiên đứng bên bắt đầu
lo. Trong trường hợp này, nhiều người sẽ trả lời sai với thông tin trên
giấy. Vì đây là giấy giả, cha giả. Đây là tên ông cậu của Tư Cang.
Trả
lời xong, Tư Cang trêu lại nó: “Tía (cha) mà cũng hỏi nữa”! Nó vẫn
không chịu thua, ngó tiếp và hỏi : "Giấy cho ngày mấy?”. Giấy này là
giả, khi ra ngoài thành, ông đã cẩn thận so với giấy thật để xem và
nghiên cứu trước. Nhưng nếu trả lời quá chính xác tụi nó cũng nghi. Tư
Cang từ tốn: "Giấy mấy ông cho đâu hồi giữa năm 1962, bây giờ hỏi ngày
làm sao nhớ nổi!".
Vẫn
chưa chịu thua. Tên lính cầm tờ giấy đi vào trong, nói với tên Trung
úy chỉ huy: "Thưa Trung úy, tờ giấy này coi kỳ quá, có nhiều khả
nghi!". Tên Trung úy cầm giấy và lật đi lật lại xem. Trung uý nhìn về
phía Tư Cang, thấy anh đang vui vẻ, lại còn lấy thuốc ra hút rất tự
nhiên. Anh bảo nhỏ Tám Kiên: cứ tươi tỉnh lên!
Tên
Trung úy thấy thái độ của Tư Cang và Tám Kiên như vậy nên quay sang
thằng lính bảo: Người Sài Gòn giấy như vậy đó! Trả cho người ta đi. Tên
lính ra trả giấy, mồm vẫn lẩm bẩm: mình đã phát hiện ra giấy giả, thế
mà ổng vẫn cho đi. Khi đã thoát xa khỏi trạm xét giấy đó, Tư Cang và
Tám Kiên vẫn không hiểu sao tên Trung úy chỉ huy lại dễ dãi đến vậy.
Viên đạn cuối cùng
Trong
đợt 1 cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, nhiều tình huống nguy hiểm khi
đối mặt với giặc đã được cụm trưởng và các giao thông viên H.63 hóa
giải. Nhớ lại, ngay trong những ngày ta và địch đang đánh nhau dữ dội,
giao thông Hai Ánh vẫn mang trót lọt vũ khí từ ấp chiến lược vào cho
thủ trưởng Tư Cang.
Bữa
đầu tiên, đúng hôm đang đánh ác liệt, bọn lính ở Ba Ri - Tân Quy đuổi
cô về. Hôm sau Hai Ánh ngụy trang vũ khí trong một chồng bánh tráng.
Giả vờ là người đi bán, gặp Tư Cang hỏi mua. 2 cây súng cùng 27 viên
đạn được trao tận tay Tư Cang.
Hai
Ánh giả vờ làm rơi chỉ thị đã được cuốn tròn như viên bi nhỏ xuống
đất. Cô nhanh chân đạp lên nó. Thừa lúc không ai để ý, giả bộ cúi xuống
gãi kiến cắn, Ánh nhặt chỉ thị lên và cho vào mồm nuốt. Qua khỏi bốt
gác, cô tới ngã tư Bảy Hiền mua 2 trái dừa to để uống rồi móc họng. Tài
liệu được ói cho ra, chuyển về an toàn cho thủ trưởng Tư Cang.
Sau
này, khi chiến tranh đã qua đi, thủ trưởng Tư Cang vẫn tự hào, trong
quá trình hoạt động trong thành, lực lượng mật của H.63 không ai hy
sinh, không ai bị bắt cả. Tư Cang điều khiển lưới trơn tru đâu ra đấy.
Lực lượng mật toàn vẹn cho đến ngày giải phóng.
Trong
đợt 1 Mậu Thân, khi Tư Cang đang núp trong nhà Tám Thảo, một chuyện
ngoài dự tính đã xảy đến. Nhưng sự thông minh, khéo léo của Tám Thảo đã
giúp Tư Cang không bị lộ, gia đình không bị địch quấy rầy. Đó là những
ngày quân ta và địch đang giằng co tại khu vực Dinh Độc Lập.
Từ
trên căn xép nhỏ, Tám Thảo và Tư Cang quan sát hết được diễn biến trận
đánh. Nhìn thấy mấy tên Mỹ đứng lố nhố phía bên kia đường, Tám Thảo
bảo Tư Cang dùng tài nghệ bắn súng hạ bọn chúng. Hai phát súng của Tư
Cang hạ hai tên giặc. Bắn xong anh đi qua giường ngủ của Tám Thảo, len
qua những bành vải cùng vật dụng phế thải của gia đình và chui vào một
lỗ nhỏ bị bể trên tường gạch. Đó là nơi ẩn náu của anh.
Tức
tối, nghi vấn, địch mò vào nhà Tám Thảo lùng sục. Còn 25 viên đạn. Anh
lấy 1 viên bỏ vào túi. Bao giờ cam go, cận kề cái chết anh cũng làm
vậy. Một viên đạn luôn để dành cho chính mình. Sợ 1 viên dễ bị kẹt, anh
bỏ thêm viên nữa vào túi. Đây là lúc rất có thể viên đạn dành riêng
cho Tư Cang được sử dụng.
Ông
xác định nếu bị lộ, sẽ sống còn với chúng, và viên đạn dành cho mình
sẽ găm vào tim. Nếu không làm thế, địch sẽ bắt được và cả lưới được gây
dựng lâu nay, cả điệp viên đang an toàn trong lòng địch sẽ dễ bị vỡ.
Người chiến sĩ tình báo, trong cận kề cái chết, nhiệm vụ bảo vệ đường
dây vẫn là cao cả nhất.
Bọn
địch đã lao xao ngoài ngõ. Chúng phỏng đoán hướng bắn từ ngôi nhà này.
Tư Cang thấy thương gia đình Tám Thảo. Mọi người trong nhà đã xem Tư
Cang như người thân. Nếu chúng phát hiện ra ông, không chỉ Tám Thảo, mà
cả gia đình cô cũng liên lụy nặng.
Tư
Cang thấy thương Tám Thảo vô hạn. Với cô, không chỉ còn là tình đồng
chí đồng đội, trong những lúc cam go của cuộc chiến, những phút lãng
mạn trong lòng địch, Tư Cang đã có chút tình cảm với cô.
Tiếng
tên chỉ huy nói to: "Bắt thằng Việt Cộng ra xem gan lớn như thế nào mà
dám ở vùng này!". Có lẽ tên chỉ điểm gần nhà đã nghi từ lâu, vì thấy
Tư Cang hay đi ra đi vào với Tám Thảo. Đang ngồi thu mình trong bóng
tối, Tư Cang nghe tiếng động phát ra từ mái nhà. Bọn địch cho cả 1 tốp
đi trên ngói truy tìm kẻ bắn ra 2 phát súng vừa nãy. Chúng đã bao vây
kín nhà Tám Thảo.
Địch
đập cửa đòi kiểm tra sổ gia đình. Chúng lần mò lên tầng trên, chỗ Tư
Cang đang núp. Nó chỉ cách anh có mười mấy thước. Lúc đó, Tám Thảo
trong màn bước ra, cô làm bộ không biết gì và đối đáp với nó. Thảo cố
tình nói thông tin mình làm cho Mỹ. Tụi nó lại nhìn thấy hình tên sếp
Mỹ của Tám Thảo để trên bàn. Tên Đại úy trinh sát dẫn đầu đám lùng sục
xua quân ra về (Phần thông tin này VietNamNet đã đưa chi tiết trong loạt bài về nữ điệp viên Tám Thảo).
Sau
này, một người thuộc thế hệ sau của Tư Cang - Tám Thảo khi biết chuyện
đã viết bài thơ "Bức hình kỷ niệm" tặng 2 người. Đại tá Tư Cang đã
trân trọng in bức ảnh Tám Thảo và bài thơ trong cuốn hồi ký về trận Mậu
Thân năm 1968, như một kỷ niệm đẹp:
"Đã nhiều năm sau cuộc chiến tranh
Tôi vẫn để tấm hình em bên ngực trái Nơi ngày đó tôi cất viên đạn cuối cùng Giành cho mình khi giặc xét nhà em...
...Giờ bức hình tôi vẫn để bên tim
Nơi viên đạn tôi giành riêng ngày đó Tim tôi vẫn cuộn sôi dòng máu đỏ Bên bức hình người đã chở che tôi".
Trong
quá trình hoạt động của H.63, thời điểm trước và sau cuộc Tổng tấn
công Tết Mậu Thân năm 1968 được coi như một trong những thời kỳ hiệu
quả nhất...
Hà Trường - Việt Hà - Thế Vinh | |||||||||||||||
Huyền thoại về Cụm tình báo H.63
| Phần 3 . Kỳ 24, 25 |
|
(VietNamNet)
- Đêm 30 Tết 1968, giữa rừng khuya chiến khu, Thủ trưởng Phòng
tình báo Sáu Trí chỉnh huấn Nghị quyết của Bộ Chính trị và giao
nhiệm vụ cho Cụm trưởng Cụm tình báo H.63. Tư Cang suýt reo lên khi
Thủ trưởng Sáu Trí ra mệnh lệnh: Trở lại Sài Gòn ngay đêm nay, đêm
mai (mùng 1 rạng mùng 2 Tết), quân ta sẽ nổ súng...
Đêm chỉnh huấn khó quên
Trưa
30 tết, Tư Cang thực hiện mệnh lệnh từ thành phố về căn cứ để dự
chỉnh huấn. Đêm cuối năm 1968, Thủ tưởng Sáu Trí của Phòng tình báo
miền từ trên căn cứ sát biên giới xuống chỉ thị cho cụm H.63. Ánh
đèn trong rừng tù mù. Đêm đã khuya lắm rồi. Chỉ còn tiếng con nai
con hoẵng đi ăn đêm. Ông Sáu Trí và Tư Cang đang triển khai công
việc. Khẩn trương và cẩn mật. Trên trời, thỉnh thoảng lại có những
tốp máy bay địch đi tuần.
Đó
là một sức mạnh quân sự khổng lồ được triển khai, có thể làm nản
lòng những kẻ yếu bóng vía! Số quân Mỹ từ con số 25.000 tăng lên
75.000 (8/1965), 200.000 (cuối 1965), 389.000 (cuối năm 1966) và
cuối 1967 đã lên đến nửa triệu.
Bộ
Chính trị nhận định: "... Chúng ta đang đứng trước triển vọng và
thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang đứng trước tình thế tiến
thoái lưỡng nan về chiến lược. So với mục tiêu chính trị và quân sự
có hạn của chúng ở miền Nam, những cố gắng chiến tranh của Mỹ
(cùng với những thiệt hại nặng nề của chúng) ở Việt Nam đã tới đỉnh
cao... Thế chiến lược của chúng đã bị đảo lộn, tinh thần binh sĩ
càng thêm sa sút, bạc nhược...". Tuy nhiên, không thắng được nhưng
vẫn không chịu thua. Chúng muốn đàm phán để rút khỏi cuộc chiến tranh.
Và địch có lập trường "lạ đời": Đàm phán trên thế mạnh!
Lúc
bấy giờ, nhiều báo chí phương Tây cũng nhận xét về vị thế chiến
tranh của Mỹ tại miền Nam Việt Nam: "Mâu thuẫn giằng co. Đó là con
đường hầm không lối thoát!".
Đấy
là những nhận định có cơ sở thực tiễn và lý luận, về địch. Còn
tình hình và vị thế của ta, Bộ Chính trị chỉ rõ: "Về phía ta, chúng
ta đã thắng địch cả về chiến lược lẫn chiến thuật, thế và lực của
ta phát triển mạnh hơn bao giờ hết. Lực lượng quân sự và chính trị
của ta ở miền Nam đã lớn mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch
chiến tranh giải phóng của ta".
Từ
nhận định về địch, về ta, Bộ Chính trị chỉ ra hành động: Tình hình
này cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ
mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định! Giữa
rừng khuya, Tư Cang như nuốt từng lời chỉnh huấn của thủ trưởng, mà
lâu lắm rồi, ông đã khát khao được nghe từ khi đang hoạt động
trong thành.
Sáng
mùng 1, Thủ trưởng Sáu Trí tiếp tục phổ biến cho cụm trưởng H.63
về tinh thần của Trung ương Cục và chỉ thị của Bộ Tư lệnh quân giải
phóng miền Nam: Chỉ trong đêm nay, đêm mùng 1, rạng mùng 2, quân
ta sẽ mở một trận tổng tấn công trên toàn miền Nam.
Tư
Cang náo nức. Ông và đồng đội trong cụm là một trong những đơn vị
trực tiếp chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công được mong chờ này. Từ
việc phát hiện cơ sở địch, đến việc vẽ bản đồ từng mục tiêu gửi về
Bộ Tham mưu.
"Tình
báo chúng ta đã phát hiện sơ hở của giặc, đã cung cấp tài liệu,
bảng vẽ các mục tiêu. Giờ đây, ngoài nhiệm vụ cùng tham gia tấn
công một số điểm, cấp trên chỉ thị phải theo dõi, đánh giá thật
đúng thắng lợi của ta, thất bại của địch và những hậu quả có tính
chiến lược sau đòn tổng tiến công này..." - Mệnh lệnh của Phòng
tình báo miền giành cho chỉ huy cụm H.63.
Đến
tận bây giờ, sau gần 40 năm tính từ cái đêm ra rừng dự chỉnh huấn
đó, Đại tá, Anh hùng LLVT Nguyễn Văn Tàu không thể nào quên cái
siết chặt tay tạm biệt với niềm hy vọng mãnh liệt từ thủ trưởng Sáu
Trí.
Sự cố và may mắn trước giờ G
Đầu
giờ chiều ngày mùng 1 Tết Mậu Thân, Tư Cang trở về Sài Gòn, chuẩn
bị cho cuộc tổng tiến công. Anh được giao liên dẫn ra trạm liên
lạc. Thời gian chỉ còn mấy tiếng đồng hồ. Tuy nhiên, một sự cố đã
xảy ra với phương tiện di chuyển của Tư Cang.
Chiếc
xe máy anh đi từ thành vô rừng đã bị hư. Nguyên do thật dở khóc dở
cười. Khi Tư Cang vào căn cứ làm việc với thủ trưởng phòng, thấy
chiếc xe máy đẹp, anh em ở trạm giao liên đã trót... nghịch. Một
người đã nổ máy, vặn mạnh tay ga và... dậm số 1. Chiếc xe lồng lên
như con ngựa chứng và vọt mạnh vào gốc cao su, cả xe và người ngã
lăn kềnh ra đất. Chiếc xe không thể nổ máy lại.
![]() |
| Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 là ký ức khó quên mà Tư Cang luôn "cất giữ" một cách trân trọng |
Nhưng
chiếc xe lại trở chứng. Nó chết máy khi còn cách Sài Gòn 50 cây
số. Đạp mỏi chân, máy vẫn ì ra. Tình thế nước sôi lửa bỏng. Bằng
mọi giá anh phải về Sài Gòn trong đêm nay. Không còn sự chọn lựa
nào, Tư Cang đành lầm lũi dắt xe đi trong bóng đêm mùng 1 Tết.
Anh
hình dung về cuộc tổng tấn công sắp nổ ra. Đồng đội thì lội trên
ruộng lầy, anh đi trên con đường tráng nhựa. Đồng đội tiến bước tập
thể, còn anh dắt chiếc xe hỏng lụi cụi đi. Chỉ có bóng đêm và sự
cô độc vây quanh.
Đang
dắt xe đi bộ, Tư Cang choáng váng khi phía trước là vài chiếc xe
tăng Mỹ. Hai thằng Mỹ bước tới, súng chĩa thẳng vào Tư Cang. Một
tên hỏi, bằng giọng giễu cợt: "Vixi? (V.C - Việt cộng phải không?).
Nó bắt chước giọng tiếng Việt lơ lớ: "Đi đâu?".
Tư
Cang bình tĩnh đáp trả, cũng bằng giọng đùa nghịch: "Ô, nô, nô
Vixi!" (Ồ, không phải Việt cộng). Anh giải thích, ngày Tết đi thăm
bà con về bị hỏng xe. Tư Cang tiếp tục tỏ ra hồn nhiên, nói với
chúng bằng tiếng Anh: "Hello! Happy New Year!".
Sau
khi hỏi vài câu, tên Mỹ không nghi ngờ gì. Nó còn giúp Tư Cang đạp
máy. Chiếc xe vẫn im lặng. Để cảm ơn, anh lấy bao thuốc Lucky
Strike ra mời chúng và tranh thủ hỏi tin tức. Tên Mỹ cho biết, quân
đội đã được lệnh báo động. Bởi lẽ, đêm qua (30 Tết), Việt cộng tấn
công nhiều điểm tại miền Trung, trong đó có thành phố Huế.
Lại
lầm lũi dắt xe đi trong đêm, cho đến khi anh gặp một toán thanh
niên đi ngược chiều tặng cho một bugi dự phòng. Tư Cang về đến Sài
Gòn lúc 9h30. Cụm trưởng H.63 tranh thủ đi giao nhiệm vụ cho đồng
đội và đi một vòng đến các mục tiêu chính trong trận tấn công đêm
nay. Bộ Tư lệnh Hải quân, Toà đại sứ quán Mỹ, dinh Độc Lập... Vẫn
im lìm trong bóng đêm đầu năm.
Nơi
trở về của Tư Cang trong thành là nhà Tám Thảo, ở số 136B đường
Gia Long. Cả nhà Tám Thảo đón Tư Cang như người thân vừa đi xa trở
về. Ông Nguyễn Đình Phong (bố Tám Thảo) sực nhớ, đôi mắt sáng rực
nói với Tư Cang: "Đêm qua, lúc giao thừa, vặn đài Hà Nội đón thơ
chúc Tết của Bác, ba sướng quá! Nhất là câu cuối: Tiến lên! Toàn
thắng ắt về ta!".
Xúc động, anh nói với ông Phong, người mà anh đã xem như cha từ lâu: "Ngày ấy không còn lâu nữa đâu ba...!".
Vào
thành, "ông chủ đồn điền" Tư Cang được Hai Trung đưa đi nhiều nơi
để nghiên cứu tình hình. Thậm chí, sau trận Mậu Thân đợt 1, Tư Cang
còn ngồi nói chuyện tay đôi với một tên Đại tá VNCH. - Thế Vinh - Hà Trường - Việt Hà
(VietNamNet)
- Tiếng súng cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 đợt 1 kết thúc.
Với tài sắp xếp của Hai Trung, Tư Cang trong vai "ông chủ đồn
điền", bạn "chơi chim chơi chó" của Phạm Xuân Ẩn đã ngồi nói chuyện
"ngang vai" với một Đại tá VNCH, phân tích về cuộc chiến vừa diễn
ra...
Theo đúng kế hoạch, đêm nay, những mục tiêu quan trọng như toà Đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Tổng nha cảnh sát, Biệt khu Thủ đô, Đài Phát thanh, Bộ Tư lệnh Hải quân... sẽ phát ra những tiếng nổ. Cũng giờ này, trên các hướng tấn công, đại quân ta đang áp sát Sài Gòn. Trong thành phố, các cánh quân biệt động đặc công đang âm thầm tiếp cận mục tiêu, chờ hiệu lệnh.
Theo đúng kế hoạch, đêm nay, những mục tiêu quan trọng như toà Đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Tổng nha cảnh sát, Biệt khu Thủ đô, Đài Phát thanh, Bộ Tư lệnh Hải quân... sẽ phát ra những tiếng nổ. Cũng giờ này, trên các hướng tấn công, đại quân ta đang áp sát Sài Gòn. Trong thành phố, các cánh quân biệt động đặc công đang âm thầm tiếp cận mục tiêu, chờ hiệu lệnh.
Không
cần đợi lâu, bên ngoài đã có tiếng súng. Lúc thì dồn dập, lúc thưa
thớt từng loạt ngắn. dinh Độc Lập, toà Đại sứ Mỹ, Bộ Tư lệnh Hải
quân, Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất đều phát ra tiếng
súng. Tư Cang rộn lên một cảm giác vui sướng. Bởi lẽ, tất cả những mục
tiêu mà lực lượng tình báo cung cấp tài liệu đang được bộ đội đặc
công tấn công.
Khen Việt Cộng trước mặt... V.C
Hôm
sau, Tư Cang đến toà báo Times, nơi làm việc của Hai Trung. Trung
được giao nhiệm vụ giúp Tư Cang trực tiếp nghe sự đánh giá của một
sĩ quan cao cấp nguỵ, về trận đánh tối qua. Hai Trung nhấc điện
thoại, gọi mời tên đại tá L., sĩ quan phụ trách Phòng hành quân tác
chiến (Bộ Tổng tham mưu quân đội VNCH) đến uống trà. Đại tá L. khá
kính nể Hai Trung. Hắn đến ngay toà báo Times.
![]() |
| Hai Trung (ngoài cùng, bên phải) đã từng sắp xếp cho Tư Cang ngồi nói chuyện về chiến dịch Mậu Thân 1968 với các sĩ quan VNCH (Ảnh tư liệu, minh hoạ) |
Không
thể ngờ ngồi trước mặt mình là 2 Việt Cộng, Đại tá L. thừa nhận:
Việt Cộng đã tổ chức một trận đánh tuyệt đẹp! Hắn không ngớt lời
khen Việt Cộng trước mặt... 2 Việt Cộng. Tỏ ra mình là người nắm rõ
thông tin để cung cấp cho nhà báo Times và ông chủ đồn điền... khoái
nghe chuyện chiến sự, đại tá L. kể chi tiết về việc Việt Cộng đánh
đại sứ quán Mỹ, chỉ với 17 người, suýt bắt sống viên đại sứ.
Vì
sao tên đại tá VNCH lại coi đó là một "trận đánh tuyệt đẹp" của
Việt Cộng? Hắn phân tích cho Hai Trung và Tư Cang nghe: Đánh giữa
trung tâm Sài Gòn, vào ban ngày, phóng viên các nước đổ xô đến quay
phim, chụp ảnh. Ngay chiều hôm ấy, truyền hình Mỹ và các nước phương
Tây, báo chí, đài phát thanh đều nêu rùm beng. Cả thế giới biết đến
cuộc tấn công Mậu Thân 1968, chỉ sau vài giờ đồng hồ.
"Tâm
lý thế giới xáo trộn, tâm lý dân Mỹ xáo trộn. Qua trận này, người
Mỹ sẽ không tin vào Tổng thống Johnson nữa, không tin vào bộ máy
tuyên truyền khổng lồ của ông ta nữa. Cuộc vận động tranh cử của
ông ta vào cuối năm 1968 sẽ... đi đứt".
Đại
tá L đưa ra thông số, phân tích tiếp về hậu quả trận đánh này:
theo báo cáo đầu tiên Bộ Tổng tham mưu nắm được, 39/44 tỉnh lỵ, 5/6
thành phố, 71/245 quận lỵ đã bị pháo kích và tập kích.
Thật
nực cười, Tư Cang nhớ lại những thông tin mình nắm được từ Phạm
Xuân Ẩn trước đó. Tình hình trước Tết mới lắng dịu đi đôi chút,
Tổng thống Mỹ và Tổng thống VNCH đã vội gặp nhau nâng cốc chúc mừng
"thắng lợi". Rồi quay phim, chụp ảnh, báo chí đưa rùm beng để "bịt mắt"
người dân và nâng cao uy tín.
Đại
tá L vẫn say sưa thổ lộ: "Để đánh trận này, Việt Cộng đã có sự
chuẩn bị từ hơn nửa năm nay. Khoảng giữa năm 1967, tình báo của
quân đồng minh cho biết, Bắc Việt Nam đã quyết định một chiến lược
mới. Tháng 1/1968, quân đồng minh công bố một văn kiện của cộng sản nói
về cuộc tổng tấn công. Tuy nhiên, chúng đưa ra một bình luận run sợ
và hồ nghi: Đây chỉ là tài liệu nghi binh của cộng sản!"
Trên
thực tế, trước trận đánh Tết Mậu Thân 10 ngày, tướng Westmoreland,
tổng chỉ huy quân đội Mỹ có nhận định: Khe Sanh và các tỉnh Quảng
Trị, Thừa Thiên là hướng chính mà Việt Cộng nhắm trong mùa khô này.
Còn các tin khác đều là... nghi binh, để đánh lạc hướng! Các nhà
chiến lược Mỹ lo sợ, một Điện Biên Phủ sẽ tái diễn ở Khe Sanh trên
vùng rừng núi.
"Không
ai ngờ Việt Cộng mở trận tấn công vào các thành phố ngay trong dịp
Tết. Chúng ta bị một cú bất ngờ hoàn toàn về mặt chiến lược..." -
Đại tá L thừa nhận.
Tư
Cang đã có trong đầu sự quan sát từ thực tế giữa Sài Gòn và những
nhận định của tên sĩ quan L Nhưng như thế vẫn chưa đủ cho một báo
cáo tình hình gửi ra Phòng tình báo miền. Anh cần một tài liệu
nguyên bản của địch. Nữ điệp viên Tám Thảo được giao nhiệm vụ này.
Là
một người thân cận của tên thiếu tá tình báo Hải quân Mỹ, nhưng
nhiệm vụ của Tám Thảo không đơn giản. Sau trận đánh vừa qua, bọn
địch kiểm tra gắt gao hơn mọi thứ. Tuy nhiên, Tám Thảo là người
luôn biết cách đơn giản hoá mọi hiểm nguy, bằng chính sự thân cận với
tên thiếu tá Mỹ.
Hết
giờ tan sở, Tám Thảo giả vờ nhức đầu, cô nhờ tên thiếu tá tình báo
hải quân dùng ôtô hiệu Mercury đưa về. Sự tính toán này của Tám
Thảo mang lại nhiều thuận lợi: Tài liệu lấy được sẽ không bị xét,
tạo thêm bình phong tốt tránh sự nghi ngờ của những tên chỉ điểm luôn
lảng vảng quanh nhà cô.
Chỉ
trong vòng 15 phút, Tư Cang đã tranh thủ đọc qua và chụp hết 10
trang tài liệu. Đó là một bản báo cáo sơ kết của Bộ Tổng tham mưu
VNCH bằng tiếng Việt. Tài liệu đi vào chi tiết hoá thiệt hại từng
trận đánh trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Chúng nhận định đại khái về sự
bất ngờ về quy mô và thời điểm tấn công của Việt Cộng. Địch bị
thiệt hại nặng nề về quân số, phương tiện, vũ khí. Chúng đang ổn
định lại tâm lý rã rời của binh sĩ.
Thêm
những thông tin quan trọng cho ta qua nhận định của chúng: cơ sở
mật vụ của Việt Cộng trong thành phố và ở nông thôn vùng ven bị lộ
nhiều, cần đẩy mạnh hoạt động chiến dịch Phượng Hoàng để tiêu diệt
cơ sở của cộng sản.
Bản
tường trình của cơ quan tình báo quân sự Mỹ cũng đưa ra nguyên
nhân bất ngờ. Chúng còn đưa ra những kiến nghị: từng đơn vị phải rà
soát lại các lưới điệp báo của mình, cái nào mất tác dụng mạnh dạn
cắt bỏ, tăng chi phí cho những nhân viên còn có hiệu lực. Bản tường
trình yêu cầu dùng bộ binh kết hợp với hoả lực phi, pháo tối đa để
tiêu diệt chủ lực Việt Cộng ở vùng ven Sài Gòn.
Những
thông tin bí mật của địch đã nằm trong tay Cụm trưởng tình báo
H.63. Tư Cang viết một bản báo cáo về trận Mậu Thân. Anh ghi lại
những tin tức các nguồn cung cấp, tường thuật lại buổi nói chuyện
với tên Đại tá L và nhận định riêng của mình về kết quả, ảnh hưởng của
trận tổng công kích. Với những tài liệu chụp ảnh nguyên bản, Tư
Cang sẽ chuyển về cho cấp trên nghiên cứu, nhưng lưu ý mấy điểm:
Một, ý định tấn công của ta kẻ thù biết được một tháng trước, cần
tìm hiểu nguyên nhân, đề phòng nội gián. Hai, nên chú ý đối với âm
mưu của Mỹ nguỵ để khỏi tiêu hao lực lượng chủ lực trên các chiến
trường vùng ven Sài Gòn, nên củng cố và rút vào bí mật trở lại
những cơ sở và tổ chức quần chúng trong thành phố và nông thôn vùng
ven.
Truy tìm khẩu cung kẻ "về với chính nghĩa quốc gia"
Đại
tá anh hùng Nguyễn Văn Tàu nhớ như in một nhiệm vụ quan trọng sau
đợt 1 cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968. Đang chuẩn bị đánh đợt 2
thì gặp sự cố. Ngày 20/4, một người của mình tên là Tám Hà (Trần
Văn Đắc), Trung tá, Chủ nhiệm Chính trị cánh quân phía Bắc ra đầu hàng
địch.
![]() |
| Tư Cang nhớ lại, sau đợt 1 cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, là một trong những khoảnh khắc căng thẳng nhất. |
Vào
đến thành an toàn, Tư Cang mua một tờ báo thấy hình Tám Hà đứng
giữa tên Tổng chỉ huy quân đội Mỹ Westmoreland và Phạm Ngọc Thuần,
chỉ huy trưởng khu 5. Tờ báo rút dòng tít rất kêu: "Thượng tá Tám
Hà đã về với chánh nghĩa quốc gia". Tư Cang chỉ đạo Hai Trung lấy bản
khẩu cung của tên phản bội.
Hai
Trung cũng đã nuôi sẵn mấy mối hồ sơ trong đội hình giặc. Hai
người đi xe tới lăng ông bà Chiểu. Hai Trung gọi một tên thượng sĩ
giữ hồ sơ ra. Tên này vốn là chân tay của Hai Trung. Hắn mang hồ sơ
ra, không quên dặn Hai Trung đúng giờ làm việc phải trả hồ sơ. Hai
người chụp lại bản khẩu cung của Tám Hà.
Tư
Cang được Hai Trung dẫn đi lòng vòng đến các nơi khác. Trên đường
đi, hai người vừa trao đổi vừa nhận ra rằng, Mỹ rất sợ mình đánh
đợt nữa. Tư Cang giải thích: "Bởi vì, bị đánh đợt nữa nó mất uy tín
chính trị, không còn cách cứu vãn về mặt chiến lược. Còn về mặt chiến
thuật, mấy sư đoàn Mỹ đều bảo, lên rừng khó đánh, để quân ta xuống
thành chúng sẽ đánh dễ hơn!".
Tư
Cang nắm được tình hình, về viết báo cáo, đưa ý kiến của mình vào
và cho rằng, nếu mình chuẩn bị kỹ rồi thì cứ đánh đợt nữa. Thủ
trưởng Sáu Trí nhận thư, chuyển lên. Đúng lúc Trung ương Cục đang
họp, đang tranh luận đánh nữa hay không, Tám Hà đã ra hàng rồi có đánh
nữa không? Lại thêm phần b&aacu
Huyền thoại về Cụm tình báo H.63
Phần 3 - Kỳ 26, 27, 28
Kỳ 26: "Nam châm hút pháo"
Kỳ 26: "Nam châm hút pháo"
(VietNamNet) -
Đến tận bây giờ, khi cuộc chiến đã lùi xa vào dĩ vãng, Anh hùng
tình báo Tư Cang vẫn "cay cú" những vụ quân Mỹ liên tục "đánh hơi
thấy" nơi ẩn nấp của H.63 dưới địa đạo. Địch dò theo tín hiệu điện
đài của cụm để đánh vào địa đạo. Tín hiệu như thỏi nam châm, "hút
pháo" đến sát miệng hầm... Những năm tháng chuẩn bị cho chiến dịch
Mậu Thân 1968 nghẹt thở trôi qua...
150 phút dưới lòng đất
150 phút dưới lòng đất
Ông
nhớ lại chuyện Tết năm 1967. Một năm trước khi chiến dịch Mậu Thân
diễn ra. Địch bám theo tín hiệu điện đài của ta để đánh địa đạo.
Ngày cuối năm tại căn cứ Bến Đình. Địch liên tục đi săn tìm địa đạo
để tiêu diệt. Nếu chúng phát hiện ra, hoặc tiêu diệt, sẽ lâm nguy
đến điệp viên hoạt động trong thành cũng như toàn H.63 sẽ bị tiêu
tan. Cả cụm đang ngồi dưới hầm bỗng nhiên thấy đất rung lên ầm ầm.
Ông
lại bình thản ngồi thảo điện về trung tâm. Anh em dựa lưng vào
vách hầm. Yên tâm hơn khi vị chỉ huy vẫn coi như không có chuyện gì
xảy ra. Tư Cang ngừng viết, nhìn đồng đội mình. Toàn những người
gan góc, dũng cảm, trải qua nhiều thử thách cam go đều vượt qua.
Ông hiểu rõ từng tính nết mỗi đồng đội như Năm Hải, Bảy Phẩm, Tư
Thành, Tám Phương...
Hơi
thở của ông và đồng đội nặng nề hơn. Ông vẫn ngồi viết. Nhưng
trong lòng lo lắng theo dõi diễn biến từng động tác của anh em. Lúc
này, một lời nói, một cử chỉ của người cụm trưởng sẽ tác động đến
anh em rất lớn. Lần này cũng như bao lần nguy nan đã qua, anh em
đều hướng vào cụm trưởng của mình. Họ chờ đợi một quyết định khôn
khéo và chính xác.
Mới
chỉ 15h30 chiều. Ít ra, cụm còn chịu đựng hai tiếng rưỡi nữa. Theo
kinh nghiệm của các lần trước, 6h chiều bọn địch không tìm thấy
nơi trú ẩn của ta, sẽ bỏ đi. 150 phút nữa trong điều kiện thiếu
không khí. Hơi thở của Tư Cang trở nên dồn dập hơn. Mạch máu 2 bên
mang tai đập mạnh. Tám Phương bò lại gần cụm trưởng, giọng cương
quyết: "Cho mở nắp lên đánh chết chúng nó đi! Dưới này rồi cũng
chết, tôi không còn chịu nổi nữa!".
Tư
Cang nhìn về phía nắp hầm. Chỉ cần ông gật đầu đồng ý, Ba Hoa sẽ
đưa tay đẩy mạnh nắp. Tư Cang và đồng đội sẽ dũng mãnh liều mình
xông lên, mở đường máu thoát thân. Nhưng điều gì sẽ xảy ra sau đó?
Tư Cang hình dung, quân địch đông, chắc chắn mình đánh không lại.
Chúng sẽ nhanh chóng tiêu diệt toàn đội. Bọn Mỹ sẽ móc xác anh em
vào xe, kéo xềnh xệch qua xóm, qua chợ. Bà con mình sẽ đau xót lắm!
Thấy
cụm trưởng vẫn ngồi im, hàng loạt ý kiến ủng hộ Tám Phương đưa ra:
"Có chết, chết trên mặt đất sướng hơn!". Tất cả cùng nhìn Tư Cang
chờ đợi. Ông nhìn đồng hồ, mới có 16h17 phút. Còn 2 tiếng đồng hồ
nữa. Tư Cang không thể ngồi im được. Ông trấn tĩnh anh em, giọng ôn
tồn nhưng dứt khoát của người chỉ huy: "Các đồng chí! Được cầm
súng chiến đấu đối mặt với quân thù, bao giờ cũng là ước nguyện, tư
thế của chúng ta. Nhưng nhảy lên chiến đấu rồi hy sinh trên mặt
đất là dễ, còn vững chí ngồi đây chịu đựng mới là khó! Anh em kiên
quyết ngồi lại. Nếu chúng ta chết vì ngộp thì Mỹ cũng không biết đã
tiêu diệt được cụm chúng ta..."
Ông
nói xong lại lặng lẽ ngồi thảo bức điện báo cáo lên trên. Bỗng từ
trên nắp hầm, đất rơi xuống lộp độp. Trên mặt đất, có tiếng chân
người và tiếng cây dộng xuống nghe thình thịch. Ba Hoa nói nhỏ với
cụm trưởng: "Bọn Mỹ đang sục sạo tìm hầm. Lỗ hơi duy nhất còn lại
đã bị bịt kín!". Lại mỗi người một ý trong tiếng nói chung mở nắp
hầm lên đánh.
Lỗ
hơi còn lại của đoạn hầm cụt đã bị bước chân địch giẫm kín. Tư
Cang nhìn anh em một lượt. Ai cũng đã quá mệt mỏi vì thiếu không
khí. Ông nói kiên quyết: "Anh em hãy suy nghĩ kỹ, mình là quân đội
hay dân thường? Đã là quân đội thì phải có kỷ luật, phải nghe theo
lời người chỉ huy. Tôi là người chỉ huy ở đây! Tôi ra lệnh: Kiên
trì chịu đựng! Chúng ta ở đây đều là đảng viên, không có một khó
khăn gian khổ nào trên trái đất này làm nhụt được ý chí. Chúng ta phải
vươn lên tất cả để chiến thắng!".
Giọng
nói chắc gọn nhưng truyền cảm của Tư Cang thuyết phục được đồng
đội. Ông lại nhìn đồng hồ. Gần đến 6h chiều. Mọi ngày 6h30 mới cho
mở nắp hầm, nhưng hôm nay ông sẽ cho mở sớm hơn. Chiếc kim phút
nhích dần, nhích dần từng tý. Đúng 6h15, ông vui mừng ra lệnh:
"Lên!". Anh em xốc lại súng đạn. Ba Hoa mở hé nắp hầm lên. Không
khí tràn xuống hầm, dễ chịu.
Quân
Mỹ đã bất lực rút hết về bãi đóng quân. Đêm 30 tết tối như mực.
Gió xuân mang hơi lành lành từ sông Sài Gòn ùa vào. Mọi người nhìn
cụm trưởng Tư Cang cảm phục. Ai cũng hiểu, trong chiến tranh, không
chỉ đối diện với quân thù mà còn phải thắng cả bản thân mình nữa.
Chỉ còn mấy tiếng nữa đến giao thừa...
Ông Việt Cộng thương... trẻ Mỹ!
Nhiều
đồng đội bị hy sinh dưới làn đạn lính Mỹ, nhưng Cụm trưởng Tư Cang
nổi tiếng với hành động kỳ quặc, nhưng nhân văn: Tha chết cho lính
Mỹ vì chúng quá... trẻ!
Từng
diệt nhiều lính Mỹ ở ấp chiến lược, nhưng có lần nhìn thấy Mỹ,
trong điều kiện bắn an toàn mà Tư Cang... không bóp cò. Tha cho kẻ
thù của mình vì tự nhiên "lòng thương trỗi dậy", có lẽ là điểm đặc
biệt của cụm trưởng tình báo H.63 này.
Hồi
năm 1966, trong trận càn Xê Đa Phôn quanh vùng ven Sài Gòn. Khi đó
Tư Cang đang chỉ huy lực lượng võ trang của cụm H.63 chống càn ở
Bến Đình (Củ Chi). Anh em nằm trong địa đạo rình.
Một
tốp lính Mỹ đi qua. Chỉ cách họng súng Tư Cang có 4-5m. Tên nào
cũng trẻ măng. Tư Cang đưa súng lên, rồi lại hạ xuống. Tự nhiên ông
thấy thương "bọn trẻ".
Ông
nổi danh với biệt tài bắn súng 2 tay và bách phát bách trúng. Chỉ
cần bóp cò là chúng chết ngay. Trong đầu ông nghĩ, chắc tụi này
cũng bị ép đi lính sang Việt Nam.
Ông
đấu tranh tư tưởng và quyết định, nếu nó phát hiện ra mình, mình
sẽ bắn trước. Thế rồi tốp lính trẻ đi qua. Sau trận càn, nhiều
người la ông: Trời ơi, ông ở đó mà tụi nó đi qua, ông không làm vài
tràng cho nó chết hết đi!
Cùng
vào sinh ra tử. Cùng chung ý chí, hành động. Nhưng nhiều đồng đội
thân yêu của cụm trưởng H.63 đã lặng lẽ hy sinh. Trong chuỗi ký ức
hào hùng về một H.63 anh hùng, vị đại tá anh hùng không lúc nào
quên 2 tiếng: đồng đội!
- Việt Hà - Hà Trường - Thế Vinh
(VietNamNet) -
Gặp anh hùng tình báo Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) giữa Sài Gòn những
ngày tháng 4/2007. Lại sắp đến ngày giải phóng miền Nam. Đó là một
trong những ngày ông nhớ đồng đội nhất.
Cả
lưới có 45 người thì hy sinh mất 27 người, chủ yếu là giao liên và
bảo vệ. Đại tá Tư Cang nổi tiếng với cách nói chuyện hóm hỉnh, pha
trò. Nhưng khi nói về những đồng đội đã ra đi, ông chùng xuống.
Ông bảo ông nhớ lắm. Nhiều người trong cụm sống với ông như anh em,
đi đâu cũng bên nhau. Thế mà nhiều anh em cứ lần lượt hy sinh,
chẳng ai đợi chờ ngày 30/4/1975...
Thoát chết và hy sinh
Một
trong những đồng đội thân nhất, vào sinh ra tử cùng cụm trưởng Tư
Cang là Năm Hải. Năm 1969, trong một trận càn của địch tại Bến
Đình, Năm Hải cùng Sáu Ẩn bị thương nặng. Anh em xông tới giải vây
nhưng không kịp. Mọi người tới khiêng Năm Hải đi chừng 500m thì anh
có dấu hiệu sắp chết.
Năm
Hải lấy chiếc khăn rằn đưa cho cụm trưởng Tư Cang. Anh bảo ông
mang về cho vợ. Đây là kỷ vật vợ mới tặng. Sáu Ẩn cũng vậy, không
thể qua khỏi. Anh em khiêng được qua ruộng và chôn bên ruộng.
Tư
Cang nhớ về Năm Hải. Và ông cũng không thể hiểu tại sao mình lại
nhiều lần thoát chết một cách kỳ lạ thế. Đó là một trong nhiều lần
đi cùng Năm Hải. Ông cười bảo số mình có ông bà phù hộ. Lần đó ông
cùng Năm Hải đi ngoài ấp chiến lược về Bến Đình. Cả quãng đường 2,5
cây số không bị sao, về đến căn cứ lại dính mìn claymo. Căn cứ
địch cách căn cứ mình 4,5 cây số, chúng dám ôm mìn chạy vào cách
căn cứ mình 150m và nằm đó chờ.
Chỉ
có con đường độc đạo về cứ. Nó đã dàn sẵn một dàn mìn claymo. Tư
Cang và Năm Hải đang thong thả đi, bỗng nhiên môt tiếng nổ rầm
trời. Tiếng nổ rất gần. Theo phản xạ, cả hai bỏ chạy. Khi đã hoàn
hồn, đứng lại thở, các anh không thể hiểu vì sao mìn lại không bay
về phía mình. Theo nguyên tắc đánh mìn claymo, khi mìn nổ sẽ bay về
hướng kẻ thù. Đằng này nó lại bay ngược lại. Cả nguyên đội hình Mỹ
lãnh trọn dàn mìn.
Cả
hai bảo nhau không về địa đạo nữa, chui vào xóm ngủ nhờ đồng bào.
Vừa gặp, đồng bào hỏi ngay: "Trời ơi, mấy ông đánh kiểu gì trong đó
mà tụi nó khiêng về đây dữ vậy?". Tư Cang hỏi "mấy thằng chết",
đồng bào bảo: 5. Còn 5-6 thằng bị thương được khiêng về nữa. Hôm
sau về tới căn cứ, anh em võ trang trong cụm đang ăn cơm bình thản
như không có chuyện gì xảy ra.
Hóa
ra, khi đặt mìn, bọn địch sơ ý xoay ngược hướng nổ về phía chúng,
nên dính trọn. Nếu hôm đó chúng đặt đúng hướng, thì Tư Cang và Năm
Hải đã tan xác.
Tài liệu là sinh mệnh
Trong
mỗi lưới tình báo, mọi thành viên luôn tuân thủ một quan điểm sống
còn: Tài liệu như sinh mệnh của mình! H.63 đã thực hiện đúng điều
này, mỗi khi có sự cố.
Một
lần, tài liệu được lấy từ ấp Phú Hòa Đông, chưa kịp chuyển về Bến
Đình thì bị giặc càn. Anh em giao thông viên phải trụ lại trong hầm
bí mật ấp Phú An. Trong hầm có 4 chiến sỹ Thành, Re, Trai, Đạo.
Hôm
đó, đúng phiên Đạo gác, đã sơ sót. Khi địch đến bốt Phú Hòa Đông,
Đạo đang ngủ và không biết gì hết. Bọn giặc chuẩn bị chui xuống
hầm. Khi anh em phát hiện kêu lên thì đã không kip. Thành gọi Trai
đang giữ tài liệu của Phạm Xuân Ẩn. Anh nói: ’’Đây là tài liệu quan
trọng, trong thành đưa ra. Tụi bây sơ sẩy là nó bắt người ta!".
Thành dặn Trai mang bằng được tài liệu này về cho cụm trưởng Tư
Cang...".
Thành
đưa ra phương án nhảy lên bắn, thu hút sự chú ý để Trai chạy
thoát. Nếu chạy thoát, Trai lại dùng AK bắn thu hút chúng. Nhưng
quân địch quá đông, Trai chạy thoát, Thành bị thương và bị bắt.
Thêm 2 người chết vì lựu đạn địch là Re và Đạo. Thành bị bắt đem về
bốt, đội ngũ giao thông của H.63 nằm trong ấp chiến lựợc sợ lộ hết
cả cụm.
Tư
Cang bình thản nói với mọi người: "Phú Hòa Đông không sợ lộ! mình
đảm bảo anh em không khai đâu, cứ ở yên tại chỗ!".
Anh
có lòng tin với chiến sĩ, đồng đội của Tư Cang hầu hết là đảng
viên. Bắt được Thành, địch bỏ lên xe jeep chạy vòng vòng ấp uy
hiếp, nhưng Thành không khai. Chúng tra tấn anh da mãn và gọi mẹ
Thành vào chứng kiến. Khi bà mẹ vừa vào, chúng bắt bà phải thuyết
phục con bà khai. Nhưng mẹ Thành gặp chỉ nhẹ nhàng xoa đầu con nói
một câu: "Chú Tư mới ghé gửi lời hỏi thăm mày!". Địch nghe vậy nổi
khùng, chuyển sang đánh bà mẹ và đuổi ra.
Đúng
là khi Thành bị bắt, Tư Cang có ghé thăm, nhà ở dưới xóm, anh bảo
với mẹ Thành ráng động viên con, Thành sẽ không khai gì.
Không
khai thác được Thành, địch tra tấn anh chán chê rồi đóng hồ sơ,
đày ra Phú Quốc. Anh trở về trong đoàn Chiến Thắng.
Sau này được trao trả lại, Thành bảo, khi mẹ nói câu đó, tinh thần anh lên cao lắm.
Anh
Thành tên thật là Huỳnh Văn Điền. Má Thành có 4 người con là liệt
sỹ. Sau giải phóng, anh Thành tham gia công tác tại địa phương và
đã qua đời năm 1993.
Trong
độ tuổi 79, nhưng Tư Cang “khoe”, cách đây nửa tháng, ông vừa tự
phóng honda đi đám giỗ anh Thành. Năm nào giỗ đồng đội ông cũng
tới.
Chúng
tôi gặp lại Tư Cang ngày 28/4/2007. Đó là ngày gặp mặt của J22
(Phòng tình báo miền Nam). H.63 là lưới tình báo thuộc J22. Đại tá,
Anh hùng LLVT Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) đang là trưởng ban liên lạc
J22. Hàng ngàn thành viên của J22 như đàn chim, bay đến quần tụ
bên nhau rồi lại bay đi, mỗi người một phương. Trong mắt cụm trưởng
H63 oanh liệt ngày xưa có một nỗi buồn không nhỏ, len lỏi vào giữa
ngày vui: mỗi năm danh sách gặp mặt J22 lại thiếu đi vài đồng
đội...
"Đừng nói má tôi!"
![]() |
Trong
mắt cụm trưởng H63 oanh liệt ngày xưa có một nỗi buồn không
nhỏ, len lỏi vào giữa ngày vui: mỗi năm danh sách gặp mặt J22
lại thiếu đi vài đồng đội...
|
Ông
vẫn đau đáu nhớ về từng trường hợp hy sinh của những người lính,
đồng đội của mình đã hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ.
Đau
đớn nhất là trường hợp của hai anh em ruột Thước và Đo trong cụm
ông. Trong lúc cùng nhau đi liên lạc từ Củ Chi sang Bến Cát, cả hai
anh em bị rắn hổ cắn chết trong khi đi ngang qua một bờ ruộng. Hai
anh em không chết vì súng đạn. Họ chết vì rắn cắn, không thể mang
về kịp. Trong khi, ba của 2 người lại nổi tiếng khắp vùng về tài
chữa bệnh rắn cắn...
Lại
có người chiến sĩ tên Sáu Ẩn, tới phút cuối cùng trước lúc hy sinh
chỉ nhớ tới người mẹ. Biết là mình sắp chết, anh nói với cụm
trưởng Tư Cang: "Lát anh Tư về đừng nói với má tôi nghe, má tôi
nghe buồn lắm đấy! Tôi bảo tôi đi quân y ít bữa tôi về...!". Anh
lính trẻ bị dính mìn claymo. Trong vùng không ai bị dính loại mìn
này mà còn sống.
Năm
1992, Đại tá Nguyễn Văn Tàu được đi dự Hội nghị thương binh tiêu
biểu tại Hà Nội nhân dịp 45 năm Ngày Thương binh Liệt sỹ 27/7. Lúc
được phát biểu, ông đứng lên nói về những giây phút trước khi hy
sinh của một chiến sĩ, họ sẽ nghĩ tới cái gì.
Ông
dẫn lại lời của Sáu Ẩn trước khi chết "Lát anh Tư về đừng nói má
tôi nghe, má tôi nghe tôi chết má tôi buồn...". Người chiến sĩ tới
giờ chót cũng nhớ tới gia đình, nhớ tới mẹ. Các bà mẹ VNAH ngồi
dưới Hội trường Ba đình khóc nức nở...
Vào
sinh ra tử, Tư Cang bị thương nhiều lần. Lần thứ nhất khi ông đang
là phó trưởng ban quân báo Bà Rịa (năm 1949), chống quân Pháp. Một
vết thương vào bụng, thòi cả ruột ra ngoài. Ông bị tiểu liên mác
(tiểu liên ngắn nòng) bắn. Đồng đội cứ để thế đưa vào rừng mổ. Ông
vạch vết thương dưới bụng lên, chứng tích của một trận đánh là vết
sẹo ngoằn ngoèo, xấu xí. Sau giải phóng, ông đi khám, bệnh viện đề
nghị mổ lại cho... đẹp, nhưng ông không nghe. Ông bảo sống chung
với nó mấy chục năm rồi, đẹp làm gì.
Năm
1969, trong lúc ở địa đạo ấp Bến Đình, ông bị thương trong một
trận càn của giặc. Giữa làn đạn, một viên nhè thẳng chân. Chạy được
vài chục thước, ông đau quá không chạy nổi. Thấy vậy, mấy chiến sĩ
vác ông lên vai chạy và đẩy vào hầm bí mật. Sau đó, anh em chạy
thẳng ra bờ sông đánh lạc hướng để bọn địch đuổi theo, cứu nguy cho
chỉ huy.
Phòng
tình báo miền nghe tin cụm trưởng H.63 bị thương, cho hẳn một đại
đội xuống khiêng về chiến khu, gần biên giới Campuchia. Phòng sợ
nếu ông bị bắt, cả mạng lưới sẽ bị lọt hết. Sau khi bị thương, đang
nằm tạm trong bụi tầm vông chờ điều trị, một cô y tá đi qua thấy
ông đau liền lấy cây inox, thọc từ bên này sang bên kia gót chân.
Viên đạn trổ ra, chân ông không bị sao. Ông lại hăm hở lao vào công
việc của một người chỉ huy.
Lần
thứ ba ông bị thương cũng vào năm 1969, cũng tại Bến Đình. Khi đó,
cụm H.63 thường dùng vô tuyến điện để gửi tin tức về trung tâm,
giặc theo sóng thường xuyên mò ra địa điểm cụm trú ngụ. Ở đâu cũng
bị đánh, mãi sau này anh em mới phát hiện ra và thay đổi phương
thức điện đài. Khi bắt được sóng, chúng đem bom thả, chỉ cách cụm
có 4,5 thước. Cả lực lượng vũ trang cụm đang trú ở hầm núp ven
đường.
Sau
khi bom nổ đúng nắp hầm, Tư Cang thấy nước trên đầu rớt xuống.
Tưởng là nước cây tầm vông, ông... lè lưỡi liếm. Lại thấy mát mát
như máu. Anh em lấy đèn soi thì phát hiện ông bị thương. Hóa ra,
khi chúng đánh bom mạnh quá, nắp hầm bằng xi măng bể, mảnh vụn văng
vào đầu chảy máu. Với những trận càn dày đặc của địch, vết thương
nhỏ khi đó là may. Nhưng bây giờ, lâu lâu ông lại bị đau một bên
đầu do ảnh hưởng vết thương nhỏ ngày xưa.
Ngày
30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đó là tất cả những gì
người cụm trưởng tình báo nói riêng và mỗi người dân Việt Nam nói
chung chờ đợi. Tư Cang bước vào nghề tình báo một cách lặng lẽ, và
30 năm sau mới về nhà...
- Thế Vinh - Hà Trường - Việt Hà
(VietNamNet) - 12h
đêm ngày 30/4/1975. Tiếng súng giải phóng Sài Gòn đã lặng yên mọi
nơi. Có một người khoan thai, lặng lẽ trong đêm tối, trở về với một
mái ấm gia đình ông xa cách đã 30 năm.
Nỗi lòng xa các
Nỗi lòng xa các
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)















