Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

TUYÊN NGÔN NGU XUẨN CỦA NHỮNG SINH VIÊN LUẬT

Lúc đầu đọc cái tuyên ngôn của đám sinh viên gà choai ở trường Đại học luật TP Hồ Chí Minh tớ đã thấy cái lập luận ngây ngô, sai toét cả những kiến thức cơ bản của người hành nghề luật. Song, nghĩ rằng chúng nó còn trẻ, ví như một đám gà trống choai, mái mơ muốn đánh tiếng với bọn cùng trang lứa nên không chấp. Hơn nữa, chúng là sinh viên luật, cũng nên cho chúng tập gáy cho có bản lĩnh mà thoát ra khỏi sự sợ hãi. Bởi vì, nay mai ra trường hành nghề luật sư chịu nhiều sức ép lắm, nếu không có bản lĩnh thì chỉ là một đám ăn hại thân chủ mà thôi. Ai dè, sau khi bị bọn cùng trang lứa đoàn trường phê phán chúng nhảy dựng lên ra tiếp một tuyên ngôn thứ hai yêu cầu Đoàn trường Đại học luật TP HCM phải xin lỗi, nếu không sẽ khởi kiện. Đến cái nước này thì đéo chịu nổi. 

TUYÊN NGÔN NGU XUẨN CỦA NHỮNG SINH VIÊN LUẬT


Này đám trống choai, mái mơ kia sao không biết nhục khi mà công khai ra tuyên ngôn về luật mà lại dốt luật. Lũ chúng mày đã học Luật hình sự chưa? Trong đó nó dạy chúng mày những gì? Có phải để kết luận một ai đó có tội thì phải căn cứ vào 4 yếu tố cấu thành tội phạm, đó là các yếu tố: khách quan, chủ quan, Khách thể, chủ thể. 

Có phải luật quy định bằng giấy trắng mực đen rằng: Mặt chủ quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm, biểu hiện trạng thái tâm lí của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Anh em nhà Vươn mua súng, đặt mình, khi người ta vào thì giật mình, bắn súng vào họ có phải là cố ý, hay chỉ là vô ý mà tụi mày nói là không có tội. 

Có phải luật quy định rằng mặt khách quan của tội phạm là những dấu hiệu biểu hiện ra bên ngòai của tội phạm tác động gây thiệt hại cho quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ, được quy định trong từng điều luật. Đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cùng với những dấu hiệu khác như phương pháp, thủ đoạn, phương tiện thực hiện phạm tội. Anh em nhà Vươn có đủ những điều đó chưa mà chúng mày bảo là vô tội? 

Có phải luật quy định Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng bị các hành vi phạm tội xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa trực tiếp gây thiệt hại. Tính mạng, sức khỏe của những người đi thi hành cong vụ ở Tiên Lãng có phải là khách thể được luật bảo vệ khỏi mọi sự xâm hại không? Anh em nhà Vươn nổ mình, nổ súng, đốt xăng nhằm vào họ có phải là phạm luật không mà tụi mày nói là vô tội? 

Có phải luật quy định Chủ thể của tội phạm là người có hành vi phạm tội khi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định (từ 16 tuổi trở lên). Anh em nhà Vươn đã đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã đủ tuổi chưa mà tụi mày nói vô tội? 

Chúng mày là sinh viên luật sao ngu ngốc đến mức cho rằng hành vi nổ mình, bắn súng vào người khác mà không phải là hành vi giết người nên không thể truy tố anh em lão Vươn tội giết người! Nay mai ra trường về nhà, trong trường hợp nhà chúng mày có tranh chấp đất đai với thằng hàng xóm, mày đi kiện lên chính quyền, chính quyền xử sai là mày có quyền xách dao sang chém chết thằng hàng xóm rồi cãi là mày không có tội à? 

Chúng mày là sinh viên luật mà không hiểu hành vi phạm tội của anh em nhà Vươn có phần bị tác động bởi cái sai của chính quyền chỉ là yếu tố xem xét để giảm nhẹ khung hình phạt cho nhà Vươn à. Chính quyền ra quyết định sai mà dẫn đến hậu quả hình sự thì phải xử theo luật hình sự đối với cá nhân những người làm sai theo đúng tội danh. Đến anh em nhà Vươn còn biết nói câu không giải quyết được bằng hành chính thì giải quyết băng hình sự, chấp nhận vào tù, còn tụi mày đi học luật vậy chỉ tốn cơm cha mẹ, điểm thấp cũng là phải. 

Tụi mày còn đòi Đoàn trường xin lỗi, tao mà là bí thư thì chỉ cần riêng cái tội bỏ bê sinh hoạt là đã khai trừ đoàn tụi mày lâu rồi chứ chưa nói đến học luật mà không hiểu khởi kiện người khác phải trên những căn cứ nào. Mấy cái điểm học dốt của tụi mày là bí mật đời tư hay nó được đăng công khai trên mạng học tập của nhà trường? Bằng chứng nào nói rằng tụi mày là đại diện cho sinh viên nhà trường? 

Này lũ trống choai, mái mơ kia đừng có biến mình thành kẻ bung xung cho kẻ khác lợi dụng. Hỏi chúng mày một câu: Xong vụ nhà Vươn thì chúng mày làm gì hay là đi nhận ít tiền rồi rải truyền đơn như Phương Uyên. 

Nghị Định 72 không hề kìm hãm sự phát triển của Internet cũng như quyền tự do ngôn luận và quyền tự do thông tin của công dân.

Sự Thật - Chính phủ và nhà nước ta vừa cho ban hành Nghị Định 72 về quản lí và cung cấp sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng. Nghị định này sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1/9/2013 sắp tới. Tuy nhiên, một số kẻ thiếu hiểu biết thậm chí là thiếu thiện chí và phản động đang lợi dụng vấn đề này để xuyên tạc đường lối chính sách của ta, để cố tình hiểu sai Nghị định 72 và cho rằng đó là vi phạm quyền tự do ngôn luận , đàn áp tàn khốc nhắm vào quyền tự do thông tin và kìm hãm Internet.


Lý Thái Hùng Bí thư của tổ chức phản động Việt Tân đã ngụy biện rằng Nhà nước ta đang cố kiểm soát độc quyền Internet , thông qua nghị định 72 để hạn chế quyền tự do thông tin và kìm hãm sự phát triển của Internet tại Việt Nam. Đây là những tư tưởng ngụy biện , vô căn cứ , hoàn toàn cố tình xuyên tạc và hiểu sai NĐ 72 để nhằm xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng ta.
Nhà nước ta là một nhà nước của nhân dân, do nhân  dân, và vì nhân dân. Chính vì thế mỗi đạo luật chúng ta ban hành đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Internet chưa bao giờ bị hạn chế ở nước ta kể từ khi chính thức du nhập vào nước ta ngày 19/11/1997.Trong 15 năm qua chúng ta đã có nhiều bước phát triển vượt bậc trong việc sử dụng và quản lí internet. Trong quá trình đó có rất nhiều mặt tích cực nhưng bên cạch đó cũng còn nhiều mặt tiêu cực và vấn đề nảy sinh xung quanh vấn đề quản lí và sử dụng internet vì đây là một thế giới phẳng. Và để phát huy mặt tích cực cũng như hạn chế mặt tiêu cực thì không thể thiếu sự quản lí của nhà nước. Bằng các chế tài cụ thể mà nhà nước đang phát triển internet một cách bền vững để internet đi vào đời sống xã hội tác động tích cực đến nhận thức tư tưởng, lối sống của người dân mà đặc biệt là giới trẻ, Thực tế của xã hội luôn luôn thay đổi chính vì thế mà tư duy của các nhà làm luật cũng phải bắt kịp sự thay đổi này. Và đối với vấn đề quản lí và sử dụng internet cũng vây. Trong khi internet đang có những sự phát triển một cách chóng mặt thì tư duy quản lí của chúng ta cũng phải có những thay đổi cho phù hợp.Khi internet mới gia nhập thì chính phủ đã ban hành một nghị định tạm thời là NĐ 21, sau đó khi nó bắt đầu phát triển là NĐ 55 và trong tình hình mới hiện nay thì NĐ 72 ra đời là tất yếu và phù hợp với quy luật tự nhiên.
NĐ 72 rất chú trọng đến thông tin trên internet trong thời buổi thông tin được đăng tải một cách tràn lan khó có thể phân biệt được đúng sai. Có 3 lĩnh vực đang được xã hội quan tâm là thông tin điện tử, mạng xã hội và game online. Chúng ta cần có những quy định cụ thể cho từng lĩnh vực để đảm bảo phát triển một cách lành mạnh, đúng hướng và bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đó chính là đang bảo vệ quyền lợi cho chính chúng ta, đảm bảo cho sự tự do phát triển, tự do thông tin phù hợp với pháp luật.
Nghị định 72 quy định có 5 loại trang điện tử như: trang thông tin điện tử tổng hợp, trang thông tin điện tử cá nhân , trang thông tin điện tử của các doanh nghiệp…Mỗi loại trang thông tin đều có những quy định cụ thể. Quy định rõ ràng như vậy là để ai muốn lập trang thông tin biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình, biết rõ những việc mình làm là đúng hay sai. Khi mình biết mình đang làm đúng pháp luật thì chính là mình đang được tự do nhất. Như vậy NĐ 72 không những không vi phạm quyền tự do thông tin mà còn đang tạo điều kiện để mọi người tự do thông tin.
Một số người đã cố tình hiểu sai NĐ 72 cho rằng nó vi phạm nhân quyền , vi phạm quyền tự do ngôn luận của công dân. Chắc chắn rằng họ chưa hiểu kĩ hoặc cố tình hiểu sai NĐ 72.
Trong Hiến Pháp nước ta luôn tôn trọng nhân quyền và quyền tự do ngôn luận của công dân. Mọi đạo luật đều xuất phát từ nền tảng này và NĐ 72 cũng nằm trong số đó.Với việc xác định rõ ràng các loại  trang thông tin trên mạng sẽ tạo điều kiện tốt nhất để các trang thông tin cập nhật , truyền tải thông tin một cách rõ ràng chính xác. Để tránh việc các thông tin ,tác phẩm, … bị cắt rán  một cách bừa bãi, nhiều thông tin truyền tải sai sự thật, thiếu chính xác thì các chế tài của NĐ 72 là hết sức cần thiết. NĐ 72 quy định khi đăng tải thông tin các trang phải chích dẫn nguồn cụ thể là hoàn toàn đúng pháp luật và hết sức cần thiết. Nó đang bảo vệ quyền tác giả-một quyền cơ bản của con người cũng như tránh việc thông tin bị truyền tải không đúng với nguồn sự thật. Việc các trang cá nhân lập ra trên các mạng xã hội không được phép truyền  tải thông tin tổng hợp cũng đang trong khuôn khổ pháp luật quy định tạo sự rõ ràng cho các trang thông tin và bảo vệ quyền lợi của chính cá nhân đó trước pháp luật. Nhìn về hình thức có vẻ hơi ràng buộc nhưng thực tế khi pháp luật quy định cụ thể  và đầy đủ bao nhiêu thì đó chính là tạo điều kiện cho sự tự do thông tin tự do ngôn luân bấy nhiêu. Chúng ta biết những gì mình làm là đúng thì sẽ là tự do nhất. Hơn nữa đã có quy định rõ ràng về trang cá nhân và trang thông tin tổng hợp như vậy rồi nếu trang thông tin cá nhân truyền tải thông tin tổng hợp thì nó sẽ trở thành trang thông tin tổng hợp.

Nhà nước ta đã thâm khảo rất kĩ các nước làm tốt về quản lí và sử dụng internet để áp dụng một cách phù hợp nhất với điều kiện nước ta. Mỗi nước có một nền tảng chung và một nền tảng công nghệ khác nhau chính vì thế chúng ta cần có nhưng quy định phù hợp để đảm bảo sự phát triển lành mạnh và bền vững internet ở đất nước mình. Nghị định 72 ra đời sẽ đảm bảo điều đó và hoàn toàn tôn trọng nhân quyền, quyền tụ do ngôn luận và tự do thông tin của người dân.

Lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Việt Nam

Tác giả : Vân Thanh



Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xác định tôn giáo là vấn đề nhạy cảm, tín đồ tôn giáo là lực lượng xã hội dễ lừa bịp, kích động để tạo dựng “ngọn cờ”, tập hợp lực lượng chống đối. Ngay từ khi đặt chân vào Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc đã tính toán đến âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Chúng tìm cách mua chuộc, lôi kéo các giáo sĩ, tín đồ các tôn giáo để thực hiện mục đích chính trị phản động. Khi Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam (1975), viên Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn - Polga -  nói rằng: “Sau khi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam thì lực lượng đấu tranh với cộng sản, chủ yếu là tôn giáo...”.
Lúc chúng ta bước vào công cuộc đổi mới, chủ nghĩa đế quốc tiếp tục lợi dụng vấn đề tôn giáo để thực hiện “diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam. Các thế lực thù địch tuyên truyền rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam hiện đang còn mạnh, chưa thể chuyển hoá ngay được nội bộ. Vì vậy, để làm cho Cộng sản Việt Nam suy yếu, biện pháp hữu hiệu nhất là dùng vấn đề tôn giáo và dân tộc để phá hoại an ninh, làm cho Việt Nam suy yếu...”.
Lợi dụng tôn giáo, tự do tôn giáo,chông phá nhà nước

Chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng thù địch nhìn nhận tôn giáo ở Việt Nam như một lực lượng chính trị có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản Việt Nam và đang hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối trong các tôn giáo cả về tinh thần và vật chất, phục vụ cho âm mưu sử dụng tôn giáo làm lực lượng thúc đẩy nhanh tiến trình “dân chủ hoá” nhằm làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Chính sự hậu thuẫn này là nhân tố kích động số phần tử quá khích trong tôn giáo có thái độ thách đố với chính quyền, như: Chúng có ý đồ thành lập “Uỷ ban liên tôn chống cộng”, lôi kéo tín đồ, tụ tập đông người, xúi giục biểu tình, gây rối dẫn tới bạo loạn để chờ bên ngoài can thiệp.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn xác định vấn đề “tự do tôn giáo” là hướng ưu tiên chính trong chính sách đối với Việt Nam, chúng tìm mọi cách tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước. Quốc hội Mỹ đã ra một số nghị quyết và tổ chức nhiều cuộc điều trần về vấn đề tôn giáo ở việt Nam; xếp Việt Nam vào danh sách các quốc gia “đàn áp tôn giáo”! Gần đây, Uỷ ban Tự do tôn giáo của Mỹ tiếp tục công bố báo cáo đánh giá tiêu cực về tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Trong khi đó, bọn phản động lợi dụng tôn giáo trong nước, nhất là số cực đoan, quá khích trong công giáo, phật giáo Ấn Quang, phật giáo Hoà Hảo,... lợi dụng những diễn biến phức tạp trên thế giới, hoạt động ngày càng quá khích hơn; câu kết với các thế lực thù địch bên ngoài lôi kéo, tập hợp tín đồ để kích động biểu tình, gây rối, tạo cớ cho bên ngoài can thiệp.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam, tập trung vào một số hoạt động chủ yếu sau đây: Một là, tìm cách ủng hộ và thông qua các đạo luật mang tính pháp lý nhằm lợi dụng vấn đề tôn giáo để hoạt động can thiệp, chống phá. Hai là, dung túng, giúp đỡ lực lượng phản động trong tôn giáo người Việt ở hải ngoại tổ chức hoạt động chống Việt Nam. Ba là, hỗ trợ, kích động và chỉ đạo các đối tượng cực đoan, phản động trong tôn giáo ở trong nước tổ chức các hoạt động chống phá.
Các cơ quan đại diện chính thức của một nước lớn tại Việt Nam có nhiều hoạt động công khai, trắng trợn nhằm ủng hộ cho các đối tượng cực đoan, phản động trong các tôn giáo. Đại sứ quán của họ tại Hà Nội và Tổng lãnh sự quán tại TP.Hồ Chí minh thường xuyên cử người đi các tỉnh, thành của Việt Nam để “nắm tình hình” sinh hoạt của các tôn giáo, nhưng thực chất là nhằm trực tiếp tiếp xúc, kích động các chức sắc và tín đồ tôn giáo gây áp lực đòi thả những tên đội lốt tôn giáo hoạt động chống phá bị ta bắt; “tiếp sức” cho các đối tượng đang có hoạt động chống đối.
Tình báo của họ thông qua một số chức sắc tôn giáo cực đoan, ngầm chỉ đạo Nguyễn Văn Lý, Chân Tín, Thích Quảng Độ, Lê Quang Liêm ra các “lời kêu gọi” phản động để “nắn gân” cộng sản Việt Nam sau Đại hội X. Nhóm thiên chúa giáo cực đoan liên tục lợi dụng tranh chấp đất đai để hoạt động đấu tranh chống chính quyền. Đặc biệt, ở một số địa phương từ tranh chấp đất đai, chúng lợi dụng người cầm đầu tổ chức tôn giáo ở đó để kích động, xô đẩy giáo dân vào cuộc đấu tranh mang màu sắc chính trị, gây mất ổn định chính trị, tạo cớ cho các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp.
Các thế lực thù địch đã chỉ đạo cho một số đối tượng cực đoan, núp dưới danh nghĩa những nhà truyền đạo, như “mục sư”, “tình nguyện viên”,... để đi sâu vào nội bộ quần chúng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, nhằm lừa phỉnh, dụ dỗ, xúi giục, kích động các tín đồ bỏ lao động sản xuất để tham gia hoạt động biểu tình chống đối chính quyền. Được chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hậu thuẫn, bọn phản động trong các tôn giáo ở Tây Nguyên ra sức lợi dụng việc Đảng và Nhà nước ra thực hiện chủ trương xoá các tổ chức Tin Lành trái phép để vu cáo chính quyền Nhà nước Việt Nam “Vi phạm tự do tôn giáo”, kêu gọi “cầu nguyện cho Tin Lành Tây Nguyên”, đồng thời kích động các hoạt động chống đối.
Hiện nay và trong thời gian tới, chủ nghĩa đế quốc  và các thế lực thù địch đã, đang và sẽ tăng cường chỉ đạo, giúp đỡ mọi mặt để phát triển đạo trong các vùng dân tộc ít người, bao gồm cả phát triển các đạo giáo mới và cả số người theo đạo, biến các tổ chức  và hoạt động tôn giáo thành các tổ chức và hoạt động chính trị chống lại cách mạng Việt Nam. Chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền để nhân dân thấy rõ âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.   

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Nhiều sai lầm, lệch lạc trong bài viết trên giường bệnh của ông Lê Hiếu Đằng

Linh Nghĩa
Trong bài viết “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” (SNTNNNB) của ông Lê Hiếu Đằng (LHĐ) được ông Huệ Chi biên tập và post lên mạng có nhiều điều cần phải làm rõ.
Trong phần đặt vấn đề, ông LHĐ gọi hành động sám hối của mình là “Tính sổ” với ĐCS VN và với bản thân cuộc đời của tôi, tư cách một đảng viên, một công dân ở những điểm cơ bản sau: một cách minh bạch, sòng phẳng để từ đây thanh thản dấn thân vô cuộc chiến mới”. Mới đọc mấy câu trên, người đọc ngỡ rằng sắp có vụ thanh toán nhau của các băng nhóm tội phạm!
Bài viết của LHĐ rất “ tâm huyết”, có điều ông kể lể nhiều chuyện về bản thân khiến người ta sốt ruột. Với độ dài trên gần 13 trang, nếu đọc qua cũng mất gần nửa giờ! Ông LHĐ kể lể quá nhiều về thành tích, nhất là về cái tính lãng mạn, hào hoa của ông. Chẳng hạn ông LHĐ kể ông thích bài hát “Trăng mờ bên suối” của Lê Mộng Nguyên và  ông biết có cô gái cũng rất thích bài hát đó”...
Tựu chung lại bài có mấy ý sau:
Một là, “Vì sao tôi đi kháng chiến, vào ĐCS Việt Nam?”
 Nội dụng đoạn này chủ yếu LHĐ kể về “lòng yêu nước của mình” nhưng thực chất là sám hối, phủ nhận mọi thành quả của cách mạng Việt Nam, đồng thời ca ngợi, chế độ cũ. LHĐ kể về chuyện khi ông đang bị bắt giam ở lao Thừa Phủ Huế, gia đình làm đơn xin cho ông ra tù để về thi “tú tài”. Rốt cuộc ông đã được ra tù. Ông hỏi: “Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện nay có người tù nào đã được cho ra khỏi nhà tù để đi thi như chúng tôi hay không?”. Có lẽ vì đang “nằm bịnh”, nên Mr LHĐ đã lẩm cẩm nêu câu hỏi này. Thật đáng tiếc một người Cộng sản trên 40 năm tuổi Đảng lại chỉ biết nhìn nhận một chế độ qua lăng kính cá nhân và qua một sự việc mang tính ngẫu nhiên.
Lẽ ra ông phải nhớ đến ít nhất một vài vụ việc, chẳng hạn như bọn Mỹ và tay sai đã dùng thuốc độc giết chết cả trăm tù nhân tại Nhà lao Phú Lợi; bọn chúng tra tấn dã man - đóng đinh vào đầu tù nhân ở Nhà tù Côn Đảo, đó là chưa kể đến chúng đã rải hàng triệu lít chất độc da cam trên những đồng quê yên ả khiến cho đến nay vẫn còn hàng triệu nạn nhân thuộc nhiều thế hệ. Quên tội ác của kẻ thù, khái quát bản chất chế độ cũ bằng một sự kiện là một biểu hiện sa ngã về đạo đức, là có tội với đồng bào và chiến sỹ.
Thứ hai, “Vấn đề đa nguyên, đa đảng”. Phần này đã quá quen thuộc vì đã có quá nhiều bài viết trên mạng. Vấn đề là ở chỗ, việc lựa chọn chế độ chính trị nào tùy thuộc vào hoàn cảnh của mỗi quốc gia dân tộc.
Về lý luận, căn cứ khoa học của ông  LHĐ là: “đã đa nguyên kinh tế thì tất là phải đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Như có người đã phê phán - đó là một kiểu logic hình thức thô thiển. Xin hỏi ông LHĐ: Vì sao dưới chế độ kinh tế “đa nguyên” thời Mỹ và tay sai ở miền Nam, người ta đã ra Đạo luật 10/59, “bắn bỏ tất cả bọn Cộng sản”, không cần xét xử? 
Vấn đề nghiêm trọng hơn là ở chỗ ông LHĐ thách thức pháp luật và kêu gọi xóa bỏ chế độ hiện hữu, bao gồm cả vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông ta viết: “Vậy tại sao chúng ta hàng trăm đảng viên không tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn như Đảng Dân chủ xã hội”… “Tại sao tình hình đã chín mùi mà chúng ta không dám làm điều này vì chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng, chứ chưa có một văn bản pháp lý nào cấm điều này?”. “Không thể rụt rè, cân nhắc gì nữa… Đây là cách chúng ta phá vỡ một mảng yếu nhất của một nhà nước độc tài toàn trị hiện nay”. Nhân đây xin nhắc LHĐ pháp luật Việt Nam quy định rằng mọi tổ chức chính trị xã hội đều phải đăng ký, xin phép Nhà nước, kể cả các tôn giáo.
Thứ ba, “Vấn đề Độc lập dân chủ, tự do và hạnh phúc”.
Cũng như nhiều người nhằm chia rẽ dân tộc Việt Nam, đả kích vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, ông LHĐ nhắc lại luận điệu “Việt Nam đã thống nhất mặc dầu còn nhiều điều chưa hòa hợp”. Trong bài viết ngắn này xin không có bình luận. Việc ông LHĐ bày tỏ bức xúc về việc Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, điều này ít nhiều có thể chia sẻ. Song đáng tiếc đã từng là người lãnh đạo, lẽ ra LHĐ phải thấy được những chuyện phức tạp trong vấn đề Biển Đông, phải hiểu được Việt Nam cần có một chiến lược thông minh, kết hợp sức mạnh “cứng” với sức mạnh “mềm” mới có thể bảo vệ được lãnh hải của mình. Chẳng lẽ Việt Nam mua tàu ngầm Kilo, máy bay SU 30, tên lửa S.300 là trò chơi ảo trên mạng! Xin hỏi: Vì sao LHĐ lại không chịu hiểu điều này? Trái lại ông ta phủ nhận những nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân  đang từng giờ từng phút canh giữ bầu trời, vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc; hơn nữa ông LHĐ còn kích động tâm lý kỳ thị, đối đầu với Trung Quốc. Về khách quan việc làm của ông LHĐ chỉ có lợi cho các thế lực thù địch hiếu chiến mà thôi.
Trong bài viết này, LHĐ còn nói: Tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ở Hội nghị Shangri-La (chống lại nền chính trị cường quyền và những đối xử vô nhân đạo đối với ngư dân Việt Nam) là ý kiến cá nhân của Thủ tướng. LHĐ nói: “Tôi càng thấy vui hơn khi được biết đây là ý kiến của cá nhân Thủ tướng dám chịu trách nhiệm để tuyên bố như vậy chứ không có sự chỉ đạo nào của Bộ Chính trị cả”. Xin hỏi ông LHĐ vì sao ông hồ đồ đến vậy? Phải chăng đây là cách suy nghĩ của một người nằm viện hay là của kẻ “ếch ngồi đáy giếng?”. Ai cũng biết ý kiến của Thủ tướng Chính phủ đồng thời là quan điểm của Đảng ta, của Nhà nước ta. Có phải ông đang cố tình gây chia rẽ trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam?
Thứ tư, “Vấn đề dân chủ, tự do và hạnh phúc”, trong đoạn này, LHĐ kể về “bản lĩnh” của bản thân và những sai lầm khuyết điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhiều giai đoạn đã qua. Đồng thời chép lại những “khuôn mẫu” của thể chế “đa nguyên”, “tam quyền phân lập” đầy rẫy trên mạng ai cũng biết.
LHĐ nghĩ rằng, mình đã nắm được “mệnh trời” - quy luật, nói theo ngôn ngữ triết học, ông này tự tin viết: “Con người khác con vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính của con người. Không có tự do thì con người chỉ là một đàn cừu (theo ngôn ngữ của Giáo sư Toán học Ngô Bảo Châu)...”. Đáng tiếc LHĐ lại nhận thức về tự do của thời kỳ tiền sử - xin lỗi có thể nhận định này hơi quá đáng! Đặc trưng của con người, của loài người không chỉ ở, không chủ yếu ở cái gọi là “tự do” như LHĐ nói mà chính là ở ý thức về mối quan hệ cá nhân với tổ chức xã hội, với Tổ quốc, dân tộc và cộng đồng của mình.
Tóm lại: Tự mãn về thành tích trong quá khứ; phủ nhận, bỏ qua thành quả cách mạng, sự hy sinh của đồng bào, đồng chí, ca ngợi chế độ cũ; sám hối về chính trị; chia rẽ nội bộ lãnh đạo Đảng cùng với những thiếu hụt về kiến thức lý luận, LHĐ đã tự phơi bày là người sa ngã về đạo đức - chính trị và những thiếu hụt về trí tuệ của mình

Qua bài viết của ông Lê Hiếu Đằng, nghĩ về gốc đức của một người cao tuổi

Nguyễn Thế Hoàng
Tôi có đọc trên Báo CAND hai bài viết xung quanh chuyện ông Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ TP Hồ Chí Minh viết về thời cuộc “Suy nghĩ trong những ngày nằm giường bệnh”! Tôi rất tâm đắc với những ý kiến trên Báo CAND khi khẳng định những sai lầm, lệch lạc trong bài viết của ông Đằng. Tôi cũng đọc bài “Suy nghĩ…” của ông Lê Hiếu Đằng tán phát trên mạng Internet, nên đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Tôi cứ tự hỏi, vì sao một người như ông Đằng có quá trình cống hiến trong phong trào sinh viên đấu tranh với Mỹ và tay sai; sau giải phóng thống nhất đất nước, ông còn làm giáo viên triết học, được bầu làm Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc TP Hồ Chí Minh năng động và quyết liệt, nói tóm lại là có kiến thức, uy tín, vậy mà tự nhiên như người đổ đốn viết và tán phát những suy nghĩ lệch lạc, xấu bụng của một người già nằm trên giường bệnh để xuyên tạc tình hình đất nước.
Lúc đầu tôi nghĩ, khi một người già  ở cái tuổi “gần đất xa trời” thường hay nảy tật trách cứ con cháu chăm sóc không chu đáo, nên có thể dỗi hờn mà nói chuyện trong nhà thì cũng dễ hiểu. Đằng này, ông ở trên giường bệnh mà nói toàn chuyện quốc gia đại sự. Điều ấy thì cũng không sao với một trí thức từng tham gia kháng chiến cứu nước, từng giữ trọng trách trong bộ máy của Đảng và đoàn thể như ông Đằng, góp ý điều này, điều nọ cốt để xây dựng cho lớp hậu sinh thì đáng quý biết bao. Nhưng có điều tôi giật mình! Giật mình vì những điều ông Đằng nói, viết ra với giọng điệu quá hằn học về hiện tình đất nước.
Giật mình vì ông nói như là kẻ xa lạ với thể chế mà ông góp công xây dựng, nói ở thế đối kháng, đối lập với Đảng, Nhà nước, với nhân dân mình.
Xin dẫn ra đây hai ví dụ trong bài viết lộn xộn, thiếu nhất quán của ông.
Theo ông Lê Hiếu Đằng, sau năm 1975 thời hậu chiến: “Trước sự rên xiết của người dân, những nhà lãnh đạo còn có tấm lòng và suy nghĩ đã chủ trương phải đổi mới kinh tế bằng cách phải chấp nhận kinh tế có nhiều thành phần trong đó có kinh tế cá thể”. Sao lại ác khẩu thế hỡi ông Đằng? Người dân nào rên xiết? Ông thừa biết sau hơn 30 năm chiến tranh, để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng bào hai miền Nam - Bắc đã hy sinh biết bao xương máu. Sau chiến tranh, cả nước còn bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận, chống phá ta, thậm chí còn tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt, hòng biến nước ta kiệt quệ về kinh tế, mất ổn định về chính trị. Nhưng nhân dân ta, với sự lãnh đạo của Đảng đã kiên trì đường lối độc lập, tự chủ, bình tĩnh tiến hành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân ta chấp nhận khổ cực, lao tâm khổ tứ, tin và theo Đảng làm nên nhiều kỳ tích phát triển kinh tế - xã hội khiến thế giới phải kinh ngạc. Kỳ tích đó, chắc ông Đằng quá hiểu. Nào ai “rên xiết” như lời của ông xúc phạm lương tâm của nhân dân mình. Một người trí thức, 45 tuổi Đảng như ông Đằng, lại quy kết ác ý, vu cáo người dân mình những điều xằng bậy như vậy? Còn đường lối đổi mới của Đảng cũng xuất phát từ thực tiễn sáng tạo của cơ sở, của người dân trăm miền. Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, huy động trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đề ra đường lối đổi mới toàn diện bắt đầu từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). Đường lối đổi mới ấy ngày càng tiếp tục được hoàn thiện trong các kỳ Đại hội Đảng tiếp sau, đưa đất nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng, phát triển kinh tế với tốc độ nhanh và hội nhập bình đẳng với thế giới. Đường lối ấy là trí tuệ của Đảng, trí tuệ của toàn dân tộc. Đâu phải của một vài người như ông Đằng nhận định. Là kẻ hậu sinh, tôi cũng không hiểu nổi một trí thức như ông Đằng, sao lại nói bừa như thế. Những ai nói xằng, xuyên tạc sự thật như ông Lê Hiếu Đằng bao giờ cũng bị lên án là người có dã tâm chia rẽ trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng, kích động người dân với mục đích xấu.
Cũng trong bài viết trên giường bệnh, ông Đằng nhắc tới vấn đề đa nguyên đa đảng. Ông hồ đồ cho rằng: “Đó là quy luật tất yếu, vì vậy không thể không đa nguyên đa đảng được và như vậy điều 4 Hiến pháp hiện nay là vô nghĩa”. Đáng ngạc nhiên và trơ trẽn hơn, đang ở trên giường bệnh mà ông Đằng thách thức các nhà lãnh đạo: “Trả lời công khai minh bạch với chúng tôi (ông Đằng) trên các diễn đàn mà không chơi trò bỏ bóng đá người như đã từng thường sử dụng hiện nay”.
Ô hay, tưởng là có cái gì mới mẻ, hóa ra toàn là những chuyện đã công khai lâu nay trên báo chí, trên mạng Internet.
Thực ra, Dự thảo Hiến pháp 1992 (sửa đổi) đã được Quốc hội công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để toàn dân góp ý. Sau 3 tháng công bố, ngày 13/5/2013, tại kỳ họp thứ V, Quốc hội khóa XIII, Ủy ban soạn thảo, sửa đổi Hiến pháp (DTSĐHP) 1992 đã công bố báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý về các nội dung cụ thể của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến nhân dân. Báo cáo cho biết, với sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, đã có hơn 26.091.000 lượt ý kiến góp ý về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, với hơn 28.000 hội nghị, hội thảo, tọa đàm được tổ chức. Ủy ban DTSĐHP 1992 đã tập hợp, tổng hợp đầy đủ, kịp thời, khách quan, trung thực ý kiến của nhân dân. Xung quanh vấn đề đa nguyên, đa đảng liên quan đến điều 4 Hiến pháp quy định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy ban DTSĐHP năm 1992 đã có văn bản gửi các đại biểu Quốc hội, được nhiều cơ quan báo chí, mạng Internet đăng công khai trên các diễn đàn. Xin trích dẫn ra đây để ông Đằng biết. “Có ý kiến đề nghị yêu cầu phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập vì như vậy mới bảo đảm dân chủ. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, về lý luận, dân chủ không đồng nghĩa với đa nguyên, không phải có đa nguyên là có dân chủ. Dân chủ là quyền của nhân dân tự mình quyết định hoặc tham gia với Nhà nước quyết định với những vấn đề nhất định. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức chính trị - nhà nước. Nó thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực. Quyền làm chủ của nhân dân được thể chế hóa thành các chuẩn mực mang tính Nhà nước và pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước cũng như các thiết chế chính trị khác, tạo nên chế độ dân chủ. Vì vậy, không ai khẳng định là nhiều đảng sẽ tốt hơn một đảng.
Về thực tiễn, ở Việt Nam không có tiền đề cho đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Bởi vì, ở nước ta chỉ có một đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng ta luôn là Đảng của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là sự lựa chọn mang tính lịch sử và phù hợp với thực tế, hoàn cảnh xã hội nước ta. Điều đó được thể hiện và được đảm bảo trong đạo luật cơ bản của Nhà nước là Hiến pháp. Trên thế giới, tuy có nhiều nước tuyên bố theo chế độ đa đảng chính trị, nhưng thực chất vẫn chỉ là đảng đại diện cho một lực lượng xã hội duy nhất là giai cấp tư sản, mặc dù các đảng này có thể có các tên gọi khác nhau. Các đảng thay nhau lãnh đạo đất nước, cùng bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp tư sản. Tuy thế, giữa các đảng phái này cũng luôn có sự tranh chấp quyền lợi với nhau (thực chất là sự tranh chấp giữa các nhóm lợi ích, giữa quyền lợi của các nhóm tư bản trong từng ngành, từng lĩnh vực) và điều này thường dẫn đến tình trạng bất ổn về chính trị trong nội bộ đất nước, cản trở sự phát triển chung của xã hội.
Do vậy, dân chủ không phụ thuộc vào cơ chế một đảng hay đa đảng, mà nó phụ thuộc vào bản chất của chế độ cầm quyền phục vụ cho lợi ích của giai cấp nào cũng như cách thức vận hành cụ thể của bộ máy nhà nước trong từng xã hội”.
Thưa ông Lê Hiếu Đằng, quan điểm về đa nguyên, đa đảng đã được Ủy ban DTSĐHP 1992 công khai trên diễn đàn Quốc hội, được minh bạch, rõ ràng như thế, sao ông còn “thách bất cứ ai” trả lời công khai, minh bạch? Có thể ông bị bệnh không có thời gian theo dõi. Hoặc vì một lý do cá nhân nào đó, khiến ông nhắm mắt làm ngơ, vờ như không biết để kích động chăng?
Là người thuộc thế hệ hậu sinh so với quá trình cống hiến của ông Lê Hiếu Đằng, tôi thiển nghĩ, trong thời đại ngày nay, nhất là trong tình hình nhiều người dân các nước có xung đột phe phái lãnh đạo đang sống trong thảm cảnh “nồi da nấu thịt”, ly tán, tha phương, thì hơn lúc nào hết, đất nước ta cần ổn định, cần hòa bình để phát triển. Trong xu thế cạnh tranh quyết liệt, giao lưu quốc tế, thật khó tìm một phương án nào duy nhất đúng. Chỉ có tìm phương án nào lãnh đạo đất nước ưu việt nhất mà thôi. Phương án ấy phải phù hợp với quy luật, với thực tiễn nước ta. Ông Đằng đã mang danh trí thức, hãy góp một điều gì có ích với tâm thế của một người có văn hóa tranh luận. Nói càn, nói ác ý, hằn học và sám hối sẽ không bao giờ là gốc đức của một người già. Và như vậy thật khó nhận được sự tôn trọng của mọi người

Không “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang

“Phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, tách lực lượng vũ trang ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động đối với cách mạng nước ta.
Thời gian gần đây, lợi dụng việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, một số người đã đưa ra quan điểm lực lượng vũ trang “chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân”; “phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải  trung thành với bất kỳ tổ chức nào”(?!)...
Đây là những luận điệu vô căn cứ, phản khoa học và không đúng với thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam.
Dưới góc độ lý luận, lịch sử ra đời và phát triển của lực lượng vũ trang trên thế giới cho thấy, lực lượng vũ trang bao giờ cũng có mối quan hệ hữu cơ với giai cấp và Nhà nước sinh ra nó, mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội.
Lực lượng vũ trang là lực lượng chính trị đặc biệt của Nhà nước để bảo vệ sự tồn tại của Nhà nước đó. Lực lượng vũ trang xuất hiện và tồn tại gắn liền với chính trị, phụ thuộc vào chính trị, chính trị quy định bản chất, chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ cơ bản và mọi hoạt động của lực lượng vũ trang. Bất cứ giai cấp, Nhà nước nào khi tổ chức ra lực lượng vũ trang cũng đều quan tâm xây dựng, củng cố bản chất giai cấp của nó và làm cho lực lượng này phục tùng, bảo vệ quyền lợi chính trị, kinh tế của giai cấp tổ chức ra nó.
Có thể khẳng định, mọi giai cấp, mọi nhà nước tổ chức ra lực lượng vũ trang đều tập trung chăm lo xây dựng mặt chính trị, đều hướng việc xây dựng lực lượng vũ trang theo chính trị của giai cấp thống trị. Từ đó, hình thành các kiểu lực lượng vũ trang khác nhau với các hình thức chính trị khác nhau. Song, chính trị của kiểu lực lượng vũ trang nào cũng đều phản ánh lợi ích cơ bản của giai cấp và Nhà nước đã sinh ra, nuôi dưỡng nó. Không thể có lực lượng vũ trang “siêu giai cấp”, “đứng ngoài chính trị”.
Trong bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào, lực lượng vũ trang không bao giờ tách rời chính trị, vì chính trị quyết định sự thành bại của giai cấp thống trị; những mưu toan đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang về thực chất là nhằm chuyển hóa bản chất giai cấp của lực lượng vũ trang sang lập trường của giai cấp khác.
Dưới góc độ thực tiễn, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Bảo vệ và giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lịch sử gần 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cho thấy, Đảng lãnh đạo là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, được nhân dân thương yêu, đùm bọc và giúp đỡ, lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân ngày càng phát triển và trưởng thành, luôn một lòng, một dạ tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đoàn kết, tận tụy trong công tác; dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu, đập tan mọi âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã thực sự là chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm tốt vai trò tham mưu với Đảng, Nhà nước về các chủ trương, đường lối, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; chủ động phòng ngừa, tấn công làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch, phản động, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước.
Vì những lý do nêu trên, tôi đồng tình với quy định nêu tại Điều 70 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng Nhà nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, đảm bảo vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân.
Với niềm tin sâu sắc vào sức mạnh và ý chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, vào tương lai tươi sáng của đất nước, lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân nguyện sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, kiên định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; kiên quyết đập tan mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động hòng “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Vài nét về pháp môn làng Mai

Sư ông Thích Nhất Hạnh. Chào đời ngày 11/10/1926 tại Thừa Thiên - Huế, Sư ông Thích Nhất Hạnh có thế danh là Nguyễn Xuân Bảo. Năm 16 tuổi, ông xuất gia vào tu tại chùa Từ Hiếu, Huế. Sau khi tốt nghiệp Viện Phật học Bảo quốc, ông theo phái tu thiền rồi trở thành thiền sư.
Năm 1966, ông bị chính quyền Sài Gòn buộc phải rời miền Nam Việt Nam. Sang Pháp, đầu năm 1982, ông thành lập Tu viện Làng Mai ở vùng Dordogne, miền Nam nước Pháp (còn gọi là Đạo tràng Mai thôn). Trong suốt thời gian ở nước ngoài, Sư ông Thích Nhất Hạnh đã đi thuyết giảng ở nhiều nơi, tổ chức nhiều khóa tu tập và trở thành một nhân vật tôn giáo có uy tín quốc tế.
Cổng vào Tu viện Bát Nhã
Sau ngày đất nước thống nhất, từ năm 1997 đến 2003, Sư ông Thích Nhất Hạnh nhiều lần đặt vấn đề trở lại Việt Nam để hoạt động tôn giáo - nhưng ông lại không muốn thông qua Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN). Mãi đến năm 2004, khi thấy có cơ hội ông mới về theo lời mời của GHPGVN, và được Nhà nước đồng ý.
Ngày 12/1/2005, Sư ông Thích Nhất Hạnh cùng một đoàn gồm 190 người  với gần 30 quốc tịch khác nhau, xuống Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất. Mục đích của chuyến đi này được ông giới thiệu, là thuần túy hoạt động tôn giáo, thăm các công trình Phật giáo, thăm các danh thắng văn hóa, lịch sử ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam, tổ chức các lễ nghi tôn giáo. Vẫn theo ông, chuyến đi ấy tuyệt nhiên không đề cập đến các vấn đề chính trị, cũng như không đề cập đến cái gọi là "Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất" - là tổ chức không được pháp luật Việt Nam thừa nhận.
Ngày 11/4/2005, đoàn Sư ông Thích Nhất Hạnh rời Việt Nam. Trong suốt 90 ngày, ông cùng đoàn đã được Nhà nước Việt Nam, GHPGVN tạo mọi điều kiện thuận lợi, để tận mắt nhìn thấy, tận tai nghe thấy không khí sinh hoạt tôn giáo - đặc biệt là Phật giáo. Những phát biểu công khai của Sư ông Thích Nhất Hạnh thời điểm ấy đã tác động tích cực đến dư luận người Việt hải ngoại, tạo ra những quan hệ thuận lợi giữa Làng Mai và GHPGVN.
Tuy nhiên, có điều phía sau lưng mà ít ai biết, là thông qua chuyến về Việt Nam, Sư ông Thích Nhất Hạnh có ý tranh thủ Nhà nước, tranh thủ GHPGVN để tạo chỗ đứng cho Pháp môn Làng Mai. Hơn nữa, ý đồ chính trị của ông còn được thể hiện khi ông trao cho lãnh đạo Nhà nước Việt Nam bản kiến nghị 7 điểm.
Để tạo chỗ đứng cho Pháp môn Làng Mai ở Việt Nam, sau chuyến về nước lần thứ nhất, Sư ông Thích Nhất Hạnh thường xuyên cử người về dưới danh nghĩa thăm thân nhân, du lịch, để giảng dạy và hướng dẫn các khóa tu thiền cho các tu sinh tại nhiều cơ sở trong nước. Bên cạnh đó, để thu phục giới trẻ, Sư ông Thích Nhất Hạnh đặt ra một chương trình, gọi là "Hiểu và Thương". Chỉ trong 3 năm, "Hiểu và Thương" đã quy tụ được vài trăm thanh, thiếu niên, với 60 người tham gia giảng dạy.
Và những ý đồ của sư ông Thích Nhất Hạnh
Ngày 20/2/2007, Sư ông Thích Nhất Hạnh cùng đoàn gồm 150 người với gần 30 quốc tịch khác nhau về Việt Nam lần thứ hai. Lần này, ý đồ mượn tôn giáo để làm chính trị của ông bắt đầu thể hiện rõ nét qua việc ông tổ chức "trai đàn chẩn tế" ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Lợi dụng GHPGVN, Sư ông Thích Nhất Hạnh cho phát tán tài liệu, đề cao, khuếch trương Pháp môn tu tập Làng Mai, phủ nhận những đóng góp rất nhiệt tình và tích cực của GHPGVN trong việc tổ chức "trai đàn chẩn tế", cứ y như không có ông, thì "trai đàn" chẳng bao giờ được hình thành.
Có lẽ ai đã xem hình ảnh Sư ông Thích Nhất Hạnh xuất hiện tại các "trai đàn chẩn tế" trên báo chí, truyền hình, hoặc xem trực tiếp, cũng đều thấy chướng. Chỉ là một "thiền sư", đứng đầu một môn phái, mà ông đi dưới lọng vàng, cạnh ông là sư nữ Thích Nữ Chân Không - y như vua và hoàng hậu! Thiên hạ đồn rằng ông với bà Chân Không có “quan hệ” rất gần gũi, chẳng biết thật hay không, nhưng năm 2006, khi một phái đoàn của GHPGVN sang Pháp, thăm Làng Mai, đã phải gửi Sư ông Thích Nhất Hạnh một bức thư, trong đó đề nghị: "Xin sư ông về ở với tăng, sư nữ Chân Không về ở với ni để tránh dư luận".
Và mặc dù ông tuyên bố không can thiệp, không phát biểu những vấn đề liên quan đến chính trị, nhưng khi được lãnh đạo Nhà nước Việt Nam tiếp kiến, Sư ông Thích Nhất Hạnh liền đưa ra đề nghị 10 điểm, trong đó có những điểm như: "Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam, giải thể Ban Tôn giáo chính phủ...". Nhìn nét mặt tự mãn của ông, hầu hết  tăng ni thuộc GHPGVN - xưa kia vẫn kính nể ông qua những cuốn sách ông đã viết, như “Đường xưa mây trắng”, "Nói với tuổi hai mươi", "Bông hồng cài áo", "Nẻo về của Ý", hoặc những bài thuyết giảng của ông ở Trường đại học Vạn Hạnh bao nhiêu thì bây giờ, tăng, ni lại càng cảm thấy thất vọng về ông bấy nhiêu, nhất là khi ông tuyên bố: "Pháp môn Làng Mai tự bổ nhiệm truyền giới, tấn phong, bầu trụ trì, viện chủ, phó viện chủ mới mà không cần phải thông qua Nhà nước và GHPGVN".
Sau khi được lãnh đạo Nhà nước Việt Nam giải thích thỏa đáng về kiến nghị 10 điểm do Sư ông Thích Nhất Hạnh đưa ra, ngày 9/5/2007, Sư ông Thích Nhất Hạnh cùng đoàn tăng thân Làng Mai rời Việt Nam, về Pháp. Trước lúc lên máy bay, ông công khai tuyên bố, khẳng định "Pháp môn Làng Mai là một giáo hội độc lập với GHPGVN, việc nội bộ của Làng Mai không thuộc thẩm quyền của Nhà nước và GHPGVN". Ôi trời! Ông đưa người của ông vào nhà người ta, ông  quây lấy một góc, nấu nướng, ăn uống, ngủ nghê, tắm giặt... rồi ông bảo "góc" của ông là góc độc lập, chuyện sinh hoạt của ông là chuyện "nội bộ", chủ nhà không có quyền can thiệp thì ai chịu nổi!
Đoàn sư ông Thích Nhất Hạnh lần đầu về Việt Nam
Ngày 22/4/2008, Sư ông Thích Nhất Hạnh về Việt Nam lần thứ ba để tham dự Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc. Cùng đi với ông là 450 người, gồm 41 quốc tịch. Lần này, ông công khai tổ chức nhiều khóa tu tập tại chùa Bằng, Hà Nội, Tu viện Bát Nhã, Lâm Đồng. Điều đáng nói là trước lúc về, Sư ông Thích Nhất Hạnh cho tán phát "Lá thư Làng Mai số 31", nội dung nêu ra những vấn đề không đúng sự thật về tình hình Việt Nam, đồng thời bộc lộ ý đồ xin lại ngôi chùa cũ, là nơi xưa kia ông ta tu hành. Lúc ấy, vì chưa nhận ra chân tướng của Sư ông Thích Nhất Hạnh, nên Thượng tọa Thích Đức Nghi, trụ trì Tu viện Bát Nhã đã đồng ý cho Sư ông Thích Nhất Hạnh dùng Tu viện Bát Nhã làm nơi tu tập Pháp môn Làng Mai, đồng thời ký đơn bảo lãnh cho gần 400 tu sinh đăng ký tạm trú với chính quyền.
Sự thật về những chuyện xảy ra ở Tu viện Bát Nhã
Được sự bảo lãnh của Thượng tọa Đức Nghi, số tăng sinh tu tập theo Pháp môn Làng Mai tại Tu viện Bát Nhã từ năm 2005 đến tháng 6/2009, khoảng 400 người - trong đó có một số Giáo thọ là người quốc tịch nước ngoài, và hơn 2/3 là những người từ các địa phương khác đến.
Để tạo thuận lợi cho tu sinh, Tu viện Bát Nhã đã đồng ý cho tu sinh thành lập những "xóm", gọi là "Mây đầu núi", "Bếp lửa hồng", "Rừng phương bối"... Tại những "xóm" này, mọi sinh hoạt riêng tư đều được tôn trọng mặc dù Nhà nước Việt Nam chỉ công nhận khóa tu theo Pháp môn Làng Mai, chứ chưa công nhận Giáo hội Làng Mai - Pháp quốc tại Việt Nam. Riêng GHPGVN, Hòa thượng Thích Hiển Pháp - là Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký, Trưởng ban Phật giáo quốc tế Trung ương Giáo hội, chỉ ký cho phép tổ chức khóa tu theo giới hạn của từng khóa tu là 3 tháng, hết hạn phải xin phép tổ chức lại, chứ không phải đến năm 2010 như Pháp môn Làng Mai đã tuyên truyền.