Thứ Hai, 26 tháng 4, 2021

Chân dung Phạm Xuân Ẩn - Kỳ 4: Những "đồng chủ nhân" trong vườn

 

TTO - Cả một “thế giới nhộn nhịp”, thăm dò nhau, ngó nghiêng, chim, kiến, sóc… Ông Ẩn, chờ đón, xem xét, lặng lẽ để thức ăn ra hàng ngày cho chúng đến ăn rồi lại đi. Chúng là những "đồng chủ nhân" trong mảnh vườn nhỏ với người đàn ông cao gầy có bộ óc và cuộc đời của một triết gia, suốt đời cận kề với hiểm nguy, sống chết. Thấu hiểu cuộc đời trong cả nghĩa đen của sự sống...

IoCF9lIv.jpg
Phạm Xuân Ẩn tại Mỹ (1957-1959)
TTO - Cả một “thế giới nhộn nhịp”, thăm dò nhau, ngó nghiêng, chim, kiến, sóc… Ông Ẩn, chờ đón, xem xét, lặng lẽ để thức ăn ra hàng ngày cho chúng đến ăn rồi lại đi. Chúng là những "đồng chủ nhân" trong mảnh vườn nhỏ với người đàn ông cao gầy có bộ óc và cuộc đời của một triết gia, suốt đời cận kề với hiểm nguy, sống chết. Thấu hiểu cuộc đời trong cả nghĩa đen của sự sống...

Chiếc cổng sắt lúc nào cũng đóng kín, có một cái chuông cũng đặc biệt: không nhấn nút cho reo, mà giật vào sợi dây dài. Một cái chuông nhỏ ở đâu đó kêu leng keng lạ tai. Có lẽ vì vậy mà thỉnh thoảng đám con nít đi qua cổng “ngứa tay” lại giật chơi. Chúng tưởng rằng chỉ có bầy chó sẽ xô ra sủa mà không biết rằng mỗi lần như thế, có rất nhiều “nhân vật” kinh động. Không phải chỉ có chủ nhà...

Thông thường, ở Sài Gòn thời mở cửa, bắt đầu cuộc làm ăn thị trường sôi động, nhà mặt tiền trên phố thế này chẳng ai không nghĩ cách tận dụng, xoay ra tiền bạc. Ngôi nhà của ông là một biệt thự hạng thường mà theo miêu tả của Henry Kamm thì “tướng của quân đội Việt Nam cũ không bao giờ cư ngụ trong căn nhà khiêm nhường đến thế”. Nếu ông bán đi như người ta thường làm, để lấy số tiền lớn mua một căn nhà nhỏ hơn, dôi ra được ít tiền. Hoặc nếu ông xây cất thêm chi chít, cho thuê, mở cửa hàng, hoặc làm quán ăn, café vườn… thì đó cũng là phương án thông thường của người Sài Gòn ngày nay. Nhưng ngôi nhà của ông giữ nguyên một mảnh vườn nhỏ phía trước. Tôi cảm nhận nó giống như một lời thầm nói lên tính cách của chủ nhân.

Một người từng trải qua mọi sang, hèn, đã là một ký giả như một chính khách thời thượng nhất, giờ đây “ông Ẩn còn yếu đuối hơn những ngày ông làm phóng viên” - lại lời của Henry - “Một người yếu đuối cong xuống nhưng không dễ dàng bị đánh gục giống như cái cây trong giông bão”.

Tôi cũng giật vào cái chuông đặc biệt trước nhà. Ông ra mở cổng sau khi đã chải đầu thật gọn gàng. Không rõ là kiểu tóc luôn được chải vậy hay là vừa mới gội đầu. Có khi ông vẫn mặc áo ba lỗ, ra mở cổng ngay sợ khách chờ lâu bên ngoài. Nếu mà nghe kể tên những thứ ở khoảnh vườn nhỏ thì rất dễ bị hình dung ra bài trí của biệt thự sang mà ta hay gặp. Nhưng khu vườn lại rất bình thường với vài ba khóm cây cao, còn lại là các loại hoa cây nhỏ và thấp xuống bên dưới khiến người ta khó mà nói ngay rằng đó là mảnh vườn trồng rau hay là vườn êm ả của các bụi cây cho bóng mát và sự yên tĩnh. Một con chó đá đen trùi trũi ở gần bậc cửa, nơi có một chiếc bàn đá nhỏ có thể ngồi chơi uống nước hóng mát các buổi chiều. Cái bàn này chỉ cách đường phố ầm ĩ gầm gào xe cộ suốt ngày đêm bởi vài bụi cây nhỏ. Vậy mà vị trí của nó đã đem lại ngay sự thanh bình rồi.

Mỗi tiếng chuông giật không chỉ là bầy chó sủa, mà làm kinh động nhiều “nhân vật” nào vậy? Khách không nhận ra ngay bởi họ đang bước vào khoảnh vườn vắng trước cửa. Chỉ đến khi quan sát các công việc tỉ mỉ, rất nhẹ nhõm của ông, mới thấy ở đây được khá nhiều vị khách lạ nhòm ngó lui tới. Không chỉ mình ta là vị khách bước vào.

Ông Ẩn bắt ổ chim, đỏ lói mới nở và cho chúng ăn bằng trứng kiến. Ông lấy ra thứ trứng kiến trắng như gạo, mềm, nhỏ li ti. Đó là trứng mới đẻ. “Kiến vàng đít chua lắm. Nấu canh chua thì bắt nguyên ổ, vớt kiến bỏ đi, còn lại nước chua lắm”. Ông giải thích như chia sẻ với một người cùng sở thích. Lời nói đó nhẹ nhàng “như thi nhân” bởi nó giống lời thì thào say sưa của đứa trẻ lúc đang chơi. Một thói chơi hồn nhiên như trẻ. Không có gì to lớn hoặc cầu kỳ theo kiểu dân chơi nhà nghề sành điệu đưa lên thành nghệ thuật. Thú chơi của ông khác lắm. Chiều theo thiên nhiên, lặng lẽ và có vẻ gì đó hưởng thụ như một cậu bé con tò mò, tinh quái.

Chẳng có nhiều điều kiện để cầu kỳ, nhưng lại khá “oái ăm” bất ngờ. Ai mà có thể nghĩ ra cái tác dụng nấu canh bằng cái đít chua của bầy kiến! Chắc chắn vợ ông đi chợ chỉ vài ngàn đồng là có đủ rau, thơm, bạc hà, lá giang cho nồi canh chua. Nhưng ông biết hết “tính năng” của các loài vật. Còn oái ăm hơn cả các món ăn: “Viết thơ tình bằng nước xanh chua chua bóp ra từ kiến. Viết bằng bút học sinh. Ông bồ hơ lửa thấy chữ. Cái này đi học được. Khổ vậy kia, cái gì cũng học!” Ông nói như than thở, mà mắt lại ánh vui.

“Chú bé Ẩn” chơi các con vật từ lúc 5 tuổi, chứ không phải kiểu chơi chim chơi thú của những ông già về hưu nhàn rỗi đỡ buồn. Ông có con khướu đã sống 15 năm ở khu vườn nhỏ này. “Sáo, họa mi, năm con sóc còn hai. Nó ở đâu đó đến! Tôi treo thức ăn lên vỏ trái dừa, ngày ngày nó đến ăn rồi lại đi. Đất lành chim đậu là vậy. Sẻ rất nhiều. Súng hơi người ta bắn riết nay không còn. Hai con chích chòe lửa, tôi bắt được ở đây”. “Chị ngồi chờ, để tôi chỉ cách bẫy sẻ này”.

Ông lấy ra hai cục gạch, đặt trên cái bàn uống nước: “Lấy ba cái que lớn lớn tí thôi. Bỏ lúa trong rải vài hột thôi”. Ông say sưa: “Cây trúc cương trực. Sẻ là tiểu nhân láu lia láu lịa, không bao giờ được người ta vẽ đậu trên cành trúc. Sẻ xấu, đa nghi. Gạch đè xuống là ra bắt liền, không nó chết”. Ông hướng dẫn cứ như là tôi cũng hiểu hết, đang muốn học chơi theo. Hình như ông muốn tôi cũng nên biết chơi, vì theo ông “con nít giờ không biết, giảng không hiểu, không biết chơi”. Ông dặn tôi: “Rải một ít ở bên ngoài kẻo nó ăn no không vào ăn phía trong hòn gạch nữa”. Ngày trước thì ông bẫy chích chòe. Bẫy đâu có như bây giờ! Cây tre có cành buộc như cần câu, một đầu cắm xuống đất. Có một cái vòng bằng tre, có cái cò để vô cột con dế. Có thòng lọng, có chỉ rút. Chim vào mổ cào cào, dế. Cái cần cò bật lên siết lấy con chim. Ông lại dặn: “Đừng treo cao quá siết cổ nó chết”. Còn bắt chim én, nó thường bay thấp, ăn ruồi rác. Nó bay sớt qua sớt lại không đậu. Phải để cái vòng có con ruồi ở giữa, chim chui đầu vô, bị giật.

Thì đó, có cả một “thế giới nhộn nhịp”, thăm dò nhau, ngó nghiêng, chim, kiến, sóc… đủ cả. Nhiều khi chúng sống đâu đó, trên phố xá ta nào thấy được. Chỉ ở nơi đâu, có những người như ông Ẩn, chờ đón, xem xét nó, lặng lẽ để thức ăn ra hàng ngày cho nó đến ăn rồi lại đi. Chỉ có kẻ nào hào phóng, không định sở hữu, bắt nhốt chúng, chúng mới tới “sống cùng” trong chốc lát, rồi lại là “người của tự do”. Chúng là những nhân vật đông đúc ở khu vườn nhỏ, khách vào nào có ai biết là chính họ đang làm kinh động nhiều vị “đồng chủ nhân” cùng với người đàn ông cao gầy có bộ óc và cuộc đời của một triết gia, suốt đời sống cận kề với hiểm nguy, sống chết. Thấu hiểu cuộc đời trong cả nghĩa đen của sự sống.

Những ký giả phương Tây luôn ngạc nhiên không chỉ vì ông Ẩn là một ký giả xuất sắc, săn tin giỏi, mà còn vì óc hài hước, sự thành thạo nhiều mặt trong đời sống. Trong mảnh sân vườn nhỏ này, có lẽ tôi là nhân vật xa lạ nhất xâm nhập vào đây, mong mỏi được quan sát tìm hiểu về một con người đặc biệt. Đôi khi tôi có cảm giác hình như con chó đá nó đang cười tôi phía sau lưng, mỗi khi ông Ẩn tiễn tôi ra cổng. Dường như cả con kiến ở trong vườn này nó cũng biết rằng tôi không hiểu ông Ẩn bằng nó.

Cũng công bằng thôi, một khi mà với con chim huýt cô sầu ông nuôi nó 8 năm, đi chơi Vũng Tàu cũng mang nó theo. Có cả lồng tắm riêng cho nó. Ông nhìn cái lồng và bảo: “Lồng không sạch vầy ở Úc nó đuổi đó, không cho nuôi chim đâu. Còn nếu khi nào thấy cá lội tung tăng quá thì đừng có tưởng là vui tươi khỏe mạnh. Đó là lúc nước bẩn".

Những con chim ấy biết sắp được ăn “bít tết” như Tây khi ông cầm sâu tươi và những con rắn liu điu nhỏ xíu ra. Dường như con huýt cô sầu biết ông Ẩn đã hiểu ra lai lịch vì sao nó có cái tên buồn rầu đó: Có đứa con gái nhỏ mồ côi được cô nuôi. Khi cô chết, nó ra mả khóc không ăn uống đến chết biến thành con chim huýt cô sầu. Cái sự tích chuyện đời con hoàng anh cũng được ông Ẩn kể: Cô nương kia chờ chồng chinh chiến. Chờ đến kiệt sức thì chim bay về báo tin cô ráng sống vì chồng sắp về. Cô ráng sống, được gặp chồng là nhờ chim hoàng anh.

Ông còn bình luận vui: Nhà nào mà có con gái, lại trồng cây liễu rủ buồn, thêm con chim huýt cô sầu nữa thì con gái đến là tự tử thôi. Phải cấm con gái trồng liễu và nuôi chim huýt cô. Thêm ông nội này kêu thì chết con nhà người ta.

(còn tiếp) nguyễn thị ngọc hải

Chân dung Phạm Xuân Ẩn - Kỳ 2: Im lặng là nguyên tắc sống

 


TTO - Tôi muốn tìm ra cái chất “Người Việt trầm lặng”. Tôi muốn mọi người Việt Nam được đón lấy những gì dịu dàng nhất, can đảm nhất, yêu thương tươi cười nhất, từ cuộc đời của một con người cao gầy, mỏng manh như cây sậy...

Ấy là vài nét hé lộ tính cách ông Phạm Xuân Ẩn. Cũng mới chỉ là lời của Peter Ross Range, của Morley Safer, hay là sau này Henry Kamm trong cuốn Dragon Ascending xuất bản năm 1996. Có vẻ như giới viết lách của Mỹ quan tâm đến ông nhiều hơn. Do trước đây họ đã làm việc với ông? Henry Kamm trong chương Heroes of war and peace đã nói rằng mình biết Ẩn đã một phần tư thế kỷ. Vậy mà Henry “không một phút giây nào tôi ngờ rằng trong suốt cuộc chiến tranh ông là đại tá của Mặt trận giải phóng dân tộc mà kẻ thù của họ gọi là Việt Cộng. Tôi biết ông là một đồng nghiệp hào phóng, hiểu biết và hóm hỉnh”. Henry đã đánh giá cao hơn nữa: “Tướng Ẩn - một trong những nhân viên tình báo Cộng sản bí mật gan dạ nhất ở Sài Gòn trong suốt cuộc chiến tranh chống Hoa Kỳ…” .

Trong cuộc nói chuyện với các đồng nghiệp cũ khi họ trở lại Việt Nam sau này, ông Ẩn quan tâm thăm hỏi tin tức của các đồng nghiệp cũ như Frank Mc.Culloch, giám đốc văn phòng tuần báo Time tại Sài Gòn, Richard M. Clurman, trưởng ban phóng viên cho Time - life có văn phòng tại New York. Những người Mỹ đã biết ông Ẩn tới một phần tư thế kỷ mà vẫn còn nhiều bất ngờ về ông. Sau nữa, chắc gì họ đã hiểu ông Ẩn như họ thường cho là họ hiểu. Như Morley chẳng hạn. Morley viết: “Tội nghiệp cho Ẩn. Anh đã chọn chỗ đứng giữa vùng đất không người, tùy thuộc vào sự hình thành của lực lượng thứ ba. Chẳng có chỗ đứng nào cho một tâm hồn nhạy cảm như anh…”. Mặc dù Morley cũng nhận ra rằng do ý nghĩa lịch sử, chỉ có một chỗ đứng như ông Ẩn đã đứng, dành cho những tâm hồn nhạy cảm. Nếu hiểu theo cách người Việt nghĩ thì do đất nước gặp ngoại xâm, tất cả những tâm hồn yêu nước, nhạy cảm, chỉ có một chỗ đứng giống nhau như vậy thôi, chỗ đứng trong đội quân những người cứu nước. Morley còn cho rằng nếu Graham Greene nhìn Việt Nam theo một cách nào đó, ông có thể viết cuốn tiểu tuyết Người Việt Nam trầm lặng với Phạm Xuân Ẩn là nhân vật mẫu.

Rõ ràng Phạm Xuân Ẩn có cuộc đời của nhân vật tiểu thuyết. Nhưng các nhà báo Việt Nam cũng như nhà báo nước ngoài mới chỉ được “những chớp đèn flash” những nét thoảng qua nào đó của cuộc đời ông theo những sự kiện lịch sử lớn lao. Chưa ai có được tấm chân dung hay “bản hồ sơ về tâm hồn” với tính cách điển hình Việt Nam. Các thành tích của ông đã khắc ghi bằng danh hiệu Anh hùng cao quý do nhà nước tặng. Nhưng điều gì, hoàn cảnh nào đã tạo nên một người Việt đặc sắc như thế?

Đó là nỗi niềm mong ước của tôi, khi lưỡng lự bấm chuông một ngôi biệt thự ở vào vị trí rất đẹp nhưng chỉ vào hạng xoàng trên đường Lý Chính Thắng, Sài Gòn. Tôi không thể đủ điều kiện viết về ông theo cách chuẩn xác của những điệp vụ. Càng không muốn liệt kê theo các bản khai lý lịch đơn thuần. Tôi muốn tìm ra cái chất “Người Việt trầm lặng” mà Morley hình dung, hoặc là chất honor trong cuộc đời ông mà Peter Ross Range đề nghị. Nhưng sau hết, tôi muốn mọi người Việt Nam được đón lấy những gì dịu dàng nhất, can đảm nhất, yêu thương tươi cười nhất, từ cuộc đời của một con người cao gầy, mỏng manh như cây sậy. Sức mạnh của con người ấy được lấy từ mỏ năng lượng quý báu và thần diệu nào đã ban cho? Nếu như bạn đọc nào ao ước cùng tôi điều đó thì hãy đọc cuốn sách này. Nó là một phần chân dung để chúng ta tự hiểu, hình ảnh người Việt cao quý giống như chúng ta đang vẽ ra bản đồ của một tâm hồn. Một việc thật khó làm!

Được gặp ông, nếu như có hình ảnh nào có thể liên tưởng từ cuốn sách của Morley thì đó là cái dáng ông Ẩn lòng khòng nay gầy thêm và khô đét. Tôi để ý xem có đúng là ông mang cặp kính dày cộp trông giống trí thức gia thường gặp nơi các quán café quanh khu đại học Sorbonne không, nhưng tất nhiên là không hình dung ra, bởi tôi chưa hề đến Pháp. Ông có thói quen gỡ kính ra khi nói và đeo vào khi lắng nghe không? Tôi cũng cố hình dung ra cái góc bàn nơi Morley ngồi và đã mô tả từ chiếc máy chữ xách tay cũ kỹ hiệu Oliveti để nơi góc bàn. Ông không có điếu thuốc Lucky Strike kẹp giữa những ngón tay xương. Trên mặt bàn thấp giữa sofa và hai ghế ngồi, ông cũng không bày các ly với chai Whisky White Horse và xô nước đá như khi tiếp Morley.

Nhưng nhận xét của Morley khi nói rằng: “Anh ta nói chuyện duyên dáng thoải mái với phong cách của một thi nhân” thì vẫn luôn luôn đúng. Chính ở căn nhà này, ông Ẩn đã cùng hai con chó quấn quýt dưới chân để đưa tiễn Morley ra xe. Morley cũng nói rằng Ẩn đã sống những cuộc sống rất đặc biệt, tại sao không viết ra. Đó sẽ là cuốn sách rất hấp dẫn, và cũng là cuốn sách quan trọng nữa. Ông Ẩn trả lời: “Trong những năm tôi làm phóng viên, không ai bảo tôi phải làm gì ở hãng thông tấn Reuters hoặc Time. Tôi đã quá già để học thêm những luật lệ mới rằng điều gì cho viết điều gì không. Tôi e rằng những ngày làm phóng viên của tôi đã qua rồi”.

Không biết tới hôm nay, những năm cuối cùng của thế kỷ 20 này, liệu lời từ chối ấy của ông có lặp lại, và tôi sẽ thất bại hay không. Điều này khiến tôi thật sự lo lắng khi đã ngồi ở bộ sofa, chuẩn bị cuộc trao đổi. Đôi bàn tay xương của ông rót nước trà. Cái bình trà cũng ngộ nghĩnh: ở gần vòi của bình, có đeo một chiếc rổ nhỏ xíu bằng kim loại, làm nhiệm vụ giữ lại những sợi bã chè nhỏ theo dòng nước chảy xuống, không cho chúng rơi vào tách trà mời khách.

Tất nhiên là ông lại từ chối việc viết sách. Đã từ lâu ông ít bộc lộ mình với giới báo chí. Nhưng ông không nói rằng do cái gì là luật lệ kiềm chế hay không. Ông nói như giải thích để mong nhận được sự thấu hiểu:

- Nghề tôi có hai cái kỵ: Nếu bị bắt, không trốn được (nếu trốn được thì tốt), nhưng nếu không sống được thì phải kể là chết. Cái cần giữ không phải xác anh. Xác anh kể là chết, nhưng không được tiết lộ nguồn tin. Không khai báo đã đành, ngay khi những gì địch đã biết, anh có thể nhận, nhưng tuyệt đối phải bảo vệ người cung cấp tin. Thứ hai là cái gì lấy được rồi, giấu tuyệt đối.

- Như vậy thì không bao giờ nhân dân, người đọc rộng rãi biết được cụ thể chiến công của anh là gì và làm thế nào anh có được nguồn tin tình báo?

- Đúng vậy.

- Ngay cả khi cuộc chiến tranh qua đi đã mấy chục năm, nhiều tư liệu, nhiều sự thật rắc rối bí ẩn cũng đã được đưa ra ánh sáng, lên báo chí và phim ảnh?

Ông quay ra than phiền rằng trước đây có một nhà báo được ưu tiên tiếp xúc tài liệu và ông đã ra sức can thiệp để không đưa lên công khai, nhưng cuối cùng ngăn không được. Đấy là một sự kiện khiến ông phiền lòng nhất.

- Tôi hứa gì, giữ đúng. Bao nhiêu năm sau cũng vậy. Có phải điều gì cũng viết ra hết cả đâu. Cái nghề tình báo nó vậy, đừng ai đụng tới. Những chuyện thất bại, đổ bể mới kể ra. Thế giới, hoặc Mỹ nó cũng vậy. Cái nào êm cho êm luôn.

- Nhưng ở Mỹ người ta cũng viết về những trường hợp tình báo chống Anh. Còn những cuốn Tass được quyền công bố,Hội tam hoàng hoặc Người từ xứ lạnh đến của John Care và cả Người không có mặt của tác giả Đức?

- Thì nói tượng trưng thế thôi. Hoặc như Graham Greene (tác giả Người Mỹ trầm lặng) ông ta là tình báo Anh Thế chiến thứ hai. Daniel Defoe viết Robinson cũng là một tay tình báo giỏi… Thông thường thì ít ai đụng tới viết về những gì tình báo làm. Lâu lâu lòi ra một trường hợp bị đổ bể, người ta mới viết…

Có vẻ như lý lẽ này của ông không được vững cho lắm, dù trong nghề của ông, người ta hành xử như vậy. “Lấy làm nhân vật tiểu thuyết thì nhiều hơn”. Ông Nguyễn Khải có viết hai cuốn tiểu thuyết lấy mẫu từ Phạm Xuân Ẩn, thì ông không lo lắng gì. Tiểu thuyết hư cấu mà. Còn với tay nhà báo mà ông phiền lòng kia, lại viết hết ra những “đồ” mà ông lấy được, kể tỉ mỉ cả những nguồn cung cấp tin…

Nó tai hại ở chỗ nào?

- Thường người viết cứ cho rằng viết ra những tài liệu lịch sử. Nhưng người ta tốt với mình, dù là họ vô tình không biết mà mang lỗi với công việc của họ, tổ chức của họ. Người ta giúp mình những việc nguy hiểm. Sao lại đưa người ta ra?

Thì ra là vậy - Ở đây có nguyên tắc sống, thái độ ứng xử, sự trung thành với con người chứ không đơn thuần là vấn đề kỹ thuật. Ông giữ nguyên tắc sống này cho vĩnh viễn. Bảo vệ nguồn tin mãn đời. Đến hôm nay, sau cuộc chiến tranh đã lâu, có cả lứa sinh viên trẻ nghiên cứu khoa học Mỹ sang Việt Nam, ngay đó là con trai một thống đốc bang sang liên hệ tài liệu để làm luận án, ông cũng từ chối ngay.

“Mình xài đồ. Nếu nay dù họ có chết đi rồi, cũng không nên nói họ ra. Mình viết ra, con người ta lại trách con mình sao? Lối cư xử Á Đông, ông bà mình dạy, không thể xong việc mình rồi thì mặc kệ việc người”. Rõ ràng ông giữ một nguyên tắc sống, nguyên tắc cư xử của con người được giáo dục về nhân văn rất kỹ. “Có được một người bạn là khó khăn lắm, công phu lắm. Một người quan hệ bao lâu mới thân, bao lâu mới đủ tới mức họ giúp đưa đồ, đâu phải dễ. Có cả những người bạn tốt, tin cậy tới mức đưa máy bay rước tôi lên Buôn Mê Thuột đọc tài liệu. Nay dù chiến tranh đã qua rồi nhưng các thế hệ lãnh đạo của nước Mỹ đều ít nhiều dính vô chiến tranh Việt Nam. Đám đẻ sau Thế chiến thứ hai là dính vô Việt Nam đủ các lĩnh vực. Hội chứng này nặng lắm. Cho nên những mối quan hệ sâu sắc giúp mình làm nhiệm vụ, mình không thể nói người ta ra. Lúc giúp mình, người ta tin rằng đã giúp tài liệu cho một nhà báo để xài tài liệu phân tích hiểu biết thời cuộc. Mình không thể làm hại đến họ bất kể kiểu gì”.

Ông đã nghĩ tới nguyên tắc của nghề, và nguyên tắc sống. Chỉ có hiểu ông điểm này mới biết vì sao ông oán tay nhà báo nọ. Mình kể nguồn tin ra, Mỹ nó sẽ truy người ta liền, dù là chuyện qua đi đã lâu. “Ổng đòi đăng, tôi không chịu mà không can thiệp được. Lệnh trên là phải cung cấp tài liệu cho nhà báo đặc biệt đó để phục vụ công tác chung. Nhưng đăng lên thì không được. Tôi có can thiệp nhờ ông Mười Hương lúc đó, nhưng ông Mười Hương đứt mạch máu não là ông này chơi liền. Thế mới đau…”. Không phải chỉ đau về nguyên tắc sống giữ gìn sự trong sạch của nghề, một lý do ông không muốn nói hết công việc đã làm là: Ông tự nhận “có tật” luôn luôn nhìn tới chứ không nhìn lui. Tương lai của mình là do mình quyết định hiện tại. Cái gì xảy ra đã xảy ra rồi, ngoái lại sau lưng để làm gì. Mình không thể làm thay đổi quá khứ được.

Ông thường nói: “Bệnh người già là hay nói chuyện cũ. Cuộc sống bây giờ lại găng lắm. Ngày xưa cá nhận xuồng, nhắc vô kho. Vài con trùn, nhái rê rê là có cá ăn. Nay đấu kinh tế thị trường dữ lắm. Người già sống buồn thất nghiệp, tụi trẻ ưa nói cái mới. Kể chuyện mình cũ xì tụi trẻ nó không thích đọc đâu”.

Ông đùa hay ông nói nghiêm chỉnh? Tôi tự hỏi: Có thể nào tụi trẻ nó không thích nghe những chuyện như cuộc đời ông Ẩn?

(còn tiếp)

NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI

Chân dung Phạm Xuân Ẩn - Kỳ 3: Những con vật dẫn đường

 

TTO - Theo ông, trong nhà phải nuôi ba con vật: Con chó trung thành, “con có thể chê cha mẹ khó chứ chó không bao giờ chê chủ nghèo”. Con chim thì nhảy hoài. Nó tiêu biểu cho sự bận rộn làm việc suốt ngày, không làm biếng. Còn con cá thì dạy sự khôn ngoan, im lặng, không nói nhiều mà suy tư...

Trong bản thành tích tóm tắt in ra công khai, ở trang “Anh hùng Trần Văn Trung” (tên ông Ẩn) chỉ khoảng 20 dòng: Sinh năm 1927, quê Biên Hòa - Đồng Nai, nhập ngũ tháng 12-1952. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung tá, cán bộ tình báo thuộc Bộ tham mưu Miền, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1952 đến tháng 4-1975 do yêu cầu của nhiệm vụ tình báo, suốt 23 năm cùng ăn, ở, làm việc với địch, Trần Văn Trung vẫn luôn giữ vững lòng trung thành với Đảng, tin tưởng vào thắng lợi của Cách mạng. Trong công tác, Trần Văn Trung đã khôn khéo, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo bám chắc địa bàn, lập nhiều thành tích xuất sắc. Đồng chí đã cung cấp kịp thời nhiều tài liệu nguyên bản có giá trị lớn. Trần Văn Trung luôn giữ nếp sống giản dị, trong sạch, có ý thức tổ chức, kỷ luật cao. Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương chiến công giải phóng hạng Nhất, 2 Huân chương chiến công giải phóng hạng Nhì, 1 Huân chương chiến công giải phóng hạng Ba, 6 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua.

Năm 1976 ông Ẩn, tức Trần Văn Trung được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Nhưng cuộc đời và cuộc chiến đấu mấy chục năm của ông chắc chắn phong phú, đầy sự kiện, đã không được công bố cho báo giới hoặc in ra trên các phương tiện in ấn khác.

Những thư báo cáo tin tức về việc Mỹ đang thay dần quân Pháp ở Việt Nam là thời kỳ trước năm 1961. Sau đó là những tài liệu có tính chiến lược để chúng ta có thể nắm vững các kỹ thuật và chiến thuật mới của Mỹ - ngụy. Có những tài liệu mang giá trị cực lớn nêu rõ chiến lược quân sự, bình định theo cách chống nổi dậy được các chuyên gia Mỹ đúc kết kinh nghiệm từ các nước để áp dụng vào Miền Nam. Tài liệu về tổ chức, trang bị, các kế hoạch hành quân và các dự định hoạt động của địch, vừa mang ý nghĩa chiến lược, vừa tổng kết kinh nghiệm hoạt động quân sự và bình định. Đó là những nét khái quát lớn nhất về sự đóng góp của điệp viên Phạm Xuân Ẩn. Những tài liệu cực kỳ quan trọng này được chuyển ra rất sớm, giúp cho quân dân ta tìm được các biện pháp chiến lược chiến thuật đối phó đánh giặc, lập được nhiều chiến công xuất sắc.

Những kế hoạch lập ấp chiến lược, bình định nông thôn, chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ… được kịp thời chuyển tới Trung ương, là kết quả của một cuộc phấn đấu, một đời hoạt động khá độc lập của ông tại các cơ quan cao nhất của kẻ địch. Ông đã làm việc, quen thân, ra vào dễ dàng, được lòng tin cậy từ những cơ quan lớn của chính quyền Sài Gòn như cơ quan Trung ương tình báo ngụy, Tổng nha Cảnh sát, An ninh Quân đội, được Phủ Tổng thống mời với tư cách chuyên viên tham gia đánh giá, đọc các tài liệu tối mật, tham gia ý kiến vào việc hoạch định chiến lược quan trọng của chế độ.

Ông đã làm việc cùng với nhân viên của đại tá Edward G. Lansdale, chỉ huy trưởng Phái bộ quân sự Sài Gòn (Saigon Military Mission - phái bộ này hoạt động cả quân sự, tình báo CIA và chính trị), người tổ chức hàng loạt chiến dịch phá hoại chống Việt Cộng. Ông Ẩn là một trong số ít phóng viên Việt Nam được mời dự giao ban quân sự. Đã có thời kỳ ông tư vấn đề cử các sĩ quan tham gia các khóa học huấn luyện ở các trường đào tạo quân sự tại Mỹ. Chính ông là người đã làm thủ tục cho Nguyễn Văn Thiệu đến Hoa Kỳ lần đầu tiên tham gia khóa học chỉ huy và tham mưu tại Leavenworth. Đám chỉ huy hành quân Mỹ còn cho phép ông lên trực thăng HU.1A đi theo hành quân sát trận địa, chiến trường, đến các phòng thuyết trình tình hình xem những bản đồ chiến sự mới nhất.

Nhưng có phải tất cả những thành công trên đây là do ông Ẩn là phóng viên chiến tranh của tờ báo Time lớn nhất nước Mỹ? Ở vị trí đó nên ông được sự thân thiết của giới cầm quyền cao nhất như Ngô Đình Cẩn ở Huế, Trần Kim Tuyến, Trần Văn Đôn, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Tôn Thất Đính, Đỗ Cao Trí và rất nhiều dân biểu, bộ trưởng Phạm Kim Ngọc, giám đốc chiến tranh tâm lý Nguyễn Hữu Có, Cao Văn Viên, Lam Sơn?... Có phải tất cả các nhà báo đều có thể dễ dàng tạo dựng những mối quan hệ như vậy? - Mối quan hệ thân tới mức “lại nhà chơi cũng được”…

Có lần Trần Kim Tuyến yêu cầu ông đứng ra làm chủ bút một tờ báo, lời ăn, lỗ thì bác sĩ Tuyến chịu. Nhưng ông Ẩn đâu có tham vọng làm chủ báo, đâu có mục đích làm giàu. Đã có lần Ẩn phỏng vấn Ngô Đình Cẩn sau vụ đảo chính hụt về việc chính Cẩn đã phát hiện âm mưu đảo chính. Đã có báo cáo lên nhưng bị vứt vào sọt rác. “Thưa ôn nếu ôn chịu, con viết chi tiết đó cho Reuters”. - Ẩn thăm dò. Ngô Đình Cẩn phải bảo thôi đừng đăng: “Mi phỏng vấn tao thiếu nước lạy. Mồm ác lắm!” Ông Ẩn có một người anh họ làm giám đốc Cảnh sát Công an Trung phần. Biết Cẩn thích chơi chim, ông anh thấy Ẩn có con chim loan liền bảo: “Mi cho tao để biếu ôn”. Ẩn có cái ống nhòm, anh cũng xin “Cho anh biếu ông Cậu để ổng đi câu cá”. “Câu cá, hay là để dòm các cô?” “Cái miệng mi ra Huế chết tao”.

Sinh hoạt thời kỳ ấy có những chuyện vui bên lề. Phủ Tổng thống thấy Ngô Đình Diệm thích có người Nam mà biết Huế, biết Bắc, nói chuyện thẳng thắn và vui, họ muốn chọn Ẩn vì Ẩn đủ “tiêu chuẩn”. Diệm thích trò chuyện với những tay thẳng thắn, lại thích cây cối. Một lần Diệm xuống Vĩnh Long thăm ông anh là Ngô Đình Thục làm đức cha ở dưới miền Tây. Ngô Đình Diệm thích cây cối. Đi dọc đường, ông ta ưa thích nhìn mạ xanh bên ruộng hai bên đường thẳng cánh cò bay. Ông luôn mồm rủa những kẻ đang tâm chặt cây cối về làm cây Noel. Đang nhìn chiếc cổng làng phía xa có cây cổ thụ, dưới gốc cây nhiều nông dân đang nghỉ ăn trưa, Diệm thính lắm bèn hỏi: “Cây chi rứa mi?” Người lái xe cự lại: “Cây chi cụ nhìn cụ biết chứ, con đang chạy xe 100km/giờ sao dám nhìn cây! Tính mạng cụ nằm trong tay con đây nè”. Sau lần đi ấy, Diệm thường than mắng các cấp dưới chỉ biết a dua nịnh bợ ông mà chẳng ai thật lòng. Có người bộ trưởng vào tiếp kiến vâng, dạ lễ độ, lúc đi ra không dám quay lưng đi tử tế, lại đi giật lùi, chẳng may đụng phải đôn chậu cây vấp ngã, Diệm khoái trá cười: “Chỉ quen a dua nịnh bợ, các ông không thương tôi bằng người Sốp - phơ”.

Có lần ở sát biên giới Miên có tranh chấp. Thiếu tướng Becna Trần Tử Oai làm Tư lệnh vùng 4 sát biên giới, Ngô Trọng Hiếu lúc đó làm đại sứ, bị Xihanúc phiền trách. Diệm kiếm chuyên gia về Campuchia để hỏi ý kiến tìm cách giải quyết tình hình căng thẳng, liền xuống Cần Thơ tìm Tư lệnh vùng 3. “Cụ kêu lên” - viên tướng cấp tốc lên gặp, chào kiểu nhà binh cái rốp. “Tư lệnh vùng phải không?” “Dạ phải.” “Ở biên giới có tranh chấp, cho ý kiến giải quyết thế nào?” “Mật lắm Cụ ạ”. “Nói đi. Mật hoài.” “Phải rồi, cái này mật. Cụ cho con một ngày đi, một ngày về, tổng cộng khoảng 5 ngày con giải quyết xong”. “Năm ngày là sao?”, “Con hành quân đến Phompenh đánh một ngày”. “Đâu có được. Tưởng có mưu gì ngoại giao”. “Con quân sự chỉ có hành quân thôi. Quân sự là thế. Con nói Cụ rồi, mật lắm!”. Diệm khoái những người như “Oai” và nói thẳng như thế, có khi dám phản ứng theo cách của mình. Vì vậy người ta nhắm “chắc thằng Ẩn” đủ tiêu chuẩn để trò chuyện với Cụ. Nhưng cũng có người phát hiện “Nó ẩu lắm. Nó dám dắt ông Cụ đi dancing thì lộ hết mặt đám quan chức ăn chơi đi dancing tối ngày”. Ai chứ Ẩn thì dám dắt ông Diệm đi chơi đêm bất tử, lòi ra các bộ trưởng nhảy đầm!

Một dịp Tết, Ẩn lại chơi nhà Trần Kim Tuyến. Có mấy vị bộ trưởng mới tới chào Tuyến, Ẩn liền lại nói chuyện với bà vợ Tuyến. Thấy nhà họ được biếu quá nhiều hoa thủy tiên, Ẩn miệng nói, tay bốc: “Xài không hết. Tôi không có”. Vị bộ trưởng lấy làm lạ hỏi “Thằng nào hỗn vậy?” “À, anh Ẩn nhà báo thân đó mà” - bà Tuyến cười giải thích.

Ông Ẩn được nhiều quyền đặc biệt không chỉ do nghề nghiệp mà là do quan hệ rộng. Ông đi lại có cả giấy của an ninh Phủ Tổng thống, có súng. Ông lái xe đi Buôn Mê Thuột khi cần. Cùng với các nhà báo nước ngoài, Ẩn đi cả vĩ tuyến 17. Đi tham quan khu trù mật thì bằng xe của Phủ Tổng thống. Ẩn có chiếc xe riêng, xe taxi nhỏ hiệu Renault dùng suốt từ năm 1960 tới khi miền Nam giải phóng.

Người ta đã quen chiếc xe nhỏ của tay ký giả chuyên viết chiến sự, đi khắp nơi, tự lái và luôn chở con chó đi cùng. Ông nuôi bécgiê giống quý. Con bécgiê mua từ Đức cũng nổi tiếng vào hàng số một Sài Gòn lúc đó với giá 30 cây vàng. Những đêm ông làm báo cáo bí mật con chó nằm dưới chân. Nếu có động tĩnh gì, con chó thính lắm. Cảnh sát đi khám sổ gia đình (hộ khẩu) ban đêm giờ giới nghiêm ngoài đường cách gần cây số nó nằm yên nghe, lấy chân khều khều báo cho chủ. Ban đêm khi ông chụp lại các tài liệu, bản đồ dưới ánh đèn 500 watt che kín, nếu có tiếng chó sủa tức là có ai đó đi bên ngoài.

Sau này ông bán con chó đó để mua con khác từ Mỹ đem qua. Nó cũng tinh tường một cách đặc biệt. Những đêm Mỹ đem máy bay B.52 rải bom ở xa tận ngoài chiến khu, đất rền rung rất nhẹ nó đã sủa khi chưa ai cảm thấy. Mãi sau khi nghe nó sủa rồi, cố để ý mới thấy cửa rung. Con chó thường ngồi sau xe. “Có lần tôi trao đồ cho người liên lạc, bà khựng lại sợ quá vì thấy con chó”. Khi ông vào nhà hàng (ông thường vào các nhà hàng Brô-đa, Givràl, Continental… nơi tập trung giới báo chí, các quan chức, dân biểu) con chó được lệnh ngồi chờ ở ngoài xe. Nó có thể tuân lệnh ngồi yên như thế chờ đến một, hai tiếng tới khi ông chủ ra. Nếu được vào nhà hàng, nó chui nằm yên dưới bàn.

Hẳn là nó quá ấn tượng với đám bạn làm báo hồi đó. Đến nỗi nhiều năm sau này khi Sài Gòn giải phóng, họ trở lại thăm ông Ẩn, làm các cuộc phỏng vấn, như ta đã thấy trong miêu tả của họ, bao giờ bên ông Ẩn cũng có hình ảnh con vật thân thiết của ông. Morley đã tả lại kỷ niệm cũ khi tiếp xúc với Ẩn ngày xưa ở nhà hàng, cái mõm đen của con chó thò ra khỏi gầm bàn im lặng khi chủ của nó đang nói cười. Và hình ảnh gặp lại ông Ẩn ở Sài Gòn sau hàng chục năm cũng có “Ẩn và những con chó thân yêu của anh ta”. Kết thúc bài viết, cũng là “Ẩn giơ cánh tay xương dài vẫy vẫy từ biệt cùng với tiếng chó sủa theo chúng tôi ra ngoài con lộ”.

Ngày Tết, đám bạn bè và quan chức thường mừng rỡ nếu thấy chàng ký giả vốn “rất Mỹ” này lại khăn đóng áo dài dẫn bécgiê đến chúc Tết. “Ông nội này láo” - đám bạn bè trêu chọc bình luận. Nhưng Ẩn bảo: “Không đi với vợ mà đem chó bécgiê theo là hên”. Con chó cũng giúp Ẩn mở quan hệ thân thiết. Ông thân với Đỗ Cao Trí (tướng nắm Vùng 3 chiến thuật, vùng Sài Gòn và Đông Nam Bộ), cũng qua con chó. “Chả khoái bécgiê, đi chợ chó luôn. Cố vấn Mỹ mua cho chả 3 con: hai đực, một cái, nhưng đẻ con ra không đẹp. Ổng xin giống từ con chó của tôi. Nó nhảy, đẻ con rất đẹp. Ông nào thích thì cho giống với giá 100 đô một lần nhảy. Có khi tôi đem chó con đến biếu những người giúp đỡ mình. Họ mừng lắm”.

Lansdale phụ trách Phái bộ quân sự Sài Gòn, trong đó có hoạt động của CIA, cũng nuôi một con chó. Ông ta nhìn phản ứng của chó để dò xét người khác. Lansdale cho rằng người không có tà tâm thì chó của y nằm yên lặng. Người nào con chó nó dòm chừng thì có vấn đề gian dối tà tâm gì đó. Theo ông ta: “Con chó nó đánh giá được”. Có lần ông Ẩn bảo: “Mỗi lần tiếp tôi, anh để chó ớn lắm”. “Anh nuôi chó mà lại ớn chó sao? Nó giúp canh chừng, nó dòm cảm tình thì tâm địa tốt.” Lansdale lại giải thích. Ông Ẩn bảo: Đâu có nhất nhất như vậy. Có con nhạy có con không, sủa tầm bậy vu vơ. Chẳng có sách nào dạy cái “đồ” này.

Bây giờ ông Ẩn vẫn nhận xét thế. Nhưng theo ông, trong nhà phải nuôi ba con vật: con chó trung thành, “con có thể chê cha mẹ khó chứ chó không bao giờ chê chủ nghèo”. Con chim thì nhảy hoài. Nó tiêu biểu cho sự bận rộn làm việc suốt ngày, không làm biếng. Còn con cá thì dạy sự khôn ngoan, im lặng, không nói nhiều mà suy tư. Ông còn đùa: không nên làm nghề xuất nhập khẩu. Bệnh do khẩu nhập họa do khẩu xuất mà!

“Bệnh ăn bệnh nói dễ vô tù”.

(còn tiếp)

NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI

Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

THONG TIN HÀN LÁO

 Mới đây, một số kênh Youtube của Hàn Quốc, tung ra những băng hình cắt gép, xuyên tạc, bịa đặt, cùng những lời lẽ vô liêm sỉ, nói xấu, bôi nhọ nhắm vào QĐNDVN trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân Việt Nam. Điều này, đang gây lên một làn sóng vô cùng phẫn lộ của Nhân dân Việt Nam.

Qua bài viết này, Tôi xin có đôi lời với người Hàn Quốc, những người đang cố tình xuyên tạc, bôi nhọ QĐNDVN và Nhân dân Việt Nam :
Trước hết, các bạn Hàn Quốc phải nhớ rõ luận điểm này :
- Một Dân tộc, không tự mình giành được độc lập thì Dân tộc đó không xứng để tự xưng là Vĩ đại.
- Một Dân tộc, không tự mình thống nhất được Đất nước thì Dân tộc ấy không xứng để nói đến hai chữ Tự hào
- Một Đất nước, được dựng xây bằng xương máu của một Dân tộc khác thì Đất nước đó cần phải biết hai chữ Liêm sỉ
Và kế tiếp, các bạn Hàn Quốc hãy cảm nhận những thực tế sau :
Theo thống kê chính thức của Chính phủ Hàn Quốc, từ tháng 10/1965 đến tháng 3/1973, quân đội Hàn Quốc tiến hành và tham gia 1.170 cuộc hành quân quy mô cấp đại đội trở lên, hơn 556.000 cuộc hành quân quy mô cấp trung đội trở xuống, gây ra hàng loạt những vụ th.ảm s.át đ.ẫm m.áu và tàn khốc (thống kê chưa đầy đủ có 43 vụ th.ảm s.át dân thường, trong đó 13 vụ g.iết 100 người trở lên, có vụ hơn 1.000 người).
TÀN S.ÁT VÀ G.IẾT H.ẠI DÂN THƯỜNG VIỆT NAM
Các lực lượng quân sự Hàn Quốc dưới chế độ độc tài Park Chung Hee đã tham gia và gây nhiều t.ội á.c trong cuộc ch.iến tr.anh do Mỹ tiến hành tại Miền nam Việt Nam. Theo giáo sư người Hàn Quốc Heonik Kwon, tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng về ch.iến tr.anh Việt Nam, đã có trên 43 vụ th.ảm s.át đ.ẫm m.áu do binh lính Hàn Quốc thực hiện tại Việt Nam được ghi nhận, trong đó có ít nhất 13 vụ giết trên 100 người. Điển hình như các vụ sau :
1- Vụ th.ảm s.át Bình An; Bình An (Nay là xã Tây Vinh – Huyện Tây Sơn – Tỉnh Bình Định) Từ ngày 23/1/1966 đến 26/2/1966 Chiến dịch th.ảm s.át của quân đội Hàn Quốc đã khiến trên 1.000 dân lành bị g.iết h.ại, trong đó phần lớn là người già, phụ nữ và trẻ em. Sự sống ở Bình An gần như bị h.ủy d.iệt hoàn toàn.
2- Vụ th.ảm s.át Bình Hòa; Từ ngày 3 đến 6/12/1966 Tổng cộng, trong th.ảm s.át tại xã Bình Hòa, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi, lính Hàn Quốc đã g.iết h.ại 430 người, trong đó có 269 phụ nữ (12 phụ nữ bị c.ưỡng h.iếp đến ch.ết), 104 người già, 174 trẻ em. 3 gia đình bị g.iết sạch không còn một ai. Năm 1990, chính quyền và nhân dân địa phương đã xây dựng một tấm bia c.ăm thù tại hố bom Truông Đình ghi lại t.ội á.c này. Tháng 5/1991, di tích vụ th.ảm s.át Bình Hòa được xếp hạng và cấp bằng di tích quốc gia.
3- Vụ th.ảm s.át Diên Niên – Phước Bình; Tổng cộng, trong hai ngày 9/10 và 13/10/1966, lính Hàn Quốc đã tàn sát 280 phụ nữ và trẻ em ở hai thôn Diên Niên, Phước Bình. Ngày nay, di tích vụ th.ảm s.át Diên Niên – Phước Bình đã được xếp hạng và cấp bằng di tích quốc gia.
LÀM GIÀU TỪ CH.IẾN TR.ANH TẠI VIỆT NAM :
Trong việc đưa quân tham dự vào cuộc chiến tại Việt Nam, Tổng thống đ.ộc t.ài Hàn Quốc Park Chung-hee đã lựa chọn bài toán 4 lợi ích, trong đó lợi ích chính là :
Đáp ứng yêu cầu của ông chủ Mỹ, nhằm tỏ rõ sự trung thành của một chư hầu để không bị Mỹ bỏ rơi, bán cho chính phủ Mỹ hơn 300.000 lượt lính đ.ánh thuê và 1,1 triệu phụ nữ Hàn phục vụ nhu cầu x.ác th.ịt của lính Mỹ để đổi lấy viện trợ kinh tế và quân sự.
Để phục vụ mục tiêu kinh tế và quân sự, Chính phủ Hàn Quốc xin Mỹ ký “Bản ghi nhớ Brown” (Brown Memorandum, ngày 25/2/1966), qua đó, đổi lấy việc Hàn Quốc đưa qu.ân đ.ánh thuê đến miền Nam Việt Nam. Mỹ cam kết cung cấp một số lượng lớn trang th.iết b.ị qu.ân s.ự kỹ thuật cao cho việc hiện đại hóa qu.ân đội Hàn Quốc, mua của Hàn Quốc các trang th.iết bị qu.ân nhu cùng các loại hàng hóa cần thiết khác để cung cấp cho quân đội Hàn Quốc chiến đấu tại Việt Nam. Ngoài ra Mỹ còn cam kết tăng cường viện trợ k.ỹ thuật cho Hàn Quốc trên tất cả các lĩnh vực nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của Hàn Quốc, tăng thêm các khoản cho vay của Cơ quan phát triển quốc tế AID.
Chính nhờ vậy, Hàn Quốc đã thu được những khoản lợi nhuận kếch xù từ x.ương m.áu của binh lính và nhân phẩm phụ nữ Hàn Quốc. Họ không mất bất kỳ một phí tổn nào cho lực lượng ngụy quyền Sài Gòn, mà trái lại chỉ riêng từ 1965 đến năm 1970, Họ đã nhận được từ Mỹ 1 tỷ USD viện trợ, 150 triệu USD vốn vay phát triển AID. Hàn Quốc cũng nhận được những hợp đồng thầu xây dựng béo bở, những hợp đồng xuất khẩu lao động có lợi nhuận cao, chiếm tới 70% tổng số lao động Hàn Quốc tại nước ngoài khi đó. Số ngoại tệ mà Hàn Quốc thu được từ miền Nam Việt Nam do Mỹ trả tăng đều qua các năm, bình quân chiếm 38% tổng xuất khẩu sản phẩm và 47% tổng số tiền Hàn Quốc nhận được từ nước ngoài. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng tạo ra sự phát triển ngoạn mục của kinh tế Hàn Quốc ở thập niên 60, 70. Từ năm 1965 đến năm 1975, xuất khẩu của Hàn Quốc tăng 29 lần và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng 14 lần, năm 1971 thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc tăng hơn gấp 3 lần so với năm 1961. Viện trợ qu.ân sự của Mỹ cho Hàn Quốc tăng hơn gấp 2 lần, mỗi năm Hàn Quốc bình quân nhận được vào khoảng 370 triệu USD, cũng nhờ các khoản viện trợ này mà Hàn Quốc đã từng bước hiện đại hoá qu.ân đội, phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp quốc phòng.
Tuy nhiên, trong cuộc ch.iến tr.anh phi nghĩa tại Việt Nam, Hàn Quốc đã phải trả giá đắt cho việc đưa quân đánh thuê vào miền Nam Việt Nam:
- 5.099 binh lính th.iệt m.ạng.
- 11.232 người mang th.ương tật vĩnh viễn.
- 100.000 người nhiễm chất độc da cam.
Cuộc ch.iến tại Việt Nam đã qua 46 năm, song “hội chứng ch.iến tr.anh Việt Nam” ở Hàn Quốc vẫn dai dẳng, nhức nhối không kém gì ở nước Mỹ và vẫn đang giày vò tinh thần hàng ngàn cựu chiến binh và các cô gái đ.iếm năm xưa. Trớ trêu thay, truyền thông Hàn Quốc chỉ tập trung tố cáo lính Nhật l.àm nh.ục phụ nữ Triều Tiên trong thế chiến 2 mà không hề đả động tới lính Mỹ l.àm nh.ục các cô gái Hàn Quốc trong cuộc chiến tại Việt Nam.
NHƯ VẬY, THÌ CÓ GÌ MÀ TỰ HÀO, CÓ GÌ MÀ VĨ ĐẠI. NGƯỜI HÀN QUỐC NẾU BIẾT LIÊM SỈ THÌ HÃY CÚI ĐẦU TẠ LỖI VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM. BẰNG KHÔNG, ĐỪNG BAO GIỜ BUÔNG RA NHỮNG LỜI NÓI DỐI TRÁ BỊP BỢM VÔ LIÊM SỈ, XUYÊN TẠC, BỊA ĐẶT VỀ QUÂN ĐỘI VÀ NHÂN DÂN VIỆT NAM.
Tôi xin mời các bạn xem băng hình của kênh Ask Me Why (Hiểu biết hơn mỗi ngày) để biết rõ chi tiết về những lời xuyên tạc bịa đặt của người Hàn Quốc.
Xin cảm ơn các bạn
Phạm Quang Vinh


Thứ Sáu, 16 tháng 4, 2021

Nguyễn Đình Cống: vị giáo sư xưa và kẻ phản đảng hiện nay

 Trước hết, tôi có một vài tâm sự với Giáo sư Nguyễn Đình Cống: Cách đây tròn 30 năm, lớp sinh viên đại học chúng tôi được thầy trực tiếp giảng dạy, ai cũng biết đến tiếng tăm của Giáo sư Nguyễn Đình Cống ở Trường Đại học Xây dựng. Một người thầy có trình độ về khoa học vật liệu xây dựng bê tông cốt thép từng được đào tạo ở nước ngoài, luôn được sinh viên kính trọng, ngưỡng mộ, ai cũng muốn được làm học trò của thầy.

Thế nhưng, đúng vào dịp Đảng ta kỷ niệm 86 năm ngày thành lập (3/2/1930 – 3/2/2016), tôi đọc được những chia sẻ của Giáo sư Nguyễn Đình Cống trên mạng xã hội với cái gọi là “thông báo từ bỏ Đảng”, tôi giật mình với cái tên “Giáo sư Nguyễn Đình Cống”. Đọc đi đọc lại cái “thông báo” đó mà lòng tôi nhói đau khi biết tác giả của nó lại chính là Giáo sư Nguyễn Đình Cống mà tôi và lớp sinh viên ngày ấy luôn ngưỡng mộ và kính trọng hết mực. Tôi không tin đó là sự thật, nhưng qua bạn bè và mọi người cho biết, tôi vô cùng thất vọng, không hiểu “ma xui quỷ dẫn lối” thế nào mà người thầy đáng kính của tôi lại trở thành người như vậy. Công khai chống Đảng, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận thành quả cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc sự thật và trở thành kẻ vô ơn bạc nghĩa, làm mất đi hình ảnh của một người thầy đáng kính ngày xưa.

  Giáo sư Nguyễn Đình Cống được sinh ra và lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, những năm đất nước còn khó khăn, trong khi lớp lớp thanh niên đều ra chiến trường, với biết bao hy sinh xương máu, không tiếc thân mình vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì Giáo sư được Đảng, Nhà nước ưu ái tạo điều kiện cho đi ăn học ở Liên Xô. Bao nhiêu năm đứng trên bục giảng trường Đại học Xây dựng, bao thế hệ sinh viên đã học Giáo sư ra trường và trở thành những người thành đạt. Còn đối với Giáo sư, ở tuổi đã xế chiều, được Đảng và Nhà nước cho nghỉ chế độ, học vấn đủ đầy, công danh, sự nghiệp khó ai sánh bằng. Tại sao Giáo sư không an phận với những gì Đảng và Nhà nước đã ưu ái mà lại quay ra phản bội lại lý tưởng một thời ông theo đuổi, phản bội lại chính tổ chức đã nuôi dưỡng và cho Giáo sư tất cả vinh quang trong cuộc đời. Việc Giáo sư cố tình “công khai tuyên bố” rời bỏ lý tưởng mà mấy chục năm phấn đấu là việc riêng của cá nhân Giáo sư, tôi không quan tâm nhiều. Nhưng Giáo sư lại ngang nhiên công khai đưa ra những quan điểm sai trái, xuyên tạc, phản động, chống đối Đảng, chống đối cách mạng. Đó là một tội lỗi còn trên cả sự tha hóa, suy thoái của cá nhân. Thái độ vong ơn, bội nghĩa đối với đất nước, dân tộc, với chế độ xã hội chủ nghĩa của Giáo sư hoàn toàn trái với đạo lý, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

  Thứ hai, gần đây đọc trên mạng xã hội thấy bài viết của Giáo sư với tiêu đề: Phản biện 3 nghị quyết về kinh tế. Thực chất đây không phải là một phản biện khách quan, khoa học, mà là sự hằn học cá nhân, cố tình xuyên tạc sự thật, phủ nhận sạch trơn quan điểm, chủ trương của Đảng. Toàn bộ bài viết sặc mùi chống đối, sau khi vòng vo dẫn luận một hồi, cuối cùng vẫn quay về cái đích: Đảng phải từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng phải từ bỏ vai trò lãnh đạo; phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn thể nhân dân Việt Nam đã lựa chọn. Phản biện cái giọng điệu này là Giáo sư đang tiếp tay cho các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Như chúng ta đều biết, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua 3 nghị quyết về kinh tế, thể hiện sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta nhằm đột phá phát triển kinh tế đất nước với mục tiêu là xây dựng chủ nghĩa xã hội, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Nghị quyết ban hành đã nhận được sự đồng tình, nhất trí cao trong toàn xã hội, nhất là đối với thành phần kinh tế tư nhân, và các doanh nghiệp và doanh nhân. Nghị quyết Trung ương 5 đã đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới để phát triển đất nước phù hợp với thực tiễn nước ta.

Thứ ba, Giáo sư Nguyễn Đình Cống cho rằng: “cái đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa thực ra là sự chắp vá gượng ép, chỉ nhằm làm thỏa mãn sự nhận thức hời hợt, sự bảo thủ ý thức hệ của một số ít người trong nước đã mắc bệnh nghiện CNXH”. Đây là luận điệu cố tình phủ nhận chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa hội là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình tìm tòi, khám phá và là một sự vận dụng sáng tạo và khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn nền kinh tế Việt Nam. Giáo sư nói rất đúng: đã là ý thức hệ, nền tảng chính trị tư tưởng của một Đảng, của một dân tộc phải vững vàng, kiên định. Ý thức hệ không thể “sớm nắng, chiều mưa” dễ gì thay đổi được. Chỉ có Giáo sư mới là người mà bản lĩnh chính trị “mưa nắng thất thường”, nay theo Đảng, phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng của Đảng, mai lại tuyên bố rời bỏ Đảng, ra sức tuyên truyền, chống phá Đảng. Hơn nữa, con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử dân tộc Việt Nam, là mục tiêu, lý tưởng của toàn Đảng và toàn dân. Không thể có thế lực nào xoay chuyển nổi mục tiêu này. Những hành động phá hoại, xuyên tạc của Giáo sư và các thế lực thù địch chỉ là “vô tích sự” mà thôi.

Cuối cùng, tôi muốn nói với Giáo sư một điều là: Đối với dân tộc Việt Nam, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường đã lựa chọn đúng đắn và duy nhất, không một thế lực nào có thể ngăn chặn được. Mọi sự chống phá, xuyên tạc, phủ nhận thành quả cách mạng chỉ là những “thứ rác rưởi” cần phải loại bỏ. Giáo sư tuổi đã cao, hãy chú trọng giữ gìn sức khỏe, là tấm gương sáng để con cháu học tập. Đừng vì những ích kỷ cá nhân, hay sự xúi giục của những kẻ xấu mà làm những điều hại nước, hại dân..https://nhanvanviet.com/chong-dbhb/nguyen-dinh-cong-vi-giao-su-xua-va-ke-phan-dang-hien-nay/

Thứ Ba, 6 tháng 4, 2021

Những Bản Đồ Xưa Của Thế Giới Về Trung Hoa - Không Có HS Và TS

( Xem trên trang nầy)
https://anhxua.net/album/nhung-ban-do-xua-cua-the-gioi-ve-trung-hoa-khong-co-hs-va-ts_346.html
“như người Việt Nam, chúng ta có đầy đủ trách nhiệm bảo tồn đất nước cũng như đóng góp sức trong việc định hình xã hội Việt Nam tương lai”

Tôi xin chia sẽ bộ sưu tập 80 bản đồ Tây phương trong khoảng 1626 – 1980 do các nhà xuất bản tại Anh, Ðức, Pháp, Mỹ phát hành. Các bản đồ này có kích thước từ 20cm x 25cm cho đến 60cm x 75cm. Trong bộ sưu tập, 70 bản đồ xác định rằng miền Nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam, và 10 bản đồ xác định Hoàng Sa thuộc về lãnh thổ của Việt Nam.

Trong quá trình sưu tập bản đồ, tôi phát hiện 2 sách toàn đồ Trung hoa Dân quốc Bưu chính dư đồ, Bộ Giao Thông, Cộng Hòa Trung Hoa xuất bản năm 1919 & 1933 và sách Atlas of The Chinese Empire do phái bộ China Inland Mission xuất bản năm 1909. Sách toàn đồ 1909 bao gồm 23 bản đồ, sách toàn đồ 1919 bao gồm 49 bản đồ, sách toàn đồ 1933 bao gồm 29 bản đồ. Kích thước của sách là 62cm x 38cm x 4cm, kích thước bản đồ là 56cm x 81cm. Tất cả 3 sách này không liệt kê Hoàng Sa & Trường Sa trong bản đồ & thư mục sách.

Trong thời gian qua, Trung Quốc xây dựng chính quyền & căn cứ quan sự trên đảo Phú Lâm thuộc Trường Sa. Việt Nam tuyên bố đảo Phú Lâm thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Tôi tặng toàn bộ tài liệu bản đồ cho Viện Phát triển Kinh Tề - Xã Hội Ðà Nẵng, nơi đang có chương trình nghiên cứu về Hoàng Sa & Trường Sa.

Tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè đã đóng góp tiền để mua tài liệu bản đồ, anh Nguyễn Quang Bình (đạo diễm phim Cánh Ðồng Bất Tận), Lê Ðức Vân Trình (HCMC), Ngọc Cát (HCMC), Nguyễn Nam An (HCMC), Dương Thành Sơn (HCMC), Vũ Minh Tuấn (Hanoi), Bùi Tường Anh (Hanoi), Lương Văn Thắng (Hanoi), Phạm Thị Huyền Cơ (Hanoi), Trịnh Bích Thảo (Hanoi), Phạm Thảo (Kansas), Ngô Việt (Washington DC), Ngô Triết (California).

Best,
Thắng Trần







Thứ Hai, 5 tháng 4, 2021

Lịch Sử Hình Thành Phát Triển Tỉnh Quảng Trị


Lịch Sử Tỉnh Quảng Trị



Quảng Trị là một tỉnh ven biển thuộc vùng cực Bắc Trung Bộ Việt Nam.

Đây là tỉnh có Khu phi quân sự Vĩ Tuyến 17, là giới tuyến chia cắt miền Bắc Việt Nam (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) và Miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa), do đó cũng là một chiến trường ác liệt nhất trong suốt 21 năm của cuộc Chiến Tranh Việt Nam giữa hai miền Nam-Bắc (1954 - 1975).


Tỉnh Quảng Trị Trong Cổ Sử



Từ thời Hùng Vương - An Dương Vương, vùng Quảng Trị ngày nay được cho là thuộc lãnh địa bộ Việt Thường của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Đầu Nhà Hán thuộc (từ năm 111 trước Công Nguyên đến năm 192), Quảng Trị thuộc đất quận Nhật Nam.


Cuối thế kỷ 2, nhân triều đình nhà Hán sụp đổ, Trung Quốc rơi vào tình trạng loạn lạc, cát cứ, một chính quyền bản xứ của quận Nhật Nam và xứ Tượng Lâm đã được hình thành, lập nên vương quốc Lâm Ấp. Lãnh thổ của Lâm Ấp được phỏng đoán tương ứng với vùng từ đèo Hải Vân đến đèo Ngang ngày nay, tức bao gồm cả vùng Quảng Trị.


Tỉnh Quảng Trị Thời Lý



Tuy mãi đến thế kỷ 10 mới giành lại được độc lập, nhưng các chính quyền của nhà nước Đại Việt nhanh chóng phát triển về mọi mặt và luôn tìm cách phát triển lãnh thổ để giành lấy không gian sinh tồn trước sự uy hiếp của Trung Quốc ở phía Bắc và Chăm Pa (hậu thân của Lâm Ấp) ở phía Nam.

Sự phát triển nhanh chóng của Đại Việt là mối lo ngại cho Chăm Pa cũng như tham vọng của nhà Tống. Để loại trừ mọi uy hiếp ở phía Nam và phá tan âm mưu của nhà Tống câu kết với Chăm Pa đánh phá Đại Việt, năm 1069 vua Lý Thánh Tông thân chinh thống lĩnh 5 vạn quân cùng Lý Thường Kiệt đi tiên phong đánh thẳng vào kinh đô Chà Bàn, bắt được vua Chăm Pa là Rudravarman III (sử Việt chép tên là Chế Củ) đưa về Thăng Long.


Để chuộc tội, Chế Củ xin dâng 3 châu: Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh cho Đại Việt. Vua Lý Thánh Tông nhận 3 châu đó rồi tha cho Chế Củ về nước. Ông cho đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Ma Linh thành châu Minh Linh. Địa bàn của châu Minh Linh được phỏng đoán tương ứng với vùng đất từ Cửa Việt trở ra phía bắc Quảng Trị ngày nay, gồm các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Đa Krông, một phần đất của thành phố Đông Hà, các huyện Hướng Hóa và Vĩnh Linh hiện nay.


Tỉnh Quảng Trị Thời Trần



Một trong những sự kiện lịch sử đáng nhớ của Quảng Trị xảy ra vào thời nhà Trần.

Năm 1306, vua Chăm Pa là Jaya Sinhavarman III (sử Việt chép là Chế Mân) dâng biểu cầu hôn lên vua Trần Anh Tông xin cưới Công Chúa Huyền Trân và dâng 2 châu Ô và Lý (Rí) làm vật sính lễ.Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận hai châu Ô, Rí.

Năm 1309, nhà Trần đổi châu Ô thành Thuận Châu, châu Rí thành Hóa Châu.


Địa bàn Thuận Châu tương ứng với vùng đất từ sông Hiếu - Cửa Việt trở vào phía Nam Quảng Trị ngày nay, trong đó có các huyện Hải Lăng, Triệu Phong, thị xã Quảng Trị và một phần đất thành phố Đông Hà hiện nay.


THỜI KỲ NAM TIẾN



Từ đó cho đến khi người Việt hoàn thành công cuộc Nam tiến, dù có vài lần Chăm Pa chiếm lại được quyền kiểm soát, nhưng chung quy người Việt vẫn làm chủ được vùng này.

Đặc biệt từ sau năm 1558, khi Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông sai vào trấn thủ Thuận Hóa, đóng Dinh Cát ở Ái Tử, các chúa Nguyễn đã áp dụng những chính sách di dân cũng như cho phép người nước ngoài nhập cư vào Đàng Trong, đặc biệt là người Hoa, nhằm làm tăng nhanh dân số cũng như tiềm lực kinh tế để làm cơ sở tranh hùng với các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.


THỜI NHÀ NGUYỀN



Trong suốt gần 300 năm, vùng đất Quảng Trị tồn tại với tên gọi Cựu Dinh thuộc vào trấn Thuận Hóa.


Mãi đến sau khi Gia Long lên ngôi năm 1802, đã đặt lại Cựu Dinh thành Dinh Quảng Trị, bao gồm các huyện Hải Lăng, Đặng Xương (tên cũ là Vũ Xương), Minh Linh và đạo Cam Lộ.


Năm 1806, Quảng Trị trở thành dinh trực lệ kinh sư Huế.


Năm 1822, đặt châu Hướng Hóa lệ thuộc đạo Cam Lộ.


Đến năm 1827, dinh Quảng Trị nâng lên thành trấn Quảng Trị.


Năm 1832, trấn Quảng Trị đổi thành tỉnh Quảng Trị.


Năm 1853, tỉnh Quảng Trị hợp nhất với phủ Thừa Thiên thành đạo Quảng Trị.


Tới năm 1876, tỉnh Quảng Trị được tái lập.


Tỉnh Quảng Trị Thời Pháp Thuộc



Sau khi nắm được quyền kiểm soát Đông Dương, ngày 3 tháng 5 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương Jules Georges Piquet ra Nghị định hợp Quảng Trị với tỉnh Quảng Bình thành tỉnh Bình Trị.


Ngày 23 tháng 1 năm 1896, Toàn quyền Paul Armand Rousseau ra Nghị định rút Quảng Trị ra khỏi địa hạt thuộc quyền Công sứ Đồng Hới, cùng Thừa Thiên dưới quyền Công sứ Trung Kỳ, đặt một phó Công sứ đại diện cho Khâm sứ ở Quảng Trị.


Đến năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer ra Nghị định tách Quảng Trị ra khỏi Thừa Thiên lập thành một tỉnh riêng biệt gồm 4 phủ: Triệu Phong (Thuận Xương cũ), Hải Lăng, Vĩnh Linh (Chiêu Linh cũ) Cam Lộ và huyện Gio Linh.


Ngày 17 tháng 2 năm 1906, Toàn quyền Paul Beau ra Nghị định thành lập thị xã Quảng Trị và đặt làm tỉnh lỵ.


Ảnh Xưa Quảng Trị Thời Việt Nam Cộng Hòa



Sau Hiệp định Genève 1954, sông Bến Hải được chọn làm giới tuyến quân sự tạm thời, tỉnh Quảng Trị tạm thời chia làm hai vùng: Vùng bờ Nam sông Bến Hải là tỉnh Quảng Trị, gồm các huyện: Hải Lăng, Triệu Phong, Cam Lộ, Gio Linh, Hướng Hóa, xã Vĩnh Liêm và một phần của xã Vĩnh Sơn (Vĩnh Linh), thị xã Quảng Trị, do Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa quản lý, hơn 3/4 địa bàn và dân cư của huyện Vĩnh Linh ở phía Bắc vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa quản lý, được thành lập đặc khu. Đặc khu Vĩnh Linh tương đương đơn vị hành chính cấp tỉnh, trực thuộc Trung ương.


Tỉnh Quảng Trị Sau 1975



Sau khi Sài Gòn thất thủ, tỉnh Quảng Trị và đặc khu Vĩnh Linh được Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản. Từ tháng 3 năm 1976, thực hiện Quyết định của Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Quảng Trị cùng hai tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên và đặc khu Vĩnh Linh hợp nhất thành tỉnh mới là Bình Trị Thiên. Ngày 11 tháng 3 năm 1977, hợp nhất 3 huyện Vĩnh Linh, Gio Linh và Cam Lộ thành huyện Bến Hải; hợp nhất 2 huyện Triệu Phong và Hải Lăng thành huyện Triệu Hải.

 


 Read more at: https://anhxua.net/album/lich-su-hinh-thanh-phat-trien-tinh-quang-tri.html