Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013

Nữ giao liên tình báo Vũ Chi Lan

Những vị khách giấu mặt
Tác giả gặp lại một số cán bộ giao thông bí mật tại Hà Nội tháng 5/1997, chị Tư Thu đứng bên trái
và chị Sáu Loan bên phải
Dẫu không có một lời thề thốt như “Tam anh kết nghĩa vườn đào”, nhưng tình cảm giữa tôi và chị còn hơn thế.
Tôi được gặp và sau này trở thành người thân của chị trong bối cảnh như thế này: Đầu năm 1966, tôi được cử về nhận công tác tại “B48” - một cụm tình báo chiến lược hoạt động ở cửa ngõ phía đông - bắc Sài Gòn. Căn cứ bám trụ lúc đó tại rừng Vĩnh Lợi, thuộc Châu Thành, tỉnh Bình Dương (Thủ Dầu Một cũ).
Cả đơn vị chỉ có mình tôi là người miền Bắc nên được anh em rất quý mến, cụm trưởng có vẻ “cưng” hơn. Tôi ngầm hiểu hình như được “đặc cách” tiếp xúc một số vị thuộc diện “trùm khăn che mặt” mỗi khi từ thành về căn cứ.
Để giữ bí mật theo nguyên tắc “cự ly ngăn cách” các anh, các chị đều phải nghiêm túc thực hiện như vậy. Trong đơn vị, chỉ có lãnh đạo cụm và tổ trinh sát địa bàn trực tiếp đi đón các vị này mới được “tỏ mặt, rõ hình”.
Một chiều, tôi đang cùng anh em sửa lại hầm làm việc của bộ phận điện đài thì được cô cấp dưỡng gọi ra thì thào: “Anh Ba Dương ơi! (tên thường gọi của tôi thời đó) cụm trưởng biểu chiều nay tổ trinh sát đi công tác về muộn, anh mang dùm cơm sang chỗ chị Tư”. - “Tư nào?”. - “Chị Tư Ló ở trong “khu mật” chỗ cây xăng lẻ đó”.
Thời đó, căn cứ của các cụm tình báo khi xây dựng bao giờ cũng phải có một khu vực dành riêng cho cán bộ hoạt động hợp pháp khi cần thiết phải về đơn vị. Ở đó có hầm ngủ, lán nghỉ và có cả bàn ghế đàng hoàng. Cố nhiên đó là những bộ bàn ghế được bện bằng cây rừng, cột chôn xuống đất.
Tôi vào “khu mật”. Khi còn cách mấy chục mét đã phát hiện “chủ nhân” đang ngồi khâu vá trên bàn. Bởi nghe tiếng động, chị vội thu gom đồ đạc “trốn” ngay xuống hầm. Một động tác quá thuần thục vì đã quá nhiều lần phải “ẩn mình” như thế, cho tới khi xác định “an toàn” mới ló lên khỏi mặt đất. Mãi sau này, tôi mới được biết cái biệt danh “Tư Ló” của chị là vậy chứ thực ra chị là Tư Thu - tên thật là Vũ Chi Lan.
Khi đã sắp xếp xong, tôi khẽ hắng giọng, lên tiếng:  “Em được giao nhiệm vụ đem cơm vào, xin mời chị...”.
Chị “Ló” lên khỏi cửa hầm, thon thả trong bộ bà ba đen cùng mái tóc đen dày búi tròn sau gáy càng tôn thêm vẻ đẹp nền nã ở cái tuổi ngoài 40 của chị. Chị ngồi xuống bàn, ngước nhìn tôi, nhỏ nhẹ: “Nghe nói em từ Bắc vô. Quê ở tỉnh nào vậy?”. Tôi ngồi xuống ghế đối diện. “Dạ... em quê Sơn Tây, mới vào được mấy tháng...”.
Chị lại ngước nhìn tôi: “Cha! Giỏi không!... Vượt Trường Sơn mà vẫn khỏe mạnh như vầy là rất tốt. Qua hết Phùng là tới xứ em phải không?”. - “Dạ đúng! Mà sao chị rành vậy?”. - “Chị cũng mới vô được mấy năm". - “A!... Tôi thốt reo lên - thì ra chị là cán bộ tập kết!”.
Tôi được bố trí ở bộ phận cơ yếu, tổng hợp nên thường được biết lịch liên lạc với nội đô và thông tin giữa cụm với cấp trên. Hai tuần sau, được biết chị vào thành và đã trở về căn cứ. Chừng một tiếng đồng hồ sau, anh em trinh sát đã “triệu” tôi vào "khu mật".
Tôi choáng ngợp trước chiếc bàn với bao loại trái cây - những măng cụt, vú sữa, chôm chôm, điều, boòng boong, mãng cầu xiêm... toàn những thứ tôi chưa được thưởng thức bao giờ. Chị vui vẻ tuyên bố: “Bữa nay, chị ráng xách về để cậu Ba Dương biết trái cây miền Nam. Mấy em ăn đi, hướng dẫn cho Ba Dương biết cách ăn, trái cây này ngoài Bắc không có đâu.
Tết năm đó, đơn vị chuẩn bị rất chu đáo. Bố trí để một số đồng chí trong thành về ăn tết với anh em. Không ngờ ngày 28 tết, một trận bom địch “cuỗm” đi hết. Căn cứ tan hoang, phải chạy sang Bến Cát tá túc tại căn cứ của một đơn vị nào đó đã bỏ đi từ lâu trong một cánh rừng có tên là Bào Chữa.
Đoàn quân di chuyển đêm hôm đó có khách ở thành về, ngoài chị Tư Thu, tôi biết còn một vị nữa. Dù không được “trực diện dung nhan” nhưng chắc chắn là nam giới với vóc dáng to, cao dềnh dàng.
Dù là căn cứ tạm thời, nhưng vẫn phải sắp xếp thành 2 “khu mật” riêng biệt.
Cả năm ky cóp chuẩn bị cho tết giờ thành công toi, chúng tôi ăn một cái “tết chay”, chỉ có cơm ăn với tương chao, rau rừng. Đời chinh chiến quen rồi. Chỉ thương cho mấy cán bộ nội thành.
Tôi tạt vào “khu mật”, góp sức sửa sang căn hầm cho chị Tư Thu. Gặp tôi, chị mừng quýnh. Hai mắt đỏ hoe. Anh em nói nhỏ với tôi: “Chị Tư vừa khóc đó. Chị nói thật tội nghiệp thằng Ba Dương. Lẽ ra những ngày này nó sum vầy với gia đình. Vì ba cái thằng Mỹ “mắc dịch” mà nó phải chịu cực như vầy”. Hôm đó, tôi ở lại chỗ chị lâu hơn để được nghe chị tâm sự về gia cảnh.
Là con duy nhất trong gia đình, cha là liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp. Mẹ sống ở Sài Gòn, buôn bán vặt để nuôi thân. Tâm sự của chị hôm đó như là những lời nhắn gửi đầy niềm tin của người chị đối với đứa em - “Chiến tranh sẽ ngày càng ác liệt. Nếu chị có bề nào, khi đất nước thanh bình em nhớ tìm về 47 đường Xóm Chiếu, Khánh Hội, Sài Gòn thăm má”. Kết thúc chiến tranh, năm 1978 tôi có tìm tới địa chỉ trên mới hay chị đã đưa cụ về sinh sống ở Biên Hòa.
Thời kháng chiến chống Pháp, chị công tác ở Hội Phụ nữ tỉnh Thủ Dầu Một, yêu một cán bộ tuyên giáo. Anh là Võ Thế Đại (Ba Đại). Hai người cưới nhau được ít tháng thì chị lên đường tập kết ra Bắc. Anh bám trụ chiến trường hoạt động và năm 1958 bị địch bắt, đày đi Côn Đảo và nghe tin đã bị chúng thủ tiêu. Ra Bắc, chị được bố trí công tác ở Trường đại học Sư phạm I Hà Nội nhưng ngày đêm đau đáu nhớ về phương Nam.
Sau cái mốc thời gian 2 năm tổng tuyển cử bị kẻ địch bội ước, chị lại cháy bỏng ước mong được trở về Nam chiến đấu và niềm mong ước ấy đã thành hiện thực. Đó là vào một buổi chiều, hiệu trưởng gặp riêng chị thông báo một tin hết sức bất ngờ: “Tổ chức trung ương có quyết định điều động chị đi nhận công tác mới. Khẩn trương chuẩn bị, ngày mai sẽ có cán bộ cơ quan sang đón”.
Một điều ngỡ ngàng đối với chị là cơ quan mới lại là một đơn vị vũ trang có tên là: “Cục Nghiên cứu Bộ Tổng tham mưu” và tới khi vào lớp huấn luyện nghiệp vụ chị mới biết đó là lực lượng tình báo. Chị được đào tạo chuyên sâu về công tác “giao thông liên lạc” hoạt động hợp pháp ở các đô thị miền Nam. Đây là một “mắt xích” hết sức quan trọng - Cơ sở điệp báo dù có chui sâu, leo cao và tin tức thu được quan trọng tới đâu mà tắc nghẽn giao thông liên lạc giữa cơ sở nội thành và trung tâm thì tin tức trở thành vô nghĩa. Ấy là chưa kể tới “sự cố” xảy ra uy hiếp an toàn giao thông, tài liệu lọt vào tay địch thì tới 99% là cơ sở nội thành bị lộ.
Kết thúc khóa huấn luyện, chị được cử vào chiến trường bổ sung cho một cụm tình báo mới thành lập để rồi trở thành cán bộ giao thông “gạo cội” của đơn vị với nhiều “vai diễn” xuất sắc qua mắt kẻ địch.
Từ một cô giáo bậc trung học về thăm quê; một nhà nghiên cứu đi thư giãn vùng kinh rạch trong ngày nghỉ; có khi lại đĩnh đạc trong vai một “mệnh phụ phu nhân” cùng “đức lang quân” là một nhà kinh doanh “cỡ bự” về miệt vườn Lái Thiêu thăm bạn hữu. Tất cả các chuyến đi chị đều mang theo tài liệu và đảm bảo tuyệt đối an toàn.
Phái viên đặc biệt
Trở lại với vị khách nam tháp tùng đoàn quân chuyển cứ cái đêm giáp tết năm trước - trong đơn vị, ngoài lãnh đạo cụm, tổ trinh sát địa bàn và một nữ giao thông - người được giao nhiệm vụ đón ông mới được gặp trực tiếp. Còn lại, duy nhất có tôi là được biết sơ sơ ngay từ khi ông chưa đặt chân về căn cứ. Có lẽ vì thế mà lần này tôi lại may mắn được gặp ông.
Ông là Hai Thăng (mãi sau này khi đã trở thành thân thiết tôi mới biết tên thật là Huỳnh Thăng Quang). Quê ở vùng Cù Lao Ba Xã thuộc Vĩnh Long. Một miền quê trù phú bên bờ sông Cửu Long.
Hai Thăng được Cục II cử vào chiến trường bổ sung cho Cụm B48 và đóng vai phái viên của mặt trận “tấn công, dứt điểm một mục tiêu quan trọng”. Đó là viên Trung tá - Cục phó một cục nghiệp vụ trong Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa với bí số “L19”. Nhiệm vụ của anh là phải gặp trực tiếp để thuyết phục, cảm hóa anh ta trở thành cơ sở bí mật nằm trong tổ chức địch hoạt động theo chỉ đạo của ta.
Quả là một chuyến đi đặc biệt và đầy mạo hiểm. Vì vậy, “phái viên” cũng phải đi bằng một con đường “đặc biệt” - từ Hà Nội, Hai Thăng đáp máy bay đi Nam Vang (Campuchia) rồi từ đó chuyển  máy bay đi Sài Gòn. Cố nhiên là tổ chức phải chuẩn bị bình phong hợp pháp vững chắc cho anh.
Từ giấy tờ tùy thân, căn cước, “câu chuyện ngụy trang”... tới nếp sống, sinh hoạt của Sài Gòn lúc đó. Và, đương nhiên anh phải dày công tìm hiểu, nghiên cứu, tập luyện để trở thành một “cư dân Sài Gòn thứ thiệt”. Điều quan trọng hơn, đó là phải tìm hiểu thật sâu, thật kỹ về “L19”. Từ hoàn cảnh gia đình tới tâm lý, tình cảm của anh ta. Đặc biệt là tình cảm của “L19” đối với cha anh ta, được gọi theo biệt danh là “ông già miệt vườn”, ông là người có tình cảm với cách mạng, với những người tham gia kháng chiến; ghét ngoại bang xâm lược. Vì vậy, ông đã tìm cách liên hệ với cách mạng, cầu mong cách mạng cứu vớt con ông ra khỏi vũng lầy tội ác...
Người được cử đi đón “phái viên” chính là Tư Thu.
Hôm ấy, chị diện áo dài trắng, bóp đầm, ra dáng quý phái cùng “đức lang quân” về thăm quê ở vùng cây trái trứ danh. Họ nhận nhau bằng ám, tín hiệu và mật khẩu theo quy ước từ trung tâm.
Theo lịch trình, cán bộ giao thông sẽ đưa “phái viên” về thẳng nhà “ông già miệt vườn”. Tối hôm đó, “phái viên” và ông già bàn kế hoạch tiếp xúc “L19”. Tư Thu ở nhà chờ “phái viên” trở lại rồi đưa về căn cứ. Sáng hôm sau “hai cậu cháu” (quan hệ ngụy trang giữa cha của “L19” và Hai Thăng) đón xe đò đi Sài Gòn và về thẳng nhà "L19". Hai Thăng ngồi chờ tại phòng khách. Ông già lên lầu gặp con trai. Phải tới mươi, mười lăm phút sau “L19” xuất hiện trong chiếc áo môngtagút màu cánh kiến, rất hợp với nước da bánh mật của anh ta.
Hai người gật đầu chào nhau. “L19” ngồi đối diện Hai Thăng, nhẹ nhàng chuyển ly nước lọc về phía khách. Một không khí im lặng bao trùm căn phòng. “L19” để 2 tay trên bàn, mặt hơi cúi xuống. Bỗng nhiên anh ta ngẩng lên nhìn Hai Thăng, giọng uy nghiêm, đe dọa.
- Nè! Tôi hỏi thiệt, ông có biết ông đang ngồi đây là ở đâu không?... - Anh ta chỉ tay về phía chiếc điện thoại - Tôi chỉ cần nhấc ống nghe lên là ông sẽ bị bắt liền.
Hai Thăng nhếch miệng cười, ngả lưng vào thành ghế, gương mặt quắc thước hơi ngước lên, đôi chân mày lưỡi mác như nhíu lại gần nhau, ném cái nhìn xói vào mắt “L19”:
- Câu hỏi và những điều anh vừa nói không đúng tầm của một sĩ quan đeo lon Trung tá như anh. Ngài Cục phó nên biết rằng, tôi là phái viên đặc biệt, được Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam cử vô đây. Ngay từ khi rời vùng giải phóng đặt chân lên phần đất tạm thời do chính quyền Sài Gòn kiểm soát là tôi có thể bị bắt bất cứ lúc nào cần chi phải đợi tới lúc này.
“L19” cũng từ từ ngả lưng vào thành ghế, lại ngước mắt nhìn Hai Thăng, đầu gật gật - “Hiểu... Hiểu... tôi hiểu chớ”... nhưng mà nè... tôi hơi tọc mạch một chút, muốn hỏi ngài phái viên, bên phía Việt Cộng ông giữ chức vị gì mà dám vô đây gặp một sĩ quan tầm cỡ như tôi?...”.
- Ồ... - Hai Thăng khẽ thốt lên - một câu hỏi đầy chất ngạo mạn của một sĩ quan quân lực “Việt Nam Cộng hòa” - Hai Thăng dựng thẳng lưng, hai tay nhịp nhịp xuống bàn - “Lịch sử quân sự, nói về những cuộc tiếp xúc, thương thuyết giữa 2 phía, người ta đã rút ra một nguyên tắc gì nhỉ... à... phải rồi, đó là “đối  tướng, đối binh...”. Ngài Trung tá, Cục phó thừa hiểu, một khi cấp trên cử tôi vô tận sào huyệt đối phương để gặp anh. Vì nể tình ông già nhà ta, chứ thực ra là để gặp những người còn là cấp trên của anh. Vậy, chẳng lẽ người ta lại cử một người mà trình độ về mọi mặt lại chỉ bằng hoặc kém hơn đối phương. Phải vậy không?...”.
Đây là tình huống bất ngờ, ngoài dự kiến mà Hai Thăng phải ứng phó theo “giải pháp tình thế”. Thực ra hàm, cấp thời đó của lực lượng Tình báo “thuộc diện quá khiêm tốn”. Hầu hết các cụm trưởng chỉ cỡ đại úy, thiếu tá thôi thì cấp bậc của anh không thể cao hơn Cụm trưởng. “L19” ngồi thừ ra, khuôn mặt chữ điền chùng xuống, hai khóe mắt rưng rưng. Bỗng nhiên, anh ta đứng dậy, cúi gập người, nắm chặt tay Hai Thăng miệng lập bập:
- Anh... Anh Hai!... Xin hãy bỏ qua cho những lời khiếm nhã vừa rồi. Thiệt tình thằng em... chỉ là giỡn với anh... - Hai Thăng vội xua xua tay:
- Không có chi... không có chi... hãy ngồi xuống, còn nhiều chuyện tôi cần nói với anh.
“L19” ngồi xuống, lại ngước nhìn khách, một cái nhìn e ngại.
Trầm ngâm giây lát, Hai Thăng tiếp lời, chất giọng trầm ấm của anh không phải chỉ dành cho người đối diện mà còn là tự sự với chính mình.
Tác giả cùng bà Võ Thị Thắng (người ngồi bên trái) tới thăm đoàn cán bộ giao thông bí mật của J22
tại trạm 66 Bộ Quốc Phòng (Ttháng 5/1997)
Chiến tranh giải phóng, chống ngoại xâm là chính nghĩa. Chính nghĩa tất thắng có chăng chỉ còn là thời gian. Lương tri thời đại, loài người tiến bộ, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ ủng hộ chính nghĩa Việt Nam.
- Chiến trường đang diễn biến phức tạp do Mỹ ồ ạt đưa quân vào. Điều đó càng thể hiện thế yếu của họ. Thể hiện sự lúng túng về chiến lược, tạo mâu thuẫn ngay trên chính trường nước Mỹ, càng lộ rõ bộ mặt xâm lược, bị thế giới lên án, nhân dân tiến bộ Mỹ chống đối.
Chiến tranh giải phóng, chống ngoại xâm là chính nghĩa. Chính nghĩa tất thắng có chăng chỉ còn là thời gian. Lương tri thời đại, loài người tiến bộ, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ ủng hộ chính nghĩa Việt Nam. Vậy hà cớ gì, những người mang dòng máu Việt lại thờ ơ với thời cuộc, lại nhẫn tâm đứng về phía kẻ thù của dân tộc.
Cách mạng rất cảm thông với những số phận bị xô đẩy bởi thời cuộc, bởi cuộc sống. Với họ, vẫn có thể suy nghĩ lại khi thời gian còn chưa quá muộn. Vẫn có thể làm một việc gì đó có lợi cho cách mạng để chuộc lại lỗi lầm quá khứ ngay trên mảnh đất họ đang sống, ngay trong cái thể chế phi nghĩa kia...
Sự im lặng lại bao trùm căn phòng. “L19” thẫn thờ thả tầm mắt vào một góc trần nhà. Lâu lắm, anh ta mới cúi xuống nhìn Hai Thăng, hai mắt đỏ hoe, nghẹn ngào:
- Anh Hai!... Việc này ông già đã nói với tôi. Có điều... ngặt cho hoàn cảnh, một gánh nặng gia đình, bố mẹ già, một vợ và 9 đứa con. Tất cả cuộc sống của họ đều trông vào tôi. Nếu tôi có bề nào thì... xin anh, xin cách mạng hiểu cho... Tôi hứa sẽ không làm bất kỳ việc gì có hại cho cách mạng. Sẽ không để tay mình vấy máu đồng bào...
- Hiểu, tôi hiểu hoàn cảnh mới thực lòng vậy. Nói để anh suy nghĩ. Cách mạng không ép bất kể người nào. Có điều, ta cần sòng phẳng với nhau, thể chế Sài Gòn ví như một cỗ máy, thiếu mấy cái đinh ốc, sút mấy mối hàn trong động cơ thì cỗ máy đó làm sao vận hành được. Vì vậy, tội ác đâu phải chỉ ở những người cầm súng bắn vào đồng bào mình. Thế thôi! Ông già còn nghỉ lại đây với các cháu. Có gì cứ nói lại với ổng. Bây giờ tôi phải đi vì nửa giờ nữa có một cuộc hẹn.
Thực ra đâu có cuộc hẹn nào. Rời nhà “L19”, Hai Thăng ra bến xe, đi thẳng về Lái Thiêu. Không ngờ chỉ nửa giờ sau đó, “ông già miệt vườn” cũng về tới. Ông nắm tay Hai Thăng, nét mặt đau buồn, nghẹn ngào:
- Chú Hai! Mong chú và cách mạng bỏ qua cho tôi, bởi vô phước đã sinh ra một thằng con mất dạy... nó đã làm mất công tổ chức, mất công của chú. Tôi vô cùng mắc cỡ với đời...
Hai Thăng lựa lời an ủi ông già rồi theo Tư Thu về căn cứ ngay chiều hôm đó. Một buổi chiều buồn đối với anh và cả người được giao nhiệm vụ đón anh. Dẫu chưa được biết nội dung, song với con mắt nghề nghiệp, Tư Thu cảm nhận đó là một chuyến đi không “thuận buồm xuôi gió” đối với đồng nghiệp của mình.
Nội dung cuộc tiếp xúc “L19”, ngay tối hôm sau được báo cáo chi tiết về trung tâm. Mấy ngày sau có điện của cấp trên gửi vào động viên, an ủi Hai Thăng và đơn vị. “Cấp trên hoan nghênh tinh thần khắc phục khó khăn, nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của các đồng chí. Việc không “dứt điểm” được “L19” cũng là chuyện bình thường. Không vì thế mà buồn nản. Đâu phải tất cả các trận đánh đều là toàn thắng.
Dẫu sao, từ cuộc tiếp xúc này ta đã thu  được thông tin rất bổ ích - đó là tình cảm của quần chúng trong vùng địch tạm chiếm đối với cách mạng mà trong đó có cả những sĩ quan quân đội Sài Gòn. Những người bên kia chiến tuyến đâu phải tất cả đều xấu, đều chống đối cách mạng. Đây là một kênh thông tin giúp ta nghiên cứu phục vụ công tác binh, địch vận đạt kết quả tốt hơn”.
Mối tình năm cũ
Từ khi Hai Thăng về căn cứ, thi thoảng tôi được tiếp xúc với anh - và có cảm tình ngay từ buổi đầu gặp gỡ.
Vì nhận ra ở anh một con người xởi lởi dễ gần, hiểu rộng, biết nhiều nên mới gặp đã thân ngay. Bởi thế, tôi mới dám thóc mách hỏi chuyện đời tư của anh. Anh khẽ cười, lắc đầu, gương mặt thoáng buồn, vội xóa đi ngay bằng một câu hài hước: "Anh Hai chừng này tuổi đầu nhưng chưa có một mảnh tình vắt vai".
Tôi đùa lại anh: “Nếu chưa có chị nào níu chân ở ngoài Bắc thì anh kiếm béng một cô trong vùng giải phóng đi. Để em làm mai cho”.
Anh lại khẽ lắc đầu, trầm ngâm giây lát: “Nói thiệt với chú em, anh đã có người thương rồi. Ngày đi tập kết, cô ấy 19 tuổi. Nhà ở thị xã Vĩnh Long. Hẹn nhau 2 năm, thoáng chốc đã mười mấy năm... Nhưng... buồn lắm, cô ấy đã  mất rồi, trong một trận bom ở vùng ven thị xã.
Anh nguyện với lòng mình, khi nào đặt được bó hoa viếng mộ cô ấy rồi... mới tính”. “Vậy... có biết mộ chị bây giờ ở đâu không” - "Biết! Ở nghĩa trang thị xã Vĩnh Long, má anh có dự lễ tang cô ấy”.
Tôi lặng buồn, mặc cho thời gian nặng nề trôi, lâu lắm mới cất thành lời: “Anh đã vào thành nhiều chuyến, sao không tranh thủ về dưới đó”. Anh lại khẽ lắc đầu: "Đâu có được! Ngày anh đi tập kết cả xứ đều biết...”.
Thời gian ấy, công việc quá nhiều nên phải tới mấy tháng tôi không có dịp gặp anh, kể cả với chị Tư Thu. Một hôm, chị Tư vừa đi công tác trong thành về đã nhắn tôi sang “khu mật”. Mới thấy tôi, chị đã xởi lởi: "Chị có quà cho em đây. Toàn những thứ “hợp gu” em.
Chị lôi trong túi ra một mớ báo và tạp chí xuất bản ở Sài Gòn. Những Tin Sáng, Điện Tín, Đối Diện, Đứng Dậy... cùng một số tiểu thuyết của mấy cây bút nữ - Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hồng... Toàn những thứ nằm trong “hành trang nghề nghiệp” của chị.
Có lần ở Trạm kiểm soát Cầu Bông, một tên lính định kiểm tra cái giỏ xách của chị, tên lính phía sau giọng oang oang: "Thôi đi! Xét làm gì mấy bà trí thức “mọt sách” này cho mất công”. Chị lục trong giỏ rồi dúi vào tay mỗi đứa một bao Ruby: "Mấy cậu cầm mà hút. Thuốc của ông Đại tá nhà chị đó. Tha về cả đống, khói um nhà”.
“Chu cha!... bà chị lo bảo vệ sức khỏe ông anh tui phải không”. Chị khẽ cười: "Chớ sao! Ổng là “tài sản” của cả nhà đó”. Thực ra nhiều khi trong những tờ báo, những cuốn sách chị đem về lại chứa đựng bao điều bí mật - cán bộ nội thành viết báo cáo vào bên lề của mỗi trang, khi về căn cứ chúng tôi dùng mực mật quét vào chữ mới nổi lên.
Tôi lật lật mấy trang báo, bỗng reo lên: “A... Trong này có một bài họ nói tới  Cù Lao Ba Xã. Quê anh Hai đó, chị biết không? Chắc là xa lắm”.  - “Ừa... Qua Long An, Mỹ Tho rồi qua bắc (phà) Mỹ Thuận mới tới”. “Chị có biết hoàn cảnh gia đình anh Hai ra sao không?”.
“Dưới quê còn ông bà già, một người em trai cũng đi kháng chiến, hai đứa em gái thì một đã có chồng, còn một đứa bị bom, chết từ mấy năm trước. Chị mới về nghĩa trang Vĩnh Long thắp hương dùm anh ấy”. “Ơ!...”. Tôi định cãi lại, nhưng vội kìm mình.
Chị ngồi xuống ghế, hạ thấp giọng: “Có một việc chị muốn tham khảo ý kiến em. Hôm rồi... Anh Hai hỏi mượn chị một tấm hình...” - “Để làm chi vậy?” - “Bà già ép lấy vợ. Ảnh bí quá, nói đại là đã có người yêu trong vùng giải phóng. Bà già nói cho bả được coi hình con dâu tương lai để... có bề nào mới nhắm mắt được”. Tôi thở phào. Vậy là “có vấn đề rồi”.
Tôi khẽ cười: “Thì... thì chị cứ tặng luôn một tấm, mượn mõ làm gì cho mất công. Mà em hỏi thật, trước khi hỏi mượn hình, anh ấy có nói với chị gì không?”. Gương mặt chị bừng đỏ: “Thiệt tình mấy bữa trước ảnh có đặt vấn đề với chị. Chị nói thẳng là không thể... vì dầu sao chị cũng đã từng có gia đình. Còn ảnh... Rồi, còn chuyện anh Tư, đã hơn 10 năm anh bị bắt, chưa có một thông tin chính thức nào. Vì vậy chị không thể...”.
“Vậy hôm đó anh Hai nói sao?”. “Ảnh nói ảnh sẽ kiên quyết chờ, chờ cho tới khi nào có tin chính thức về anh Tư. Nếu may mắn anh Tư vẫn còn  thì hai người vẫn là bạn tốt của nhau”.
Tình hình chiến trường ngày càng ác liệt. Địch đánh phá dữ dội địa bàn đông và tây bắc Sài Gòn. B48 một  số đồng chí hy sinh và bị bắt (trong đó có cả lãnh đạo Cụm). Vì vậy, cấp trên quyết định nhập  B48 với B49 thành một đơn vị lớn như là một trạm tình báo.
Sau tết Mậu Thân, Cụm H67 thiếu cán bộ nên J22 điều tôi về đó. Căn cứ bám trụ tại mật khu Bời Lời. Ngoài nhiệm vụ giữ vững liên lạc với các lưới điệp báo nội thành, H67 còn đảm nhận trách nhiệm như một trạm giao liên để một số cụm bạn dừng chân chuyển địa bàn hoạt động. Cũng vì thế mà  tôi có dịp gặp lại chị Tư Thu.
Hai chị em gặp nhau trong nỗi xa xót, buồn thương. “Dương ơi! Em đã nghe tin chưa... Anh Hai Thăng mất rồi...”. Chị ôm chầm lấy tôi, nghẹn ngào. Chỉ nói được chừng đó rồi nấc lên.  “Chị nói sao? Tin ở đâu vậy?...”. “Ngày... ảnh hy sinh, chị cũng ở đó”. Địch càn vào căn cứ vùng An Nhơn Tây, gần sông Thị Tính... Ảnh chỉ huy cụm chống càn...”.
Tôi lặng đi, chìm vào rừng chiều mật khu xơ xác sau một trận càn của địch và mơ hồ trong lời tâm sự đều đều của chị: “Hồi đó em đi, chị và anh Hai được phân công về một cụm. Bám trụ vùng nam Bến Cát. Trận càn kéo dài suốt ngày hôm đó. Hết bom, pháo rồi tới xe tăng, bộ binh. Anh Hai bị thương nặng, đưa xuống hầm được mấy tiếng sau thì ảnh đi.
Tài sản riêng anh em nhờ chị giữ là một chiếc bòng nhẹ tênh, chỉ có tăng, võng, 2 bộ quần áo và một cuốn sổ nhật trình ghi diễn biến tình hình địa bàn và công tác của đơn vị. Chỉ duy nhất có một tấm hình hồi “mượn” của chị kẹp trong cuốn sổ. Có một trang ghi nợ đơn vị “Ngày... tháng... tạm vay mật quỹ số tiền 5.000đ (năm nghìn tiền Sài Gòn). Lý do: mua một máy xay sinh tố tặng cô em ruột sinh con đầu lòng”.
Chị rút bớt lại số tiền tiêu vặt của mình tiết kiệm mấy năm kẹp vào trang ghi nợ của anh Hai để khi đơn vị kiểm tra tài chính khỏi mất công về khoản tiền thiếu có liên quan đến người đã khuất, để tâm hồn ảnh mãi mãi trong sáng, thanh thản”.
Ôi, nghĩa tình đồng đội thời máu lửa nó thiêng liêng, cao quý đến vậy! Cuối năm 1969, H67 chúng tôi là đơn vị tình báo cuối cùng rời chiến trường miền Đông về bám trụ tại Bến Tre để giữ vững liên lạc  với Sài Gòn.
Cuối năm 1974, tôi nhận quyết định về đoàn bộ J22. Căn cứ tập trung ở vùng giải phóng Lộc Ninh. Bởi nhiều năm bám trụ ở chiến trường vùng yếu nay về trung tâm được “nghỉ xả hơi” mấy ngày, tha hồ “cưỡi xe đạp thồ” đi thăm đồng đội. Gặp được Thanh Xuân (nữ y tế của đơn vị), mừng quýnh. Có bao nhiêu chuyện thi nhau kể, tập trung vào “đề tài chị Tư Thu”.
Hồi đó cấp trên quyết định đưa chị về A11 (Ban huấn luyện của J22) phụ trách công tác huấn luyện giao thông viên hợp pháp. Một thời gian sau lại chuyển về làm cụm phó một cụm tình báo ở vùng biên giới Campuchia. Một chuyện vui đến ngỡ ngàng, đó là tin anh Ba Đại, chồng chị Tư vẫn còn sống, trong đoàn  tử tù Côn Đảo vừa được trao trả tại sân bay Lộc Ninh”.
Chị Tư mừng rơi nước mắt. Những ngày hạnh phúc ngắn ngủi để rồi 20 năm thăm thẳm cách xa, bặt vô âm tín. Hỏi có nơi nào trên hành tinh này, con người phải chịu đựng nhiều hy sinh, đau khổ, thiệt thòi, mất mát như xứ sở chúng ta?
Hòa bình, thống nhất đất nước, cả dân tộc tập trung vào cuộc mưu sinh, hàn gắn vết thương chiến tranh. Bao công việc đè lên vai con người, trong đó có cuộc đời người lính. “Lực bất tòng tâm”. Bao nhiêu thứ kẹt - kẹt thời gian, kinh phí, nên tình xưa đành gác lại. Bởi thế, mãi tới đầu thập niên 80, nhân chuyến vào công tác phía Nam, tôi mới tìm về Biên Hòa thăm anh chị. Thật tội nghiệp. Hai mươi năm biền biệt cách xa, ngày gặp lại cả hai đều luống tuổi nên mãi mãi họ  vẫn là cặp “vợ chồng son”.
Nỗi đau từ cuộc chiến đâu phải chỉ có chia lìa, chết chóc, đau thương mà còn có cả những thiệt thòi, mất mát cái quyền làm mẹ, làm cha. Song, với người cộng sản Võ Thế Đại lại là sự hiến dâng vì nghĩa lớn.
Tôi muốn trích mấy câu trong bài thơ anh viết tặng vợ trong ngày sum họp: “Làm sao ta quên được/ Hai mươi năm Ô Thước đủ nhịp cầu/ Cả thời xuân không được sống bên nhau/ Ngày sum họp đôi mái đầu đã bạc... Ta không mơ mà đây là sự thật/ Ta vẫn bên nhau sau trước thủy chung/ Ta tự hào tuổi xuân không hề mất/ Đã hiến dâng cho đất nước anh hùng”.
Ôi! Tấm lòng của hai người cộng sản, họ là tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa Anh hùng cách mạng, biết hy sinh tình riêng vì nghiệp lớn. Là người yêu văn học, nghệ thuật, sau ngày chiến thắng trở về, Võ Thế Đại đã dành tâm trí cho  thơ, cho những đứa con tinh thần của mình, đã cho ra đời hai tập thơ có tên là “Tiếng lòng 1” và “Tiếng lòng 2” do Nhà xuất bản Đồng Nai ấn hành năm 1985 và 1994.
Anh đã gửi gắm vào đó tất cả tình cảm, nỗi lòng mình với Tổ quốc, với Đảng, Bác Hồ, đồng bào, đồng chí, anh em và với người vợ hiền rất đỗi yêu thương. Thơ anh còn chứa đựng bao nỗi day dứt, đau đời trước những hiện tượng trái ngang, phi lý, trước hiện tượng bọn tham ô, tham nhũng đang ngày đêm đục khoét mồ hôi nước mắt của nhân dân...
Như linh tính mách bảo,  tôi đang viết tới phần cuối bài này trong một tâm trạng buồn. Có lẽ bởi nhuốm nỗi buồn từ một số bài thơ “thế sự” của anh thì nghe tin anh vừa qua đời. Tôi điện vào Biên Hòa sẻ chia nỗi buồn cùng chị Tư Thu. Nghe tiếng nghẹn ngào từ đầu dây bên kia mà lòng tôi se thắt lại. Thế là từ nay  lại “thân gái dặm trường”, một thân một mình gánh vác mọi việc, chăm sóc mẹ già. Ngày 15/4 này, cụ đã bước vào cái ngưỡng “Đại thượng thọ bách niên” - tròn 100 tuổi.
Lẽ ra, bài viết này chỉ đơn thuần với ý nghĩa nhân kỷ niệm 30-4 - ngày vui của cả nước, nhắc tới ký ức một thời để nói về một người, một nữ giao thông viên bí mật - của Lực lượng tình báo Anh hùng mà ít ai biết tới. Bài viết còn thay cho nén tâm hương tưởng nhớ người quá cố và  phân ưu với người đồng chí, người  chị tôi vô cùng thương quý
  • Nguồn: Nữ giao liên tình báo Vũ Chi Lan / Ghi chép của Thiếu tướng Khổng Minh Dụ // 23.04.2008 và 05.05.2008.


Trần Quốc Hương -"Kiến trúc sư" trưởng của một mạng lưới tình báo

Ngồi chờ ở phòng khách của Khu biệt thự Hồ Tây, tôi mường tượng rằng ông - một huyền thoại tình báo đã đi vào lịch sử sẽ là một người quắc thước, mạnh mẽ và dĩ nhiên, có phần nghiêm nghị.
"Kiến trúc sư" Trần Quốc Hương
Để rồi, khi đồng chí Phạm Văn Hùng - sĩ quan bảo vệ mời ông vào phòng, tôi đã ngỡ ngàng khi trước mặt là ông cụ nhỏ nhắn, đẹp lão, với nụ cười hiền hậu, phong thái nhẹ nhàng, thấm đẫm văn hóa phương Đông.

Với chiếc áo khuy ngang màu ngà và tấm khăn rằn quàng cẩn thận trên cổ, trông ông hệt một ông già phương Nam giản dị. Trong câu chuyện, mỗi lần kể về mẹ hay những người phụ nữ đã giúp đỡ ông trong cuộc đời hoạt động cách mạng và thay ông chịu bao đau khổ, ông đều không giấu nổi nghẹn ngào. Ông - “kiến trúc sư” của một mạng lưới tình báo với những chiến công đã đi vào lịch sử đây ư? Câu hỏi ấy cứ vang lên trong đầu tôi suốt cuộc chuyện trò.
Con đường trở thành nhà tình báo
Nhắc đến các nhà tình báo nổi tiếng như Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Phạm Ngọc Thảo – những người mà tên tuổi đã vượt ra khỏi biên giới vì sự cống hiến của họ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, không thể không nhắc đến ông - người mà mỗi chiến công của các điệp viên huyền thoại ấy đều gắn bó với sự chỉ đạo mang tầm chiến lược của ông. Đó chính là nhà tình báo Trần Quốc Hương, còn gọi là Mười Hương - Ủy viên Trung ương từ khóa IV đến khóa VI, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương và đã được trao tặng  - Huân chương cao quý nhất.
Tên thật của ông là Trần Ngọc Ban, quê ở Vụ Bản, Bình Lục, Hà Nam. Là con trai út một gia đình tư sản, nhưng ông lại tham gia cách mạng từ rất sớm, lúc mới 13 tuổi, nhờ sự giác ngộ của người thầy học Nguyễn Đức Quỳ - sau là Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam, rồi Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Được thầy Quỳ giới thiệu, ông lên Hà Nội gặp các ông Trường Chinh, Lê Toàn Thư, Hoàng Đình Tuất rồi gặp Bác Hồ và càng ý thức rõ hơn về việc tham gia cách mạng của mình.
Năm 1941, ông bị Pháp bắt cùng với ông Nguyễn Thọ Chân  vì treo cờ Cộng sản và rải truyền đơn, rồi bị tống giam hơn một năm trước khi ra tòa án binh của Pháp. Nhưng do còn nhỏ tuổi, ông đã được trả tự do với lời cảnh báo của một mật thám Pháp: “Đừng thấy nó nhỏ tuổi mà coi thường, Cộng sản đã ăn vào máu của nó rồi”. Năm 1943, ông đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản. Trước và sau Cách mạng tháng Tám, ông làm thư ký riêng của Tổng Bí thư Trường Chinh và là một trong những người chuẩn bị chu đáo cho buổi ra mắt quốc dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945.
Ông Mười Hương trong chương trình giao lưu
"Ký ức thời hoa lửa" tổ chức
tại Học viện cảnh sát nhân dịp 30/4/2008
Ông vẫn còn nhớ rõ vì sao mình bước chân vào nghề tình báo: “Khoảng tháng 7/1954, Xứ ủy Nam Kỳ cử đồng chí Lê Đức Thọ ra gặp Trung ương để bàn về chiến lược cách mạng và xin Trung ương cử tôi vào đó. Tổng Bí thư Trường Chinh xin ý kiến và được Bác Hồ đồng ý. Anh Trường Chinh gặp tôi giao nhiệm vụ và nói: “Khó khăn nhiều lắm đấy, đi không biết bao giờ trở lại. Phải suy nghĩ cho kỹ, nếu thấy đi không được thì cứ báo cáo, Trung ương không ép”. Bác Hồ cũng gặp tôi dặn dò: “Công việc thì các chú khác đã dặn chú kỹ rồi, xem làm được thì nhận và đã nhận thì đừng phụ lòng Trung ương, đi sao nhớ về vậy!”.
Thế là ông nhận nhiệm vụ. Rồi ghé về thăm mẹ, bởi ông hiểu rằng, với việc ra đi của ông, không ai khổ hơn mẹ. Thấy con đột ngột trở về, linh cảm của người mẹ cho bà cụ biết sẽ là khởi đầu một cuộc chia tay dằng dặc, nên cụ lặng lẽ nấu một nồi cháo thịt cho con ăn, rồi giục ông đi ngủ. Ông nghẹn ngào nhớ lại: “Tôi nằm nghỉ trên tấm phản, mẹ ngồi bên cạnh âu yếm rờ nắn khắp mặt mũi, chân tay tôi. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn còn cảm thấy hơi ấm nóng từ những giọt nước mắt của bà rơi trên mặt tôi đêm đó”. Không ai ngờ chuyến đi ban đầu dự định chỉ 6 tháng, đã kéo dài tới 10 năm.
Vào Nam, lạ nước lạ cái, nhưng ông may mắn được các đồng đội thân thiết, nhất là ông Phan Trọng Tuệ - từng là bạn tù và ông Lê Toàn Thư giúp nắm bắt tình hình để cùng ông Mai Chí Thọ và Cao Đăng Chiếm nhanh chóng mở các lớp huấn luyện nghiệp vụ tình báo.
Năm 1958, ông sa vào tay giặc. Biết ông là cán bộ cao cấp, anh em họ Ngô tìm cách “chuyển hướng” tư tưởng để sử dụng. Đích thân Ngô Đình Nhu bố trí gặp ông tại nhà nghỉ mát của Ngô Đình Cẩn ở cửa Thuận An (Huế) để hòng lung lạc. Không khuất phục được, chúng đã đưa ông vào danh sách 200 tù nhân cần thủ tiêu, nhưng chưa kịp thực hiện thì cuộc đảo chính Diệm xảy ra.
Ông nhớ lại những ngày tháng ấy: Chúng liên tiếp hỏi cung cả ngày lẫn đêm, không cho ngủ, nếu ngủ gật là chúng đánh, nhằm làm cho ông căng thẳng tinh thần đến không chịu nổi. Ông bảo, nó muốn thế thì mình phải trụ vững. Cơm tù chỉ có một đĩa nhỏ, chúng còn trộn muối sống vào, thì ông lựa từng hạt cơm để ăn có sức mà tranh đấu. Hơn nữa, “đôi mắt trong veo của cậu con trai đầu lòng nhìn tôi lúc chia tay thường hiện về, góp phần động viên tôi đủ nghị lực không sa ngã trước quân thù. Chỉ vì một lẽ đơn giản đến khó tin là, tôi sợ mình không dám nhìn vào đôi mắt đó khi gặp lại, nếu không giữ được khí tiết cách mạng”.
Người thầy của những nhà tình báo anh hùng
Với vai trò một “kiến trúc sư” của một mạng lưới tình báo, ông Mười Hương là người có tầm nhìn sâu sắc, toàn diện và tinh tế về thế mạnh, khả năng làm tình báo và phẩm chất của từng người. Trước khi vào Nam, qua sự giới thiệu của ông Nghĩa, Bí thư tỉnh Thái Bình, ông Mười Hương đã xây dựng ông Vũ Ngọc Nhạ làm cơ sở. Đây là nước cờ quan trọng cho một kế hoạch dài hơi mà ông tính đến, xứng danh một nhà tình báo chiến lược.
Nhận nhiệm vụ trong Ban Địch tình Xứ ủy, với vỏ bọc là giáo viên dạy tư tại Sài Gòn, ông Mười Hương đã móc nối thành công với điệp viên Vũ Ngọc Nhạ để triển khai tiếp kế hoạch đã vạch. Thực hiện chỉ đạo của ông Mười Hương, ông Vũ Ngọc Nhạ đã chiếm được lòng tin của Giám mục Lê Hữu Từ - Giám mục giáo xứ Phát Diệm, trở thành người đại diện trong quan hệ với chính quyền họ Ngô rồi gây được ảnh hưởng trong gia đình Diệm, tạo nên những chiến công lừng lẫy trước khi bước vào tiểu thuyết “Ông cố vấn” nổi tiếng của nhà văn Hữu Mai.
Với điệp viên xuất sắc Lê Hữu Thúy (Đại tá, Anh hùng LLVTND, nguyên mẫu của nhân vật Lê Nguyên Vũ trong “Điệp viên giữa sa mạc lửa” của Nhị Hồ), ông Mười Hương khai thác triệt để sự thông minh lanh lợi, sự hiểu biết cũng như các mối quan hệ của Lê Hữu Thúy với các nhân vật chóp bu trong chính quyền Diệm, tạo nên vỏ bọc vững chãi cho điệp viên này chui sâu vào hàng ngũ của địch, phục vụ các yêu cầu của cách mạng.
Khi đã chiếm trọn lòng tin của Tổng trưởng Nội vụ Huỳnh Văn Nhiệm, rồi chinh phục cả Bảy Viễn - thủ lĩnh Bình Xuyên lẫn Năm Lửa - tướng của Hòa Hảo, Lê Hữu Thúy đã thành công trong việc khơi sâu mâu thuẫn giữa các tổ chức giáo phái với chính quyền họ Ngô, buộc Diệm phải mất rất nhiều thời gian cùng binh lực để ổn định tình hình, tạo thời cơ cho cách mạng miền Nam có thêm thời gian và điều kiện xây dựng, củng cố lực lượng.
Với từng đường đi nước bước của chiến lược gia Mười Hương, điệp viên Phạm Ngọc Thảo đã tiếp cận Ngô Đình Diệm và bằng tài năng cá nhân, nhanh chóng được Diệm đặc biệt tin cẩn và trọng dụng, rồi leo cao trong chính quyền ngụy. Năm 1965, Phạm Ngọc Thảo đã tiến hành đảo chính định lật đổ Nguyễn Khánh nhưng việc không thành nên bị địch sát hại.
Nhìn thấy khả năng thiên phú của ông Phạm Xuân Ẩn, từ rất sớm, Mười Hương cùng ông Mai Chí Thọ quyết định đưa Phạm Xuân Ẩn sang Mỹ học nghề báo để về nước phục vụ cách mạng. Kế hoạch được thực hiện trọn vẹn khi với vỏ bọc này, nhà tình báo tài ba Phạm Xuân Ẩn đã có cơ hội diện kiến nhiều nhân vật quan trọng của cả Mỹ lẫn ngụy, để khai thác và chuyển về hậu cứ những thông tin có giá trị về các chiến lược đặc biệt của kẻ thù, giúp quân ta có kế hoạch đối phó và đập tan mọi âm mưu của địch và vững bước đến thắng lợi trọn vẹn.
Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường
hoan hô bộ đội giải phóng vào ngày 30/4/1975
Chiến công rất lớn của người thầy tình báo Mười Hương còn là, trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ông đã chỉ huy mạng lưới tình báo góp phần giải phóng Sài Gòn gần như nguyên vẹn, đỡ tốn xương máu.
Ông kể: “Lúc còn sống, đồng chí Lê Đức Thọ và một cán bộ tình báo đã gặp Dương Văn Minh để hỏi thẳng rằng, điều gì làm cho ông tuyên bố án binh bất động trong ngày 30/4/1975, thì Dương Văn Minh nêu nhiều lý do, trong đó cùng với lực lượng quân đội còn có sự tác động của một số nhóm thuộc lực lượng an ninh của ta”.
Thế nhưng, nhắc về những chiến công lẫy lừng ấy, “kiến trúc sư” Mười Hương giản dị: “Thành tích mà các anh ấy có được, là do sự lãnh đạo của Trung ương và các lực lượng cách mạng, do tài năng và lòng quả cảm của chính các anh đó, còn tôi chỉ là người được giao chắp nối các đầu mối. Hoạt động tình báo như diễn kịch và các nhà tình báo trên đã thực hiện xuất sắc vai diễn của mình”.
Phía sau hào quang
Không thể nói hết sự lớn lao trong những chiến công mà ông Mười Hương và đồng đội đã lập lên cho nền độc lập của dân tộc. Nhưng mấy ai biết rằng, phía sau vầng hào quang chói lòa ấy, là bao mất mát, hy sinh, thầm lặng nhưng dai dẳng, để đến hôm nay, nhắc lại thôi cũng đủ làm ông đau lòng.
Ngày ông vào Nam hoạt động, cả 2 đứa con còn nhỏ xíu. Vì yêu cầu bí mật, cuộc chia tay không hẹn ngày về của ông chỉ có vòng tay bịn rịn và cặp mắt trong veo, nhòe ướt của cậu con trai nhỏ. 10 năm không tin tức, vì nguyên tắc hoạt động và mất tới 6 năm ông ở trong tù. Trở ra Bắc, đứa con gái nhỏ lẫm chẫm bò lúc ông đi, chạy vuột khỏi tay cha: “Bà ngoại ơi, có ông nào đến nhận là bố con!”. Nhưng đau đớn nhất là ông phải đối diện với sự tan vỡ của cuộc sống tình cảm vợ chồng.
Lại thêm gần 10 năm nữa vào Nam hoạt động. Dằng dặc gần 2 thập niên ấy, các con ông tiếng là có cha nhưng rất ít khi được gặp chứ nói gì được ông chăm sóc. Nhưng cùng với các con, ông cũng chịu nhiều mất mát. Ngày đất nước thống nhất, mọi người hân hoan đoàn tụ, còn ông, nỗi cô đơn thấm tận đáy lòng. Ông không dám trách ai, bởi biết rằng, vì nhiệm vụ cao cả, ông đã không thể làm tròn vai trò của người chồng, người cha trong gia đình.
Cả cuộc đời ông cứ lặng lẽ hy sinh cho đất nước. Mãi gần 10 năm sau ngày giải phóng, đã ở tuổi 60, ông mới lại có được hạnh phúc muộn mằn
  • Nguồn: ANTG, 01.08.2008.


Print Print Share on Zing Me Go.vn Print Print Print Chia sẻ bài này lên Yahoo Messenger

Thứ Tư, 19 tháng 6, 2013

NHẬN THỨC VỀ “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”

Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng Việt Nam:
Ngày 3 tháng 2 năm 1994, Mĩ tuyên bố bỏ cấm vận kinh tế với Việt Nam. Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Mĩ tuyên bố bình thường hoá quan hệ Việt – Mĩ. Ngay đêm 11 tháng 7 năm 1995 Tổng thống Mĩ – Bil Clintơn (B. Clin-tơn) tuyên bố: “Việc bình thường hoá quan hệ của chúng ta với Việt Nam không phải là kết thúc nỗ lực của chúng ta. Chúng ta sẽ tiếp tục phấn đấu cho đến khi chúng ta có được những câu trả lời mà chúng ta có thể có”.
Chúng ta bắt đầu thảo luận các vấn đề nhân quyền với Việt Nam, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến tự do tín ngưỡng”.
“Tôi tin tưởng rằng việc bình thường hoá và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mĩ và người Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam như đã từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô trước đây”
Như vậy, âm mưu xuyên suốt của Mĩ đối với Việt Nam là, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam càng nhanh càng tốt. Vì sao Mĩ và các thế lực thù địch lại luôn theo đuổi âm mưu đó. Các chiến lược gia phương Tây phân tích và cho rằng:
- Việt Nam là ngọn cờ đấu tranh cho độc lập dân tộc và đang kiên quyết nhất trong việc chống phá chủ nghĩa đế quốc.
- Nếu xoá bỏ được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sẽ có thêm nhiều thuận lợi để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở các nước còn lại và uy hiếp độc lập dân tộc của
các nước khác. Xóa bỏ Việt Nam đồng nghĩa chúng cũng sẽ uy hiếp và xâm chiếm các nước láng giềng như lào, Campuchia
- Có xoá bỏ được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Mĩ mới xoá được “Hội chứng Việt Nam” trên đất Mĩ.
Cùng với các lí do để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, các chiến lược gia của Mĩ cũng thấy được các trở ngại khi thực hiện âm mưu trên:
- Việt Nam có một Đảng Cộng Sản giàu truyền thống, có đội ngũ kế cận vững vàng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam nắm rất chắc ngọn cờ dân tộc.
- Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không những không sụp đỗ như Đông Âu và Liên Xô mà còn tiến lên; lòng tin của nhân dân Việt Nam vào Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội ngày càng được củng cố.
Tình hình thực tế hiện nay chúng thực hiện diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ chống phá cách mạng Việt Nam như thế nào ?
a) Mục tiêu:
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội, luôn coi Việt Nam là một trọng điểm chống phá. Mục tiêu là xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của chúng. Mục tiêu đó không hề thay đổi.
b) Phương châm chỉ đạo:
Mềm, ngầm, sâu. Diễn biến hòa bình là chính kết hợp răn đe quân sự có lựa chọn và khi có thời cơ, xây dựng lực lượng phản động người Việt Nam ở trong và ngoài nước Việt Nam là chính: (ngụy quân, ngụy quyền cũ không cải tạo, lực lượng phản động trong dân tộc, tôn giáo, trí thức, văn nghệ sĩ, các phần tử thoái hoá biến chất, bất mãn trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và trong nhân dân ta); phá hoại càng cao, càng sâu càng tết, phá có trọng điểm, chui sâu leo cao vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, phá hoại kinh tế là trọng tâm.
c) Thủ đoạn hoạt động chủ yếu
Từ diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ để tạo ra quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ trong nội bộ chúng ta: Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang và nhân dân. Thủ đoạn đó diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vào mọi đối tượng trong đó tập trung trên một số lĩnh vực chủ yếu sau:
- Chống phá về chính trị tư tưởng:
Trọng tâm là xoá bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng làm tiêu tan nền tảng tư tưởng trong các tổ chức Đảng, tổ chức xã hội và mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ. Bằng cách ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, hạ thấp hòng vô hiệu hoá chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, như việc chúng đòi xoá Điều 4 trong Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam…
Phá vỡ hệ thống nguyên tắc tổ chức trong hệ thống chính trị (Đảng, Nhà nước, đoàn thể và của toàn xã hội), làm mất hiệu lực của nguyên tắc tập trung dân chủ, là nguyên tắc tổ chức cao nhất của Đảng, Nhà nước ta. Phá hoại con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Phá vỡ khối đại đoàn kết của toàn dân, của các tổ chức chính trị-xã hội. Bằng cách xuyên tạc, chia rẽ. làm cho nội bộ ta không tin nhau, nghi ngờ lẫn nhau, gây rối loạn nội bộ. Nhằm dễ cài cắm những quan điểm mơ hồ, những phần tử cơ hội, thậm chí phần tử phản động, nội gián, thực hiện kế hoạch “kén làm tổ”, “chui sâu, leo cao” để ngầm phá ta từ bên trong lâu dài.
- Hoạt động phá hoại kinh tế
Hoạt động phá hoại kinh tế, với ý đồ làm cho Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, luôn ở trạng thái đói nghèo, buộc phải suy sụp hoặc phải khuất phục, chuyển hoá chế độ chính trị, kinh tế trong nước phụ thuộc vào nước ngoài, từ đó chi phối kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, luật pháp. Thông qua kinh tế dồi dào mà chúng lôi kéo móc nối cán bộ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, các tổ chức, công ty liên quan đến nguồn vốn nhà nước, để từ đó chúng phá hoại kinh tế nước ta một cách nghiêm trọng.
Mục tiêu chính phá hoại kinh tế là, lấy việc chống phá từ bên trong kết hợp với điều kiện bên ngoài để tạo ra áp lực đối với nền kinh tế nước ta, thông qua kinh tế để buộc ta chấp nhận các điều kiện chính trị. Chúng tác động qua những tổ chức kinh tế nước ngoài, tổ chứ phi chính  phủ có nguồn vốn nước ngoài.
Hiện nay chúng tập trung phá vỡ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa của ta bằng nhiều thủ đoạn rất xảo quyệt, như việc lợi dụng quan hệ hợp tác đầu tư liên doanh, liên kết (nhất là qua các khâu: vốn, chuyên gia, kĩ thuật), tìm cách phủ định định hướng chủ nghĩa xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện: vừa khuyến khích, ca ngợi kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, vừa tư nhân hoá dần dần làm mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Chúng cho việc làm đó là để xoá tận gốc kiểu quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ở Việt Nam.
- Lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá ta
Vấn đề tôn giáo, dân tộc hiện nay luôn là mục tiêu kẻ thù hết sức chú trọng lợi dụng để chống phá.
+ Về vấn đề dân tộc: Kẻ thù triệt để khai thác các mâu thuẫn giữa các dân tộc do nhiều nguyên nhân gây ra, để chia rẽ khối đoàn kết, tạo dựng những mâu thuẫn mới, kích động tư tưởng hẹp hòi dân tộc, đòi quyền tự quyết dân tộc chủ nghĩa, như việc xuyên tạc, kích động, mua chuộc, xúi dục một số dân tộc thiểu số đấu tranh Với Đảng, Nhà nước ta để đòi cái gọi là “độc lập quốc gia tự trị”.
Chúng tận dụng tối đa mọi cơ hội để kích động làm bùng nổ các cuộc đòi ‘dân chủ’, tôn trọng “quyền” của các dân tộc, nhằm gây rối loạn tình hình an ninh xã hội.
Đặc biệt chúng chú trọng yếu tố tâm lí và sự dồn nén khó khăn về đời sống tinh thần, vật chất (nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây) để tạo dựng xu hướng bất bình với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
+ Vấn đề tôn giáo: Chúng triệt để lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước ta, để truyền bá mê tín dị đoan và tư tưởng phản động chống chủ nghĩa xã hội.
Tích cực hoạt động, nhằm phối hợp lực lượng phản động trong nước với lực lượng tôn giáo chống Cộng quốc tế, đẩy mạnh hoạt động phá hoại để tạo ra thực lực trở thành lực lượng đối trọng với Nhà nước ta. Như việc lợi dụng những phần tử phản động đội lết tôn giáo để hoạt động gây kích động, phá hoại, xúi giục giáo dân đòi đất xây nhà thờ, chùa chiền… để tập hợp, lôi kéo tuyên truyền kích động nhân dân, từng bước vô hiệu hoá sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đối với nhân dân vùng có đạo, tiến tới nhen nhóm, cài cắm lực lượng và xây dựng tổ chức phản động chống Đảng và chế độ ta.
Phương hướng hoạt động chủ yếu của chúng là đấu tranh ôn hoà đòi tự do tôn giáo, dẫn đến đấu tranh đòi tự do dân chủ, mở rộng quan hệ quốc tế, đến đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cuối cùng kết hợp với sự chỉ đạo, giúp đỡ, viện trợ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên ngoài sẽ giành thắng lợi qua bầu cử. Cùng với đó thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo kích động các dân tộc liên kết lại tạo thành khu tự trị, đất nước độc lập tuyên bố chống lại Đảng Cộng Sản.
- Xâm nhập về văn hoá
Hoạt động tập trung nhất của chúng là, tiến công vào nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Bằng cách, làm phai mờ những giá trị văn hoá truyền thống cách mạng của chúng ta, kết hợp với việc gieo rắc Văn hoá phản động, suy đồi nhằm chuyển đổi văn hoá Việt Nam thành “thuộc địa văn hoá” của chủ nghĩa đế quốc. Như việc thông qua nhiều “kênh”, nhiều thủ đoạn, chúng ra sức tuyên truyền, cổ vũ cho văn hoá, lối sống phương Tây – thực dụng, trụy lạc, tôn thờ đồng tiền là trên hết, sống ích kỷ, phi đạo đức. Tất cả việc làm đó còn nhằm tạo ra và bổ sung cho đội quân xung kích diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ của chúng. Xâm nhập nền văn háo chủ yếu tấn công vào giới trẻ, làm suy đồi đạo đức, lối sống trụy lac làm chúng không nhận ra được những truyền thống văn hóa, thuần phong mỹ tục
- Vô hiệu hoá lực lượng vũ trang
Vô hiệu hoá lực lượng vũ trang nhân dân, chủ yếu là quân đội nhân dân và công an nhân dân, đây là lực lượng tập trung nhất bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Hoạt động chủ yếu của chúng nhằm phá vỡ hệ tư tưởng, tổ chức của quân đội và công an. Làm cho lực lượng này xa rời mục tiêu chiến đấu, rêu rã tổ chức; xói mòn về đạo đức, phẩm chất, lối sống… để dẫn tới giảm lòng tin vào Đảng, vào chế độ, mất phương hướng và thay đổi bản chất cách mạng của mình.
Tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ bản chất truyền thống tốt đẹp của quân đội – công an, chia rẽ nội bộ, chia rẽ tình đoàn kết máu thịt quân đội và nhân dân, quân đội và Đảng…
Trong tình hình hiện nay, chúng đặc biệt chú ý đến trạng thái tâm lí để tuyên truyền, xuyên tạc vị trí, chức năng, nhiệm vụ của quân đội nhân dân. Đặt lợi ích kinh tế đối lập với lợi ích quốc phòng. Đối lập giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm phủ định vai trò của quốc phòng trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Toàn bộ những hoạt động của chúng nhằm phủ định sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội và công an “trung lập hoá quân đội và làm phai mờ biến đổi bản chất truyền thống cách mạng của quân đội – công an”, “phi chính trị hoá” quân đội – công an. Cuối cùng còn quân đội Việt Nam nhưng do chủ nghĩa đế quốc sai khiến.
- Kích động, phối hợp hành động của lực Iượng phản động trong nước và phản động ngoài nước
Kẻ thù rất coi trọng lực lượng phản động trong nước, nhằm tạo dựng lực lượng trực tiếp chống phá ta từ bên trong.
Chúng sử dụng các lực lượng trong nước để làm cầu nối giữa các tổ chức phản động trong nước và tổ chức phản động ngoài nước, vừa phối hợp hoạt động, vừa tập trung lực lượng. Chúng sử dụng các thủ đoạn xảo quyệt, tinh vi trong hoạt động để giành những mục tiêu cụ thể. Trong đó khoét sâu vào các vấn đề kinh tế, dân chủ, nhân quyền, công bằng xã hội, phục hồi tư tưởng chống Cộng, gây chiến tranh tâm lí làm hoang mang dao động ở một số người, tạo nên tình hình xã hội luôn căng thẳng, nhằm gây bạo loạn lật đỗ từ nhỏ đến lớn: Như việc hoạt động của bọn phản động người Việt sống ở nước ngoài thời kì chúng gọi là “hậu bình thường hoá” quan hệ Việt – Mĩ, với hai trọng điểm chiến lược chống ta: “Giữ vững chiến tuyến chống Cộng tại hải ngoại – tấn công mãnh liệt vào Việt cộng tại quốc nội”, bằng những chính sách rất nham hiểm, xảo trá như: Chính sách “ngoại vận”, nhằm mở các đợt hoạt động tuyên truyền sâu, rộng lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền, tự do dân chủ, đàn áp tôn giáo. Thực hiện chính sách đó,  chúng đi vào từng đối tượng để “vận động” và có những mục tiêu cụ thể. Đối với tín đồ, đòi tự do tôn giáo, hành đạo, huỷ bỏ “hệ thống tôn giáo quốc doanh”. Đối với dân, đòi dân chủ, dân sinh. Đối với văn nghệ sĩ, trí thức, đòi tự do ngôn luận, hội họp. Chúng đem cách sử dụng mọi phương tiện truyền thông nhằm “đánh vào trái tim khối óc ộng sản, huy động tận tâm thức sâu thẳm của đồng bào trong nước”, hoặc chính sách “tổ chức, liên kết trong ngoài” để liên kết các hội đoàn phản động ngoài nước, bí mật thành lập tổ chức phản động trong nước và liên kết hai lực lượng đó lại…
Tóm lại, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động dùng nhiều thủ đoạn, trên tất cả các lĩnh vực để chống ta. Chúng hết sức chú ý đẩy mạnh, mở rộng quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ trong nội bộ ta. Đồng thời với việc gây lình huống, tạo cớ để nhân danh các tổ chức quốc tế nhảy vào can thiệp vào công việc nội bộ của ta, kể cả can thiệp bằng quân sự. Chính vì vậy cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ càng trở nên phức tạp, lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và chúng ta nhất định sẽ giành thắng lợi.

Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

Những hình ảnh 'biết nói' trận hải chiến Gạc Ma

(VTC News) - Mỗi di vật, di ảnh, tấm hình... đều là những câu chuyện xúc động về Gạc Ma, nhắc cho những người còn sống về tinh thần quyết tử cho Tổ quốc.




T
Tàu HQ-931 chở những người còn sống sót và thi thể các chiến sĩ sau trận chiến Gạc Ma về Cam Ranh - Ảnh tư liệu

Lá cờ tổ quốc anh hùng Trần Văn Phương đã anh dũng bảo vệ được lưu giữ trong nhà truyền thống của Vùng 4 Hải quân. (Ảnh: Báo Lao động)

Di ảnh của anh hùng liệt sĩ, thuyền trưởng tàu HQ 604 Vũ Phi Trừ - (Ảnh: N.M - Báo Lao động)


Thư của liệt sĩ nhà giàn DK1 Tạ Ngọc Tú gửi về gia đình trước lúc hy sinh - Ảnh: Káp Thành Long

Giấy báo tử của anh Mai Xuân Hải vẫn còn được lưu giữ như một kỷ niệm của một thời bi tráng (Ảnh: Tiền Phong)


Lễ truy điệu các liệt sĩ hy sinh bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa trong sự kiện ngày 14.3.1988 - Ảnh tư liệu

Những bức thư ông Trần Thiện Phụng gửi từ trại giam Trung Quốc về cho gia đình. Sau ngàn ngày bị giam lỏng, đến ngày 2.9.1991, ông Trần Thiện Phụng, Dương Văn Dũng, Trương Văn Hiền và đồng đội mới được bước chân về đất Việt. (Ảnh: Thanh niên)


Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ (giữa hàng đầu) - thuyền trưởng của một trong ba tàu trong cuộc chiến đấu ác liệt ở Trường Sa ngày 14-3-1988. (Ảnh: Vietnamnet)


9 người lính Trường Sa (mặc áo hải quân) bị quân Trung Quốc thả về sau 3 năm giam giữ (ảnh chụp ở trại an dưỡng Quảng Ninh năm 1992) - Ảnh: Thanh niên do anh Trần Thiện Phụng cung cấp.


Sau trận hải chiến Gạc Ma 1988, nhân dân cả nước ủng hộ vật chất xây dựng nhiều đảo kiên cố tại quần đảo Trường Sa, trong ảnh là Nhà cấp 1 tại đảo Đá Nam - Ảnh tư liệu
Bài báo về trận chiến Gạc Ma của tác giả Linh Trần 25 năm trước. (Ảnh: Linh Trần đăng trên báo Lao động)

Đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 16.3.1988 - (Ảnh Thanh niên chụp lại)

Những vòng hoa tưởng nhớ đồng đội hy sinh trong trận hải chiến Gạc Ma. (Ảnh:cand.com.vn)
__________________
NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ
 
 
Bin571 is offline   Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này

Chân dung Cụ Hồ qua mắt của một học giả Mỹ

Bà Josephine Stenson là giáo sư tiến sĩ sử học của trường đại học Florida Atlantic ở tiểu bang Florida, Hoa Kỳ. Đây là bài phát biểu của bà tại Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội tháng 5 năm 1990. Bài tham luận tiếng Anh, nhan đề "Hồ Chí Minh, một nhân cách lớn của thời đại" đã được ghi lại và sau đó do Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản. Đây là một bài tham luận rất hay, có nhiều điểm mới mẻ, đặc biệt, cho thấy một cái nhìn khác, một quan điểm mới mẻ thông thóang và đôi chút tế nhị, táo bạo, nhạy cảm về chuyện đời tư, phụ nữ, tình yêu của Bác Hồ, với một góc nhìn từ người ngòai, một phụ nữ, một trí thức Hoa Kỳ.
alt



Xin cho phép tôi được mặc chiếc áo dài của người mẹ Việt Nam, người mẹ đã sinh ra những anh hùng của nhiều thời đại chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc thân yêu của mình. Và thời nay, có một người mẹ đã sinh ra thiên tài Hồ Chí Minh. Bà cũng đã mặc tà áo này.

Hôm nay tôi mặc tà áo này không phải để chưng món quà sang trọng của bạn bè Việt Nam tặng cho tôi. Đây là sự ngưỡng mộ một sắc phục dân tộc mà chưa có một sắc phục phụ nữ nào lại đẹp, có văn hoá, bề dày truyền thống và thanh lịch như chiếc áo dài Việt Nam.

Từ Hoa Kỳ, tôi sang Thái Lan và vào Thành phố Hồ Chí Minh, thấy ngỡ ngàng khi nhìn thấy nữ sinh các trường đều mặc áo dài - những chiếc áo dài tuyệt đẹp. Tôi như bị thôi miên cứ đứng nhìn ngây ngất những tà áo dài mềm mại trên thân hình rất đẹp của các nữ sinh.

Trong khi đó, một cảm giác buồn tương phản đột nhiên xâm chiếm trong tôi một cách bất ngờ khi tôi nhìn thấy nhiều chị em khác cũng tại thành phố này mặc những bộ đồ mà những người phụ nữ Mỹ chúng tôi đã bỏ từ thập kỷ 60 sang thập kỷ 70. Khi ra Hà Nội tôi hiểu được bề dày về nền văn minh Sông Hồng, nhưng không giống như Thành phố Hồ Chí Minh, phụ nữ ít mặc áo dài, phần lớn họ mặc quần áo giống như phụ nữ Bangkok và Philippines.

Hồ Chí Minh là người mà tôi dành nhiều thời gian nhất trong đời nghiên cứu lịch sử của tôi để tìm hiểu cho được đích thực tính cách của ông. Tôi thuộc thế hệ tuổi con cháu Bác Hồ Chí Minh. Cho phép tôi được ca ngợi lời ca muộn màng của người hậu thế. Không phải tôi ca ngợi Hồ Chí Minh vì Việt Nam đã chiến thắng quốc gia hùng mạnh nhất hành tinh. Tôi ca ngợi Hồ Chí Minh trong tình hình Việt Nam giảm sút uy tín quốc tế. Trên thế giới người ta gọi Việt Nam là vương quốc “chuột nhắt” vì tệ trộm cắp thì không nước nào sánh bằng.

Tôi đã tự bỏ tiền túi ra để đi từ Mỹ sang Pháp và Liên Xô cũ: Những nơi mà Hồ Chí Minh đã đặt chân tới đó, để tìm những di tích gốc về Hồ Chí Minh. Tôi đã ở Liên Xô một thời gian tương đối lâu để nghiên cứu về ông. Khi về Mỹ, tôi lại đi từ New York đến các đảo lửa vùng Đông Bắc châu Mỹ, nơi cụ Hồ đã đi tàu xuyên đại dương đến đó. Tôi quyết tâm đi tìm cho được lai lịch văn hóa Hồ Chí Minh, mặc dù ngày đó người ta đã thừa nhận cụ là danh nhân văn hoá của thế kỷ.

Rất tiếc, lâu nay Việt Nam chỉ cung cấp cho chúng tôi lai lịch chính trị của Hồ Chí Minh, ngoài ra không cung cấp những tư liệu gì đối với những vấn đề khác. Và tôi cũng hết sức ngạc nhiên và khó hiểu không biết tại sao Việt Nam cứ tuyên truyền rằng cụ Hồ sinh ra trong một gia đình nghèo khổ? Đã nghèo thì làm sao có điều kiện ăn học và làm quan như cụ thân sinh ra ông và trình độ học vấn như ông.

Ngoài ra Việt Nam còn tuyên truyền rằng ông Hồ làm phu khuân vác ở Bến Nhà Rồng, bồi bàn dưới tàu Pháp, bồi bếp ở khách sạn Luân Đôn và làm thợ nhiếp ảnh... chỉ toàn là những lao động cơ bắp, không thấy trí tuệ Hồ Chí Minh ở chỗ nào cả! Có lẽ những nhà lãnh đạo Việt Nam lo ngại khi nói đến trí tuệ của ông Hồ Chí Minh thì ảnh hưởng đến đường lối giai cấp của Đảng Cộng sản chăng, vì sợ quần chúng hiểu rằng Bác Hồ là thành phần thuộc tầng lớp trên chứ thực chất không phải là bần cố nông và thợ thuyền, giai cấp lãnh đạo cách mạng?

Xin lưu ý, bất cứ một quốc gia nào coi rẻ và khinh miệt trí thức thì nhất định sẽ thất bại, lịch sử đã từng chứng minh thực tế đó.

Qua nghiên cứu tôi thấy rằng:

- Bác Hồ chọn việc bồi bàn trên tàu là để có điều kiện đi đến được nhiều quốc gia.

- Bác Hồ chọn việc làm ở khách sạn là nơi có điều kiện tiếp xúc được với nhiều chính khách.

Thế nhưng người ta hiểu sai rằng Bác Hồ làm đủ mọi nghề chỉ là để kiếm sống, không đúng!

Tôi đã đến London tìm hiểu và thấy Nguyễn Ái Quốc kết thân với một số nhà đại văn hào, các nghệ sĩ danh tiếng như Romans, Darwin, vua hề Charlie (Sạc-lô)...

Người ta đồn rằng cụ Hồ biết 28 thứ tiếng, nhưng theo kết quả tìm hiểu của tôi thì cụ biết khá sành sỏi 12 thứ tiếng.

Tôi xin dâng tặng những lời ca đẹp nhất về Hồ Chí Minh, sau khi tôi đã đi đến những nơi có dấu chân ông đi qua, gặp lại những người đã biết về ông và đi đến kết luận rằng Hồ Chí Minh lúc còn trẻ là một thanh niên ... rất đẹp trai, cho nên hiện giờ tôi vẫn cứ mơ ước về ông. Nếu tôi cùng thời với ông thì dứt khoát phải trở thành người yêu của ông. Ông không chấp nhận, tôi cũng đeo đuổi đến cùng... Tôi ngưỡng mộ ông bằng cả đầu óc khoa học của tôi, đồng thời bằng cả trái tim của một người con gái hậu thế.

Khi tôi đã yêu ông và tôn kính ông ở góc độ khoa học thì tôi nghĩ ngay đến tượng Nữ thần Tự Do ở quê hương tôi. Tôi là nhà sử học, tôi đã lật ra xem những trang ghi cảm tưởng của mọi chính khách khi họ đến tham quan và chiêm ngưỡng tượng thần Tự Do và ca ngợi thần Tự Do.

Nguyễn Tất Thành khi đến New York và cũng đã đến chiêm ngưỡng tượng thần Tự Do như mọi chính khách sau khi đến tham quan thần Tự Do đều ghi cảm tưởng bằng những lời ca ngợi Ngôi sao tỏa sáng trên vòng Nguyệt quế là ánh sáng tự do... Duy chỉ có Nguyễn Tất Thành đến xem thần Tự Do, nhưng chỉ nhìn dưới chân tượng và ghi: “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp; số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?

Duy nhất chỉ có Nguyễn Tất Thành nhìn xuống chân tượng thần Tự Do và ghi lại những ý kiến trên. Nguyễn Tất Thành nhìn số phận con người, không chiêm ngưỡng hào quang tỏa sáng từ bức tượng thần Tự Do. Chính vì thế mà hôm nay tôi đến đây tìm đến con người này - Hồ Chí Minh - để xem giữa lời nói và việc làm của ông có tương phản không?

Hồ Chí Minh quả thật là con người nói và làm đi đôi. Tôi đã vào nhà của ông. Lục tìm của riêng của ông. Ông không có của riêng. Thật rất lạ và hiếm thấy, chính khách nào khi cầm quyền đều ban hành sắc lệnh tôn trọng và bình đẳng cho phụ nữ nhưng khi sắc lệnh ký xong thì bản thân họ lại vào nhà thổ, cho phép phát triển kỹ nghệ “đàn bà”. Thậm chí một vị Tổng thống có đến 3 - 4 tình nhân. Duy nhất chỉ có Nguyễn Tất Thành đứng trước Tượng thần Tự Do ghi những điều trên khi mình còn lầm than, rồi khi mình làm Chủ tịch một nước và khi qua đời, trên giường ông vẫn vắng hơi ấm của đàn bà. Con người khi làm Chủ tịch nước 24 năm đến lúc qua đời trên giường không có hơi ấm của đàn bà.

Hồ Chí Minh là một người cộng sản vĩ đại, là một siêu nhân, ông càng vĩ đại hơn ở chỗ ông là một con người bình thường sống hòa lẫn vào trong cuộc sống của xã hội chứ không phải siêu phàm.

Tôi đọc nhiều tư liệu về ông và biết ông được nhiều phụ nữ yêu thương. Bà Lared theo đuổi Nguyễn Ái Quốc nhiều năm. Trong những đêm đi họp chi bộ về hai người đi bên nhau trên bờ sông Seine, bà tỏ tình mà Nguyễn Ái Quốc không mềm lòng. Khi bà qua đời, để lại cuốn nhật ký, tôi được đọc quyển nhật ký đó và hiện giờ con gái bà đang giữ. Con bà cũng nói với tôi: “Mẹ tôi yêu Nguyễn Ái Quốc”. Đấy, tôi phải đi tìm cho được những bằng chứng như vậy mới đủ cơ sở khẳng định nhân cách một con người của thời đại. Đúng, Hồ Chí Minh là nhân cách của thời đại.

Tôi cũng đến khách sạn Boston, ở Đông Bắc nước Mỹ, nơi Nguyễn Tất Thành ở đó làm thợ nặn bánh mì gần một năm trời và sau này chính các nhà đại văn hào châu Âu qua Mỹ đều ở Khách sạn này. Nguyễn Tất Thành đã ghi lại tên tất cả những chính khách đến ở trong khách sạn Boston.

Tại đây có một cô gái quốc tịch Mỹ gốc Pháp tên Côlét đã yêu say đắm Nguyễn Tất Thành. Nguyễn Tất Thành rất thích nghe hát và xem kịch, nhất là kịch cổ điển. Được biết Hồ Chí Minh rất yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ thuật rất phong phú, nhưng Nguyễn Tất Thành rời nước ra đi không phải để hoạt động chính khách mà ông đi tìm đường cứu dân tộc. Côlét khuyên dụ ông đi với bà và tỏ ý muốn kết hôn với Nguyễn Tất Thành, nhưng ông đã tìm cách an ủi Côlét để từ chối. Sau đó một thời gian, Côlét trở thành một nhà văn lớn có tên tuổi. Nguyễn Tất Thành tâm sự và bà Côlét kể lại: “Nếu tôi muốn có một văn bằng thì tôi đã thi năm 1904 ở trong nước, vì lúc đó tôi có một người con gái quê nhà yêu mà đành bỏ lại trên bến Cảng để ra đi”.

Vừa rồi, tôi có đọc một bài hồi ký đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự của Viện quân sự Hoa Kỳ, do một số sĩ quan Anh - Mỹ trong đội quân của Đồng minh khi sang Đông Dương đóng ở Cao Bằng, “Tôi sống cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh từ những ngày đầu khởi nghĩa”. Họ kể lại, có dịp tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, họ hỏi:

- Không phải tò mò mà trên danh nghĩa là đàn ông với nhau, tại sao Chủ tịch không lấy vợ, không lập gia đình?

Hồ Chí Minh trả lời một cách chân tình và thân mật: Khi còn trẻ phải đi hoạt động cách mạng, khi giành được độc lập thì đã già, nên không dám tính chuyện đó. Trước khi tôi ra đi, tôi có yêu một người con gái, người con gái đó cũng rất yêu tôi. Nhưng phải dừng lại về chuyện yêu đương, sau nhiều năm mất liên lạc, tôi không biết người con gái đó đang ở đâu, còn hay mất.

Tôi đã đi Quảng Châu và tôi biết Nguyễn Ái Quốc còn có một người yêu nữa tên Lý Phương Liên (bí danh) thư ký của Đông Phương bộ thuộc cục Phương Nam là vợ của Lý Thụy (cụ Hồ) ở phố Văn Minh, Quảng Châu, Trung Quốc. Thực tiễn cuộc sống có những việc nhìn thấy tận mắt chưa hẳn là thật. Khi ông Phạm Văn Đồng cùng một số người trong tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội sang dự một khóa học chính trị tại nhà số 13 phố Văn Minh cũng tưởng Lý Phương Liên là "vợ" của Lý Thụy, nhưng sau mới biết thực tế không phải như vậy, đây chỉ là việc ngụy trang để che mắt mật thám.

Tôi không coi vấn đề này quan trọng, tuy vậy thời gian tôi đến Liên Xô, tôi cũng biết có một cô gái Nga yêu ông, yêu tới mức bà ta không lấy được Nguyễn Ái Quốc và suốt đời ở vậy cho đến già rồi chết. Có một nhân chứng người Nga được bà ta tâm sự kể lại với tôi rằng: “Hai người yêu nhau, nhưng không dám lấy. Nguyễn Ái Quốc nói lấy vợ thì phải để lại địa chỉ, phải có con, phải có trách nhiệm làm chồng, làm cha và rồi thế nào mật thám cũng phát hiện ra, cho nên Nguyễn Ái Quốc không lấy vợ và tôi cũng không lấy chồng."

Dân tộc Việt Nam mãi mãi nên tự hào về Hồ Chí Minh, nền văn minh nhân loại của thế kỷ XX này luôn tự hào có một vĩ nhân được cả thế giới, đại diện bởi UNESCO, phong tặng Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hóa kiệt xuất. Hồ Chí Minh mãi mãi là tấm gương sáng về nhân cách một người thời đại cho mọi thế hệ tiếp sau.

Josephine Stenson 
Hà Nội, tháng 5 năm 1990

Thứ Sáu, 14 tháng 6, 2013

Mít tin hưởng ứng Tuần lễ Biển, Hải đảo Việt Nam và Ngày Môi trường Thế giới năm 2013



   
 
(Web Quảng Trị) – Ngày 3/6/2013, tại Quảng trường Giải phóng Thị xã Quảng Trị, UBND tỉnh tổ chức Lễ Mít tin hưởng ứng Tuần lễ Biển, Hải đảo Việt Nam và Ngày Môi trường Thế giới năm 2013. Đến tham dự, có đồng chí Nguyễn Quân Chính, TUV, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cùng đại diện các Sở, Ban, ngành, cơ quan, đơn vị liên quan trên địa bàn toàn tỉnh và sự tham gia hưởng ứng nhiệt liệt của gần 1.500 em học sinh thuộc các trường Tiểu học, THCS, THPT trên địa bàn Thị xã Quảng Trị.
Trong những năm qua cùng với những thành tựu đạt được về kinh tế - xã hội của tỉnh, công tác bảo vệ môi trường đã được các cấp, các ngành quan tâm. Thực hiện chương trình hành động của Tỉnh ủy nhằm triển khai thực hiện cụ thể các nội dung Nghị quyết của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Quảng Trị đã đạt được không ít thành công trong nhiều lĩnh vực, từ hoạt động tuyên truyền đến việc đầu tư các công trình kiểm soát, xử lý môi trường. Nhờ đó, địa phương đã cơ bản giải quyết được các vấn đề bức xúc về môi trường đang tồn tại. Công tác xã hội hóa về môi trường đã và đang được các cấp, các ngành quan tâm. Bảo vệ môi trường đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên của cả hệ thống chính trị.
Cùng với hành động bảo vệ môi trường, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường biển và hải đảo có vai trò hết sức quan trọng đối với cả nước và tỉnh nhà. Với 75km bờ biển, Quảng Trị có ngư trường rộng 8.400 km2, trữ lượng hải sản khoảng 60.000 tấn/ năm. Những năm qua, tình hình kinh tế xã hội của các xã ven biển có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống văn hóa, tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt. Quốc phòng an ninh được giữ vững, kinh tế biển đang từng bước trở thành thế mạnh của tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vấn đề môi trường trên địa bàn tỉnh vẫn đang còn đối mặt với nhiều thách thức gay gắt về bảo vệ biển, đảo; sự suy giảm của các nguồn lợi thủy sản, đa dạng sinh học và các hệ sinh thái biển, ô nhiễm môi trường cục bộ ở một số nơi đang là vấn đề cần phải quan tâm.
Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Nguyễn Quân Chính, TUV, Phó Chủ tịch UBND tỉnh đã nhấn mạnh về tầm quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường phù hợp với hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

 
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Quân Chính phát biểu tại buổi lễ
Vì thế, hưởng ứng chủ đề của Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam, ngày Môi trường thế giới năm 2013, đồng chí đề nghị các cấp ngành, cán bộ, công chức, viên chức cùng toàn thể nhân dân tỉnh nhà hãy tích cực hành động để bảo vệ biển đảo quê hương, hãy nghĩ về môi trường trước khi tiêu thụ thực phẩm, xây dựng nền kinh tế xanh vì sự phát triển bền vững cho tương lai bằng những hành đồng cụ thể như: Tổ chức các hoạt động tuyên truyền về biển và hải đảo, vận động, khuyến khích người dân sử dụng công nghệ, sản phẩm thân thiện với môi trường, tránh lãng phí thực phẩm và sử dụng các nguồn nguyên liệu gây ô nhiễm môi trường; tiếp tục thực hiện phát triển kinh tế tỉnh nhà theo hướng phát triển chiều sâu, giảm sử dụng tài nguyên thiên nhiên, tăng cường các ngành công nghiệp sinh thái và dịch vụ môi trường; đề xuất và triển khai các dự án, chương trình bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên biển và hải đảo… tất cả vì mục đích góp phần đẩy mạnh hơn nữa các nỗ lực chung để phát triển quyền con người, tạo ra môi trường trong lành, một sự phát triển bền vững.

Nhân dịp này, đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành trao tặng 5 thùng đựng rác cho chính quyền Thị xã Quảng Trị góp phần trong công tác giữ gìn vệ sinh môi trường trên địa bàn.
Cuối buổi mít tin là lễ diễu hành bằng xe đạp với những băng rôm, khẩu hiệu kêu gọi bảo vệ môi trường và tài nguyên biển, đảo của các em học sinh và người dân qua các tuyến đường trên địa bàn Thị xã Quảng Trị.

 
Đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường tiến hành trao tặng tượng trưng 5 thùng rác cho chính quyền thị xã Quảng Trị

Theo Nguyễn Tiến Nhất (Quangtri.gov.vn)