Hiển thị các bài đăng có nhãn VŨ KHÍ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn VŨ KHÍ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2013

Những vũ khí Liên Xô bảo vệ biên giới Việt Nam

Cuối thập niên 1970 và trong suốt thập niên 1980, Việt Nam phải gồng mình bảo vệ biên giới ở cả hai đầu tổ quốc.


Ở hoàn cảnh khó khăn này, Liên Xô đã giúp đỡ Việt Nam trên nhiều phương diện, trong đó, không thể không kể tới sự viện trợ vũ khí rất đáng kể cho cả ba lực lượng hải - lục - không quân.
Dưới đây là hình ảnh các loại vũ khíLiên Xô viện trợ cho Việt Nam từ năm 1979:
Xe tăng chủ lực T-55 là biến thể cải tiến của xe tăng T-54 được sản xuất ở Liên Xô từ 1958-1963. Xe có trọng lượng 36 tấn, kíp lái 4 người, trang bị pháo chính D-10T cỡ 100mm, đại liên phòng không DShK 12,7mm và đại liên đồng trục PKT 7,62mm. So với T-54, những thay đổi quan trọng nhất của T-55 là xe có khả năng chống vũ khí hạt nhân, sinh học và hóa học (NBC), cơ số đạn pháo được tăng từ 34 lên 43 viên và đại liên cho lái xe được loại bỏ.
Xe tăng chủ lực T-62 được sản xuất ở Liên Xô từ 1961-1975. Xe có trọng lượng 40 tấn, kíp lái 4 người, trang bị pháo chính U-5TS cỡ 115mm với cơ số đạn 40 viên, đại liên phòng không DShK 12,7mm và đại liên đồng trục PKT 7,62mm. Mặc dù ra đời sau nhưng T-62 không thực sự có nhiều điểm vượt trội so với dòng T-54/55, thay đổi đáng kể nhất ở các phiên bản về sau là pháo nòng trơn 115mm có uy lực lớn hơn và khả năng bắn tên lửa chống tăng có điều khiển (ATGM) qua nòng.
Xe chiến đấu bộ binh BMP-1 được thiết kế từ 1961-1965 và sản xuất ở Liên Xô từ 1966-1982. Xe có khả năng lội nước với trọng lượng 13,2 tấn, kíp lái 3 người và có thể chở theo một tiểu đội bộ binh. Hỏa lực của BMP-1 bao gồm pháo bán tự động 2A28 cỡ 73mm với cơ số đạn 40 viên, bệ phóng tên lửa chống tăng có điều khiển 9M14 Malyutka với cơ số đạn 4 quả và đại liên đồng trục PKT 7,62mm. Trong năm 1979, Liên Xô đã viện trợ 3 đợt với 111 xe BMP-1 trang bị cho sư đoàn bộ binh cơ giới đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam. Trong các năm tiếp theo hàng trăm xe khác tiếp tục được chuyển giao để xây dựng các đơn vị bộ binh cơ giới khác. Trong ảnh là hai xe chiến đấu BMP-1 tham gia duyệt binh trên quảng trường Ba Đình.
Xe chiến đấu bộ binh BMP-2 là thế hệ thứ hai được phát triển trên cơ sở BMP-1 và đưa vào sử dụng từ cuối thập niên 1970. Tương tự BMP-1, BMP-2 có khả năng lội nước với trọng lượng 14,3 tấn, kíp lái 3 người và có thể chở theo một tiểu đội bộ binh. Hỏa lực trên xe gồm pháo tự động 2A42 cỡ 30mm với cơ số đạn 500 viên, bệ phóng tên lửa chống tăng có điều khiển 9K111 Fagot (phiên bản dành cho nước ngoài) và đại liên đồng trục PKT 7,62mm. Việt Nam được viện trợ một số BMP-2 trong thập niên 1980, trang bị cho một số đơn vị bộ binh cơ giới.
Xe bọc thép trinh sát BRDM-2 do Liên Xô thiết kế và sản xuất hàng loạt từ 1962-1989. Xe được bọc thép từ 2-14mm, nặng 7,7 tấn, có khả năng lội nước, biên chế kíp lái 4 người, trang bị vũ khí gồm đại liên KPVT 14,5mm và PKT 7,62mm. Khi sang Việt Nam, BRDM-2 được trang bị cho các đơn vị cảnh vệ hoặc trinh sát của bộ binh cơ giới, pháo binh, phòng hóa… 
Xe bọc thép chở quân BTR-152 được thiết kế từ 1946-1949 và sản xuất ở Liên Xô từ 1950-1962 dựa trên cơ sở khung gầm xe tải ZiS-151 được bọc thép từ 4-15mm. Xe có trọng lượng 9,91 tấn, trang bị đại liên DShK 12,7mm hoặc SGMB 7,62mm, kíp lái 2 người và có thể chở theo 2 tiểu đội bộ binh. Việt Nam được Liên Xô viện trợ số lượng lớn BTR-152 với đợt đầu gồm 100 xe biên chế cho Sư đoàn 308 Quân đoàn 1 đầu năm 1979. Một số được Việt Nam nghiên cứu cải tiến thêm như gắn đại liên phòng không KPV 14,5mm, thay động cơ và hộp số mới, lắp thêm tấm giáp, đèn và kính quan sát để thuận tiện chiến đấu trên nhiều địa hình…
Pháo chống tăng tự hành SU-85 được sản xuất từ 1943 và được Hồng quân Liên Xô sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Vệ quốc. SU-85 thiết kế dựa trên khung gầm cơ sở của xe tăng T-34, trọng lượng chiến đấu 29,6 tấn, kíp lái 4 người và trang bị pháo chính D-5T cỡ 85mm với cơ số đạn 48 viên. Ảnh minh họa.
Pháo chống tăng tự hành SU-100 được sản xuất từ cuối 1944 để thay thế cho vai trò của SU-85. SU-100 cũng dựa trên khung gầm cơ sở của xe tăng T-34, trọng lượng chiến đấu 31,6 tấn, kíp lái 4 người và trang bị pháo chính D-10S cỡ 100mm với cơ số đạn 60 viên. Năm 1979, một số lượng lớn SU-85 và SU-100 được Liên Xô viện trợ cho Việt Nam.
Lựu pháo D30 122mm được đưa vào biên chế quân đội Liên Xô từ năm 1963, thay thế cho lựu pháo M30 122mm trong các đơn vị pháo binh cấp sư và quân đoàn. D30 có trọng lượng chiến đấu 3,2 tấn, tầm bắn hiệu quả 15,4 km, tốc độ bắn 5-6 phát/phút. Điểm nổi bật của D30 là nhờ thiết kế đặt trên 3 càng nên có thể nhanh chóng thay đổi hướng bắn 360 độ. Vào thập niên 1980, Việt Nam tiếp nhận một số pháo D30 trang bị cho nhiều đơn vị pháo binh, bộ binh cơ giới và đã sử dụng trong nhiều trận chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc.
Pháo nòng dài D20 152mm được đưa vào biên chế quân đội Liên Xô từ đầu thập niên 1950. Pháo có trọng lượng chiến đấu , tầm bắn hiệu quả 17,4 km, tốc độ bắn 5-6 phát/phút. Khi sang Việt Nam D20 chủ yếu được trang bị cho các đơn vị pháo binh chiến dịch.

Lựu pháo tự hành 2S1 Gvozdika 122mm là phiên bản cơ giới hóa của pháo lựu D30 122mm đặt trên khung xe cơ sở MT-LB, được đưa vào biên chế quân đội Liên Xô đầu thập niên 1970. 2S1 có trọng lượng chiến đấu 16 tấn và kíp xe 4 người, cơ số đạn khoảng 30-40 viên. Trong thập niên 1980, một số 2S1 được chuyển giao cho Việt Nam, biên chế cho các đơn vị pháo binh thuộc bộ binh cơ giới và mang định danh “SU-122”.
Lựu pháo tự hành 2S3 Akatsiya 152mm là phiên bản cơ giới hóa của pháo D22 152mm đặt trên khung xe cơ sở GM-123/124, được đưa vào biên chế quân đội Liên Xô đầu thập niên 1970. 2S3 có trọng lượng chiến đấu 28 tấn và kíp xe 4 người, cơ số đạn tối đa 46 viên và còn được trang bị đại liên PKT 7,62mm. Cuối thập niên 1980, một số 2S3 được chuyển giao cho Việt Nam, biên chế cho một vài đơn vị pháo binh cơ giới và mang định danh “SU-152”.
Pháo phản lực bắn loạt BM-13 Katyusha được sản xuất từ năm 1939 và là một trong những biểu tượng của Hồng quân Liên Xô trong cuộc chiến chống phát xít Đức. BM-13 được trang bị dàn phóng đặt trên khung xe tải có khả năng mang 16 đạn phản lực cỡ 132mm với tầm bắn 8-12 km. Sau 1979, Việt Nam được viện trợ nhiều hệ thống BM-13, trang bị cho một số đơn vị pháo binh hoặc sư đoàn bộ binh tuyến 1 và đã sử dụng trong nhiều trận chiến đấu trên chiến trường K hoặc biên giới phía bắc. Ảnh minh họa
Pháo phản lực bắn loạt BM-21 Grad được sản xuất và đưa vào biên chế quân đội Liên Xô từ năm 1963. BM-21 được trang bị dàn phóng 40 ống cỡ 122mm đặt trên khung xe Ural-4320 6x6 với tầm bắn 15-20 km tùy loại đạn. Từ sau năm 1979, BM-21 được Liên Xô viện trợ với số lượng lớn cho Việt Nam, trang bị cho các đơn vị pháo binh cấp quân khu, quân đoàn hoặc trực thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh với định danh “H78”.
Hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển 9K11 Malyutka cải tiến sử dụng đạn 9M14P Malyutka-P điều khiển bằng dây dẫn với đầu đạn 2,6 kg và tầm bắn hiệu quả 500-3.000m, xuyên được 200mm thép nghiêng 60 độ. Điểm vượt trội của phiên bản cải tiến này so với phiên bản đời đầu từng được Quân đội nhân dân Việt Nam sử dụng trong kháng chiến chống Mỹ là khả năng chỉ huy bám mục tiêu bán tự động (SACLOS) thay vì thủ công (MCLOS). Hệ thống Malyutka cải tiến được trang bị cho Việt Nam năm 1987 và được mang định danh “B87”.
Hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển 9K111 Fagot được phát triển từ năm 1962 và đưa vào biên chế quân đội Liên Xô năm 1970. Hệ thống Fagot có tầm bắn hiệu quả 70-2.000m, tên lửa được điều khiển bằng dây dẫn và chỉ huy bám bắt mục tiêu bán tự động (SACLOS) và có khả năng xuyên 400mm thép đồng nhất (RHA) hoặc 200mm thép nghiêng 60 độ. Hệ thống Fagot được trang bị cho Việt Nam năm 1989 (gồm cả bản mang vác và gắn trên xe chiến đấu bộ binh BMP-2) và được mang định danh “B89”.


Vũ khí giúp VN 'chắn bão giông, ngăn nắng lửa'

Từ đầu thập niên 80, tình hình biên giới Việt Nam chịu nhiều áp lực. Hoàn cảnh đất nước khi đó khó khăn, đúng như lời bài hát đất nước "sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa".

 

Trong thời gian này, Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam nhiều vũ khí hiện đại, đặc biệt là hệ thống phòng không – không quân. 
Dưới đây là một số hệ thống vũ khí điển hình: 
Máy bay tiêm kích MiG-21bis là thế hệ MiG-21 cuối cùng do Liên Xô thiết kế và đưa vào sử dụng từ năm 1972. So với các phiên bản cũ từng được Việt Nam sử dụng trong kháng chiến chống Mỹ, MiG-21bis được trang bị động cơ có lực đẩy lớn hơn, các hệ thống điện tử, radar… được cải tiến đảm bảo khả năng hoạt động khi thời tiết xấu. Về vũ khí, MiG-21bis mang một pháo 23mm loại GSh-23L với cơ số đạn 200 viên, 4 giá treo có thể mang tối đa 2 tấn vũ khí gồm tên lửa không đối không R-3S/R-3M/R-3R/R-60, rocket và bom... Giữa năm 1979, những chiếc MiG-21bis đầu tiên do Liên Xô viện trợ được trang bị cho Trung đoàn không quân 921 và dần dần trở thành tiêm kích đánh chặn chủ lực của Không quân nhân dân Việt Nam suốt hơn 30 năm.
Máy bay tiêm kích bom Su-22 là phiên bản xuất khẩu của Su-17 trong biên chế Không quân Liên Xô, được sản xuất từ 1969-1990. Su-22 được trang bị động cơ turbojet AL-21F3, vũ khí gồm 2 khẩu pháo 30mm loại NR-30 với cơ số đạn 80 viên/khẩu, 2 giá phóng tên lửa và 10 điểm treo cứng trên cánh và thân có thể mang tối đa 4,2 tấn vũ khí gồm tên lửa không đối không R-60, tên lửa không đối đất Kh-23/Kh-25ML/Kh-29T, tên lửa chống radar Kh-28, rocket và bom các loại... Giữa năm 1979, những chiếc Su-22 đầu tiên do Liên Xô chuyển giao được trang bị cho Trung đoàn không quân 923. Su-22 đóng vai trò chủ yếu trong nhiệm vụ tác chiến đối đất và đối biển của Không quân nhân dân Việt Nam trong một thời gian dài và là loại máy bay chiến đấu đầu tiên thực hiện tuần tiễu trên quần đảo Trường Sa. Ở Việt Nam, các phiên bản Su-22 được biết đến với định danh C-52 (Su-22M3) và C-54 (Su-22M4).
Trực thăng vũ trang Mi-24A là phiên bản được sản xuất hàng loạt giai đoạn đầu từ cuối thập niên 1960 với đặc điểm dễ nhận diện là mũi và buồng lái vuông với tổ bay 2 người phi công và xạ thủ hỏa lực ngồi song song. Mi-24A có tầm hoạt động 450 km, trần bay 4,5 km. Hệ thống vũ khí gồm đại liên Yak-B 12,7mm ở mũi, 6 giá vũ khí ở 2 cánh mang được 4 tên lửa chống tăng có điều khiển 9M17M Skorpion-M, 4 thùng rocket 57mm UB-32 và còn có thể chở theo một tiểu đội bộ binh. Tháng 1/1980, phi đội trực thăng vũ trang Mi-24A đầu tiên được thành lập ở Trung đoàn không quân 916. Từ tháng 11/1984, Mi-24A tham gia nhiều trận chiến đấu hiệu suất cao trên chiến trường K, hỗ trợ đắc lực cho bộ binh truy quét tàn quân Khmer Đỏ.

Trực thăng chống ngầm Ka-25 được sản xuất hàng loạt và đi vào biên chế Hải quân Liên Xô từ giữa thập niên 1960. Ka-25 có tầm hoạt động 400 km, trần bay 3,3 km, tổ lái 4 người, được trang bị radar, sonar cùng nhiều khí tài định vị và dò tìm, mang được 1,9 tấn bom hoặc ngư lôi chống ngầm. Tháng 3/1979, những chiếc Ka-25 đầu tiên được chuyển giao cho Việt Nam, biên chế thuộc Trung đoàn không quân 916.

Trực thăng chống ngầm Ka-28 là phiên bản xuất khẩu của trực thăng Ka-27 do Liên Xô phát triển từ năm 1973 để thay thế cho Ka-25. Ka-28 có tầm hoạt động khoảng 980 km, trần bay 5 km, tổ lái 1-3 người, được trang bị khí tài định vị, dò tìm, mang được 4 tấn vũ khí gồm bom hoặc ngư lôi chống ngầm. Việt Nam tiếp nhận Ka-28 trong thập niên 1980 và biên chế cho Trung đoàn không quân hải quân 954.
Thủy phi cơ Be-12 được sản xuất hàng loạt và đi vào biên chế Hải quân Liên Xô từ đầu thập niên 1960. Be-12 có tầm hoạt động 3.300 km, trần bay 8 km, tổ lái 4 người, được trang bị radar, sonar cùng nhiều hệ thống định vị và dò tìm, mang được 1,5 tấn bom hoặc ngư lôi chống ngầm. Tháng 4/1982, phi đội Be-12 đầu tiên được trang bị cho Việt Nam, biên chế thuộc Trung đoàn không quân 933. Trong ảnh là thủy phi cơ Be-12 của Ukraine.
Máy bay vận tải An-26 được sản xuất hàng loạt và trang bị cho quân đội Liên Xô từ đầu thập niên 1970. An-26 có tầm bay tối đa 2.500 km, trần bay 7,5 km, tổ lái 5 người và có khả năng mang khoảng 9 tấn hàng. Cuối năm 1980, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam 2 máy bay AN-26 đầu tiên làm nhiệm vụ chuyển tiếp chỉ huy trên không và từ đầu 1981, hàng chục chiếc khác được chuyển giao, trang bị cho Trung đoàn không quân 918. An-26 đã được Không quân nhân dân Việt Nam sử dụng tích cực vào các nhiệm vụ vận tải phục vụ các chiến trường. Đặc biệt từ tháng 3/1984, các tổ bay An-26 đã trực tiếp tham gia nhiều trận ném bom, hỗ trợ bộ binh truy quét tàn quân Khmer Đỏ trên chiến trường K.
Hệ thống tên lửa phòng không vác vai tầm thấp 9K38 Igla-1M là phiên bản xuất khẩu của hệ thống 9K18 Igla được trang bị cho quân đội Liên Xô năm 1983. Igla-1M sử dụng đạn tên lửa tầm nhiệt 9M39 có tầm xa 5,2 km và tầm cao 3,5 km. Hệ thống Igla-1M được trang bị cho Việt Nam năm 1987 với định danh “A87”.
Hệ thống tên lửa phòng không cơ động tầm thấp 9K31 Strela-1 được đưa vào biên chế quân đội Liên Xô từ năm 1968. Strela-1 được trang bị 4 ống phóng đặt trên xe thiết giáp trinh sát BRDM-2 với 4 đạn tên lửa tầm nhiệt 9M31/9M31M có tầm xa 4,2 km và tầm cao 3,5 km.
Hệ thống tên lửa phòng không cơ động tầm thấp 9K35 Strela-10 được đưa vào biên chế quân đội Liên Xô từ năm 1969 để thay thế cho hệ thống Strela-1. Strela-10 sử dụng hệ thống dẫn bắn quang học/hồng ngoại và được trang bị 4 ống phóng đặt trên xe lội nước MT-LB với 4 đạn 9M37 có tầm xa 5 km và tầm cao 3,5 km. Hệ thống Strela-10 được trang bị cho Việt Nam năm 1989 với định danh “A89”.
Hệ thống tên lửa phòng không cơ động tầm trung 2K12 Kub được phát triển từ 1958 và đưa vào trang bị cho quân đội Liên Xô từ năm 1976. Hệ thống Kub được trang bị radar 1S91 có khả năng bắn mục tiêu và điều khiển tên lửa ở cự ly 28 km, dàn phóng được đặt trên khung xe GM-578 mang 3 đạn tên lửa 3M9 với đầu đạn 59 kg, tầm xa 24 km và tầm cao 14 km.

Đông Ngạc
Theo Infonet

Hải quân đánh bộ Việt Nam 'lột xác' với vũ khí mới

Là lực lượng tinh nhuệ thuộc quân chủng hải quân, Hải quân đánh bộ Việt Nam gần đây thực sự chuyển mình với các loại vũ khí, thiết bị mới và hiện đại.

 
 Hải quân đánh bộ trực thuộc quân chủng hải quân được thành lập từ giữa những năm 1970 với nhiệm vụ đóng quân bảo vệ các đảo; hoặc tấn công, đổ bộ bằng đường biển lên đất liền hoặc đảo đánh chiếm lại. Hiện biên chế lực lượng này gồm 2 lữ đoàn mang phiên hiệu 126 và 147.
 
 Hải quân đánh bộ Việt Nam được biên chế một số phương tiện cơ giới và pháo. Các loại xe cơ giới của hải quân đánh bộ gồm: xe tăng hạng nhẹ PT-76 và xe bọc thép chở quân lội nước BTR-60.
 
 Trong đổ bộ, xe tăng lội nước PT-76 sẽ làm nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực cho lính hải quân đánh bộ đánh chiếm bờ biển, đảo.
 
 BTR-60 có khả năng chở 16 lính cùng đầy đủ trang bị, tất nhiên xe cũng có khả năng bơi (trên mặt nước) tốt. Trong tương lai gần, BTR-60PB và PT-76 vẫn là những phương tiên cơ giới chủ lực của Hải quân đánh bộ Việt Nam.
 
 Về trang bị và vũ khí cá nhân người lính, quân đội ta đang bước đầu hiện đại hóa. Một số đơn vị trong các lữ đoàn đã được cấp quân phục dã chiến cùng nhiều loại vũ khí hiện đại xuất xứ từ Israel.
 
 Ngoài mẫu chuẩn TAR-21, Hải quân đánh bộ còn có biến thể CTAR-21 với nòng ngắn hơn (ảnh), chuyên dùng cho lực lượng đặc biệt.
 
 Trên thao trường.
 
  Luyện tập cùng với trang bị vũ khí hiện đại.
 
 Làm chủ trang thiết bị, vũ khí hiện đại.
 
 Súng máy Israel được trang bị cho lực lượng Hải quân đánh bộ.
 
 Súng bắn tỉa hạng nặng tầm xa trang bị cho Hải quân đánh bộ.
 
 Trước giờ ra thao trường luyện tập.
 
 Hỏa lực hạng nặng Matador với sức công phá lớn.
Theo Tiền Phong