Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2015

Chiến thắng ở Xuân Lộc, rung chuyển Sài Gòn


"Chiến thắng Xuân Lộc (từ 9 - 21/4/1975) làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch xung quanh Sài Gòn, làm cho tinh thần quân địch càng thêm suy sụp. Tin chiến thắng đã làm nức lòng nhân dân cả nước" (Đại tướng Võ Nguyên Giáp).

Mở toang “cánh cửa thép”

Xuân Lộc là một thị xã của tỉnh Long Khánh (thị xã Long Khánh, Đồng Nai hiện nay), rộng khoảng 2,5 km. Đây là địa bàn án ngữ những trục giao thông quan trọng như: Quốc lộ số 1, quốc lộ 20, quốc lộ 15, rất thuận lợi cho quân ta cơ động lực lượng tiến thẳng vào nội đô Sài Gòn. Xuân Lộc - Long Khánh có tầm quan trọng về địa lý, quân sự, nhằm bảo vệ Sài Gòn từ hướng đông. 


Tiếp quản Tiểu khu Long Khánh.

Để biến Xuân Lộc thành “cánh cửa thép”, địch đã tập trung ở đây một sư đoàn bộ binh, một liên đoàn biệt động quân, một thiết đoàn xe tăng - thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo binh và lực lượng được tổng trù sẵn sàng ứng trợ đặc biệt. 

Chính Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ Đại tướng Frederick C. Weyand, đã trực tiếp lên Xuân Lộc thị sát và nhấn mạnh: "Phải giữ cho được Xuân Lộc, mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn".

Đánh giá đúng tầm quan trọng của cửa ngõ Xuân Lộc, ngày 2/4/1975, quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Miền đã quyết địch mở cuộc tiến công giải phóng Xuân Lộc, nhằm tiêu diệt sư đoàn 18 ở vòng ngoài, phá âm mưu phòng ngự từ xa, phá thế phòng ngự củng cố Sài Gòn của địch, chia cắt giao thông, cô lập Sài Gòn. Nhiệm vụ tiến công Xuân Lộc được giao cho Quân đoàn 4. Đồng chí Hoàng Cầm được giao trọng trách làm Tư lệnh chiến dịch.

5 giờ 40 phút ngày 9/4, Quân đoàn 4 nổ súng tấn công Xuân Lộc. Các trận địa pháo của Quân đoàn, sư đoàn lần lượt nhả đạn. Một giờ sau, bộ binh bắt đầu xung phong. Trong ngày chiến đấu đầu tiên, quân ta đã chiếm được một phần hai thị xã, toàn bộ khu hành chính tiểu khu. 

Những ngày sau đó, chiến sự ở Xuân Lộc - Long Khánh diễn ra ngày càng thêm ác liệt và đã gây tổn thất lớn cho cả ta và địch. Quyết “tử thủ” Xuân Lộc, ngày 12/4, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn quyết định tăng cường lực lượng, vũ khí và phương tiện chiến tranh cho Xuân Lộc. 

Chỉ sau thời gian ngắn, lực lượng địch ở Xuân Lộc - Long Khánh đã gia tăng đột biến: Chiếm 50% bộ binh, 60% pháo binh, hầu hết số lượng xe tăng thiết giáp của Quân đoàn 3 và lực lượng tổng dự bị chiến lược của quân đội Sài Gòn.

Trước tình hình khó khăn, ta đã nghiên cứu diễn biến trận đánh, quyết định tổ chức lại lực lượng, thay đổi cách đánh từ tiến công trực tiếp chuyển sang thế trận bao vây, cô lập nhằm làm suy yếu lực lượng địch trong thị xã; tiêu diệt các lực lượng tiếp viện của địch mới được điều đến còn đứng chân chưa vững ở vòng ngoài. 

Ta tổ chức đánh chiếm ngã ba Dầu Giây, Núi Thị, cắt quốc lộ 1 và chặn đánh quân tiếp viện từ Biên Hòa, Trảng Bom, cắt rời Xuân Lộc ra khỏi Biên Hòa. Rạng sáng 15/4, quân ta bắt đầu bắn phá sân bay Biên Hòa. Ở khu vực Xuân Lộc, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 liên tục quần nhau với địch, đánh tan hai chiến đoàn còn lại (43 và 48) của Sư đoàn 18 và diệt một bộ phận quân dù. 

Thấy không thể bảo vệ được Xuân Lộc, ngày 20/4, địch rút chạy, bị quân ta truy kích tiêu diệt. Ngày 21/4, thị xã Xuân Lộc và toàn bộ tỉnh Long Khánh được giải phóng. Kết thúc chiến dịch Xuân Lộc, quân ta đã đánh thiệt hại nặng sư đoàn 18, lữ đoàn dù 1, tiêu diệt chiến đoàn 52 (sư đoàn 18), đánh thiệt hại trung đoàn 5 và lữ đoàn 3 thiết giáp, diệt và bắt hàng nghìn tên địch, thu hàng chục ô tô và hàng nghìn súng các loại, phá hủy 42 xe tăng, xe thiết giáp.

Tạo thời cơ lịch sử, giải phóng Sài Gòn

Việc chọn địa bàn và thời điểm mở chiến dịch tiến công Xuân Lộc - Long Khánh là hoàn toàn đúng đắn, cần thiết và rất kịp thời trong thời điểm lịch sử chuyển biến hết sức mau lẹ của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. 

Chiến dịch tiến công thắng lợi đã đập tan “cánh cửa thép” án ngữ cửa ngõ phía đông Sài Gòn, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch quanh Sài Gòn, làm suy sụp nhanh thêm tinh thần chiến đấu của quân ngụy còn lại trên toàn miền Nam. 

Xuân Lộc - Long Khánh được giải phóng, kế hoạch quân sự của Mỹ - ngụy bị đảo lộn, theo đó âm mưu chính trị cũng tan vỡ theo. Thắng lợi của chiến dịch đã tạo ra một địa bàn tập kết thuận lợi, làm bàn đạp xuất phát tiến công của Cánh quân hướng Đông - một trong 5 mũi chủ lực cơ động của đội hình chiến dịch mang tên Bác Hồ kính yêu tiến vào giải phóng Sài Gòn - Gia Định.

Sau khi “cánh cửa thép” Xuân Lộc tan rã, một loạt sự kiện liên quan đã liên tiếp diễn ra. Ngay tối ngày Xuân Lộc được giải phóng, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức và hai ngày sau đó thì trốn chạy khỏi Sài Gòn. Bên kia bờ đại dương, ngày 23/4/1975, Tổng thống Mỹ Gerald Ford tuyên bố “Cuộc chiến tại Việt Nam đã chấm dứt đối với người Mỹ”. 

Mặt trận hướng Đông được khai thông, các cánh quân rầm rập tiến về Sài Gòn với khí thế không gì lay chuyển nổi. “Cánh cửa thép” Xuân Lộc bị phá đã mở toang cánh cửa cho đại quân ta mở Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tiến vào giải phóng Sài Gòn, xông thẳng vào sào huyệt cuối cùng của chế độ Mỹ - ngụy, góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước oanh liệt của dân tộc Việt Nam.

Từ Chiến thắng Xuân Lộc đã rút ra nhiều bài học giá trị. Đó là cách quán triệt ý đồ chiến lược của Trung ương Đảng, hạ quyết tâm kịp thời, chính xác; biết tổ chức và sử dụng lực lượng tại chỗ, phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân; trong chỉ đạo, chỉ huy kịp thời, nhạy bén, linh hoạt; phát huy thế tiến công chiến lược, chớp thời cơ giành thắng lợi. 

Chiến thắng Xuân Lộc là một trong những điểm nhấn của mùa Xuân toàn thắng 1975. Bài học rút ra từ cuộc chiến năm xưa vẫn nguyên giá trị để nghiên cứu, vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.


Trần Tiến Duẩn

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử

Những ngày đầu chiến dịch
Thời cơ nối tiếp thời cơ, chiến dịch mở ra chiến dịch, hội nghị Bộ chính trị ngày 31/3/1975 xác định "Từ giờ phút này trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân dân ta đã bắt đầu". Các nghị sĩ Mỹ theo dõi tình hình miền Nam quả quyết, đã quá muộn để làm bất cứ việc gì nhằm lật ngược tình thế ở Việt Nam.

Ngày 1/4/1975 chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu được chuẩn bị theo tư tưởng chỉ đạo "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng" với tốc độ "một ngày bằng 20 năm". Ngày 14/4/1975 Bộ chính trị phê chuẩn đề nghị của bộ chỉ huy chiến dịch đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là "Chiến dịch Hồ Chí Minh", phương án chiến dịch được thông qua lần cuối.

 Như một bức tranh hoành tráng, xe pháo và tàu thuyền đủ loại, bộ đội và dân nhân du kích, dân công và Thanh niên xung phong, những ngả đường tấp nập..., cả dân tộc từ Bắc chí Nam đang hành quân, hậu phương đang dốc toàn lực ra tiền tuyến, nửa miền Nam vừa được giải phóng cũng góp sức vào chuẩn bị giải phóng nửa còn lại.

 Đầu tháng 4/1975 Trung ương cục miền Nam ra chỉ thị cho quân dân Nam bộ và Nam Trung bộ (B2) hãy "táo bạo đánh các điểm theo chốt... khi có thời cơ". Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn quyết định mở chiến dịch chia cắt địch trong toàn B2 để bao vây cô lập dịch ở Sài Gòn. Điện của Bộ chính trị và Quân ủy trung ương nhắc nhở cần chuẩn bị thêm trước khi làm ăn lớn. Chỉ thị của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn căn dặn phải biết tập trung lực lượng đầy đủ vào các trận then chốt.

Ngày 8/4/1975, ta cho ném bom Dinh Độc Lập¹. Ngày 9/4/1975 ta tiến đánh địch ở Xuân Lộc. Ngày 16/4/1975 ta đập tan phòng tuyến phòng thủ từ xa của địch ở Phan Rang. Ngày 17/4/1975 Phnôm-pênh giải phóng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Campuchia đã kết thúc thắng lợi. Trong khi đó ở Lào chính phủ liên hiệp đóng cửa sứ quán ngụy Sài Gòn và ngụy Phnôm-pênh, sau đó vua Lào ra lệnh giải tán quốc hội, cuộc đấu tranh của quân và dân Lào bước hẳn sang thời kỳ chính trị hiệp thương để giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 18/4/1975 tổng thống Mỹ. G.Ford ra lệnh di tản người Mỹ² khỏi Việt Nam. Ngày 20/4/1975 Mỹ buộc Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ngày 23/4/1975 Mỹ tuyên bố chiến tranh kết thúc, không thể giúp chính phủ Nam Việt Nam. Ngày 24/4/1975 Mỹ - Hương đề nghị xin ngưng bắn... Diễn biến dồn dập ấy diễn ra cùng lúc với 5 cách quân gồm 270.000 bộ đội chủ lực và 180.000 người khác phục vụ chiến dịch đang từng bước chiếm lĩnh các vị trí xuất phát tiến công vào Sài Gòn.

17 giờ ngày 26/4/1975 cuộc tổng kích đáng chiếm Sài Gòn bắt đầu, các mục tiêu tấn công ngập chìm trong bão lửa. Mỹ vội vàng mở chiến dịch "người liều mạng" để di tản. Các tướng tá quân đội Sài Gòn từ các sư đoàn bị đánh tơi tả, kẻ bị bắt, kẻ đầu hàng, kẻ tự sát, kẻ cởi quân phục lẩn trốn vào đám tàn quân. Tổng thống ngụy muốn xin "bàn giao chính quyền", các đại diện Mỹ, Pháp tìm kế hoãn binh... Nhưng tất cả đã không thể ngăn cản được sức tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng trong "trận đánh cuối cùng" để kết thúc chiến tranh 30 năm.


  Diễn biến chiến dịch Hồ Chí Minh tại Sài Gòn

 Tại Sài Gòn, sáng ngày 30 tháng 4, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (tướng Vĩnh Lộc tổng tham mưu trưởng đã bỏ chạy) và Nguyễn Hữu Có, lên gặp Dương Văn Minh báo cáo tình hình quân sự, đã thúc đẩy Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu (thủ tướng) đi đến quyết định đơn phương ngừng bắn, chờ "bàn giao trong vòng trật tự". Dương Văn Minh họp bộ hạ và đưa ra ý kiến "tuyên bố thành phố bỏ ngỏ". Sau khi bàn luận, Vũ Văn Mẫu viết bản tuyên bố kêu gọi đơn phương ngưng bắn và bàn giao chính quyền cho cách mạng. Bản tuyên bố được phát trên đài phát thanh Sài Gòn lú 9 giờ 30 phút.

 Trên tất cả các hướng vào Sài Gòn, quân ta tiếp tục tiến công theo mệnh lệnh của Bộ Chính trị "tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống đối của chúng".

Địch dùng pháo từ phía Đông xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa bắn ra cắt đội hình lữ đoàn xe tăng 20. Một phân đội của lữ đoàn rẽ vào đánh diệt chúng ở liên trường Thủ Đức (ở Cây Mai). Tại đây chiếc xe 707 đã phải chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và người cuối cùng. 9 giờ 30 phút đoàn xe tăng tiến thuận lợi qua cầu Rạch Chiếc do Z23, lữ đoàn 316 đặc công biệt động đang chiến giữ. Phía trước là cầu Sài Gòn, ở đây tiểu đoàn 4 Thủ Đức đã chiến đấu quyết liệt, giằng co với địch từ đêm 29 rạng 30 tháng 4, đến 7 giờ sáng ngày 30 tháng 4 mới chiếm lại được đầu cầu phía Đông. Đoàn xe tăng lữ đoàm 203 đến đầu cầu Sài Gòn, 2 xe dẫn đầu đội hình tăng tốc vượt qua được nửa cầu thì bị xe tăng địch ở phía Tây vòm cầu bắn cháy. Đội hình xe tăng ta phải dừng lại ở đầu cầu phía Tây. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn xe tăng Ngô Văn Nhỡ cầm cờ hiệu và điện đài chỉ huy tốp xe dẫn đầu vượt cầu lại bị trúng đạn địch và hy sinh trên tháp pháo. Lữ đoàn phó Trần Minh Công lên chỉ huy vượt cầu. Địch tiếp tục bắn hỏng thêm 2 xe tăng. Đại đội trưởng Bùi Quang Thận và chính trị viên Vũ Đặng Toàn chỉ huy đại đội 4 vượt qua cầu. Địch lui về ngã tư Hàng xanh, ta bám sát và bắn cháy một xe tăng của chúng tại đây. Các lực lượng tại chỗ bao vây, vận động vô hiệu hóa một số xe khác. Địch ở cầu Thị Nghè ngoan cố chống cự, ta bắn cháy thêm 1 xe tăng, 1 xe thiết giáp.

Qua cầu Thị Nghè, nữ chiến sĩ liệt động Nga (lữ đoàn 16) lên xe tăng cùng Phạm Duy Đô làm nhiệm vụ dẫn đường. Lữ đoàn 203 tiến vào Dinh Độc Lập theo đường Hồng Thập Tự và Đại lộ Thống Nhất do xe tăng 483 của trung úy Bùi Quang Thận dẫn đầu. Một số chiến sĩ biệt động đã có mặt trước dinh Độc Lập. Trong Dinh cũng đã có mặt một số cán bộ tình báo đường dài của ta: Tô Văn Cang, Vũ Ngọc Nhạm một cơ sở binh vận (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh). Chiếc xe tăng 843 húc cánh cổng sắt Dinh Độc Lập, tiến thẳng vào cửa Dinh. Ngay tức khắc chiến sĩ lái xe Jeep Bùi Ngọc Vân cầm cờ chạy lên tầng 2 phất mạnh trước dân chúng đang reo vui ở cổng Dinh Độc lập. Trong lúc đó, Bùi Quang Thận nhảy ra khỏi xe, cùng một số chiến sĩ tiến thẳng lên ban công thượng của tòa nhà, giật bỏ lá cờ vàng 3 sọc và kéo cờ giải phóng lên cột cờ cao nhất của Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút. Đại đội trưởng Phạm Duy Đô chạy thẳng vào trong Dinh quan sát và trở ra báo cáo ngay với trung tá chính ủy lữ đoàn 203 Bùi Văn Tùng xác nhận sự có mặt của tổng thống và nội các ngụy quyền tại Dinh. Trung tá lữ trưởng Nguyễn Tấn Tài lệnh điều chỉnh đội hình xe tăng bao vây Dinh đề phòng địch phản kích, đồng thời phái một bộ phận ra đánh chiếm cảng Sài Gòn.

Đại úy trung đoàn phó trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng một số cán bộ, chiến sĩ ta được Nguyễn Hữu Hạnh dẫn đường tiến thẳng vào phòng khánh tiết gặp Dương Văn Minh và nội các Vũ Văn Mẫu. Tiếp đó, các đồng chí Bùi Văn Tùng và Nguyễn Tấn Tài vào phòng khánh tiết. Hai cán bộ tình báo của ta cũng đã có mặt tại đây từ sáng với tư cách là người của lực lượng thứ ba đến vận động Dương Văn Minh sớm đầu hàng: Vũ Ngọc Nhạ, Tô Văn Can. Dương Văn Minh đứng dậy nói: "Chúng tôi đang đợi các ông để bàn giao". Ta tuyên bố: "Các ông đã bị bắt làm tù bình, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Các ông không còn gì để bàn giao".

Dương Văn Minh chấp nhận, trao khẩu súng ngắn cho đại úy Phan Xuân Thệ và đến đài phát thanh đọc bản tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời chấp nhận đầu hàng của Dương Văn Minh.

Từ sáng ngày 30 tháng 4 cho đến lúc này tại trung tâm Sài Gòn đã có 34 điểm nổi dậy của quần chúng và lực lượng tại chỗ.

Sau 11 giờ 30 phút ở 41 điểm chủ lực ta chưa tới, quân chúng và lực lượng tại chỗ tiếp tục nổi dậy.

Ở quận 3, tại phường cư xá Đô Thành, lúc 12 giờ ngày 30 tháng 4 khi lực lượng võ trang ta tiến công quận 3, anh Tư và anh Công, người địa phương, cùng một cán bộ biệt động của Z15 (lữ đoàn 316) dùng loa hô hào nhân dân nổi dậy giành chính quyền, kêu gọi sĩ quan và binh lính địch nộp vũ khí đầu hành. Ngay chiều 30 tháng 4 hàng trăm đồng bào xin nhận công tác theo yêu cầu của cách mạng, hàng trăm người khác tự động ra đường thu gom vũ khí, quân trang, quân dụng của địch. Đồng bào treo đầy cờ giải phóng trước nhà riêng, công sở và tự nguyện góp cấp thời lương thực thực phẩm cho bộ đội.

Tại phường Bàn cờ quận 3, các đông chí cơ sở mật của ta: Chị Bảy, anh Châu, anh Ba Đông, phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, chiếm giữ các kho tàng của địch, giữ gìn trật tự, an ninh, làm vệ sinh đường phố. Đồng bào thu gom được 3.000 súng các loại đem nộp cho cách mạng. 16 giờ ngày 30 tháng 4, phường Bàn Cờ tổ chức mít tinh, có 13.000 người dự lễ mừng chiến thắng và giới thiệu những người tốt vào chính quyền mới. Đến 17 giờ, thành lập xong các bạn phụ trách phường, khóm và tổ chức chuyên việc đăng ký ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện.

Ở hướng xa lộ Biên Hòa, Z27 sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiếm giữ cầu Rạch Chiếc cho lữ đoàn 203 đi qua, theo lệnh trên, tiến chiếm nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy Zetcô (nay là liên hợp công trình 4) và giữ nhà máy điện Thủ Đức. Nhờ đó, điện ở thành phố chỉ gián đoạn có vài giờ trong ngày 30 tháng 4.

Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, sau khi lữ đoàn 203 xe tăng qua cầu Sài Gòn tiếp tục tổ chức đánh chiếm các đồn bót địch trên trục lộ 33 đoạn từ ngã ba Bình Trưng đến ngã ba Phú Hữu, cùng cán bộ địa phương phát động quần chúng nổi dậy trừng trị ác ôn, giải phóng hai xã Bình Trưng và Phú Hữu.

Tại nhà máy nước Thủ Đức, từ những ngày 27 và 28 tháng 4, nòng cốt công nhân đã lập đội bảo vệ nhà máy. Hàng trăm công nhân và kỹ sư liên tục bám giữ máy, không cho địch phá, bảo đảm cung cấp đầy đủ nước cho thành phố cả nước và sau khi giải phóng. Ngày 30 tháng 4, khi xe tăng ta tiến gần đến, đồng chí Muống, đứng đầu ủy ban khởi nghĩa nhà máy, lãnh đạo công nhân tung tin hù dọa địch và tự mình leo lên nóc nhà máy treo một lá cờ lớn. Địch ở đây rất đông: thường xuyên có một tiểu đoàn thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn cao xạ, 1 đại đội bảo an và ngày 30 tháng 4, còn kéo về đây thêm khoảng 40 xe tăng và thiết giáp... nhưng trước thế tiến như vũ bão của ta và khí thế công nhân tại chỗ, tất cả địch ở đây đã phải bỏ chạy.

Toàn bộ lực lượng địch ở Thủ Đức tan rã. Quần chúng xông vào chiếm giữ các căn cứ quân sự của địch, tiến chiếm trụ sở quận. Toàn bộ ngụy quyền quận bỏ chạy.

Với mọi chuẩn bị từ trước, khi đại quân ta tiến vào Sài Gòn, cơ sở cách mạng và quần chúng lao động nội thành kịp thời nổi dậy chiếm lĩnh, làm chủ và bảo vệ các cơ sở kinh tế, chính trị văn hóa quan trong, bảo đảm mọi sinh hoạt bình thường của một thành phố mới giải phóng.

Ở nhà máy điện Chợ Quán, ngay lúc địch đang tồn tại và thiết quân luật, công nhân đã thay phiên nhau đi sửa chữa đường dây, ổn định dòng điện. Anh em kêu gọi binh lính ngụy quay về với chính nghĩa, ủng hộ hành động nổi dậy của công nhân.

Tại xưởng Ba Son, công nhân tháo gỡ hết chất nổ địch gài, bảo vệ nguyên vẹn nhà máy.

Ở các hãng Esso, Shell, công nhân thành lập các ủy ban công nhân võ trang bảo vệ kho xăng Nhà Bè.

Công nhân các xí nghiệp Vimytes, Sicovina, Vinatexco, Biopharma và hàng loạt hãng, xưởng khác bất chấp công an, mật vụ, đã nổi dậy chiếm xưởng bảo vệ máy móc.

Các cơ sở cách mạng và quần chúng nổi dậy chiếm lĩnh, cắm cờ trụ sở khóm hai phường Huyện Sĩ, ngã ba Thủ Khoa Huân, đường Lê Thánh Tôn, chợ Bến Thành, cư xá Đô Thành, ty cảnh sát quận 3, sở văn hóa... Một trí thức, cơ sở của ta, đã giữ gìn và trao lại nguyên vẹn cho cách mạng toàn bộ phòng báo chí Phủ tổng thống ngụy của Hoàng Đức Nhã (đặt tại số 116 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai).

15 giờ ngày 30 tháng 4 tất cả cán bộ Thành ủy cánh A (luồn vào từ đêm 29 tháng 4) đã có mặt trong thành phố, tập kết nhận nhiệm vụ kế tiếp tại khu trường Pétrus Ký.

Cán bộ, chiến sĩ cánh B của Thành ủy có mặt cùng nhân dân thực hiện nổi dậy giành chính quyền, giành quyền làm chủ từ ấp, xã đến thị trấn ngoại thành, cũng đã hội tụ về nhận nhiệm vụ tại dinh tỉnh trưởng Gia Định.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, riêng quân dân Sài Gòn - Gia Định đã diệt và làm tan rã 31.000 tên địch, bắt sống 12.619 tù binh, chiếm 9 căn cứ quân sự, 5 chi khu, 21 phân chi khu và trụ sở tề... thu 12.275 súng và gần như toàn bộ hồ sơ các cơ quan từ Phủ tổng thống trở xuống. Số ngụy quân lần lượt ra trình diện là 40 vạn và số công an cảnh sát là 10 vạn.

17 giờ ngày 30 tháng 4, tiếng súng đã thực sự chấm dứt ở "thủ đô" ngụy quyền, trừ một số mục tiêu quân sự. Thành phố hơn 3 triệu dân vừa qua cuộc chiến tranh 30 năm, vẫn nguyên vẹn đã chuyển sang trạng thái bình yên đến độ gây ngạc nhiên cho mọi người trên thế giới đang có mặt: nước vẫn chảy đều trong các đường ống; dòng điện chỉ tạm ngừng trong 2 giờ rồi mọi nhà lại sáng; công nhân nhà máy vẫn sẵn sàng cho máy chạy; chợ búa, quán xá vẫn sẵn sàng mở; đường phố vẫn đông người, xe cộ... Người dân Sài Gòn - Gia Định náo nức cắt dàn cờ hoa để xuống đường ngày 1-5 mừng cuộc toàn thắng và chờ đêm hội pháo hoa.


  Chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử

Sài Gòn là đô thị lớn nhất Việt Nam, nằm giữa miền Trung và miền Đông Nam Bộ, là trung tâm các đầu mối giao thông chiến lược cả về đường bộ, đường thủy và đường không. Các vùng nông thôn rừng núi, trung du đồng bằng và ven biển bao xung quanh thành phố có mối quan hệ mật thiết về các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa. Trong thành phố, nhà cửa san sát với những cao ốc nhiều tầng, dân cư đông và tập trung ở mật độ cao. Những đặc điểm nêu trên làm cho Sài Gòn giữ một vị trí địa lý đặc biệt quan trọng.

Đối với địch, nhất là trong chiến tranh xâm lược của Mỹ, Sài Gòn là thủ đô, trung tâm, chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội của cả miền Nam. Nơi đây là sào huyệt của tổ chức chính quyền trung ương ngụy và các đảng phái chính trị, tôn giáo, văn hóa, nơi tập trung cơ cấu chỉ đạo, chỉ huy quân sự của toàn bộ cuộc chiến tranh với từng vùng chiến trường, nơi phát ra và chỉ đạo thực hiện các chủ trương chiến lược, các kế hoạch, biện pháp và thủ đoạn chiến lược, chiến thuật trên toàn chiến trường miền Nam và Campuchia. Chúng tập trung ở Sài Gòn và vùng phụ cận một bộ phận quan trọng lực lượng, sinh lực và phương tiện chiến tranh lớn cùng hệ thống phòng thủ nhiều tầng, từ xa, tập trung các cơ sở kinh tế công nghiệp, thương mại, đáp ứng phần lớn âm mưu cướp vét sức người sức của "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh"; đồng thời xây dựng, bố trí các cơ sở dự trữ vật chất, phương tiện chiến tranh lớn nhất ở Đông Dương. Đối phó với phong trào cách mạng quần chúng, ngoài mạng lưới kềm kẹp đồ sộ và nghiêm ngặt, địch tiến hành đánh phá thường xuyên và ác liệt, tinh vi trên mọi phương tiệnc hính trị, quân sự, văn hóa, kinh tế, nơi chúng thực hiện một cách tập trung, đầy đủ nhất chủ nghĩa thực dân kiểu cũ (từ năm 1945 đến năm 1954) và kiểu mới (từ năm 1945 đến năm 1975). Thành phố Sài là nơi thực dân Pháp nổ súng tiến công mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược và là nơi đế quốc Mỹ cố giữ đến phút cuối cùng của cuộc chiến tranh, là điểm mở đầu và kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của hai đế quốc Pháp và Mỹ trong 30 năm qua.

 Đối với ta, thành phố Sài Gòn là nơi tập trung số lượng dân cư đông đảo nhất ở miền Nam, nơi có lực lượng học sinh sinh viên, nhân sĩ trí thức, tư sản dân tộc và đặc biệt là lực lượng công nhân công nghiệp (vốn có quan hệ huyết thống gần gũi với nông dân vùng nông thôn Nam Bộ và với công nhân các đồn điền cao su). Nhân dân Sài Gòn có truyền thống yêu tự do, bất khuất chống ngoại xâm rất sâu sắc và liên tục trong suốt lịch sử 300 năm của thành phố. Mọi biến động ở thành phố Sài Gòn, do vị trí trung tâm của nó, đều có ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình toàn miền Nam, cả nước và trên thế giới. Sài Gòn trở thành trung tâm đấu tranh chính trị của cả miền Nam trong cả hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là địa điểm quyết chiến chiến lược cuối cùng của cuộc chiến tranh cách mạng xét về mặt mục tiêu cơ bản của công cuộc giải phóng hoàn toàn đất nước của dân tộc ta.

Những đặc điểm nêu trên tác động sâu sắc đến toàn bộ tiến trình cuộc kháng chiến diễn ra trên địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.

Tiếng súng gây hấn ngày 23 tháng 9 năm 1945 là hành động kết thúc quá trình chuẩn bị trở lại xâm lược Đông Dương của giới tư bản quân phiệt Pháp từ khi nước Pháp còn bị phát xít Đức chiếm đóng. Chuẩn bị và xác định ngay từ đầu quyết tâm kháng chiến, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã đứng dậy tiến hành cuộc đấu tranh toàn dân chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đồng thời nỗ lực đặt nền móng và phát triển mọi nhân tố của một Nhà nước Dân chủ Cộng hòa mới được thành lập. 15 tháng đầu kháng chiến của quân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định vào Nam Bộ, Nam Trung Bộ đã giáng một đoàn phủ đầu vào dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, làm xáo trộn kế hoạch chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của chúng, tạo ra khoảng thời gian quý báu để nhân dân cả nước có điều kiện xây dựng lực lượng mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài diễn ra trên phạm vi toàn quốc.

 Từ đầu năm 1947, trong điều kiện Sài Gòn bị chiếm đóng hoàn toàn, "được bình định, ổn định" và ngày càng trở thành trung tâm chiến lược xây dựng Nam Bộ thành hậu phương dự trữ của chúng trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã từng tiếp tục xây dựng lực lượng mọi mặt, xây dựng các loại lực lượng vũ trang thích hợp, mở rộng phong trào chiến tranh du kích, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến toàn diện cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, đưa cuộc kháng chiến phát triển thành cao trào vào năm 1950.

Sau năm 1950, được sự chi viện của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp ra sức bình định Nam Bộ, trọng tâm là Sài Gòn, Chợ Lớn - Gia Định, đẩy phong trào cách mạng vào thời kỳ khó khăn kéo dài. Quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định năng động tổ chức lại chiến trường, bố trí lực lượng, kết hợp nhiều hình thức đấu tranh, vượt qua nhiều khó khăn nhằm khôi phục, giữ vững và phát triển phong trào trong điều kiện bị địch bao vây và đánh phá ác liệt. Hoạt động kháng chiến ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã làm suy yếu địch từ trong hậu phương của chúng, cầm chân địch tại chỗ, tạo điều kiện cho quân và dân toàn miền đẩy mạnh đợt hoạt động hưởng ứng chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Từ sau Hiệp định Genève 1954, đế quốc Mỹ gạt Pháp và các thế lực thân Pháp, từng bước nắm quyền thống trị miền Nam Việt Nam, xây dựng ngụy quân quyền, thi hành chính sách thực dân mới. Sài Gòn trở thành thủ đô của ngụy quyền miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã phát động phong trào đấu tranh chính trị tiến công địch ngay từ đầu, phát triển phong trào bảo vệ hòa bình, đòi thi hành Hiệp định Genève, đưa Sài Gòn trở thành trung tâm đấu tranh chính trị của toàn miền Nam. Vượt qua khó khăn thử thách trong những năm tiếp sau, đặc biệt trong các năm 1957 - 1958 - 1959, nhân dân Sài Gòn - Gia Định vẫn bền bỉ bảo tồn, gầy dựng và duy trì phong trào đấu tranh chính trị liên tục, nhằm bảo vệ quyền dân sinh, dân chủ, chống chính sách tố cộng diệt cộng, từng bước xây dựng lực lượng tự vệ vũ trang ở vùng nông thôn Gia Định, phối hợp đấu tranh liên kết giữa đô thị và nông thôn nội ngoại thành, đưa dần đấu tranh chính trị phát triển lên đấu tranh chính trị có tự vệ vũ trang hỗ trợ, tiến đến thực hiện nổi dậy từng phần, giành quyền làm chủ ở một số vùng nông thôn ven sát sào huyệt địch (1960 - 1961)

Chuyển sang thời kỳ chiến tranh cách mạng, chống chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ngụy, quân và dân Sài Gòn - Gia Định bám sát đường lối chủ trương và phương châm chiến lược đấu tranh cách mạng của trên, phát huy tính năng động cách mạng, đề ra phương thức tổ chức và hình thức đấu tranh cụ thể cho các vùng hoạt động (nội đô, ven đô, nông thôn, ngoại thành), trong xây dựng các loại lực lượng và kết hợp sử dụng các hình thức đấu tranh thích hợp ở từng vùng trong thừng thời kỳ lịch sử nhất định. Các tầng lớp quần chúng nhân dân ở nội ngoại ô thành phố đều được huy động vào mặt trận đấu tranh chống Mỹ và ngụy quyền tay sai (đặc biệt lực lượng học sinh sinh viên và quần chúng lao động, phật tử) đưa phong trào cách mạng phát triển lên thế chủ động tấn công địch, góp phần làm khủng hoảng sâu sắc chế độ chính trị ngụy quyền và cùng với lực lượng nhân dân ở vùng nông thôn làm phá sản quốc sách ấp chiến lược của chúng, Giữa năm, 1965, đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược chiến tranh, ào ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam, tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ. Quân và dân Sài Gòn - Gia Định xác định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, hình thành mặt trận chống Mỹ cứu nước ngày càng rộng lớn ngay tại Sài Gòn - Gia Định. Cao trào đấu tranh chính trị chống Mỹ cùng với những trận tập kích quân sự vang dội trong nội đô và sự phát triển tiến công của Quân giải phóng ở các hướng xung quanh thành phố đã góp phần làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966 - 1967 của Mỹ ngụy. Bước sang năm 1968, ngay tại sào huyệt địch, các lực lượng cách mạng Sài Gòn - Gia Định đã tích cực chuẩn bị táo bạo cùng lực lượng toàn miền thực hành tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, đánh vào nhiều mục tiêu chiến lược quan trọng bậc nhất của Mỹ ngụy, gây cho chúng những tổn thất nặng nề, góp phần cùng cả nước làm suy sụp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Paris.

Sau đợt 2 Tết Mậu Thân 1968, dù trong điều kiện bị địch phản kích đánh phá khốc liệt, lực lượng bị tiêu hao giảm sút, cơ sở bị bể vỡ nhiều, nhưng quân và dân Sài Gòn - Gia Định vẫn vững tin vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, kiên trì bám trụ địa bàn, chịu đựng gian khổ hy sinh, khéo léo chuyển hướng và phương pháp đấu tranh, quay về khôi phục xây dựng cơ sở, thực lực, giữ vững và tiến tới đẩy mạnh cao trào đấu tranh chính trị dưới nhiều hình thức ở nội đô, kiên cường đánh địch càn quét, liên tục chống phá chương trình bình định nông thôn của địch, giành lại và mở nhiều lõm làm chủ, giải phóng, phát triển hệ thống thông tin giao thông liên lạc ở vùng ven, tạo lại thế tiến công mới cho đến Hiệp định Paris.

Trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh, quân và dân Sài Gòn - Gia Định kịp thời đề phòng và uốn nắn những biểu hiện hòa bình chủ nghĩa sau ngày ký Hiệp định Paris, tranh thủ thời cơ, tiếp tục phát triển thực lực cách mạng, tạo thế tạo lực mới. Từ cuối năm 1974, khi thời cơ cách mạng chúng bắt đầu xuất hiện, đã tích cực xây dựng lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, phát huy hiệu lực ở cả ba mũi chính trị, quân sự, binh vận, đẩy mạnh tiến công địch trên khắp nội ngoại ô thành phố, góp phần thúc đẩy tính thế cách mạng nhanh chính chín muồi. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Sài Gòn - Gia Định kịp thời đón nhận thời cơ, tham gia tổng tiến quân và nổi dậy trong chiến dịch Hồ Chí Minh, tạo điều kiện cho các binh đoàn chủ lực tiến vào thành phố, đập tan bộ máy ngụy quân ngụy quyền từ cơ sở tới trung ương, làm chủ mọi sinh hoạt của thành phố ngay từ giờ phút đầu giải phóng.

Ba mươi năm chiến tranh ròng rã, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã hoàn thành vẻ vang sứ mạng mà lịch sử giao phó "đi trước về sau", cùng quân và dân cả nước lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Trải suốt những năm chiến tranh tàn khốc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định một lòng son sắt với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Bác Hồ, kiên cường chịu đựng và vượt qua mọi gian lao thử thách, kiên cường chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng quê hương, giải phóng đất nước. Cả trong những ngày cam go nhất của buổi đầu kháng chiến, giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1953, giai đoạn năm 1957 - 1958 - 1959, những ngày địch khủng bố ác liệt sau Tết Mậu Thân, dân và quân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định vẫn vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, lần hồi gầy dựng cơ sở (có khi đi trở lại từ con số không), sẵn sàng chấp nhận hy sinh vì sự nghiệp chung, lòng không hề vướng bọn mảy may lợi ích riêng tư của bản thân mình. Trên mảnh đất Củ Chi, có những căn nhà được dựng đi dựng lại không dưới mươi lần trên nền đất cũ, có những người mẹ chít ngang đầu 8 vành tang trắng. Hàng ngàn đồng bào, chiến sĩ trải hết các nhà tù, nếm đủ các đoàn tra tấn dã man và thâm hiểm nhất mà kẻ thù có thể nghĩ ra vẫn một lòng trung trinh với sự nghiệp cách mạng. Không thể nào ghi lại được đầy đủ chiến công và sự hy sinh của toàn thể dân, quân, cán bộ, đảng viên Sài Gòn - Gia Định những chiến sĩ anh hùng cách mạng. Máu của họ thấm đẫm trên mọi góc phố, cửa ô, mọi nẻo đường, làng xóm, vườn tược. Khôn thể nào nhắc lại được đầy đủ lịch sử các địa danh Vườn Thơm, Láng Le, Bàn Cờ, Bình Mỹ, Khu 5 Hóc Môn, Rừng Sác, Bưng Sáu Xã, Tám Giác Sắt, Củ Chi... những mảnh đất mà tên gọi và sự tích chắc chắn sẽ lưu lại mãi mãi trong lịch sử cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta.

Thắng lợi của quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của toàn dân tộc trong cuộc chiến tranh 30 năm vừa qua, một cuộc chiến tranh "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ hai mươi, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế và có tính thời sự sâu sắc" (Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần IV)

Ba mươi năm, xương máu, mồ hôi của hàng vạn đồng bào, cán bộ, chiến sĩ thành phố đổ xuống đã vun tưới thêm truyền thống chống ngoại xâm vốn được tinh cất trong suốt chiều dài lịch sử ba trăm năm của cư dân vùng đất Bến Nghé này. Đó là tình yêu quê hương đất nước, yêu độc lập tự do, là lòng trung thành vô hạn và ý nguyện dấn thân vào con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Đó là ý chí bất khuyất và năng động trước mọi ngăn trở của hoàn cảnh, tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường và trí tuệ mưu lược thấm đẫm tinh thần thượng võ, nghĩa hiệp, là phẩm chất cần cù lao động sáng tạo xây dựng cuộc sống mới. Đó chính là tinh thần đoàn kết gắn bó, là tình thương yêu giai cấp, thương yêu đồng loại, là lối ứng xử bặt thiệp, hào hiệp, nhân nghĩa, có thủy có chung.

Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định được vinh dự mang tên Bác Hồ - Thành phố Hồ Chí Minh. Quân và dân thành phố lại tiếp tục bước vào cuộc đấu tranh mới: khắc phục hậu quả chiến tranh, sửa đổi lệch lạc trong bước đi, đổi mới sự lãnh đạo, khôi phục và phát triển lực lượng sản xuất mới, từng bước đưa thành phố tiến lên theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành phố ngày càng giàu mạnh, văn minh, đấu tranh giữ vững thành quả cách mạng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tăng cường và củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc. Hàng ngàn người con của thành phố đã lên đường chiến đấu anh dũng giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm tròn nghĩa vụ quốc tế trên đất nước Campuchia.

Lịch sử cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài gần một phần ba thế kỷ đang lùi xa vào quá khứ. Nhưng những giá trị quyền thống và bài học lịch sử của nó thì còn lại mãi mãi với các thế hệ cư dân chủ nhân của thành phố Hồ Chí Minh - thành phố anh hùng


  (¹) Người ném bom Dinh Độc Lập là Nguyễn Thành Trung, người cán bộ nội tuyến binh vận của ta được cài vào trong lực lượng không quân quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 8.4.1975, anh đã lái máy bay F.5 xuất phát từ sân bay Thành Sơn (Phan Rang) bay vào ném bom trúng dinh Độc Lập và sau đó hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long. Sự kiện này góp phần gây hoang mang cực độ trong giới đầu sỏ ngụy quyền Sài Gòn.

      Ngày 28.4.1975, không đầy 10 phút sau khi tướng Dương Văn Minh thay Thiệu nhậm chức Tổng thống, Nguyễn Thành Trung đã dẫn đường cho 4 chiếc A.37 do Mỹ chế tạo từ sân bay Thành Sơn (Phan Rang), lượn vòng trên bầu trời Sài Gòn. Lúc 17 giờ 40 phút phi đội của Nguyễn Thành Trung đã ném bom và bắn đạn DK.28 vào sân bay Tân Sơn Nhất khiến 3 máy bay AC.119 và nhiều chiếc C.47 bị phá hủy. Hai trái bom nổ giữa trung tâm điều khiển và vọng kiểm soát. Máy bay phản kích của địch bay mò vì trạm hướng dẫn đã bị hỏng. Cuộc oanh tạc táo bạo, bất ngờ làm tiêu tan hy vọng "thương lượng" của "tân tổng thống" lẫn Hoa Kỳ, làm tăng thêm sự hoang mang và hỗn loạn của địch.


(²) Trong "cơn lốc kinh hoàng" của cuộc tháo chạy mệnh danh "người liều mạng" rồi "móng quặp chặt", hàng ngàn người tranh nhau bám càng trực thăng trong cơn hoảng loạn, mặc dù từ ngày 10 tháng 4 năm 1975 Bộ chỉ huy quân Giải phóng đã tuyên bố: "Quân giải phóng lúc nào cũng sẵn sàng tạo điều kiện cho cố vấn Hoa Kỳ rút về nước bình an vô sự".

  Ngày 3 tháng 4, sau những cơn giận dữ của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Schlesiger và cố vấn Kissinger ở Washington vì sự nấn ná quá đáng của Đại sứ Martin ở Sài gòn để cố tạo ra vẻ "người Mỹ đàng hoàng ra đi", Tổng thống Ford ra lệnh dứt khoát: "Chấm dứt cuộc di tản vào 3 giờ 30 phút, giờ địa phương, sáng 30 tháng 4". Tuy nhiên, lệnh không thi hành được.

  4 giờ 20 phút, tiếp tục cuộc tháo chạy, một máy bay CH-53 đổ xuống lầu thượng tòa Đại sứ, Martin lại nhận được điện của Nhà Trắng: "Tổng thống ra lệnh đại sứ phải đi chuyến này". Martin vẫn chậm chạp. Một nhân viên cấp dưới tỏ vẻ bực tức: "Lệnh là lệnh, đại sứ phải lên. mà lên ngay, vì quân đội Bắc Việt Nam đã ở dưới đường. Họ sẽ nổi giận và bắn chúng ta nếu họ thấy chiếc máy bay để ở đây lâu quá".

  Nhà Trắng lại có lệnh rõ ràng: "Cầu hàng không ngừng lúc bản thân Martin đã đi".

  Nhưng chiếc CH-53 chở Martin đã rời sân thượng, tòa Đại sứ Mỹ vẫn còn 5 nhân viên, 4 lính thủy đánh bộ người Mỹ và ngót 420 người Việt Nam phần đông là nhân vật cao cấp của Thiệu, nhân viên Sứ quán Nam Triều Tiên, đứng đầu là 1 thiếu tướng... Tất cả những người này chấp nhận bỏ hành lý để thoát cho được.

  Moorefield, người được Martin chọn "giúp cai trị" ở toà Đại sứ là người Mỹ cuối cùng rời Sài Gòn lúc 5 giờ 24 phút ngày 30 tháng 4. Ông ta kể lại cảnh tượng Sài Gòn lúc đó, nhìn từ bầu trời xuống: "Bình yên, phẳng lặng. Trừ một vài đám cháy ở đàng xa..."

  Tom Polgar, nhân viên cao cấp ở tòa Đại sứ "Người nguy hiểm nhất đối với Martin" vì những nhận định, báo cáo lên Nhà Trắng cứ trái ngược, nhưng rất "hợp Martin" ở chỗ "chống cộng kịch liệt và ham thích nghiên cứu", cùng ngồi với Martin trên chiếc CH-53 trong cuộc tháo chạy tán loạn, đã ghi lại nhận xét của mình ngày hôm ấy: "Đó là một cuộc chiến tranh (chiến tranh Việt Nam) lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt. Nhưng... Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải nhắc lại lịch sử".


(Lịch sử Sài Gòn - Chợ LớnGia Định kháng chiến 1945-1975. NXB TP.HCM)

"Nhận thức lại" hay xuyên tạc và phủ nhận lịch sử ?



Nhân những ngày lễ lớn của đất nước trong năm 2015, trên in-tơ-nét lại xuất hiện một số ý kiến xuyên tạc và phủ nhận lịch sử. Như vừa qua trên BBC, đã có người cho rằng Cách mạng Tháng Tám là "việc không nên làm" vì "khi thay thế Pháp, Nhật đã có chính quyền Trần Trọng Kim" (?).
Thực ra ý kiến coi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là "việc không nên làm" vì "khi thay thế Pháp, Nhật đã có chính quyền Trần Trọng Kim" của ông tiến sĩ nọ cũng không có gì mới. Trước đó đã có một vài giọng điệu lạc lõng khác cho rằng "ngày độc lập của Việt Nam là 11-3-1945" (11-3-1945 là ngày vua bù nhìn Bảo Đại ký đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập" sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và tuyên bố "trao lại độc lập cho Việt Nam")! Nói cách khác thì ý kiến của ông tiến sĩ chỉ là nối dài việc "đánh lận con đen" để tảng lờ thực chất việc phát-xít Nhật giành quyền kiểm soát Đông Dương chỉ là cố gắng tuyệt vọng khi thất bại là không tránh khỏi, thêm nữa cũng để chặn trước nguy cơ bị quân đội Pháp ở Đông Dương tiến công. Tư liệu lịch sử cho thấy các sự kiện (như: hành động quân sự, lựa chọn nhân vật chính trị, thành lập chính quyền bù nhìn...) diễn ra theo kịch bản đã được tình báo của hải quân Nhật ở Đông Dương chuẩn bị kỹ lưỡng.
Sau cuộc tập kích bất ngờ vào quân Pháp đêm 9-3-1945, vấn đề quan trọng nhất đối với quân Nhật là duy trì bằng được "trật tự và ổn định" nhằm tìm nguồn cung ứng vật chất tại chỗ cho gần 100.000 lính Nhật và để phòng thủ. Tuy nhiên, đúng lúc đó, bộ máy hành chính thực dân mà Nhật muốn kế thừa từ Pháp đã tan rã, vì thế việc lập một bộ máy cai trị tay sai bản xứ đặt ra như một đòi hỏi cấp bách. "Chính phủ" Trần Trọng Kim ra đời trong bối cảnh đó.
Đánh giá về sự kiện này, trong bài báo nhan đề Trần Trọng Kim, chính khách bất đắc dĩ? đã đăng trên tiasang.com.vn ngày 18-2-2014, sau khi khái quát các sự kiện liên quan, tác giả Trần Văn Chánh viết: "có thể thấy ngày càng rõ hơn việc đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại trước sau đều do người Nhật đạo diễn một cách khéo léo để dẫn dụ Trần Trọng Kim vào "tròng"..."! Sáng 10-3-1945, trên đường đi săn, Bảo Đại bị một toán quân Nhật áp giải về kinh thành. Đại sứ Nhật ở Huế là Masayuki Yokoyama (Ma-xa-y-u-ki Y-ô-kô-y-a-ma) đề nghị ông ra tuyên bố độc lập và sớm thành lập chính phủ để hợp tác với Nhật. Ngày 11-3, Bảo Đại ban bố một đạo dụ cam kết "... hợp tác toàn tâm toàn ý với đế quốc Nhật Bản". Bảo Đại hai lần gửi điện tín vào Sài Gòn mời Ngô Đình Diệm ra Huế lập nội các, nhưng rồi người được Nhật chọn vào vai trò này là Trần Trọng Kim. Ngày 30-3-1945, Trần Trọng Kim đang ở Băng-cốc được Nhật đưa về Sài Gòn, sau đó ra Huế thành lập "chính phủ" vào ngày 17-4 với bản tuyên cáo bày tỏ sự tri ân: "... không thể quên ơn nước Đại Nhật Bản đã giải phóng cho ta" và tin tưởng: "trên nhờ lòng tin cậy của đức Kim Thượng (Bảo Đại), dưới nhờ sự ủng hộ của quốc dân, ngoài tin vào lòng thành thực của nước Đại Nhật Bản" để "mong nền móng xây đắp được vững vàng để cơ đồ nước Việt Nam ta muôn đời trường cửu" (Dẫn theo Phạm Hồng Tung - Nội các Trần Trọng Kim, bản chất, vai trò và vị trí lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, H.2009, tr.191, tr.193).
Không biết khi viết tuyên cáo, ông Trần Trọng Kim có thành thực tin như vậy không, nhưng trong hồi ký Một cơn gió bụi, ông viết: "Nhật Bản trước vốn là một nước đồng văn đồng hóa ở Á Đông, nhưng về sau đã theo Âu hóa, dùng những phương pháp quỷ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ, trước đã thôn tính Cao Ly và Mãn Châu, sau lại muốn xâm lược nước Tàu và các nước khác ở Á Đông đã bị người Âu châu chiếm giữ. Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu "đồng minh cộng nhục" và lấy danh nghĩa "giải phóng các dân tộc bị hà hiếp" nhưng thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình.
Bởi vậy chính sách của họ thấy đầy những sự trái ngược, nói một đằng làm một nẻo" (Phạm Hồng Tung, Sđd)? Tồn tại trong thời gian ngắn từ ngày 17-4-1945 đến ngày 23-8-1945, "chính phủ" Trần Trọng Kim tập hợp được một số trí thức có uy tín thời đó với nhiệt thành, thực tâm yêu nước như Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Trịnh Đình Thảo... và cũng cố gắng làm một số công việc hữu ích như: thống nhất về danh nghĩa phần đất Nam kỳ vào lãnh thổ Việt Nam; quy định chữ quốc ngữ và tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức ở công sở, trường học; triển khai chương trình giáo dục bằng tiếng Việt; thành lập lực lượng "thanh niên tiền tuyến" (bộ phận thanh niên yêu nước trong tổ chức này sau được "Việt Minh hóa" đã hoạt động tích cực trong khi giành chính quyền ở Huế và trong kháng chiến sau này)... Dù vậy, "chính phủ" Trần Trọng Kim thực chất vẫn được Nhật Bản bảo hộ.
Không phải ngẫu nhiên ngay buổi đầu ông Trần Trọng Kim trình danh sách nội các với Bảo Đại lại có sự hiện diện "tình cờ" và phê duyệt của viên cố vấn tối cao Nhật Bản tại Huế là Masayuki Yokoyama. Cũng nên chú ý tới một sự kiện là ngày 5-8-1945, "chính phủ" Trần Trọng Kim đã trình Bảo Đại một văn bản xin từ chức, được Bảo Đại chấp nhận nhưng lại yêu cầu ở lại tạm thời làm việc, chờ tìm người lập nội các mới.
Tuy ít nhiều nắm bắt được nguyện vọng độc lập của quốc dân, và nhận thức được ý nghĩa của khối đoàn kết dân tộc, đề ra được một số chủ trương cải cách tiến bộ, ích quốc lợi dân, nhưng "chính phủ" Trần Trọng Kim lại không quy tụ, phát huy được ý chí, sức mạnh của dân tộc. Bởi đây thực chất chỉ là một tổ chức bù nhìn, bất lực trước các nhiệm vụ tự nó đặt ra lúc đầu. Ngay một công việc cấp bách khi đó là vận chuyển gạo từ miền nam ra miền bắc để cứu đói mà "chính phủ" này cũng không thực hiện nổi. Nhưng với khẩu hiệu "Phá kho thóc Nhật" của Việt Minh đã đáp ứng nguyện vọng, quy tụ sức mạnh đấu tranh của đông đảo quần chúng.
Đeo bám vào biểu tượng quân chủ đã lỗi thời và một ông vua bù nhìn, công khai xác nhận mối gắn bó, sự phụ thuộc nặng nề vào thế lực xâm lược ngoại bang, gây chiến tranh phi nghĩa và đang trên đường bị tiêu diệt, "chính phủ" Trần Trọng Kim không thể là biểu tượng quy tụ ý chí độc lập của dân tộc Việt Nam; do đó việc "được Nhật trao độc lập" không phản ánh tính chính danh chính trị của "chính phủ" này, chính vì thế nó đã tự đặt mình vào thế đối lập với xu thế thời đại. Dù tập hợp được một số trí thức có uy tín và muốn giương lên ngọn cờ yêu nước nhưng "chính phủ" Trần Trọng Kim, với hình hài và tinh thần thân Nhật, với sự ra đời và chịu sự bảo trợ, chi phối của Nhật,... chỉ là sản phẩm trực tiếp của chính sách chiếm đóng, cai trị của phát-xít Nhật trước thất bại không tránh khỏi, nên việc "chính phủ" đó sớm cáo chung là điều tất yếu.
Ngược lại với sự hình thành, bất lực rồi nhanh chóng tan rã của "chính phủ" Trần Trọng Kim, Mặt trận Việt Minh thành lập theo sáng kiến của Hồ Chí Minh (tháng 5-1941, khi Nhật Bản còn chưa tham chiến) đã nhanh chóng phát huy được vai trò của mình, nhanh chóng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong xã hội. Với quyết tâm "làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do", Mặt trận Việt Minh giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tập hợp đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đông đảo các tầng lớp nhân dân được tổ chức trong những Hội Cứu quốc là thành viên của Việt Minh, như: Nông dân cứu quốc; Công nhân cứu quốc; Thanh niên cứu quốc; Phụ nữ cứu quốc; Phụ lão cứu quốc; Văn hóa cứu quốc... đã làm cho Mặt trận ngày càng phát triển trên khắp các địa bàn từ nông thôn, thành thị, tới miền núi, từ bắc vào nam đã hình thành nên phong trào Việt Minh sôi nổi, đưa tới các chuyển biến mạnh mẽ, tạo nên thế và lực của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tiếp cận từ nhãn quan chính trị khác nhau cho nên còn có khác biệt trong đánh giá nguyên nhân, bản chất của Cách mạng Tháng Tám, nhưng trong nghiên cứu của phần lớn sử gia phương Tây đều thừa nhận vai trò to lớn của Mặt trận Việt Minh, tinh thần dân tộc phù hợp với xu thế thời đại, cũng như tầm tư tưởng vượt trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thí dụ trong cuốn sách Hồ Chí Minh - một cuộc đời (Ho Chi Minh - a life), tác giả Wiliam Duiker (Uy-li-am Điu-cơ) bình luận về vai trò Hồ Chí Minh trong cách mạng: "... những đánh giá như vậy (xu hướng hạ thấp ý nghĩa của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 - TP) không thể che giấu sự thật rằng cuộc Cách mạng Tháng Tám là một thành tựu phi thường... trong khi những nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa khác bằng lòng ở lại nam Trung Quốc và đợi đến khi quân Nhật bị quân Đồng minh đánh bại, ông Hồ và các đồng sự của ông mới chứng tỏ khả năng có thể đối phó với thách thức và đặt cả thế giới trước sự đã rồi" (bản dịch của Phòng phiên dịch Bộ Ngoại giao, năm 2000, tr.332).
Sự thật lịch sử đã rõ như ban ngày. Chính sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc, ý chí của toàn dân khi được phát huy đến cao độ dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành động lực làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Về điều này, theo tác giả Trần Văn Chánh trong tiểu luận nhan đề Tản mạn về nhân vật lịch sử Trần Trọng Kim qua những trang hồi ký (đã được một số trang mạng đăng tải) thì trong thư viết ngày 8-5-1947 tại Sài Gòn - nay là TP Hồ Chí Minh, gửi học giả Hoàng Xuân Hãn, ông Trần Trọng Kim bàn về tình hình chính trị Việt Nam năm 1945 và vai trò của Việt Minh như sau: "Còn về phương diện người mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng nhăng chẳng đâu vào đâu cả.
Ai cũng nói vì lòng ái quốc, nhưng cái lòng ái quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa vị và quyền lợi, thành ra tranh giành nhau, nghi kỵ nhau rồi lăng mạ lẫn nhau... Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà mình thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái địa vị bàng quan mà thôi... Tôi vẫn biết việc chống Pháp chỉ có Việt Minh mới làm nổi... Nay Việt Minh đứng vào cái địa vị chống Pháp, tất là có cái thanh thế rất mạnh...". Không rõ trước khi "nhận thức lại", ông tiến sĩ có đọc những dòng này?
THIÊN PHƯƠNG

ĐIẾU CÀY – KẺ PHỤ TÌNH ?

Việc Điếu Cày và Hồng Ánh hiện đang sống với nhau như vợ chồng ở Mỹ ngay sau khi Điếu Cày đáp xuống sân bay, tôi đã biết từ lâu. Thực ra, Điếu Cày và Hồng Ánh đã bồ bịch từ trước khi Điếu Cày đi tù đi Mỹ, nên khi ra tù Điếu Cày lập tức đoàn tụ với người tình trong mộng âu cũng là dễ hiểu. Việc Điếu Cày phải đối phó, lên giọng đạo đức giả an ủi vợ con, âu cũng thông cảm được, nhưng dựng lên câu chuyện ly kỳ tưởng che mắt người đời với quá nhiều động cơ giả dối, cách thức phụ tình (tình vợ, tình con, tình đồng đội) thì thực Điếu Cày khiến người ta thấy thật đáng sợ.
Dương Thị Tân: Sao anh nỡ đành quên?
Ngay khi biết mình được Mỹ can thiệp cho định cư nhân đạo, ra khỏi nhà tù nhỏ, Điếu Cày chuẩn bị sẵn cho mình một kịch bản hoàn hảo vừa đến với người tình trong mộng vừa tạo được hình ảnh một anh hùng bất khuất bị rơi vào thế bị động, đẩy ra khỏi nhà tù- đất nước. So sánh với trường hợp Cù Huy Hà Vũ sẽ thấy ngay kịch bản “rùng rợn” này của Điếu Cày. Cù HUy Hà Vũ còn “mặc cả” chán chê, đưa cả vợ, thậm chí đòi đưa cả con đi theo nhưng do con Vũ đã trưởng thành, Mỹ không có nguyên tắc đặc cách nào cho diện này, còn nhà cửa, gia sản thì sắp xếp đâu vào đấy, nhưng Vũ không phải là chính trị gia, ngoài la to ra thì đầu rỗng tuếch. Điếu Cày thì khác, có quá nhiều thời gian cân nhắc trong tù về quyết định đi hay ở, thậm chí còn bàn bạc với bạn tù về hoạch định ra tù, động viên, an ủi nhau, chuẩn bị thư từ và kế hoạch hậu tù, gấp và giấu giếm tài tình tài liệu trong manh áo mỏng qua tất cả dàn con mắt xoi mói, kiểm tra kỹ lưỡng của đám mật vụ, hải quan VN mang đến Mỹ….
Điếu cày luôn nhận sự chỉ đạo của lãnh đạo tổ chức khủng bố “Việt Tân”
Từ đó có thể thấy, việc Điếu Cày tuyên bố ngay khi xuống sân bay là bị trục xuất đi Mỹ (khiến Bộ Ngoại giao Mỹ phản pháo) không kịp nhắn nhủ gì với vợ con (cũ), đi bằng đôi dép tổ ong, mặc manh áo mỏng khi có đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ tháp tùng ra tận sân bay, đưa từ Việt Nam sang Mỹ, transit qua sân bay Hồng Kong vẫn giữ nguyên hình hài “tố cáo tội ác cộng sản” và “chính sách nhân đạo của Chính phủ Mỹ”…cho thấy một kế hoạch não luyện của một chuyên gia truyền thông đẳng cấp.
Nhưng trời phụ mưu Gia Cát Lượng của Điếu Cày khi không thể lường hết diễn biến ngoài tưởng tượng. Điếu Cày giờ đây lộ sạch bách là thành viên Việt Tân lâu năm, chung tình với Việt Tân như với chính người tình trong mộng của ông ta. Ai đó than thở CLB NBTD bị Điếu Cày đặt vào tay Việt Tân mà không biết rằng chẳng qua trước đây nó chỉ là “thân hữu” gì gì đó của Việt Tân thì nay nó công khai ra là Việt Tân mới là chính chủ mà thôi.

ĐIẾU CÀY NGUYỄN VĂN HẢI ĐANG BỊ HẠ NHỤC TẠI MỸ

Không ai ngạc nhiên khi Điếu Cày, sau khi được xuất khẩu sang Mỹ bị ghẻ lạnh, nghi hoặc, thậm chí bị đe dọa bởi cộng đồng những người chống cộng cực đoan tại đây.
Ngay khi tới Mỹ, những tưởng màn đón tiếp ồn ĩ từ cộng đồng người Việt sẽ hứa hẹn cho một tương lai khá khẩm hơn đối với Điếu Cày. Ấy thế nhưng, niềm vui chưa tày gang, ngay tại phi trường LA, Điếu Cày đã buộc phải lựa chọn cờ đỏ hay cờ vàng ba sọc đỏ (người Việt Nam gọi đó là cờ ba que) của chế độ VNCH trong dĩ vãng để minh định con đường của mình.
1. Lươn lẹo
Một lần nữa, những người quan tâm lại chứng kiến sự gian manh, xảo trá của con người này khi ứng xử với hành động trao cờ của một người tham dự bằng động tác ngó lơ và gạt lá cờ sang một bên như không có gì. Từ đây, Điếu Cày trở thành tâm điểm của những những lời miệt thị, nghi kỵ về quan điểm chính trị của cộng đồng. Đặc biệt là những lời chỉ trích, phỉ báng từ những người có tư tưởng chống cộng cực đoan.
Thật ngạc nhiên, sự phỉ báng Điếu Cày không đến từ những người Việt trong nước, mà lại đến từ xứ sở mà trước đó, anh ta tôn thờ. Hành động của họ, quyết liệt tới mức, Điếu Cày không thể được yên, và buộc phải có buổi “điều trần” để giải thích cho hành động của mình.
Tại buổi “điều trần“, một lần nữa, anh ta lộ rõ là kẻ lươn lẹo khi tuyên bố, anh ta chỉ chấp nhận lá cờ nào mà cả người dân trong nước lẫn nước ngoài chấp nhận. Dĩ nhiên, lời tuyên bố này không làm hài lòng những người chống cộng giả hiệu (lừa đảo chống cộng để kiếm tiền của người Việt trên đất Mỹ) và cả những người chống cộng cực đoan. Đã có nhiều bài viết, dày đặc trên các trang mạng là những lời xỉ vả, kêu gọi tẩy chay Điếu Cày.
Hơn ai hết, Điếu Cày hiểu rõ, mạng sống, sự sinh tồn của mình đang bị đe dọa, và rằng không như anh ta nghĩ, khác với buổi ban đầu đến Mỹ, anh ta sẽ không thể có chỗ đứng trong cộng đồng và trở nên cô độc, lạc lõng. Chính vì điều này, chúng ta không hề ngạc nhiên khi thấy Điếu Cày buộc phải tham dự cái gọi là “lễ chào cờ VNCH” tại Washington DC với chiếc khăn làm biểu tượng cho cờ ba que quàng trên cổ.
Tất nhiên, buổi chào cờ và chụp ảnh này là một sự sắp đặt có chủ ý, và người đạo diễn cũng không bỏ lỡ cơ hội này để kéo Điếu Cày về hẳn phe của mình. Hình ảnh người phụ nữ già có tên Kim Oanh trực tiếp quàng khăn lên cổ Điếu Cày một cách ân cần làm cho người ta liên tưởng tới một sự khống chế, cắt đường về của đối tượng.
Có người đã hỏi, vì sao Điếu Cày không quàng hẳn một chiếc cờ ba que mà lại là chiếc khăn mang tính biểu tượng?
Câu trả lời vẫn là sự lươn lẹo của anh ta và nhóm người ủng hộ. (1) Chọn lá cờ, Điếu Cày sẽ vĩnh viễn trở thành kẻ phản bội đất nước và con đường trở về quê hương coi như chấm hết. (2) Trong khi đó, chọn chiếc khăn biểu tượng, anh ta sẽ phần nào làm hài lòng những người chống cộng cực đoan, và có thể xóa bỏ nghi kỵ trong cộng đồng người Việt tại đây, nhất là với những người nhẹ dạ cả tin. Mặt khác, anh ta vẫn có thể nói với bạn bè trong nước rằng, đó chỉ là một chiếc khăn ấm chứ đâu phải lá cờ (?!). Quả là một sự lươn lẹo đến khó tin.
2. Hậu quả
Ông Trần Nhật Phong, một nhà báo tự do từ Quận Cam, California, Hoa Kỳ, trong một bài viết có tựa “Điếu Cày và phép thử cờ vàng” đăng trên BBC đã phân tích rằng, Điếu Cày đã buộc phải lựa chọn cờ ba que, vì lá cờ này chính là phép thử quan điểm chính trị, và lựa chọn lá cờ nào sẽ quyết định đến khả năng tồn tại của anh ta trên đất Mỹ.
Giải thích cho hành động khống chế Điếu Cày, ông Phong cho rằng, “do các yếu tố từ quá khứ chiến tranh, từ những trò “chống cộng” giả hiệu để gạ gẫm tiền bạc, cho đến những bất đồng quan điểm giữa các thành phần trong cộng đồng”, và “sự cực đoan của một số người, luôn nhân danh lá cờ vàng ba sọc đỏ, hay nhân danh VNCH, nhân danh “đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền” để áp đặt những quan điểm của họ lên người khác, và nếu ai đó có ý kiến khác biệt sẽ bị qui chụp “Việt gian”, “tay sai Việt cộng” hay “làm lợi cho Cộng sản. Và kết quả sẽ là những cuộc biểu tình mang tính “áp đảo”, tẩy chay, đôi khi còn tệ hại hơn như các trường hợp đã bị sát hại ở thập niên 80 và đầu thập niên 90“.
Với các người quan tâm, thì Điếu Cày đã thực sự thất bại (ít nhất là để sinh tồn) kể từ khi anh ta phát biểu tại Washington DC, rằng “nhập gia tùy tục”, và chấp nhận quàng lên cổ một chiếc khăn biểu tượng cho cờ ba que.
Không ít người cho rằng, những người chống cộng cực đoan đang sỉ nhục Điếu Cày, bởi hình ảnh Điếu Cày ngồi yên để một phụ nữ thòng chiếc khăn vào cổ rồi cuốn lại, đã bác bỏ những hành động và phát ngôn trước đó của anh ta.
Có lẽ, lúc này đây, Nguyễn Văn Hải Điếu Cày đã thấm thía rằng, không đâu bằng quê hương, và không có nơi đâu anh ta lại nhận được sự tôn trọng như ở Việt Nam. Và có lẽ, trong tâm khảm mình, Điếu Cày cũng không thể ngờ được rằng, ngay tại miền đất mà anh ta hằng ngưỡng mộ, người ta lại có thể hạ nhục anh ta bằng lối hành xử phi dân chủ của những kẻ luôn mồm đòi dân chủ đến vậy.
Và đây là những nhận xét của một người có tên Hà Lu trên trang CXN: “Anh Hải vẫn chỉ nói chung chung nghe qua tưởng hợp lý, nếu suy xét kỹ lại có ý như moi tiền đồng bào hải ngoại bằng những câu: “Hải ngoại qua đấu tranh, kết hợp với anh em dân chủ trong nước. Trong ngoài liên kết hỗ trợ đoàn kết. Ủng hộ tiền tài, quyên góp từ thiện. Mở rộng Blog”. Và đây là gáo nước lạnh cho Điếu Cày: “Theo tôi anh Điếu Cày là cái thá gì? Trình độ hiểu biết học vấn có bấy nhiêu thôi sao cứ ép anh ta vào hàng ngũ người quốc gia chống cộng và mang cờ vàng? Dùng chữ nhập gia tùy tục nó chối tỷ quá cho cái gọi là đấu tranh chống cộng sản độc tài”.
Câu nói của người Việt, “kẻ gieo gió sẽ phải gặt bão” lại vẫn đúng ngay cả trên đất Mỹ.
Thật đáng đời.
Đáng tiếc, khi nhận ra thì đã quá muộn.

Lại thêm mấy "trò nhố nhăng" trong làng "dân chủ"!



Như là có sự phối hợp trong - ngoài, đầu năm 2015, sau khi một số kẻ chống cộng ở hải ngoại tổ chức cái gọi là "We march for Freedom" (chúng ta tuần hành vì tự do) thì ở trong nước, một số người cũng hè nhau phát động cái gọi là "chiến dịch tranh đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền". Và như nhận xét của người từng đứng chung hàng ngũ cùng mấy "nhà dân chủ" thì đây vẫn tiếp lục là... "trò nhố nhăng"!
Năm 2014, sau ngày Nguyễn Văn Hải đến Mỹ, trong bài viết có nhan đề Ông Nguyễn Văn Hải (Ðiếu cày) sẽ đi về đâu? đăng trên một trang mạng của người Việt ở nước ngoài, từ thực tế: "Trần Khải Thanh Thủy sau khi Việt tân khai thác hết giá trị thì lập tức bị tổ chức Việt tân tẩy chay, đã thành người dư thừa, bị Việt tân xem như kẻ gây bệnh dịch cho tổ chức. Cù Huy Hà Vũ cũng chẳng sáng sủa gì, nay cũng chỉ là "diễn viên chống cộng" khi các tổ chức thấy cần thuê", tác giả Kiến Phước cho rằng vì "trình độ không có, tiếng Anh mù tịt" nên có thể ngày nào đó "Nguyễn Văn Hải cũng bị lãng quên, chìm xuồng như Cù Huy Hà Vũ, bị chính tổ chức vứt bỏ một cách không thương tiếc như Trần Khải Thanh Thủy". Và tác giả còn đề cập giả thuyết: mấy người như Nguyễn Văn Hải có "mục đích hoạt động dân chủ là đến với đất nước tự do Mỹ, khi có cơ hội thì chộp ngay"!
Ðiều mà Kiến Phước đưa ra là có cơ sở, vì để sống ở Mỹ và tiếp tục duy trì "tiếng tăm người hùng", Nguyễn Văn Hải đã bị ép phải choàng lên cổ cái "khăn cờ vàng", phải nhập vào cộng đồng như trong bài Ðiếu cày và "phép thử cờ vàng" đăng trên BBC tháng 11-2014, Trần Nhật Phong đã viết: "Từ nhiều năm nay, do các yếu tố từ quá khứ chiến tranh, từ những trò "chống cộng" giả hiệu để gạ gẫm tiền bạc, cho đến những bất đồng quan điểm giữa các thành phần trong cộng đồng, đã dẫn đến một thực trạng tiêu cực trong cộng đồng mà ai cũng lắc đầu ngán ngẩm, đó là sự phân hóa và mất niềm tin lẫn nhau... Bên cạnh đó là sự cực đoan của một số người, luôn nhân danh lá cờ vàng ba sọc đỏ, hay nhân danh VNCH (Việt Nam Cộng hòa - người viết), nhân danh "đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền" để áp đặt những quan điểm của họ lên người khác, nếu ai đó có ý kiến khác biệt sẽ bị quy chụp "Việt gian", "tay sai Việt cộng" hay "làm lợi cho Cộng sản". Và kết quả sẽ là những cuộc biểu tình mang tính "áp đảo", tẩy chay, đôi khi còn tệ hại hơn như các trường hợp đã bị sát hại ở thập niên 80 và đầu thập niên 90".
Ý kiến của Trần Nhật Phong càng thêm sáng tỏ qua trả lời phỏng vấn RFA của Dương Thu Hương ngày 11-3. Chẳng là sau khi nhai lại mấy luận điệu nhàm chán mà trước sau chỉ nhằm chứng minh mình đã "chọn con đường làm giặc", sau gần chục năm sống tại trời Tây người này phải thốt ra những điều cay đắng và chua chát: "Bây giờ nhìn lại những phong trào chống cộng của người Việt hải ngoại, ta thấy cái gì? Trừ những vụ treo đầu dê bán thịt chó như Hoàng Cơ Minh ra, rất nhiều chính khách khác chỉ chờ cơ hội để về Việt Nam thương thuyết với cộng sản để chia ghế. Những nhà chống cộng ở đây tôi biết thì hoàn toàn là một thứ trò du hí để thỏa mãn cái lòng tự tôn của họ. Bởi vì sống ở nước ngoài họ không có một gương mặt hãnh diện, một vị trí xứng đáng cho nên là họ nêu chiêu bài chống cộng, nhưng lúc nào cũng ngóng chờ cộng sản chìa tay ra để trở về chia ghế. Và có những ông, cộng sản chưa cần mời đã vội vàng đến sứ quán làm lành trước... Cho nên cái tinh thần chống Cộng của tôi cũng giống như cái đuôi con chó, vẫy lên rồi vẫy xuống theo cái lợi ích của họ"!
Nhận xét nêu trên không có gì mới mẻ, vì nhiều người Việt ở nước ngoài từng nhận xét như vậy, tuy nhiên với Dương Thu Hương thì có sức nặng hơn, vì người này vốn "nổi tiếng" là có nhiều thành tích "chống cộng", lại được một số thế lực ở phương Tây ca ngợi, o bế và cưu mang, thậm chí có kẻ còn đề cử trao giải Nobel! Trên lộ trình chống cộng từ trong nước ra ngoài nước, xem ra người này đã nhận ra bản chất của mấy kẻ "cùng chí hướng" và đã thất vọng. Nên khi Ðào Trường Phúc, Nguyệt Ánh tổ chức ra cái gọi là "We march for Freedom" nhằm cung cấp thông tin cho "các tổ chức quốc tế và các quốc gia cấp viện, hầu góp phần đẩy mạnh cuộc vận động đòi tự do, dân chủ, nhân quyền cho đồng bào Việt Nam" (!) rồi hè nhau lang thang đàn hát ở châu Âu thì cũng chỉ là một trò hề. Vì mấy kẻ như họ từng diễn nhiều trò vè hơn thế và kết cục luôn chỉ là con số 0, điển hình là năm trước họ tổ chức cái gọi "chiến dịch thỉnh nguyện thư gửi Nhà trắng" rất rùm beng nhưng kết thúc không kèn không trống, bằng lòng với mấy câu trả lời chiếu lệ và dư âm còn lại là mấy màn hầm hè, cãi nhau ỏm tỏi,... làm trò cười cho thiên hạ.
Với những người tự nhận "nhà dân chủ, người yêu nước" ở Việt Nam, tình hình còn bi đát hơn. Ngày càng nhiều người lúc đầu vì cả tin mà đi theo họ, nhưng sau khi chứng kiến hành xử bất hảo của họ đã không muốn dây dưa. Hồi đầu năm, một facebooker có nick là Hồng Ðạt (nghe nói "từng xách va-li xuất ngoại học hỏi thế giới dân chủ bên ngoài"?) viết trên facebook cá nhân rằng: "Một lý do mà em muốn từ bỏ FB (Facebook - người viết) đơn giản chỉ thấy con đường tranh đấu của chúng ta càng ngày càng lệch hướng. Hầu hết tư tưởng đấu tranh không nhằm đoàn kết hướng đến lý tưởng chung mà chỉ nhằm cái mục đích quái gì chả hiểu. Kẻ vì tiền, người vì tình, kẻ thích nổi tiếng, người thích thể hiện đẳng cấp, kẻ ham ăn nhậu, người thích phô trương, kẻ ngồi đếm like, người nằm soi mói dìm hàng nhau, xúm lại là mang anh phản động A, chị dân chủ B ra bàn luận mổ xẻ". Giao du với mấy "nhà dân chủ, người yêu nước", chắc là Hồng Ðạt cũng thất vọng vì thấy đó chỉ là mấy "anh hùng bàn phím", trong xã hội thì họ kiếm sống bằng nghề "biểu tình viên", "tuyệt thực viên", "ăn vạ viên", "tưởng niệm viên" (như tổng kết của một blogger), còn trên internet thì họ thi thố mưu ma chước quỷ, bày đặt các trò xuyên tạc, đổi trắng thay đen, bịa đặt, dựng đứng, vu cáo, vu khống chính quyền,... đồng thời cũng là "đấu trường" giúp họ triệt hạ, tiến công lẫn nhau. Bởi thế qua internet có thể chứng kiến vô số cuộc đấu khẩu nảy lửa giữa mấy "nhà dân chủ, người yêu nước" chỉ để giành giật tài trợ từ hải ngoại, bôi xấu lẫn nhau ngõ hầu gỡ gạc uy tín với những kẻ đang đứng trong bóng tối và được BBC, RFA, RFI,... quan tâm. Cho nên lúc thì ông A bà B tố cáo ông C bà D biển lận tiền bạc; lúc mạt sát nhau hám danh, hám lợi; lúc lại xỉ vả nhau vì chiếm đoạt công sức của người khác; thậm chí là công khai loại trừ nhau khỏi "hội" này "hội" kia... Ðể làm sáng tỏ các hiện tượng này, có lẽ nên đề cập các phát biểu gần đây của người có tên là Nguyễn Chí Ðức.
Năm 2012, khi bức ảnh Nguyễn Chí Ðức bị bắt giữ được mấy "nhà dân chủ, người yêu nước" thi nhau đăng tải trên mạng, nhất là sau khi anh này tuyên bố ra khỏi Ðảng Cộng sản,... thì tên tuổi nổi lên như cồn. Vậy mà chỉ hơn một năm sau, Nguyễn Chí Ðức đã nhận ra những người "đồng hành" với anh là ai. Trả lời phỏng vấn Vietvision (kênh thông tin trên youtube của những người muốn "đem tiếng nói dũng cảm của những người dân yêu nước chân chính đến với không gian mạng"), Nguyễn Chí Ðức nói rõ "không ủng hộ việc đòi bỏ Ðiều 258 Bộ luật Hình sự, vì đó là điều luật được Quốc hội và Nhà nước nghiên cứu kỹ, có tầm ảnh hưởng chung trong xã hội", "không ủng hộ việc gặp người nước ngoài để qua đó gây áp lực với chính quyền". Qua một statuts trên facebook, Nguyễn Chí Ðức cho biết vì không thể dối lòng mình nên không a dua với mấy kẻ "chống Ðảng Cộng sản", "tuyên xưng là phản tỉnh, dân chủ để vinh danh VNCH", "Tôi đã từng gặp hai lần nhân viên Ðại sứ quán Mỹ và tôi cũng nói rõ lập trường của mình rằng "... vấn đề dân chủ thì chính chúng tôi những người trong nước mới quyết định. Không cho phép bất kỳ nước nào can thiệp", và "Ðọc báo BBC, RFA, RFI, VOA mà không đọc báo chí trong nước thường xuyên để cân bằng thì dễ bị ngộ độc "cuồng chống Cộng"...", "Gần đây thậm chí có những nhà hoạt động không thèm quan tâm đến cả báo trong nước lẫn nước ngoài mà chỉ lướt trên FB thì lại rơi vào trạng thái "mộng du" nhận thức dẫn đến hoang tưởng. Chính cái tình trạng láo nháo trên FB, thật giả, cực đoan/chém gió lẫn lộn cho nên gián tiếp khiến BBC, RFA, RFI, VOA thành hàng chợ". Với cái gọi là "nhà dân chủ, người yêu nước", Nguyễn Chí Ðức coi những người này: "Toàn bọn xôi thịt vì bản thân hơn là vì đại cuộc, toàn ý đồ "nước nổi thì bèo nổi" nhưng nước đã nổi đâu mà bèo đã ngoi lên rồi"! Với mấy cái gọi là "tổ chức xã hội dân sự" được lập ra chủ yếu để hò hét trên internet, trong một VIDEOC lip tự quay công bố trên youtube, Nguyễn Chí Ðức coi đó chỉ là hoạt động "tào lao, chẳng có giá trị gì", các hội đoàn "tự phát, tự phong" mang danh "xã hội dân sự" cũng tào lao không kém, chỉ đánh phá lẫn nhau, không "giúp ích cho dân, cho nước"!
Từ ý kiến của Nguyễn Chí Ðức suy ra, dù tô son, trát phấn bằng ngôn từ mỹ miều thế nào, cái gọi là "chiến dịch tranh đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền" cũng chỉ là trò tào lao. Cái "chiến dịch tranh đấu" đó đang được một số địa chỉ trên internet tung hô như trò diễn mới, song bằng vào mục đích, điểm mặt đào kép tham gia diễn trò thì không có gì mới mẻ, vì vậy chắc chắn họ sẽ nhận kết cục thảm hại không kém. Tuy nhiên, nếu họ thật sự yêu nước, có động cơ lành mạnh để phấn đấu vì một nền dân chủ đích thực thì nên đọc ý kiến của một người đã viết trên facebook của Nah Sơn - "thần tượng" rác rưởi của BBC, RFA,... rằng: "Nhìn vào cuộc sống rồi biết trân trọng một tí đi, hãy để cho trẻ em được yên ổn đến trường, được vui chơi, được ba mẹ đông đủ bên bàn cơm, để yên cho các cụ già yên tĩnh nghỉ ngơi xế chiều. Ðừng biến Việt Nam tươi đẹp này thành bãi đổ nát dân chủ như Syria, Iraq, Lybia, Ukraina..."!
HỒNG QUANG