Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2015

Mạo danh khoa học để tuyên truyền "chống cộng"

Ngày nay, khi in-tơ-nét (internet) đã trở thành "sân chơi" của nhiều người thì sự ra đời, tồn tại một website nào đó cũng là điều bình thường. Do vậy, sự có mặt của một website tiếng Việt có tên gọi gắn với "triết học" cũng không có gì đáng ngạc nhiên và cũng không phải phê phán nếu trên thực tế, xu hướng "chống cộng" của website này đang lôi cuốn một số người tham gia.
Ra đời vào năm 2011, đến năm 2013, địa chỉ giao lưu tương tác với người hâm mộ (fanpage) gắn với hai chữ "triết học" nhưng lại ở đường phố (!) và trang web cùng mang tên này của Nguyễn Hoàng Huy - hiện đang sống tại Mỹ, vẫn chưa được nhiều người quan tâm, ngay cả khi anh ta xuất hiện trên một, hai tờ báo trong nước để tự quảng bá cho thứ "triết lý đường phố" của mình. Nhưng hơn một năm nay, số người theo dõi, bình luận trên website này tăng rất nhanh, trong đó có nhiều bạn trẻ ở trong nước. Phải chăng Nguyễn Hoàng Huy đã thành công với quan niệm: "Nhiều người vẫn nghĩ triết học, triết lý phải cao siêu, phức tạp, khó hiểu nên mình muốn phá vỡ thành kiến đó"? Hay vì anh ta đã và đang cố biến website của mình trở thành "một thương hiệu chống cộng" dưới vỏ bọc truyền bá tri thức?
Thời gian đầu, website của Nguyễn Hoàng Huy không có gì nổi bật. Anh ta tự nhận chỉ là người thích đọc, sưu tầm những câu danh ngôn, châm ngôn, triết lý cho nên lập fanpage để chia sẻ điều mình tâm đắc. Thực tế trên facebook cũng có một số trang của người Việt Nam có nội dung y hệt, hay na ná như thứ "triết học" Nguyễn Hoàng Huy đã diễn tả (một trang web đã bị Bộ Thông tin và Truyền thông rút giấy phép vĩnh viễn đôi khi cũng có một số triết lý kiểu này). Rồi anh ta và mấy "triết gia tự phong" bắt đầu thay đổi chiến thuật. Tháng 12-2013, website này cho ra đời mục "hàn lâm" trong chuyên mục "triết học". Ðặc điểm chung của nhóm bài đăng ở đây là đều trực tiếp, gián tiếp xuyên tạc, hạ thấp Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ nghĩa Cộng sản trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tiếng là "hàn lâm" nhưng nhiều tác giả dường như cũng "ngoại đạo" về triết học cho nên chữ nghĩa của họ rất ngô nghê, dẫn chứng bịa đặt, lập luận chắp vá. Mở đầu loạt bài tùy tiện, bậy bạ trong mục này là bài bàn về học thuyết Các Mác - V.I.Lê-nin. Có lẽ vì tay nghề của Chu Chi Nam - một kẻ chống cộng, quá yếu kém trong khi mục đích thâm hiểm lại lộ rõ cho nên lập tức bị tác giả Nguyễn Vương Tuấn vạch trần. Tuy nhiên, không hiểu sao bài viết của Nguyễn Vương Tuấn, dù rất có tính học thuật, lại chỉ được xếp vào mục bài liên quan thay vì phải ở mục "hàn lâm" như vị trí xứng đáng của nó? Không lẽ Nguyễn Hoàng Huy và người cùng chí hướng với anh ta lại nhầm lẫn? Chắc không phải vậy, bởi cũng trong mục "hàn lâm" này, anh ta đăng tải rất nhiều bài viết của các tác giả chống cộng là người Việt. Trong đó, có thể kể đến mấy cái tên như Mặc Lâm ở RFA, hay Nguyễn Hưng Quốc - blogger trên VOA...
Kể từ khi đăng tải các bài kiểu này, website của Nguyễn Hoàng Huy "nổi tiếng" lên hẳn. Ðể thoát khỏi ảnh hưởng của mấy cây bút chống cộng kỳ cựu và tạo "bản sắc riêng" cho website của mình, Nguyễn Hoàng Huy và đồng nghiệp bắt đầu thử sức. Dù hầu như rất thiếu hiểu biết cơ bản về triết học, nhưng mấy người này vẫn tự xếp bài vở của họ vào chủ đề triết học như để nói mớ cho oai! Chẳng vậy mà trong bài nhan đề "Gửi Việt Nam và Hong Kong, dân chủ không phải là cái chúng ta cần đấu tranh", Nguyễn Hoàng Huy hùng hồn đưa ra những định nghĩa chỉ anh ta mới có, đại loại như: dân chủ là đa số thắng thiểu số, dân chủ là 51% được quyền đưa ra quyết định cho 49% những người còn lại... Phải nói rằng đó là những ý kiến hết sức phiến diện, ngớ ngẩn về dân chủ. Có lẽ cũng biết trí lực có hạn, vừa viết Nguyễn Hoàng Huy vừa rào trước đón sau: "Tác giả có nói trước là sẽ không trả lời bình luận hay phản biện cho bài viết này. Ðây chỉ là một bài viết đọc tham khảo cho biết" và để chắc ăn, anh ta vô hiệu hóa luôn quyền bình luận bài viết này! Thế nên, dù website của Nguyễn Hoàng Huy luôn giơ cao khẩu hiệu "tiếng nói của những người trẻ tự do", thì đọc bài vở của nó sẽ phải đặt câu hỏi: Phải chăng ở đó "tự do" bị bó hẹp theo ý muốn của người chủ trì và người tham gia chỉ biết chăm chăm tin vào những thứ được đăng tải?
Trên website này, xăng xái hơn Nguyễn Hoàng Huy là người có nick Ku Búa. Ku Búa tỏ ra là một kẻ giỏi "câu like" và "chịu ăn gạch" (như ngôn từ của giới trẻ). Càng viết Ku Búa càng tự chứng tỏ bản thân rất kém về nhiều mặt, từ khả năng tư duy, cách viết bài, lấy tư liệu dẫn chứng đến dịch thuật. Ngược lại, Ku Búa lại khá năng nổ khi đều đặn công bố bài viết trên các mục của website bất chấp bị cộng đồng mạng chê bai. Quá chán với đề xuất của Ku Búa, độc giả có nick là thanha phải phàn nàn: "Chưa biết triết học tới đâu, chứ thấy kinh tế mà phán một cách ngắn tủn và yếu kém như thế, thôi đừng làm chủ đất nước cho em yên ổn!". Thẳng thắn hơn, độc giả Cao Vũ viết: "Xin lỗi chứ bạn là một người không biết một tí gì về thuế, quản lý thuế và ngân sách nhà nước. Thậm chí kiến thức cơ bản của kinh tế cũng không biết". Ðó là sở đoản của Ku Búa, còn sở trường về triết học, chính trị của anh ta còn thảm hại hơn. Thay vì đọc tận cùng, thấu đáo một tác giả triết học hay trào lưu, xu hướng triết học nào đó để rút ra kết luận, thì bắt chước Nguyễn Hoàng Huy, Ku Búa chỉ là người lên các trang danh ngôn lấy mấy câu mình thích rồi đem về dịch. Cái nhìn về cuộc sống của Ku Búa thì đúng là thảm họa. Có lẽ bị ảnh hưởng nhiều bởi những bài báo phiến diện như "choáng" với cái này, "sốc" với cái kia,... Ku Búa hùng hồn viết "23 điều vô lý chỉ có ở Việt Nam". Nhưng hóa ra 23 điều ấy chỉ có mỗi Ku Búa cùng một số người thấy vô lý còn hầu hết đều diễn ra ở rất nhiều quốc gia văn minh trên thế giới!
Trong nội quy trang web và những lời bộc bạch của mình, Nguyễn Hoàng Huy luôn khẳng định: "Ðể được đăng bài trên trang web, tất cả các bài viết phải đạt được những tiêu chuẩn, chi tiết nhất định, những ai làm việc chung với tôi lâu ngày đều biết tôi là một người rất chú ý tới chi tiết, một dấu chấm, dấu phẩy sai quy tắc cũng khiến tôi khó chịu. Nên những ai không thật sự nghiêm túc sẽ khó có thể đạt được những tiêu chuẩn đó". Nhưng căn cứ vào những gì anh ta đã thể hiện trên website thì đó chỉ là làm dáng, một cách nói lấp liếm nhằm che giấu khiếm khuyết tri thức và sở học của cá nhân. Hơn nữa, Nguyễn Hoàng Huy lại sẵn sàng xóa nhiều comment của độc giả chỉ vì "vì tính tôi không thể chịu được những người thiếu hiểu mà khoái phát biểu lung tung" như khi một độc giả nghi ngờ về tác dụng của chất gây ảo giác Ayahuasca trong bài viết "Tôi đã gặp thần chết (nghĩa đen) và sống sót trở về sau 5 hits DMT (Ayahuasca)". Ngược lại, theo mục đích hoặc trình độ của mình, Nguyễn Hoàng Huy và đồng nghiệp sẵn sàng bỏ qua rất nhiều lỗi sai của các bài viết khác? Ðiển hình là bỏ qua nhầm lẫn cơ bản trong bài viết của Hồ Nhất Duy. Bài viết chống cộng này đề cập một câu nói của Ngô Ðình Diệm, mà thật ra đó lại là câu nói của Nguyễn Văn Thiệu! Và cũng phải sau mấy ngày, chủ trang mới nhận ra sai sót sau phản ánh của độc giả Cao Vu: "Câu nói này hình như của Nguyễn Văn Thiệu chứ đâu phải Ngô Ðình Diệm do đó tôi nghi ngờ trình độ "sinh viên" của bạn. Thứ hai, việc bạn kết nạp Ðoàn không còn bắt buộc nữa, bạn có quyền từ bỏ và chẳng ai bắt bạn kết nạp Ðảng cả, kể cả có làm công chức. Bạn làm ở khu vực tư nhân hay nước ngoài thì ai bắt bạn kết nạp Ðảng mà thăng với chả tiến. Tôi cũng không biết bạn có đi Mùa hè xanh hay chưa mà phát biểu như thế, nếu bạn đi rồi mà vẫn nói như thế thì bạn cũng chẳng hơn cái đám đi mà tự sướng như bạn nói đâu".
Việc admin của website xóa ý kiến bất đồng với quan điểm họ diễn ra thường xuyên, bất chấp hầu hết trong số đó là góp ý chân thành, có văn hóa; ngược lại thì nhiều bình luận văng tục, chửi bậy, nói càn vẫn nhởn nhơ. Ðiều này gây bức xúc đến nỗi tác giả KR phải viết bài "5 nhận định về cách lập luận chính trị ở Việt Nam", trong đó khuyên các thành viên của website: "Không nên tranh luận theo kiểu cãi bướng, cứ đinh đinh cái định kiến rằng bên mình luôn đúng và bên kia luôn sai (...) tranh luận là giải quyết vấn đề bằng ngôn ngữ, lập luận, chứ không phải cãi nhau ngoài đường, bên nào chửi cho bên kia im miệng là thắng (...) thứ chúng ta tranh luận là những vấn đề hiện nay, với những cá nhân sống trong thời đại này chứ không phải vào thời nào đó. Cho nên việc lôi lịch sử ra để xuyên tạc phán xét là hành động không hợp lý và mang tính thù địch hơn là tranh luận".
Ngày 19-9-2013, trong bài viết đã đăng trên một trang mạng ở trong nước, Nguyễn Hoàng Huy không giấu ý định sẽ biến website của anh ta trở thành một thương hiệu sinh lời. Tuy nhiên, xét đến cùng thì website đó không phải là "sân chơi triết học", mà đó đích thực là diễn đàn của tham vọng chính trị thông qua thái độ chống cộng, và cổ xúy cho loại ý kiến ngô nghê, ngông cuồng... Do vậy, nếu các bạn trẻ muốn xây dựng cho mình một tư duy lành mạnh thì hãy tìm đến các vấn đề triết học nghiêm túc, và cơ quan báo chí nào muốn quảng bá cho Nguyễn Hoàng Huy cũng cần tìm hiểu anh ta là ai, anh ta đã và đang làm gì.

Thứ Sáu, 17 tháng 4, 2015

Trường hợp Võ Phiến


Võ Phiến hoặc Tràng Thiên là bút danh của Ðoàn Thế Nhơn (1925) - nhà văn ở miền nam trước năm 1975, hiện định cư ở Mỹ. Văn nghiệp của Võ Phiến khá phức tạp mà nổi lên là xu hướng "chống cộng" cho nên được chính quyền Sài Gòn trước đây và một số người ca ngợi (!). Vừa qua, vì "được biết một tổ chức phi chính quyền trong nước đang có kế hoạch tích cực phổ biến những tác phẩm Võ Phiến chứa nội dung chính trị sai lầm", nên từ Mỹ, tác giả Thu Tứ (bút danh của Ðoàn Thế Phúc - một người con của Võ Phiến) đã viết bài Trường hợp Võ Phiến nhằm phản bác kế hoạch nêu trên.
Dù viết về quan điểm chính trị - xã hội trong tác phẩm của cha mình, nhưng tác giả Thu Tứ đã có cách tiếp cận khách quan, để đưa ra một số lý giải, kết luận. Ðược sự đồng ý của tác giả, trong hai số báo ra ngày 7-10 và 10-10, Báo Nhân Dân trích đăng bài viết để bạn đọc tham khảo, qua đó nhận diện một người viết văn với nội dung chính trị sai lầm trong văn nghiệp của mình, đã đi ngược lại sự nghiệp chân chính của dân tộc như thế nào (Có thể đọc các tác phẩm của tác giả Thu Tứ tại website cá nhân gocnhin.net)...
Chẳng ai muốn chỉ ra cái sai của người đẻ ra mình! Chúng tôi làm việc này vì vừa được biết một tổ chức phi chính quyền trong nước đang có kế hoạch tích cực phổ biến những tác phẩm của nhà văn Võ Phiến chứa nội dung chính trị sai lầm. E rằng việc làm của họ có thể khiến một số người đọc hoang mang, ảnh hưởng tới đoàn kết dân tộc, chúng tôi quyết định tự mình phản bác nội dung này. Chúng tôi cảm thấy có một chút trách nhiệm về việc làm nêu trên của tổ chức phi chính quyền kia. Số là, trong hai năm qua, NXB Thời đại và Công ty Nhã Nam ở Hà Nội có in lại hai tác phẩm của nhà văn Võ Phiến là Quê hương tôi và Tạp văn. Cả hai tác phẩm này đều do chúng tôi chọn lựa và biên tập, theo sự ủy quyền từ lâu của thân phụ. Chúng tôi cố gắng chọn những tác phẩm giá trị nhất, không chứa hoặc chứa rất ít nội dung chính trị. Nếu có nội dung chính trị, khi biên tập chúng tôi loại bỏ hết. Mục đích của việc chọn và bỏ như thế là đưa những thành tựu văn học đỉnh điểm của văn nghiệp Võ Phiến đến với người đọc mà không gây hại cho nước. Chúng tôi đã tưởng mình thế là chu đáo với nhà, với nước! Hóa ra, việc hai tác phẩm Quê hương tôi và Tạp văn được người đọc trong nước đón nhận khá tốt lại chính là cái nền rất tiện lợi cho tổ chức kia toan đặt lên đấy thứ nội dung hoàn toàn bất ổn trong tác phẩm của Võ Phiến! Chuyện đang xảy ra còn làm chúng tôi sốt ruột về tương lai. Sẽ hết nhóm nọ đến phe kia những lúc nào đó đem vận dụng văn nghiệp Võ Phiến một cách có hại cho đất nước. Phải làm cho thật rõ về cái phần nội dung chính trị sai lầm trong văn nghiệp ấy ngay từ bây giờ.
Chúng tôi còn một lý do nữa khiến việc lên tiếng càng không thể tránh được. Do quan hệ đặc biệt và do ở gần nhà văn Võ Phiến trong không biết bao nhiêu năm, chúng tôi được nghe tận tai những phát biểu của ông về tình hình đất nước mà chắc chắn chưa ai từng nghe. Ngoài ra, do yêu thích văn học, chúng tôi đã đọc rất kỹ tất cả tác phẩm của Võ Phiến. Hơn nữa, chúng tôi còn đọc để soát lại trước khi đưa in phần lớn tác phẩm của Võ Phiến tái bản hoặc xuất bản ở nước ngoài. Kết quả của không biết bao nhiêu lượt nghe những lời phát biểu thoải mái và đọc rất kỹ tác phẩm là: không ai có thể biết lập trường chính trị và cách nhìn lịch sử của nhà văn Võ Phiến rõ bằng chúng tôi. Cái biết ấy trong tình hình lập trường bất ổn và cách nhìn cũng bất ổn đang được một số người tìm cách tái phổ biến, nó trở thành một sức nặng bắt chúng tôi phải bất chấp quan hệ tối thân thiết mà lên tiếng chỉ sai.
Trước khi về thăm quê hương lần đầu năm 1991, chúng tôi đã tuyệt đối tin những nghĩ ngợi của thân phụ mình về chuyện đất nước thời chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ. Chúng tôi về nước rất nhiều lần, mỗi lần rất lâu, thăm thân rất ít, coi như toàn bộ thời gian ở trong nước dành cho việc đi tham quan, chủ yếu tại miền bắc. Chúng tôi không ở khách sạn sang trọng, không đi "tua", mà ở những nhà khách rẻ tiền, đi xe khách, xe ôm, xích-lô, có lần mua xe đạp đạp dạo quanh vùng ngoại ô Hà Nội thường xuyên đến nỗi có người ngồi chợ tưởng nhầm là dân buôn! Với lối đi tham quan như vừa nêu, chúng tôi trở nên rất đỗi hoang mang! Chúng tôi thấy người Việt Nam ngoài bắc vui vẻ, bình thản, vừa giữ được phần lớn nền nếp cũ, lại vừa có thêm cái phong cách "cách mạng", mọi người bình đẳng, cũng rất hay. Bấy giờ miền bắc cũng như cả nước, đang có một số hiện tượng xã hội tiêu cực do kinh tế trì trệ kéo dài, vật chất rất thiếu thốn, nhưng nhìn chung người tuy nghèo mà văn hóa tinh thần rất đáng hãnh diện. Ðâu là cái ảnh hưởng cực xấu của chủ nghĩa cộng sản đối với văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam mà mình đã đọc thấy trong tác phẩm của người đẻ ra mình?! Than ôi, hóa ra chỉ là kết quả của những kinh nghiệm rất giới hạn cả về không gian lẫn thời gian cộng với những câu chuyện kể của một ít bạn bè người miền trung cùng hoàn cảnh, một số đồng nghiệp người bắc di cư, vài cán bộ cộng sản "hồi chánh", thêm vài tác phẩm "nhân văn giai phẩm", tất cả được một trí tưởng tượng hết sức phong phú và một tâm lý đặc biệt bi quan suy diễn nên!
Ngoài cái biết trực tiếp như vừa nêu, nhờ thói quen hay đọc sách báo mà chúng tôi biết thêm được vô số chuyện lạ đối với mình. Từ văn hóa, chúng tôi tìm hiểu sang lịch sử, mới biết đến, hay biết rõ nhiều chuyện đất nước rất to, như Tuyên ngôn Ðộc lập, Hà Nội kháng chiến 60 ngày đêm, chiến dịch Biên giới, chiến dịch Ðiện Biên Phủ, mà cho đến lúc ấy hoặc chưa nghe bao giờ hoặc chỉ nghe hết sức loáng thoáng với lời bình phẩm hạ giá kèm theo. Những "voi" sự kiện theo nhau lù lù bước ra từ quá khứ khiến chúng tôi hết sức bỡ ngỡ! Vì đã bị "tuyên truyền" rất kỹ, cũng phải đến hơn 10 năm sau lần về nước đầu tiên, sau khi nghĩ đi nghĩ lại không biết bao nhiêu lần, chúng tôi mới thấy được thật rõ ràng lịch sử dân tộc trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến 1975 thật ra là như thế nào...
Nhà văn Võ Phiến viết nhiều thể loại. Lập trường chống cộng của ông được đưa ra rải rác khắp nơi trong nhiều loại tác phẩm khác nhau, khi là hẳn một bài tạp luận hay tạp bút, khi là lời nhân vật trong truyện ngắn hay truyện dài, khi là những đoạn trong một tác phẩm phê bình hay nhận định văn học, v.v. Lập trường chống cộng của nhà văn Võ Phiến liên hệ đến ba vấn đề: giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, chọn lựa ý thức hệ.
Về giải phóng dân tộc, nhà văn Võ Phiến khẳng định không có nhu cầu! Ông cho rằng sớm muộn Pháp cũng trả độc lập cho ta, viện dẫn những chuyện xảy ra trên thế giới. Ðúng là đế quốc Anh đã tự giải tán trong hòa bình. Nhưng Pháp không phải là Anh. Pháp cương quyết tiếp tục giữ thuộc địa và cướp lại những thuộc địa tạm mất trong Thế chiến thứ hai. Song song với hành động tái xâm lược ở Việt Nam, tháng 8-1945 quân đội Pháp thảm sát hàng chục nghìn người dân nổi dậy ở thành phố Xê-ríp, An-giê-ri (Sérif - Algérie), và từ tháng 3-1947 đến tháng 12-1948 đàn áp kháng chiến ở Ma-đa-ga-xca (Madagascar), giết có thể đến hơn 100.000 người! Ngay cả sau khi thua to ở Ðiện Biên Phủ, phải chấp nhận rút khỏi Việt Nam, Pháp vẫn cố giữ Algérie để rất nhiều máu phải đổ nữa rồi mới chịu thôi làm đế quốc... Nhà văn Võ Phiến nhắc đến việc những miền đất ở châu Phi được Pháp trả lại độc lập dễ dàng: thì chính những nơi ấy đã may mắn được hưởng thành quả rực rỡ của kháng chiến Việt Nam và kháng chiến Algérie đấy chứ! Mà thực ra cũng không phải may mắn: ai cũng biết những "nước" Phi châu mới kia chỉ có cái vỏ độc lập chứ ruột thì vẫn nằm trong tay Pháp. Từ ngày "độc lập" năm 1960, các nước ấy đã bị Pháp ngang nhiên can thiệp quân sự hơn 30 lần! Vai trò áp đảo của Pháp trong vùng rõ ràng tới nỗi từ lâu đã sinh ra cái từ Francafrique: Phi nhưng mà "Phi Pháp"! Dân tộc Việt Nam với ít nhất hai mươi mấy thế kỷ văn hiến, dân tộc Việt Nam mà chính toàn quyền Ðông Dương Pôn Ðu-me (Paul Doumer) đã nhận xét là nhất ở Ðông - Nam Á, phải qua đến Nhật mới gặp được trình độ tương đương (dẫn theo Phạm Cao Dương, Lịch sử dân tộc Việt Nam, NXB Truyền thống Việt, California 1987), dân tộc ấy lại ngồi chờ giặc thua to ở nơi khác, ban phát cho một thứ gọi là độc lập hay sao?! Sau Thế chiến thứ hai, không phải đế quốc nào cũng chọn buông thuộc địa. Chính dân tộc Việt Nam Anh hùng đã dẫn đầu những dân tộc bị trị trong việc bắt thực dân Pháp phải buông thuộc địa... Lý luận "không cần kháng chiến" hoàn toàn không có giá trị. Gốc của nó là ở ý muốn bào chữa cho những người không tham gia kháng chiến và cái ý muốn phủ nhận công lao to lớn của Ðảng Cộng sản Việt Nam và ở một tâm lý tự ti về văn hóa dân tộc mà chúng tôi sẽ trình bày sau.
Về thống nhất đất nước, nhà văn Võ Phiến đặt chống cộng lên trên thống nhất đất nước. Sau khi thua ở Ðiện Biên Phủ, đế quốc Pháp phải chấp nhận rời khỏi nước ta. Cuộc kháng chiến lâu dài, anh dũng do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã thành công! Nhưng một số người Việt Nam - những người không tham gia kháng chiến hoặc theo giặc đàn áp kháng chiến (!) - không chịu để toàn dân đi bầu tự chọn chính quyền mà dựa vào thế lực siêu cường Mỹ dựng lên một "nước" trên một nửa nước! Tổ tiên ta bao nhiêu công phu, xương máu, qua bao nhiêu đời mới mở được chừng này đất, để bây giờ đất chia hai sao? Dân tộc Việt Nam mấy nghìn năm trải qua bao lượt thử thách vẫn là một để bây giờ thôi là một sao? Hễ có cơ hội, phải cố hết sức thống nhất đất nước. Cơ hội đã có: từ năm 1960, chính quyền Ngô Ðình Diệm bắt đầu lung lay, khởi đầu do một số đảng phái bất mãn về chính sách, sau đó do đông đảo Phật tử đấu tranh chống thiên vị tôn giáo. Năm 1963, chính quyền Ngô Ðình Diệm bị lật đổ. Tiếp theo là đảo chính liên miên. Nhân tình hình thuận lợi, quân kháng chiến miền nam và quân đội miền bắc tiến công mạnh mẽ. Ðâu muốn chết đến người Mỹ, nhưng thấy "tiền đồn Việt Nam Cộng hòa" quá nguy ngập, Mỹ đành gấp rút cho hơn nửa triệu lính đổ bộ. Chính quyền Sài Gòn trở nên tạm ổn định, khoản tiền viện trợ lớn lại gây ra nạn quan chức tham nhũng hết sức trầm trọng. Tổn thất sinh mạng binh lính Mỹ, ảnh hưởng tai hại đến kinh tế Mỹ, sự kiên cường của kháng chiến ở miền nam và quân dân miền bắc, cùng với sự bất lực của chính quyền Sài Gòn, khiến nội bộ Mỹ trở nên chia rẽ trầm trọng, dẫn đến quyết định rút hết quân. Chỉ hai năm sau khi lính Mỹ rút, nước Việt Nam thống nhất. Tổn thất hơn 210.000 lính chết và bị thương, thả xuống gấp 3,5 lần lượng chất nổ đã thả trong Thế chiến thứ hai (!), tiêu tốn gần một nghìn tỷ USD (tính theo giá USD năm 2011), mà siêu cường Mỹ rút cuộc vẫn thất bại trong ý đồ chia hai nước ta... Mỹ thảm bại, chắc chắn có một phần do đã ủng hộ một chính quyền không được lòng dân. Bất chấp cơ hội thống nhất đất nước đã tới, nhà văn Võ Phiến vẫn tiếp tục ủng hộ sự tồn tại của chính quyền Sài Gòn. Ðó là một lập trường đi ngược lại với lý tưởng dân tộc.

Về chọn lựa ý thức hệ, nhà văn Võ Phiến tuyệt đối bác bỏ chọn lựa chủ nghĩa cộng sản. Chọn lựa một chủ nghĩa, phải trên cơ sở nhu cầu đất nước và phải căn cứ vào kết quả cụ thể.
Xét nhu cầu, thời Pháp thuộc có nhu cầu hết sức lớn là đánh đuổi giặc Pháp. Ðến cuối thập niên thứ nhất thế kỷ 20, nỗ lực cứu nước của các nhà Nho đã coi như hoàn toàn thất bại. Công cuộc giành lại độc lập đòi hỏi một đường hướng mới. Ðúng lúc ấy bên Tây phương nảy ra một thứ chủ nghĩa nhiệt liệt bênh vực người bị áp bức, với những phương cách rất cụ thể để tổ chức họ thành lực lượng đấu tranh lợi hại. Quốc gia tiên phong ứng dụng chủ nghĩa ấy là Liên Xô, một cường quốc. Ở Việt Nam đang có vô số người bị áp bức, nếu chọn chủ nghĩa cộng sản thì trước mắt có phương tiện để tổ chức họ thành đoàn thể chặt chẽ, thêm về lâu dài có thể có được nguồn ngoại viện cần thiết cho kháng chiến: tại sao lại không? Thời Pháp thuộc còn có nhu cầu khác cũng rất quan trọng là cải cách xã hội để san bằng những chênh lệch quá độ nảy sinh như một kết quả của tình trạng đất nước bị ngoại nhân cai trị lâu ngày. Tuy ở nước ta không có vấn đề giai cấp như một kết quả của cấu trúc xã hội truyền thống, trong thời Pháp thuộc đã xảy ra chênh lệch giàu nghèo quá độ, vì lúc bấy giờ, quan lại điển hình không còn là cha mẹ dân, không lo cho dân nữa, mà vừa ngay ngáy lo phục vụ giặc cho thật kỹ, vừa ngày đêm "tận tụy" bóc lột dân! Dưới quan, bọn hào lý cũng bận bịu "hai lo": một phục vụ quan, hai bóc lột dân! Và vì trên quan dưới hào đều không vì dân, cho nên các địa chủ cũng tha hồ bóc lột! Chủ nghĩa cộng sản có vẻ là một phương tiện tốt để thực hiện việc cải cách này, tại sao lại không chọn?
Xét kết quả, đối với hai đại sự là giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, chủ nghĩa cộng sản rõ ràng là chọn lựa đúng. Nhờ đông đảo nhân dân đoàn kết chặt chẽ với tinh thần hy sinh cao độ và nhờ có ngoại viện cần thiết, mà cả hai đại sự đã thành công tốt đẹp. Ðối với việc cải cách xã hội, tuy trong một thời gian đã xảy ra sai lầm khiến một số người bị xử oan, nhưng mục đích san bằng bất công đã đạt được. Nhân đây cũng nên nói về ý nghĩa của việc "sửa sai". Nó chính là một thí dụ về khả năng Việt hóa món nhập ngoại của dân tộc Việt Nam... Tiếc một phần do hoàn cảnh chiến tranh, trong cải cách ruộng đất việc xem xét lại đã không được tiến hành kịp thời. Nhìn chung, ở miền bắc văn hóa dân tộc đã làm mềm hẳn chủ nghĩa cộng sản, với kết quả là một xã hội về cơ bản vừa giữ được những giá trị truyền thống tốt đẹp, vừa có một cái không khí bình đẳng hơn trước cũng tốt đẹp. Nghĩa là, ít nhất trong khung thời gian liên hệ, việc chọn chủ nghĩa cộng sản không có gì sai...
Trong khi những người cộng sản Việt Nam lập hết công giải phóng dân tộc đến công thống nhất đất nước, cùng lúc dần dần cải cách ý thức hệ cộng sản cho hợp với văn hóa truyền thống và điều kiện xứ sở, thì nhà văn Võ Phiến hững hờ với giải phóng, thờ ơ với thống nhất, đem toàn lực tiến công cái bản gốc của ý thức hệ ấy! Ông bảo chủ nghĩa cộng sản là xấu. Trông vào kết quả trên nhiều mặt, rõ ràng nó chẳng xấu cho đất nước, quê hương một chút nào!
Ngoài lập trường chống cộng, tác phẩm của Võ Phiến còn chứa một cái nhìn về lịch sử dân tộc trong thế kỷ 20. Ở đây có lẽ nên nhắc ngay đến cái khuynh hướng phân tích tâm lý nhân vật "chẻ sợi tóc làm tư". Thật ra không chỉ khi viết truyện mà cả trong đời sống ông cũng thế, cũng thích chẻ cái mình nhìn ra cho thật nhỏ. Và ông đặc biệt ưa chú mục vào những cái xấu, bất thường (tuy bản thân không hề xấu hoặc bất thường). Mỗi người chỉ có đúng một cách nhìn. Tất nhiên nhà văn Võ Phiến đã nhìn lịch sử dân tộc bằng cách vừa nói. Kết quả là, đọc ông gần như toàn gặp những người dân không biết yêu nước là gì (thỉnh thoảng có gặp thì nhân vật yêu nước hiếm hoi ấy lộ vẻ lạc lõng rõ rệt); không thấy thực dân khai thác tài nguyên bóc lột lao động đâu cả, chỉ thấy cán bộ cộng sản hủ hóa; không thấy giặc Pháp tàn bạo với người Việt Nam đâu cả, chỉ thấy có dân bị đấu tố oan; không thấy đông đảo nhân dân nô nức ủng hộ chiến sĩ, hàng hàng lớp lớp chiến sĩ hăng say đánh giặc ngoại xâm, lập chiến công oai hùng đâu cả, chỉ thấy nhiều người bị làm khổ và nhiều kẻ liều chết ngớ ngẩn! Không có những việc tốt mà nhà nước cộng sản đã làm cho dân nghèo nào hết, chỉ có những xáo trộn xã hội hoàn toàn vô ích!... Dân tộc Việt Nam đâu phải như vậy. Sự thật về cuộc cai trị của thực dân Pháp, về cuộc kháng chiến của Việt Nam, về những việc làm của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đâu phải như vậy. Sở dĩ nhà văn Võ Phiến thấy vậy, bởi ông đã chăm chú nhìn những thành phần thiểu số, những chuyện lẻ tẻ, nhất thời...
Cách nhìn là quan trọng nhất. Nhưng nhìn đâu cũng có đóng góp vào cái thấy của người nhìn. Có thể đặt vấn đề, hay là quê hương nhỏ của nhà văn Võ Phiến là huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Ðịnh nó đã "ngoại lệ" khiến ông đâm ra dễ nghĩ lệch về chuyện đất nước? Quả thật, ở Phù Mỹ thời Pháp thuộc gần như không thấy bóng giặc Pháp mà chênh lệch giàu nghèo cũng không đáng kể. Nhưng ngay ở Phù Mỹ, chắc chắn cũng đã có rất nhiều người yêu nước, chẳng qua nhà văn không chú ý đến họ. Hơn nữa, chỉ nhìn tình hình Phù Mỹ mà thôi khó thấy được đại cục nước Việt Nam, thì thiết tưởng một người lên tiếng về đại cục như nhà văn Võ Phiến có trách nhiệm phải nhìn cho thật rộng, nhìn khắp cả nước, chứ đâu được nhận định về toàn quốc trên cơ sở tình hình ở chỉ địa phương mình! Cuối cùng, về "cách nhìn Võ Phiến", có lẽ cũng nên nêu lên rằng lẽ tự nhiên nó dẫn tới tâm lý bi quan, là một nét nổi tiếng của văn chương Võ Phiến. Bi quan trong văn thì không sao cả. Nhưng trong cuộc đấu tranh để sinh tồn của cả một dân tộc, thì hết sức tai hại.
... Viết văn chống cộng thì lắm cây bút từ miền bắc di cư vào chịu khó viết. Nhưng tác phẩm của họ thường là lớn lời mà thiếu chi tiết cụ thể, rỗng lý luận. Tác phẩm chống cộng của nhà văn Võ Phiến ngược lại: lời nhỏ kể lể tỉ mỉ, đay nghiến, với lý luận (sai) kèm theo. Chính quyền Sài Gòn để ý và đánh giá cao lối viết ấy. Năm 1960, truyện vừa Mưa đêm cuối năm của nhà văn Võ Phiến được giải thưởng "Văn học toàn quốc". Như Nhất Linh nhận xét trong Viết và đọc tiểu thuyết, lời văn trong tác phẩm giật giải văn chương ấy hãy còn thô vụng. Nó được chọn rõ ràng vì nội dung chính trị phù hợp với nhu cầu tuyên truyền của những người đang cai trị miền nam.
Sau Mưa đêm cuối năm, được chính quyền Sài Gòn khuyến khích, được "đồng chí" tán thưởng, ông tiếp tục cho ra đời những tác phẩm có nội dung tương tự, viết chống cộng mỗi lúc một thêm "tinh vi". Thật ra tác phẩm của Võ Phiến trở nên "vi" (tỉ mỉ) hơn nữa, chứ không phải "tinh" (thấy đúng bản chất) hơn chút nào, vì nhìn cục bộ thì không thể thấy toàn thể. Cái tiếng "chống giỏi" của nhà văn nhanh chóng lan rộng trong cái tiểu xã hội phức tạp của những người chống cộng mà có lẽ đại đa số không thật sự chia sẻ nội dung cụ thể của tác phẩm Võ Phiến, chưa nói nhiều người hình như không hề cầm tới sách! Nhà văn Mai Thảo có lần đọc, thấy "nhiều sắc thái địa phương". Nhà văn Vũ Khắc Khoan cũng thử đọc, rồi phàn nàn về những nhân vật "tù lù mù". Chi tiết khó "chia", mà lý luận hẳn họ càng thấy khó "sẻ", vì vốn dĩ chính bản thân họ có hay lý luận rắc rối gì đâu. Ðại khái, mỗi người chống cộng vì một số lý do riêng, rồi hễ cứ nghe ai "chống giỏi" là rủ nhau hoan hô, không cần biết người kia cụ thể chống thế nào!
Cái lối được trầm trồ mà không được đọc rồi cũng xảy ra cho nhà văn Võ Phiến ở ngoài bắc. Một số người "Nhân văn giai phẩm" nghe tiếng chống cộng của ông, sinh ngay cảm tình, tuy hầu hết những người ấy chắc chắn chưa bao giờ đọc được một chữ văn của Võ Phiến! Thật ra giữa họ và nhà văn Võ Phiến có chỗ khác nhau rất căn bản: họ đều đồng lòng kháng chiến đánh đuổi giặc Pháp, lấy việc ấy làm quan trọng hơn cả, trong khi nhà văn Võ Phiến thì không. Nông nỗi của họ xảy ra là do họ nghĩ giải phóng dân tộc xong rồi, Ðảng không nên lãnh đạo văn hóa nữa, mà nên để "trăm hoa đua nở". Nhưng việc nước đã xong đâu! Còn phải thống nhất đất nước. Với sự can thiệp của siêu cường Mỹ, công việc sẽ vô cùng khó khăn. Cần phải duy trì ý chí chính trị và tinh thần kỷ luật ở mức cao nhất. Tự do văn hóa sẽ ảnh hưởng xấu đến nỗ lực duy trì này, do đó Ðảng không thể chấp nhận được. Nhìn cách khác, tình hình đất nước bấy giờ chưa thích hợp với một cải cách chủ nghĩa lớn như vậy.
Vào cái khoảng thời gian Liên Xô vừa sụp đổ, cái tiếng chống cộng của nhà văn Võ Phiến còn khiến một số nhà văn Việt Nam ở trong nước tìm cách bắt liên lạc với ông, hẳn vì họ nghĩ Nhà nước Cộng sản Việt Nam cũng sắp sụp đổ! Có người nhân dịp đi công tác qua Mỹ, đã tỏ tình thân ái bằng cách tặng nhà văn Võ Phiến một chiếc đồng hồ đeo tay dùng lâu năm. Người ấy từng tự nói nhờ Ðảng mà tôi mới được thế này. Ấy thế mà khi tưởng Ðảng sắp đổ, ông vội vã đi ôm chầm lấy kẻ thù của Ðảng! Ngán cho "nhân tình thế thái". Thân phụ chúng tôi có kể rằng, qua trò chuyện, thấy nhà văn kia dường như chưa hề đọc một tác phẩm nào của mình!...
Văn nghiệp Võ Phiến vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực. Tiêu cực, đáng bỏ đi, là phần chính trị, bởi đó là cái bi kịch của một người Việt Nam sống giữa thời kỳ lịch sử dân tộc cực kỳ khó khăn mà trước không tha thiết với độc lập, sau không tha thiết với thống nhất, khăng khăng đặt chuyện chống chủ nghĩa cộng sản lên trên tất cả... Sai lầm chính trị đã đưa tác phẩm của Võ Phiến ra khỏi lòng dân tộc. Ðất nước đã độc lập, thống nhất lâu rồi. Nay đến lúc, nhân danh bảo tồn những giá trị văn hóa Việt Nam, đưa tác phẩm của Võ Phiến trở về, sau khi lọc bỏ nội dung chính trị. Nhà nước Việt Nam đã sáng suốt khi quyết định cho tái bản sách của Võ Phiến trong nước. Ðáng tiếc, một số người đang lợi dụng tình hình quốc tế mà âm mưu tái phổ biến cả những nội dung chính trị sai lầm. Việc tái phổ biến này vừa có thể gây mất đoàn kết, hại cho dân, cho nước, vừa xúc phạm sự thật lịch sử.
THU TỨ (Tháng 8-2014)
-------------------

Hãy để thời gian trả lời bằng sự thật

LTS - Sinh tại Việt Nam, lớn lên tại Mỹ, mấy năm gần đây trong tư cách Tổng thư ký tuần báo Việt Weekly (Mỹ), Etcetera Nguyễn có dịp trở về Việt Nam để tác nghiệp. Nhân kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, Etcetera Nguyễn gửi tới Báo Nhân Dân bài viết nói lên suy nghĩ của mình về thực chất hoạt động "chống cộng" ở hải ngoại, về vai trò của Việt Weekly trong khi đưa tin khách quan, trung thực về tình hình đất nước... Chúng tôi trích giới thiệu với bạn đọc bài viết này (đầu đề là của Tòa soạn).
Trên bề mặt, nếu nhìn vào các sinh hoạt nổi bật ở Little Saigon (California) vào tháng 4 hằng năm, đặc biệt là ngày 30-4, người Mỹ bản địa và những vị khách chưa hiểu biết một cách thấu đáo về vấn đề, vẫn bị thu hút bởi mầu vàng của lá cờ "3 sọc đỏ" được treo khắp các con phố, trục lộ chính, nơi có nhiều cơ sở thương mại của người Mỹ gốc Việt buôn bán, làm ăn. Rồi nhiều cuộc hội họp, lễ lạt mang tính chất "tố cộng" được tổ chức rầm rộ. Các hội đoàn chính trị, các chính khách địa phương tập hợp tại "Tượng đài Việt - Mỹ" ở trung tâm TP Westminster để kể lại trận chiến bị thua, về vết thương còn âm ỉ! Các sinh hoạt chính trị đó được các tờ báo của cộng đồng ghi lại, thổi lên thành "ngọn lửa căm thù chế độ cộng sản, căm thù chính phủ Việt Nam". Việc này lặp đi lặp lại trong nhiều năm qua, và tất nhiên, có tác động đến những ai bị mất mát của cải, địa vị xã hội, quyền lợi chính trị từng có trước đây. Nhìn bề mặt thì như thế, nhưng theo ghi nhận của tôi, có yếu tố "đằng sau hậu trường" đáng ngạc nhiên. Và tôi có thể khẳng định rằng, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là ở Nam California, không cực đoan như các tờ báo cộng đồng cố tình mô tả.
Kể từ sau năm 1995, sau khi bang giao Mỹ và Việt Nam được thiết lập, đã có những người Mỹ gốc Việt đầu tiên trở về Việt Nam để tìm lại hình ảnh quê nhà thân thương, để thăm viếng; đã có những doanh gia lặng lẽ về nước tìm cơ hội làm ăn, giao thương buôn bán. Hơn 20 năm qua, các chuyến thăm thân, du lịch, giao dịch không còn là việc làm âm thầm, đơn lẻ nữa. Con đường nhỏ nay đã trở thành đại lộ thênh thang, không hạn chế bất cứ ai. Những năm gần đây, vị thế chính trị, kinh tế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế đã trở nên quan trọng, được đánh giá là một nước có nhiều tiềm năng kinh tế, phát triển tại Đông - Nam Á.Các chuyến thăm hữu nghị của các cấp lãnh đạo Việt Nam ra quốc tế và ngược lại diễn ra đều đặn, ngày một nhiều hơn... Tuy nhiên, những thông tin tích cực ở Việt Nam đã không đến được với người dân bản địa. Có chăng thì đều bị bóp méo, xuyên tạc bởi những "nhà chính trị", các "tổ chức chính trị" có quan điểm khác với Chính phủ Việt Nam. Bức tranh thực tế của đất nước đã bị một lớp sương mù bao phủ, làm nhiễu loạn có mục đích. Vậy mục đích, động cơ của các "nhà hoạt đầu chính trị cộng đồng" là gì?Họ muốn điều gì để rồi luôn luôn có thái độ thù nghịch với Chính phủ Việt Nam?
Nếu như trước đây, các cá nhân hám danh lợi, các tổ chức và hội đoàn chính trị từng có tham vọng "lật đổ chế độ cộng sản" bằng bạo lực, để phục hồi quyền lực đã có một thời, thì theo thời gian, họ biết rằng không thể làm được điều đó vì không có khả năng, thực lực. Khi biết không thể làm thay được quyền lãnh đạo đất nước, các "nhà hoạt động chính trị" này lại nỗ lực tự biến mình thành một thứ chính quyền trong cộng đồng nhỏ, họ áp đặt "chủ nghĩa chống cộng cực đoan" lên người có cùng cảnh ngộ. Họ muốn biến "cộng đồng tị nạn" thành một tập thể cực đoan, luôn hô hào chống cộng dưới mọi hình thức để trục lợi cho cá nhân, tổ chức của mình. Quyền lợi chính trị này không đến từ Việt Nam, mà đến từ chính nước sở tại vào mùa tranh cử hai hoặc bốn năm một lần ở các cấp từ tiểu bang tới liên bang. Để có lá phiếu của cử tri gốc Việt, các ứng cử viên người bản xứ tìm đến vận động, xin hay "mua" từ những nhà lãnh đạo cộng đồng qua chiêu bài "chống cộng", hay "dân chủ, tự do, nhân quyền". Vào mùa tranh cử, các tổ chức chống cộng cấu kết với các cơ quan "truyền thông chống cộng" thao túng sinh hoạt cộng đồng. Các khó khăn, vấn nạn xã hội, hiện tượng tiêu cực ở Việt Nam là "nguyên liệu tốt" cho những nhà hoạt đầu chính trị cộng đồng nhào nặn thành "bánh vẽ", tạo nên chiếc khiên đỡ, che đậy các động cơ chính trị tư lợi. Vào dịp đó, cộng đồng Việt ở Nam Cali thường hoạt động rất sôi nổi, đây là dịp cho những tay hoạt đầu chính trị nhảy ra chiếm diễn đàn để chống cộng, để chụp mũ nhau loạn xạ, bất kể đúng sai, nhao nhao muôn vàn hình thức "chống cộng" như biểu tình phản đối chính quyền Việt Nam, đòi tự do cho "nhà bất đồng chính kiến" v.v... Biểu tình chống phá Việt Nam để tạo tiếng vang, ghi thành tích; biểu tình đe dọa, chụp mũ lẫn nhau là cộng sản để cạnh tranh buôn bán xảy ra thường xuyên (và biết đâu là giành cho được ngân sách tranh cử rơi vào túi của họ?). Chiếc bánh quyền lợi được chia đều cho một thiểu số tổ chức đấu tranh, các tay lãnh đạo cộng đồng; một số tờ báo, cơ quan truyền thông chống cộng cũng được hưởng quyền lợi thông qua việc quảng cáo tranh cử. Vì thế, quyền lợi vật chất, chính trị của một thiểu số sẽ tiếp tục tồn tại, nếu đa số người Mỹ gốc Việt thiếu thông tin khách quan, trung thực về Việt Nam.
Trong sự ngột ngạt đó, từ năm 2006, các phóng viên Việt Weekly quyết định tìm về Việt Nam làm tin tức tại chỗ. Với chủ trương đi tận nơi, tìm hiểu đưa tin khách quan, trung thực để một làn gió mới về thông tin từ Việt Nam được đưa thẳng tới cộng đồng. Đã có hàng loạt phóng sự về đời sống vùng miền, các cuộc phỏng vấn, trao đổi trực tiếp từ người dân đến các cấp lãnh đạo từ địa phương tới trung ương... Hoạt động này mang lại nhiều điều mới mẻ, khác lạ giúp kiều bào khắp nơi trên thế giới thấy và hiểu hơn về Việt Nam. Đặc biệt là những chuyến đi thăm biển, đảo được Nhà nước Việt Nam, qua Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài tổ chức các năm gần đây, đã cho thấy thực chất những gì đang diễn ra ở vùng biển chủ quyền đất nước, giúp độc giả ở hải ngoại hiểu hơn tình hình thực địa chủ quyền biển, đảo. Từ năm 2013 tới nay, cá nhân tôi, là phóng viên người Mỹ gốc Việt duy nhất hiện sống và làm việc công khai thường trực tại Việt Nam. Tôi đã có cơ hội đi nhiều nơi, tự mình tìm hiểu đời sống thực tế của người dân. Tới đâu tôi cũng chú ý lắng nghe, ghi nhận tường tận và cụ thể những câu chuyện người thật, việc thật. Hỏi chuyện, đại đa số người dân đều muốn yên ổn làm ăn. Họ cố gắng làm việc với ước mong một cuộc sống ngày càng khá hơn. Ai nấy đều muốn hòa bình để làm kinh tế. Điều gây ấn tượng nhất đối với tôi khi làm việc ở Việt Nam chính là thế hệ trẻ. Trong những ngày ở Việt Nam, tôi chọn bờ hồ Gươm ở Hà Nội làm "văn phòng lưu động" vừa làm báo, vừa ngồi vẽ tranh cho du khách, tôi có cơ hội thấy nhiều học sinh, sinh viên ra đây gặp khách ngoại quốc để thực tập tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hàn, tiếng Nhật, v.v. Tôi chia sẻ với những ước vọng của họ, những hoạt động xã hội của họ và nghĩ đến đất nước trong tương lai. So với Mỹ hay những nước phương Tây, Việt Nam còn nhiều điều cần đổi mới, cần chấn chỉnh từ luật pháp tới hành pháp, từ kinh tế tới giáo dục và nhiều lĩnh vực khác. Nhưng tựu trung, so với thời trẻ của tôi hồi còn ở trong nước, giới trẻ hiện nay sống vui, có điều kiện hơn nhiều. Những người ngoại quốc đến làm ăn, du lịch ở Hà Nội và các vùng miền mà tôi đã gặp đều nhận xét tích cực, lạc quan về con người, đất nước Việt Nam. Mùa Giáng sinh vừa qua, tôi có dịp về quê nội ở Nam Định. Về thăm quê, tôi kinh ngạc khi thấy vô số nhà thờ lớn nhỏ, cũ mới đan xen nhau theo từng họ đạo. Tôi đã ghi hình các buổi lễ với vài nghìn giáo dân đứng tràn ra ngoài đường phố. Sau Tết Nguyên đán, tôi lại có dịp tham quan, ghi nhận nhiều lễ hội ở miền bắc. Người dân được tự do bày tỏ tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo của mình. Những gì tôi thấy thực tế ở Việt Nam là hoàn toàn khác so với hình ảnh Việt Nam "đàn áp tôn giáo" được nói đến ở hải ngoại...
Ở hải ngoại, phần lớn người Mỹ gốc Việt chọn thái độ im lặng để sống yên ổn. Con cái họ đã thành công trong công việc, nhiều người lớn tuổi đã về hưu hưởng phúc lợi xã hội. Sự thầm lặng của đám đông không đồng nghĩa với cực đoan mà chúng ta thấy. Số đông này vẫn có những mối liên hệ trực tiếp với Việt Nam. Số đông này ngày càng hiểu hơn khi được tiếp cận với các thông tin khác nhau đến từ mạng xã hội, đến từ các cơ quan truyền thông như Việt Weekly. Do đó, việc thông tin trực tiếp, khách quan từ báo chí độc lập như Việt Weekly đã góp phần tích cực, thuyết phục với những người xa xứ. Bản thân tôi có được một chút kinh nghiệm làm báo ở Việt Nam nhờ sống tại chỗ, tham gia nhiều sự kiện diễn ra hằng ngày ở Hà Nội. Các bài viết, phóng sự, video chúng tôi thực hiện trong thời gian qua, được độc giả khắp nơi đón nhận và khen ngợi, động viên. Độc giả đòi hỏi chúng tôi đi nhiều hơn, làm nhiều hơn nữa, để giúp họ được hiểu biết Việt Nam hơn. Đó chính là phần thưởng và động lực, nguồn động viên cho công việc báo chí của Việt Weekly.
40 năm suy nghĩ về sự kiện lịch sử 30-4, là một nhà báo sống ở nước ngoài trở về Việt Nam làm việc, tôi thấy công việc của mình ngày càng thú vị, hữu ích hơn cho độc giả của Việt Weeklyở khắp nơi trên thế giới. Có lẽ, chọn lựa trở về của tôi và anh chị em trong Việt Weeklychẳng khác nào những "con cá dám vượt vũ môn" từ một cộng đồng xa xôi, vẫn còn một nhóm người cực đoan, chống phá Nhà nước Việt Nam. Hãy cứ để thời gian trả lời bằng sự thật. Và chúng tôi, các nhà báo nguyện làm công việc khách quan, trung thực, để cung cấp những thông tin chính xác, nhanh nhạy đến người ở ngoài nước, không may mắn có được cơ hội tiếp cận thực tế.

Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2015

Quảng Trị – Thừa Thiên năm 1972: Cuộc đụng đầu lịch sử


LTS: Quảng Trị – Thừa Thiên là chiến trường được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương lựa chọn làm hướng chủ yếu trong cuộc tiến công chiến lược của ta năm 1972. Chiến dịch diễn ra trong bối cảnh lịch sử đặc biệt khi hội nghị Pa-ri đang đi tới giai đoạn quyết định cho một giải pháp chính trị. Vì vậy, chiến dịch tiến công này đã trở thành cuộc đọ sức quyết liệt nhất giữa ta và đối phương. Hai bên đều tập trung lực lượng tinh nhuệ nhất để giành chiến thắng lớn nhất nhằm làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho mình. Trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ chưa bao giờ đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị – ngoại giao lại kết hợp chặt chẽ đến như vậy. Mọi hoạt động tác chiến trên các chiến trường, đặc biệt là ở Trị – Thiên luôn chịu sự chi phối trực tiếp, toàn diện về chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Trung ương.
Kỳ 1: Chiến dịch tổng lực
QĐND – Từ giữa năm 1971 đến đầu năm 1972, sau những thất bại chiến lược liên tiếp, Mỹ cố gắng giữ cho cục diện chiến trường Đông Dương không rơi vào thế bi đát. Do đó, Mỹ tiếp tục thực hiện mục tiêu chiến lược đã xác định: Thúc đẩy “Việt Nam hóa chiến tranh”, rút dần số quân Mỹ còn lại ở Miền Nam nhằm tạo thế trong cuộc đàm phán với ta ở Pa-ri và xoa dịu các phong trào đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam ngay trong lòng nước Mỹ, từ đó mở ra cơ hội cho Ních-xơn tái cử tổng thống vào cuối năm 1972.
Bản đồ quyết tân.
Về phía ta, thực hiện quyết tâm “đánh bại về cơ bản chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và mọi âm mưu của địch”, tháng 7-1971, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn trên toàn miền Nam, cả ở vùng rừng núi, vùng nông thôn đồng bằng, nhất là địa bàn đông dân. Cuộc tiến công này được dự định thực hiện trên 3 hướng: Miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Quảng Trị – Thừa Thiên, lấy miền Đông Nam Bộ làm hướng chủ yếu, Trị – Thiên là hướng thứ yếu quan trọng. Mục đích được đặt ra là: Tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân sự của địch, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn, làm thay đổi so sánh lực lượng địch, ta; thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho ta, buộc địch chấp nhận giải pháp chính trị có lợi cho ta. Đầu năm 1972, căn cứ vào kết quả chuẩn bị và tình hình địch – ta, Quân ủy Trung ương quyết định chọn Trị – Thiên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu. Quyết tâm đó được Bộ Chính trị thông qua ngày 23-3-1972. Đồng thời, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương phê chuẩn Bộ tư lệnh chiến dịch gồm: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó tổng Tham mưu trưởng, Tư lệnh chiến dịch; Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Chính ủy; các Phó tư lệnh: Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cương, Doãn Tuế, Phạm Hồng Sơn, Lương Nhân, Nguyễn Anh Đệ và các Phó chính ủy: Hoàng Minh Thi, Lê Tự Đồng. Đảng ủy chiến dịch do Lê Quang Đạo làm Bí thư; tham gia Đảng ủy còn có Bí thư tỉnh ủy Quảng Trị Hồ Sỹ Thản; Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng là đại diện Quân ủy Trung ương ở hướng chiến lược này[2].
Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Trung ương xác định 4 nhiệm vụ của chiến dịch tiến công Trị – Thiên là:
1. Tiêu diệt phần lớn lực lượng quân sự địch ở Trị – Thiên, cơ bản tiêu diệt được 2 sư đoàn và đánh thiệt hại nặng 1 sư đoàn khác.
2. Phối hợp tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn đồng bằng, đẩy mạnh phong trào đô thị và công tác binh vận, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự, đánh bại kế hoạch bình định của địch.
3. Giải phóng phần lớn địa bàn Trị – Thiên, có điều kiện thì kiên quyết giải phóng toàn bộ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.
4. Tiêu diệt, phân tán, giam chân, thu hút lực lượng địch, phối hợp với các chiến trường khác toàn miền Nam, góp phần giành thắng lợi chung của cuộc tiến công chiến lược năm 1972.
Phương châm chỉ đạo tác chiến của Quân ủy Trung ương là phải nắm thật chắc vấn đề đánh tiêu diệt, không cho địch co cụm lớn, phối hợp chặt chẽ giữa các hướng, kết hợp tốt giữa đòn tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng và binh vận.
Đầu năm 1972, Mỹ – ngụy phán đoán ta có thể dùng 4 đến 5 sư đoàn bộ binh và một số binh chủng mở một đợt tiến công ở Trị – Thiên nhằm giam chân, thu hút lực lượng quân ngụy, tạo điều kiện cho các hướng khác hoạt động. Mỹ – ngụy cho rằng, hướng tiến công chiến lược chủ yếu của ta là Tây Nguyên. Từ phán đoán ấy, chủ trương chiến lược của ngụy ở Trị – Thiên là:
1. Dùng lực lượng tại chỗ có sự chi viện của không quân, hải quân Mỹ để tổ chức bố phòng và ngăn chặn cuộc tiến công của ta là chủ yếu.
2. Đánh phá các khu vực nghi là các căn cứ, các vùng tập trung quân của ta; đánh phá đường vận chuyển tiếp tế, các kho tàng của ta bên ngoài tuyến phòng thủ. Ở tuyến trong, quân ngụy củng cố các ấp xã để ngăn chặn các hoạt động của đặc công và triệt phá các cơ sở của ta. Trường hợp có nguy cơ bị tiêu diệt thì tạm thời co về cố thủ tỉnh Thừa Thiên – Huế, sau đó dùng hỏa lực mạnh và bộ binh phản kích đánh chiếm lại.
Nhân dân làng Cùa – Quảng Trị nổi dậy phá ấp chiến lược, tháng 4 -1972.
Lực lượng phòng thủ của quân ngụy ở Trị – Thiên có 2 sư đoàn bộ binh, trong đó có sư đoàn bộ binh số 3 do Thiếu tướng Vũ Văn Giai làm Tư lệnh đứng chân tại thị xã Quảng Trị (8 trung đoàn bộ binh với 27 tiểu đoàn), 4 tiểu đoàn và 94 đại đội bảo an, 5.100 cảnh sát, cùng 13 tiểu đoàn và 4 đại đội pháo binh (258 khẩu), 3 thiết đoàn (184 xe tăng, thiết giáp). Hệ thống phòng ngự của ngụy quân hình thành 3 tuyến theo chiều sâu. Tuyến ngoài từ Nam sông Bến Hải (vùng giáp ranh Biển Đông) tới Lao Bảo, có nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn, phá chuẩn bị của ta từ xa với lực lượng tham gia chủ yếu là không quân, pháo binh, biệt kích. Khi cần thiết ngụy quân dùng một bộ phận chủ lực tổ chức các cuộc hành quân càn quét. Tuyến phòng ngự cơ bản (trung tâm) với các điểm cao 367, Động Ông Gio, 52, 365, 548, 597, 241, các căn cứ Dốc Miếu, Quán Ngang, Cửa Việt có nhiệm vụ ngăn chặn cuộc tiến công của ta và bảo vệ thị xã Đông Hà, thị xã Quảng Trị, các căn cứ, đường số 1, đường số 9. Ở tuyến phòng ngự cơ bản, ngụy quân tổ chức thành từng khu phòng ngự cấp trung đoàn, có các khu then chốt, các cụm điểm tựa cấp tiểu đoàn, liên kết chặt chẽ với nhau và có lực lượng dự bị tùy theo từng cấp. Tuyến phía sau gồm chủ yếu thị trấn, thị tứ, khu đông dân cư với các hậu cứ Ái Tử vào tới Huế, do một bộ phận chủ lực và lực lượng bảo an, dân vệ trấn giữ.
Về phía ta, nhân dân Trị – Thiên vốn giàu lòng yêu nước, có cảm tình với cách mạng, tuy nhiên có đến 80 đến 90% gia đình có quan hệ với ngụy quân, ngụy quyền. Sau chiến thắng Đường 9 – Nam Lào năm 1971, cơ sở chính trị và phong trào quần chúng có nơi được xây dựng lại nhưng nhìn chung còn yếu. Nông thôn đồng bằng chưa có thôn, xã nào được giải phóng. Cơ sở Đảng ít, quần chúng chưa được chuẩn bị đầy đủ để sẵn sàng nổi dậy.
Lực lượng bộ đội chủ lực sử dụng trong chiến dịch này trên hướng Quảng Trị có 3 sư đoàn bộ binh cơ động: 304, 308, 324[3] (thiếu Trung đoàn 3); 2 trung đoàn độc lập: 48, 27; 4 tiểu đoàn độc lập: 2, 3, 15, 47; tổng số: 34 tiểu đoàn; đặc công: 6 tiểu đoàn; pháo binh: 6 trung đoàn pháo xe kéo; 1 trung đoàn mang vác; tổng số: 390 khẩu pháo các cỡ 130mm, 122mm, 100mm và 85mm, với các cỡ 120mm, 160mm, 2 đại đội B72 (tên lửa diệt xe tăng); cao xạ có sư 367, 2 trung đoàn tên lửa 275, 236; thiết giáp có Trung đoàn Xe tăng 203 với 78 xe tăng, thiết giáp; Công binh: 2 trung đoàn công binh công trình (219, 229); Hóa học: 4 đại đội; Thông tin: 5 tiểu đoàn; Hải quân: Đoàn 126.
Trên hướng Thừa Thiên có trung đoàn bộ binh 3 và trung đoàn độc lập 6; Đặc công 3 tiểu đoàn (3, 7, 12); Pháo binh: Tiểu đoàn pháo 130mm, 1 tiểu đoàn súng cối 120mm, 1 đại đội B72; Cao xạ: 1 tiểu đoàn cao xạ 37mm, 4 tiểu đoàn súng máy cao xạ 14,5mm; Công binh: Trung đoàn Công binh 414 và 2 tiểu đoàn Công binh độc lập; Thiết giáp: 1 tiểu đoàn; Thông tin: 1 tiểu đoàn; Vận tải: 1 tiểu đoàn ô tô với 38 xe.
Quyết tâm của Bộ tư lệnh chiến dịch: Trong khoảng thời gian từ 20 đến 25 ngày, tiến công tiêu diệt cho được từ 4 đến 5 trung đoàn ngụy, thực hiện nổi dậy giải phóng Quảng Trị, sau đó tiếp tục phát triển chiến dịch vào hướng Thừa Thiên. Về cách đánh chiến dịch, tập trung giải quyết 3 vấn đề: Thứ nhất, đánh vỡ tuyến phòng thủ bên ngoài gồm các cứ điểm có công sự kiên cố như Cồn Tiên, miếu Bái Sơn, 544, Động Toàn, nhanh chóng đưa lực lượng vào tiến công Đông Hà, Mai Lộc, Ái Tử. Thứ hai, phá vỡ hệ thống pháo binh địch. Thứ ba, đánh bại quân cơ động ứng chiến cỡ tiểu đoàn, trung đoàn ngụy quân.
Từ ngày 15-7-1971, sau hơn 8 tháng chuẩn bị kế hoạch chiến dịch tiến công Trị – Thiên công phu, kỹ lưỡng, song do tình hình chiến trường diễn biến phức tạp, nên kế hoạch chiến dịch phải điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Thời gian chuẩn bị tuy dài nhưng càng về cuối càng gấp. Phần kế hoạch tiếp tục phát triển vào Thừa Thiên chỉ mới dự kiến một số vấn đề, sau khi giải phóng Quảng Trị được xác định thêm.
Cùng với sự chuẩn bị kế hoạch tác chiến là công tác chuẩn bị chiến trường, trong đó chủ yếu là làm các con đường từ phía Bắc xuống. Đến tháng 3-1972, bộ đội và thanh niên xung phong đã làm mới và sửa chữa được 9 con đường dài 264km, bảo đảm triển khai được các loại binh khí kỹ thuật và vận chuyển hậu cần cho chiến dịch ở khu vực Quảng Trị. Hệ thống thông tin hữu tuyến điện đã được triển khai xuống các hướng. Trong khi đó việc chuẩn bị vật chất hậu cần cho chiến dịch tính đến ngày 30-2-1972, Cục Vận tải và Đoàn 559 đã vận chuyển được 12.490 tấn đạt 78% kế hoạch theo yêu cầu của Bộ tư lệnh chiến dịch.
Suốt thời gian các đơn vị chủ lực cơ động lực lượng chuẩn bị chiến dịch, chủ yếu dựa vào hệ thống thông tin hiện có của các đơn vị tại chỗ, đã làm hạn chế khả năng của địch thông qua phương tiện kỹ thuật hiện đại theo dõi hướng và lực lượng cơ động của chủ lực ta. Ta giữ được bí mật. Để nghi binh, Bộ Tổng Tư lệnh cho các tổ đài 15W và 30 cán bộ, chiến sĩ do trợ lý tác chiến Sư đoàn 304 Dương Văn Mùa chỉ huy được lệnh hành quân vào Tây Nguyên, thường xuyên báo cáo từng cung độ hành quân và nhận các mệnh lệnh giả. Chính vì thế càng làm cho Bộ Tổng tham mưu ngụy quân khẳng định chắc chắn hướng tiến công chủ yếu của ta là Tây Nguyên.
Kỳ 2: Giải phóng Quảng Trị
QĐND – Trước ngày 19-3-1972, các Sư đoàn 304, 324 và các lực lượng binh chủng có xe cơ giới (thiết giáp, pháo binh, cao xạ, tên lửa, xe tăng…) từ hậu phương Quảng Bình hành quân vào vị trí tập kết. Riêng Sư đoàn 308 được lệnh đến ngày 25-3 có mặt ở khu vực điểm cao 202 Bắc sông Bến Hải. 18 giờ ngày 29-3, toàn bộ lực lượng tham gia chiến dịch trên tất cả các hướng, đã vào vị trí xuất phát tiến công. Trong khi đó, ngụy quân không hề biết gì, nên ngày 29-3, các đơn vị quân ngụy vẫn thực hiện thay quân giữa Trung đoàn 2 và Trung đoàn 56 ở Cồn Tiên, Dốc Miếu, Tân Lâm, 241, 544.
Đúng 11 giờ ngày 30-3-1972, các đơn vị nổ súng mở màn chiến dịch tiến công Quảng Trị. Đòn tiến công bất ngờ, sấm sét, bão lửa giội xuống hệ thống phòng thủ quân ngụy, gây choáng váng cho đối phương ngay từ phút đầu. Các đơn vị pháo binh đã bắn dữ dội trúng các mục tiêu, hoàn toàn chế áp quân ngụy, chi viện cho các đơn vị cùng một lúc, tiến công 5 căn cứ Động Toàn, Ba Hồ, 544, 288, 365.
Ở hướng Bắc, Trung đoàn bộ binh 27 do Trung tá Phạm Minh Tâm làm Trung đoàn trưởng, giao nhiệm vụ thọc sâu, chia cắt, cho Đại úy Nguyễn Huy Hiệu, Tiểu đoàn trưởng bộ binh 3 được tăng cường lực lượng và triển khai chiến đấu ở khu vực đồi 322 và 288 trước khi thọc sâu xuống đường 9. 10 giờ 40 phút, đội hình hành quân của địch lọt hẳn vào trận địa phục kích của Tiểu đoàn 3. Tiểu đoàn trưởng Hiệu ra lệnh: Bao vây, diệt địch không cho chúng thoát về Cam Lộ. Chỉ trong 20 phút chiến đấu, toàn bộ Tiểu đoàn bộ binh 2 của ngụy bị xóa sổ. Nguyễn Viết Mão, chiến sĩ Đại đội 1 một mình bắt sống 12 tù binh, trong đó có Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Hà Thúc Mẫn. Ta làm chủ hoàn toàn khu vực Đông Nam, căn cứ 544, đồi Tròn, chặn đứng lực lượng chi viện từ Cam Lộ lên, tạo điều kiện thuận lợi cho Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 đánh chiếm căn cứ Phu Lơ – một mục tiêu quan trọng mà Bộ tư lệnh chiến dịch giao cho Trung đoàn 27. Trận đánh kết thúc cũng là lúc Bộ tư lệnh chiến dịch phát lệnh nổ súng chiến đấu hiệp đồng trên toàn mặt trận.
Ở hướng Tây, trong thế trận chiến đấu hiệp đồng toàn chiến dịch, các Sư đoàn 304, 324 đã dồn dập nổ súng tiến công địch. Trung đoàn 9 đánh chiếm Đầu Mầu, Trung đoàn 24 là lực lượng chủ yếu bao vây, tiến công Trung đoàn 56 ngụy ở cứ điểm 241. 8 giờ sáng ngày 2-4, trên các hướng, bộ đội của Trung đoàn bộ binh 24 đã vào vị trí xuất phát tiến công. Địch dùng máy bay B-52 đánh phía ngoài căn cứ. Đại đội 2 thương vong 17 người. Cùng lúc, Trung tá Trung đoàn trưởng Lê Đắc Long nhận được điện của Thượng tá Hoàng Đan, Sư trưởng 304 đồng ý cho bộ đội nổ súng vào lúc 12 giờ. Toàn bộ căn cứ 241 ngụy bị Trung đoàn 24 vây chặt, không còn lối thoát và không chịu nổi những đòn sấm sét của pháo binh ta. Chỉ huy Trung đoàn 56 ngụy xin ứng cứu bằng lực lượng xe tăng từ Đông Hà theo Đường 9 lên, nhưng bị Tiểu đoàn đặc công 15 chặn đánh. Quân ngụy liều lĩnh dùng trực thăng để cứu bọn chỉ huy nhưng cao xạ của ta không cho hạ cánh. Đúng 13 giờ ngày 2-4, quân ngụy treo cờ trắng lên cần ăng-ten trung tâm chỉ huy rồi kéo nhau ra hàng. Đi đầu là Trung tá Phạm Văn Đính, Trung đoàn trưởng, tiếp theo là Thiếu tá Nguyễn Vĩnh Phong, Trung đoàn phó, Thiếu tá Nguyễn Văn Thế, Tiểu đoàn trưởng pháo binh cùng với 12 sĩ quan cấp úy và 308 hạ sĩ quan binh sĩ. Ta thu 4 khẩu pháo 175mm.
4 giờ sáng ngày 2-5-1972, cờ giải phóng trong tay chiến sĩ Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 tung bay trên cổng Thành cổ Quảng Trị.
Ở hướng đông, Trung đoàn 126 Hải quân đã tiến đánh Hải quân ngụy trên sông Cửa Việt và duyên đoàn 11 tại cảng Cửa Việt, khống chế chặt đường sông.
Hướng Cam Lộ, Đường 9, 0 giờ 30 phút ngày 2-4, Trung đoàn 48 nhận được lệnh của Bộ tư lệnh chiến dịch sử dụng Tiểu đoàn 1 chặn xe tăng của thiết đoàn 20 không cho vượt cầu Đuối vào ứng cứu Cam Lộ, sau đó phát triển theo hướng Đông Hà. Nhận lệnh xong, Trung tá Trung đoàn trưởng Lê Quang Thúy trao quyền chỉ huy chung cho Trung tá Tham mưu phó Sư đoàn 320b Trịnh Hồng Thái rồi cùng trợ lý tác chiến xuống Tiểu đoàn 1 triển khai phương án đánh địch.
Sau 5 ngày chiến đấu mở đầu chiến dịch, ta đã đập vỡ hoàn toàn tuyến phòng thủ vòng ngoài của ngụy quân, chiếm hầu hết các điểm cao, khống chế, tiêu diệt một bộ phận lớn lực lượng ngụy quân, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ ở nhiều thôn, xã. Quân ngụy phải bỏ toàn bộ tuyến phòng thủ đường 9 với 4 căn cứ trung đoàn, 7 căn cứ tiểu đoàn.
Bị mất tuyến phòng thủ vòng ngoài và bị thiệt hại nặng, ngụy quân buộc phải nhanh chóng tăng lực lượng để đối phó. Chỉ trong 5 ngày, ngụy quân điều 3 trung đoàn, 2 lữ đoàn và 2 thiết đoàn, đồng thời điều chỉnh lại thế bố trí phòng ngự, tổ chức thành 3 cụm Đông Hà, Ái Tử, La Vang – Quang Trị, tập trung lực lượng chủ yếu ở thị xã Đông Hà, tăng cường hỏa lực không quân kể cả máy bay B-52, nhằm ngăn chặn ta phát triển tiến công. Ngụy quân tận dụng các điểm cao còn lại ở phía tây tổ chức tuyến phòng thủ liên hoàn, lực lượng nòng cốt là xe tăng, thiết giáp.
Trên đà thắng lợi, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định tiến công ngay vào khu trung tâm phòng ngự của địch, không cho ngụy quân kịp củng cố hoặc rút chạy, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị bằng các lực lượng Sư đoàn 308 (thiếu Trung đoàn 88) và Trung đoàn 48 có 2 đại đội xe tăng chi viện, tiến công ngụy quân ở Đông Hà, Lai Phước. Sư đoàn 304 (thiếu Trung đoàn 66) đánh vào cụm quân ngụy ở Ái Tử, chia cắt ngụy quân ở cầu Quảng Trị và các lực lượng ngụy quân tiếp giáp 2 tỉnh Trị – Thiên. Trung đoàn 27 cùng Tiểu đoàn 47 huyện đội Vĩnh Linh, có 2 đại đội xe tăng của Trung đoàn 202, thọc sâu vu hồi ở hướng Đông, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giải phóng 2 huyện Triệu Phong và Hải Lăng. Sư đoàn bộ binh 324 (thiếu Trung đoàn 3), đánh địch ở La Vang – Quảng Trị, cắt giao thông trên đường số 1 đoạn bắc cầu Mỹ Chánh – nam Quảng Trị. Ở phía nam các lực lượng B4 tiếp tục vây lấn Động Tranh, cắt giao thông đường 1 ở nam Phú Bài.
Đúng 15 giờ ngày 8-4, pháo binh ta nhả đạn. 5 giờ ngày 9-4, các đơn vị bộ binh, xe tăng được lệnh xuất kích. Ở Đông Hà, Thượng tá Trương Đình Mậu, Sư đoàn trưởng 308 ra lệnh cho Trung đoàn trưỏng Trung đoàn bộ binh 36 nhanh chóng chiếm ngã 3 đường 1 – đường 9, nhưng ngụy quân chống trả quyết liệt, không phát triển được. Trung đoàn 102 tiến công quân ngụy ở điểm cao 30, Động Côn. Trung đoàn 48 và tiểu đoàn độc lập 15 thọc sâu chia cắt ở Lai Phước, đều bị chặn lại.
Ở hướng đông, từ ngày 5-4, 2 Tiểu đoàn đặc công 19, 25 và Tiểu đoàn 47 đã vượt sông Cửa Việt đánh quân ngụy ở xã Triệu Thượng, Triệu Lê, huyện Triệu Phong. Quân bảo an chống trả rất quyết liệt, quân ta bị tổn thất nặng, không đủ sức phát triển vào thị xã Quảng Trị, chờ đêm xuống bơi qua bờ bắc sông Thạch Hãn. Do chưa chuẩn bị chu đáo, vả lại chưa có cách đánh phù hợp nên các mũi tiến công đều vấp phải sức kháng cự có chiều sâu của quân ngụy, bị tổn thất lớn và không thực hiện được kế hoạch.
Để chuẩn bị đợt tiến công mới được thuận lợi, ta đã tổ chức bước hoạt động đêm từ ngày 10-4 đến ngày 26-4-1972, đồng thời tranh thủ củng cố bộ đội, triển khai binh khí kỹ thuật theo phương án tác chiến mới, chuẩn bị vật chất bảo đảm. Cách đánh của chiến dịch là hiệp đồng binh chủng, phát huy cao độ sức mạnh của binh khí kỹ thuật, thực hành vừa tiến công trên toàn tuyến, vừa chủ yếu tập trung diệt từng điểm, từng cụm, từng khu vực; kiên quyết thực hiện bao vây chia cắt, kết hợp đánh vỡ với bao vây tiêu diệt. Chú trọng kết hợp tấn công quân sự với nổi dậy của quần chúng.
5 giờ ngày 26-4. Từ đầu, pháo binh trút bão đạn dồn dập chế áp hoàn toàn quân ngụy báo hiệu cuộc tiến công của quân ta với sức mạnh khủng khiếp.
Ở cụm Đông Hà – Lai Phước, Thượng tá, quyền tư lệnh Sư đoàn 308 Đào Đình Sung giao nhiệm vụ cho Trung đoàn bộ binh 36 đánh địch ở các khu vực điểm cao 28, 30 (tây bắc Đông Hà); Trung đoàn bộ binh 88 (mới trở về đội hình sư đoàn) đánh địch ở khu vực các điểm cao 35, 37 (Tây Đông Hà); Trung đoàn bộ binh 102 đánh địch ở khu vực các điểm cao 32, 26 (tây nam – Đông Hà). Phát hiện thấy một mũi đặc công của ta thọc sâu vào phía bắc sân bay Đông Hà, ngụy quân dùng xe tăng, bộ binh có không quân và pháo hạm chi viện, liên tục phản kích. Ngay lập tức bị trung đội tên lửa chống tăng B72 của chiến dịch tăng cường cho Sư đoàn do Lục Vĩnh Tưởng chỉ huy, lần đầu xuất hiện trên chiến trường với bản lĩnh chiến đấu và khả năng điều khiển thuần thục khí tài đã lập công xuất sắc phóng 7 quả đạn thiêu cháy 6 xe tăng ngụy.
Sau 10 phút bắn phá bằng hỏa lực, bộ binh ta trên cả 3 hướng tây – bắc, tây, tây – nam ém sát quân ngụy, bật dậy xung phong. Đến chiều 27-4, Sư đoàn 308 đã làm chủ hầu hết căn cứ Đông Hà, dồn địch ra đường 1. Sáng 28-4, 2 tổ du kích do Hồ Thị Bích Liên, Thị ủy viên thị xã Đông Hà phụ trách dẫn đường cho 2 Trung đoàn bộ binh 88 và 102[1], tiến công chiếm được Trung Chi, Đại Áng và bắc cầu Lai Phước nhằm cô lập Đông Hà. Trong bom, đạn, khói lửa mịt mù.
Quân ngụy hoảng loạn tháo chạy, vứt lại xe tăng, thiết giáp, vận tải, vũ khí nặng. 18 giờ ngày 28-4, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ Đông Hà, Lai Phước trong niềm vui khôn tả. Ủy ban quân quản thị xã Đông Hà được thành lập do Trung tá Nguyễn Hiền, Phó chính ủy sư đoàn 308 làm Chủ tịch.
Phối hợp cùng các đơn vị chủ lực, lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị đã trở về đồng bằng nhanh chóng đánh các đồn, bốt dọc đường 68, phát động quần chúng nổi dậy, truy tìm tàn binh, bắt bọn ác ôn. Các thôn xã vừa được giải phóng lập tức tổ chức tiếp nhận, giáo dục bọn đầu thú; đồng thời xúc tiến ngay việc thành lập chính quyền cách mạng. Trong khi đó, quân ngụy hoảng sợ, vứt bỏ xe, pháo ngổn ngang, lột bỏ quần áo lính, cải trang thường phục, vượt tắt qua đường, lội qua sông tháo chạy về phía Thừa Thiên. Du kích và nhân dân các xã Triệu Lễ, Triệu Ái sát cánh cùng bộ đội trong những trận đánh ác liệt ở thị xã Quảng Trị. Trong khói lửa mịt mù, tiếng pháo, đạn nổ ầm vang nhưng nhân dân Triệu Trạch vẫn hăng hái, dũng cảm giúp bộ đội, tự dỡ nhà mình làm công sự cho các chiến sĩ và tham gia tiếp tế đạn, lương thực cho từng trận địa. Nữ cán bộ xã đội Lê Thị Tám chỉ huy du kích xã Triệu Thượng cùng đồng đội ngày đêm bám đất, bám dân chiến đấu. Và đặc biệt là nữ cán bộ Trần Thị Tâm[2], Huyện đội phó huyện Hải Lăng, trực tiếp chỉ huy tiểu đội du kích xã Hải Quế suốt một ngày quần nhau với 1 tiểu đoàn ngụy ngăn chặn không cho chúng vào làng và đã anh dũng hy sinh.
Trên hướng Ái Tử và cầu Quảng Trị, các trung đoàn bộ binh 24 và Trung đoàn bộ binh 9, Sư đoàn 304 liên tục tiến công trong các ngày 27, 28, 29 tháng 4, chiếm được các điểm cao 22, 23, 42 ở phía Tây. Địch giành giật quyết liệt với bộ đội ta ở từng khu vực, điển hình nhất là: Đêm 9 rạng sáng 10-4, 20 cán bộ, chiến sĩ do Đại đội phó Nguyễn Văn Thỏa và Trung đội trưởng Mai Quốc Ca chỉ huy trung đội 2 thuộc Đại đội 11, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn bộ binh 9, được lệnh thọc sâu chiếm giữ cầu Quảng Trị, thực hiện chia cắt chiến dịch, tạo điều kiện để đại quân ta tiêu diệt tập đoàn quân sự mạnh nhất của ngụy quân ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, ngụy quân đã điều 2 tiểu đoàn lính dù, 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến, có xe tăng, pháo binh và máy bay yểm trợ, liên tục tiến công nhằm tiêu diệt chốt chặn của một trung đội quân giải phóng với vũ khí bộ binh nhẹ. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Lực lượng ngụy quân đông gấp nhiều lần, nhưng trung đội đã ngoan cường chiến đấu, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch, tiêu diệt 125 ngụy quân, bắn cháy 5 xe tăng. Cả trung đội chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi dùng lưỡi lê, dao găm đánh giáp lá cà với quân ngụy. Mai Quốc Ca và 18 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, riêng chiến sĩ Thành Vũ Quang bị thương và rơi vào tay địch. Cầu Quảng Trị bị phá hỏng, quân ngụy bị chặn lại trước chốt thép của 20 cán bộ, chiến sĩ anh hùng.
Ngày 1-5-1972, sau khi Đông Hà, Ái Tử bị mất, quận lỵ Hải Lăng bị uy hiếp, Quốc lộ 1 bị cắt, quân ngụy hoang mang, đến 11 giờ ngày 1-5, quân ngụy bắt đầu rút. Nắm được ý đồ của ngụy quân, Bộ tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn bộ binh 324 lập tức cơ động bộ đội chặn đánh quân ngụy ở Cầu Nhũng, cầu dài và cầu bến Đá. Trung đoàn bộ binh 66, Sư đoàn 304 chặn đánh quân ngụy ở La Vang, đồng thời pháo binh mặt trận bắn mãnh liệt vào đội hình rút lui của ngụy quân, gây nên một cuộc bỏ xe, bỏ pháo tháo chạy hỗn loạn.
15 giờ ngày 1-5-1972, được tin quân ngụy có kế hoạch rút chạy khỏi thị xã Quảng Trị, từ sở chỉ huy phía trước, Thiếu tá Nguyễn Đức Huy, Trung đoàn phó Trung đoàn bộ binh 9 được lệnh của Sư đoàn trưởng 304, nhanh chóng đánh chiếm và giải phóng thị xã Quảng Trị. Sau khi nhận lệnh, Nguyễn Đức Huy cùng Thiếu tá Lê Thanh Khê, Phó chính ủy Trung đoàn bộ binh 9, đốc chiến tiểu đoàn bộ binh 1 do Đại úy Vũ Đức Chiến làm Tiểu đoàn trưởng, Đại úy Nguyễn Văn Thêm làm Chính trị viên cùng đại đội súng máy cao xạ 14,5 ly vượt sông Thạch Hãn vào lúc 20 giờ ngày 1-5, tới bờ nam sông Thạch Hãn. Sau khi ổn định đội hình theo kế hoạch tác chiến, hướng chủ yếu của Tiểu đoàn bộ binh 1 theo đường Trần Hưng Đạo vào đánh chiếm trường Bồ Đề, quân ngụy chống trả quyết liệt, hơn nửa giờ chiến đấu, các chiến sĩ ta đã tiêu diệt bọn lính cố thủ ở đây. Ngay sau đó, bộ đội phát triển đánh chiếm dinh tỉnh trưởng, khu an ninh, tiểu khu quân sự.
Hướng thứ yếu của tiểu đoàn tiến theo trục đường cổng phía tây Thành Cổ, đánh chiếm trại giam, khu bình định, giải phóng hàng trăm người bị quân ngụy bắt và giam tù ở đây. Đáng ngạc nhiên là 1 đại đội ngụy dựa vào nhà thờ Tri Bưu chống cự ác liệt, cuộc chiến đấu kéo dài gần 2 giờ mới chấm dứt. 4 giờ sáng ngày 2 -5-1972, lá cờ giải phóng trong tay chiến sĩ Đào Châu Vũ đã cắm lên nóc dinh tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị báo hiệu thị xã Quảng Trị hoàn toàn được giải phóng. Ủy ban quân quản được thành lập do Thiếu tá Nguyễn Đức Huy – Trung đoàn phó bộ binh 9 làm Chủ tịch. Đây là lần đầu tiên ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh trong cuộc chiến tranh chống Mỹ ở miền Nam, giành và giữ được một bộ phận dân, giải quyết được nhiều vấn đề đối với vùng mới giải phóng, tạo bước ngoặt mới cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cả trước mắt và lâu dài.
[1] Hồ Thị Bích Liên hy sinh ở tuổi 24 khi vào tiếp quản thị xã Đông Hà.
[2] Năm 1973, Trần Thị Tâm được truy tặng anh hùng LLVT.
————–

Kỳ 3: Nốt trầm bên sông Mỹ Chánh
QĐND – Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng tỉnh Quảng Trị, theo kế hoạch tác chiến chiến dịch đã đề ra, nhiệm vụ tiếp theo là phát triển tiến công giải phóng Thừa Thiên.
Hòng ngăn chặn cuộc tiến công của bộ đội giải phóng, nhất là trước thảm bại để thất thủ Quảng Trị, Thừa Thiên bị uy hiếp, ngày 4-5-1972, Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa cách chức Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, đưa Trung tướng Ngô Quang Trưởng thay làm Tư lệnh Quân khu 1 – Quân đoàn 1, đồng thời đưa lực lượng dự bị của quân khu 1 và tổng dự bị chiến lược ra tổ chức tuyến phòng thủ mới ở nam sông Mỹ Chánh và tây đường 12. Như vậy, lực lượng quân ngụy ở Thừa Thiên từ chỗ có 2 sư đoàn bộ binh đã tăng lên thành 4 sư đoàn (thêm sư đoàn lính dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ). Cùng thời gian này, Mỹ đã có những động thái về chính trị và ngoại giao vừa lừa bịp dư luận thế giới về mục tiêu giải pháp hòa bình ở Việt Nam, vừa thỏa hiệp với nước lớn; đồng thời đưa máy bay B.52 đánh phá miền Bắc và thả mìn phong tỏa các cửa sông rạch từ Hải Phòng vào Quảng Bình. Đặc biệt, Mỹ cũng đưa không quân, hải quân trở lại ồ ạt tham chiến ở miền Nam, chủ yếu là chiến trường Trị – Thiên nhằm cứu nguy cho quân đội Sài Gòn. Đây là một trong những yếu tố đã làm thay đổi lớn tương quan lực lượng chiến dịch.
Bước vào đợt tiến công mới, Bộ Tổng tư lệnh tăng cường cho chiến dịch Trung đoàn bộ binh 18, Sư đoàn bộ binh 325, Trung đoàn bộ binh 64 (thuộc Sư đoàn bộ binh 320b), các đơn vị toàn mặt trận được bổ sung quân số, phương tiện, khí tài, chạy đua với thời gian vừa đánh địch vừa khẩn trương chuẩn bị cho chiến dịch mới.
19 giờ 30 phút ngày 20-6, pháo binh chiến dịch và pháo của các Sư đoàn 308, 304, 324 bắt đầu trút bão lửa xuống hệ thống phòng thủ trên Quốc lộ 1 do sư đoàn lính dù, sư đoàn thủy đánh bộ ngụy đảm nhiệm và hướng đường 12 do Sư đoàn bộ binh số 1 ngụy trấn giữ.
Trên hướng Quốc lộ 1, theo nhiệm vụ được phân công, các đơn vị đã tiến công địch trên một diện rộng từ Xuân Lộc, Đá Bạc, núi Cái Mương, núi cây Lời, núi Yên Bầu, đánh vào phòng tuyến của sư đoàn dù.
3 giờ ngày 21-6, Tiểu đoàn bộ binh 1, Trung đoàn bộ binh 9, Sư đoàn bộ binh 304 đánh chiếm điểm cao 102. Sau một giờ chiến đấu, bộ đội đã làm chủ trận địa. Đến 8 giờ, Tiểu đoàn bộ binh 1 được lệnh tiến công đại đội lính dù ngụy ở điểm cao 156, sau 30 phút chiến đấu, Tiểu đoàn bộ binh 1 đã tiêu diệt gọn một đại đội lính dù nữa.
Cùng thời gian này, Tiểu đoàn bộ binh 7 và Tiểu đoàn bộ binh 9 (thuộc Trung đoàn bộ binh 66, Sư đoàn bộ binh 304) được lệnh tiến công lên điểm cao 52, Hố Lấy, đến 8 giờ, bộ đội ta làm chủ điểm cao 52 và để một lực lượng chốt giữ điểm cao này. Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn bộ binh 66, Sư đoàn bộ binh 304) được lệnh vượt sông Mỹ Chánh vào vây làng Xuân Lộc, đến 14 giờ, bộ đội ta bắt đầu triển khai bao vây tiểu đoàn quân dù. Sau 2 ngày chiến đấu ác liệt, bộ đội ta đã tiêu diệt hơn 400 lính dù. Tuy nhiên, Trung đoàn bộ binh 66, Sư đoàn bộ binh 304 vẫn chưa tiêu diệt được tiểu đoàn dù số 11 ngụy. Trong khi đó, các trận địa pháo binh ngụy đã gây thương vong lớn cho Trung đoàn bộ binh 66. Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 vẫn ra lệnh cho Trung đoàn bộ binh 66 tập trung lực lượng tiêu diệt tiểu đoàn dù số 11, đồng thời đưa Tiểu đoàn bộ binh 4 và Tiểu đoàn bộ binh 5 của Trung đoàn bộ binh 24 vào chiến đấu thay cho Tiểu đoàn bộ binh 2, Trung đoàn bộ binh 48 độc lập để tiêu diệt tiểu đoàn dù 7 ngụy ở khu vực bắc điểm cao 156. Sau một ngày chiến đấu, bộ đội ta đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn dù 7 ngụy. Tuy nhiên, pháo binh ta không kiềm chế được pháo binh ngụy quân nên bộ đội của 2 tiểu đoàn bộ binh 4, 5 cũng thiệt hại lớn. Đến ngày 25-6, bộ đội ta quá căng thẳng, mỏi mệt, cơ số đạn chiến đấu gần hết, vì vậy cả hai tiểu đoàn bộ binh 4, 5 được lệnh dừng lại củng cố đội hình, bổ sung quân số, đạn dược để tiếp tục chiến đấu.
Binh sĩ ngụy xã Triệu Lễ – Triệu Phong – Quảng Trị ra trình diện với chính quyền cách mạng, tháng 5-1972. Ảnh tư liệu.
Ở hướng đông, Trung đoàn bộ binh 18 đánh địch ở Xuân Viên, Đông Dương đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến do viên Đại tá Phạm Văn Chung làm Lữ đoàn trưởng. Nguy cơ có thể mất tiếp tiểu đoàn nữa nên Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến ra lệnh cho các đơn vị dưới quyền lui về Thanh Hương, Đại Lộc. Tuy nhiên, bộ đội ta cũng bị thương vong lớn, buộc phải lui về tuyến sau củng cố. Ngày 23-6, Trung đoàn bộ binh 64 (thuộc Sư đoàn bộ binh 320b) vào thay thế Trung đoàn bộ binh 18.
Trên hướng đường 12, các đơn vị của Sư đoàn bộ binh 324 và Trung đoàn bộ binh 6 độc lập của Thừa Thiên đang gặp khó khăn về bảo đảm hậu cần, trong khi đó, lực lượng ngụy quân liên tục tổ chức những đợt phản kích với các quy mô khác nhau nhằm tiêu hao lực lượng, giảm bước tiến công của bộ đội ta, nên đến ngày 26-5, các đơn vị mới bước vào chiến đấu, chậm mất 5 ngày so với các hướng tiến công khác. Theo kế hoạch tác chiến, Thượng tá Sư đoàn trưởng bộ binh 324 Chu Phương Đới và cơ quan tham mưu sư đoàn lệnh cho Trung đoàn trưởng bộ binh 1 tiến công Trung đoàn 54 ngụy ở nam Khe Thai. Sau hơn một giờ chiến đấu, bộ đội ta chỉ diệt được hơn 300 quân của Trung đoàn 54 ngụy. Trung đoàn bộ binh 3 tiến công một tiểu đoàn của Trung đoàn 1 ngụy ở điểm cao 372, sau 45 phút chiến đấu, bộ đội ta chẳng những không làm chủ được điểm cao mà bị còn thương vong lớn. Trong khi đó, Trung đoàn bộ binh 6 độc lập tiến công địch ở đèo Sun Na, bộ đội ta chỉ tiêu diệt được một mục tiêu.
Sau 6 ngày tiến công, trên các hướng chiến dịch của sư đoàn và các trung đoàn độc lập tuy có diệt được một số đơn vị ngụy nhưng nhìn chung, các đơn vị của ta đều bị chặn lại do sức tiến công bị giảm sút rõ rệt. Các mặt chuẩn bị cơ sở vật chất bảo đảm chiến đấu lâu dài của ta còn sơ sài và giản đơn, nên không thực hiện được kế hoạch. Trong khi đó, lực lượng ngụy quân được tăng cường mạnh lên để chuẩn bị cho cuộc phản công quy mô lớn.
Vì lẽ đó, đêm 26-6-1972, Thiếu tướng Lê Trọng Tấn – Tư lệnh mặt trận Trị – Thiên ra lệnh ngừng tiến công, để chuẩn bị đánh trả cuộc phản công quy mô lớn của ngụy quân.
Trong đợt tiến công này, bộ đội ta tiêu diệt được 2.800 ngụy quân, bắt sống 25 ngụy quân, đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn quân ngụy; nhưng thật trớ trêu, bộ đội ta không giải phóng thêm được đất đai, trái lại quân ngụy lại lấn ra được một số khu vực ở hướng tây và bắc sông Mỹ Chánh. Các Sư đoàn 304, 308, 324, số bộ đội thương vong lớn hơn 2 đợt tiến công trước.
Như vậy, chúng ta đang gặp bất lợi trong việc chuẩn bị để đánh trả cuộc phản công lớn của ngụy quân, bảo vệ vùng mới giải phóng. Do phạm chủ quan dẫn đến mất thế chủ động về chiến dịch trước cuộc phản công quy mô lớn của ngụy quân, hậu quả với ta chắc chắn sẽ rất nặng nề, đây là thời điểm khó khăn nhất, thử thách lớn nhất chúng ta phải vượt qua.
Sau khi ta giành được thắng lợi trong chiến dịch tiến công (từ ngày 30-3 đến ngày 27-6-1972), giải phóng tỉnh Quảng Trị và 3 xã thuộc tỉnh Thừa Thiên, quân ngụy được không quân và hải quân đắc lực chi viện, tổ chức cuộc phản công quy mô lớn mang tên “Cuộc hành quân Lam Sơn 72” do Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một viên tướng được giới quân sự ngụy đánh giá cao về năng lực và bản lĩnh, chỉ huy.
Ngày 26-6-1972, đội hình phản công của ngụy quân đã hình thành trên 2 hướng.
Hướng tây đường số 1 gồm Sư đoàn dù do Trung tướng Dư Quốc Đống làm Tư lệnh, liên đoàn 81 biệt kích dù, thiết đoàn 7 kỵ binh, thiết đoàn 20 chiến xa, đại đội Hắc Báo thuộc Sư đoàn 1 bộ binh, một tiểu đoàn pháo binh 155mm, tiểu đoàn 102 liên đoàn 10 công binh và liên đoàn 1 địa phương Quảng Trị.
Hướng đông, có sư đoàn thủy quân lục chiến do chuẩn tướng Bùi Thế Lân chỉ huy, được tăng cường thiết đoàn 18, một chi đoàn xe bọc thép của thiết đoàn 17, một tiểu đoàn pháo 155mm, đã cơ động vào vị trí tập kết. Các lực lượng pháo binh của Quân đoàn 1, Sư đoàn không quân, hải quân vùng 1 duyên hải, các lực lượng không quân, hải quân Mỹ được lệnh hậu thuẫn tối đa cho cuộc hành binh này. Ưu thế về hỏa lực không quân và hải quân trong không gian tác chiến ở đồng bằng và ven biển Quảng Trị rõ ràng rất bất lợi cho ta. Đứng phía sau còn có Sư đoàn bộ binh 1 và liên đoàn 1 biệt động quân phòng ngự ở Huế và Phú Bài, Trung đoàn 51 bộ binh, lực lượng dự bị của quân đoàn đứng ở Huế.
Đêm 26-6-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch phán đoán địch có thể phản công, nên chủ trương cho các đơn vị đánh chắc thắng, tiến công có trọng điểm, đồng thời điều chỉnh lại lực lượng để chặn cuộc phản công của ngụy quân. Trước mắt, cho Trung đoàn bộ binh 102 quay lại cùng Trung đoàn 66 ngăn chặn địch trên đoạn đường 1 Trường Phước, Hương Điền. Ngày 27-6, Sư đoàn 308 đang ở Phong Điền được lệnh trở lại bắc sông Mỹ Chánh để đánh địch trên trục đường 1.
Đêm 28-6, nhận được chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định “chuyển từ chiến dịch tiến công sang chiến dịch phản công, tiêu diệt sinh lực địch giữ vững vùng giải phóng, đánh bại cuộc hành quân của địch và phát triển tiến công lúc thời cơ có lợi”.
Tuy nhiên, ý định điều chỉnh lực lượng không thực hiện kịp, nhất là hướng tây, vì thời gian quá gấp, không quân, pháo hạm tàu, pháo các đơn vị ngụy quân bắn phá ác liệt các tuyến đường hành quân. Chỉ có Trung đoàn bộ binh 66 (thuộc Sư đoàn bộ binh 304) đến vị trí đúng quy định, không một đơn vị nào khác đến kịp thời gian, vị trí quy định để chiến đấu.

Kỳ 4: 81 ngày đêm quyết tử
QĐND - Qua thực tế chiến đấu kể từ khi quân ngụy mở cuộc hành quân “Lam Sơn 72”, bộ đội ta bị thương vong tương đối lớn. Tuy có diệt được một số sinh lực địch, làm chậm bước tiến của quân ngụy, nhưng bộ đội ta không giữ được những khu vực trọng điểm, quân ngụy chiếm được những điểm cao khống chế, bàn đạp quan trọng. Trước yêu cầu cấp bách bảo vệ vững chắc vùng giải phóng Quảng Trị, ngày 15-7-1972, vừa chỉ đạo cách đánh phản công, đồng thời Thường vụ Quân ủy Trung ương đã có chỉ đạo phương hướng chuyển chiến dịch vào phòng ngự. Trong bức điện số 118-ĐK ngày 10-7 và điện số 144-ĐK ngày 18-7, đồng chí Văn (1) , Bí thư Quân ủy Trung ương chỉ rõ: “Trong khi thực hiện kế hoạch trước mắt, cần có ngay một kế hoạch tương đối cơ bản… Có kế hoạch tiến công địch, đồng thời có kế hoạch phòng thủ hậu phương trực tiếp của chiến dịch, củng cố vững chắc thế trận của ta ở hướng tây (giữ vững Ái Tử, Đông Hà, Cửa Việt) củng cố trận địa hỏa lực, củng cố các tuyến vận chuyển; bố trí các kho tàng hậu phương; vừa chiến đấu vừa xây dựng các trận địa vững chắc ở phía tây như Động Ông Do, động Chiêu Giòng… để có chỗ đứng chân vững chắc, tiếp tục tiến công địch. Kế hoạch này cần có dự kiến cho đến tháng 9 và tiếp tục trong cả mùa mưa…”. Riêng đối với khu vực thị xã Quảng Trị, Đại tướng Tổng tư lệnh còn chỉ thị: “Cần tăng cường hỏa lực, xung lực, tổ chức tốt các khu vực phòng thủ của các đơn vị cơ sở trong thị xã, bảo đảm phòng thủ liên hoàn, có chiều sâu, tổ chức ngay một trận địa hỏa lực thật mạnh ở bờ bên này sông Thạch Hãn, đối diện với thị xã, gồm pháo cơ giới, pháo 85 ly, một số xe tăng, pháo phòng không, quan trọng là pháo cối mang vác; chuẩn bị trận địa phòng không thật mạnh đề phòng tình huống địch tập kích hóa học rồi đổ bộ bằng trực thăng vào nội thành. Nghiên cứu bí mật đưa một số xe tăng vào Thành cổ, cấu trúc công sự chu đáo, biến thành hỏa điểm đánh xe tăng địch, đồng thời phối hợp với bộ binh tiêu diệt địch”.
Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương và thực tế chiến trường, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho các hướng, tổ chức các khu vực phòng ngự, trước hết là làm trận địa vững chắc để bảo toàn lực lượng có chỗ đứng chân để tiêu diệt địch.
Tại thị xã Quảng Trị, khu vực trọng điểm của chiến dịch, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định thành lập ban chỉ huy khu vực thị xã Quảng Trị gồm: Trung đoàn 95, đây là một trong những trung đoàn có nhiều chiến sĩ là sinh viên, giáo viên trẻ, nhập ngũ cuối năm 1971 đầu năm 1972 của gần 30 trường đại học, cao đẳng ở miền Bắc lần đầu tiên tham gia chiến đấu, Tiểu đoàn 7 Trung đoàn bộ binh 18, Sư đoàn 325 và Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 8 và Tiểu đoàn 3 địa phương, tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 của Sư đoàn 320b tổ chức thành một khu vực phòng ngự. Trung tá Trung đoàn trưởng bộ binh 48 Lê Quang Thúy được cử giữ chức chỉ huy trưởng, Trung tá Chính ủy Trung đoàn 95 Nguyễn Văn Thiệu được cử giữ chức Chính ủy. Đầu tháng 8, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định Bộ tư lệnh Sư đoàn bộ binh 325, Tư lệnh là Thượng tá Lê Kích, Chính ủy là Thượng tá Nguyễn Công Trang trực tiếp chỉ huy việc phòng thủ thị xã.
Chính trị viên Đại đội 5, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320b Vũ Trung Thướng một mình diệt hơn 100 tiên địch trong 25 ngày đêm chỉ huy đại đội phòng ngự trong thành cổ Quảng Trị, tháng 7-1972. Ảnh tư liệu.
Ngày 1-7-1972, Trung đoàn 48 triển khai xong nhiệm vụ phòng ngự ở vòng ngoài thị xã, Tiểu đoàn bộ binh 1 ở các làng An Thái, Tri Bưu, Quy Thiện, Tiểu đoàn bộ binh 3 án ngữ ở La Vang, đây là căn cứ huấn luyện Gia Long, sở chỉ huy Trung đoàn bộ binh 57 Sư đoàn bộ binh 3 ngụy và sân bay quân sự giã chiến đường băng là những tấm ghi sắt lắp ghép, cách thị xã hơn 1km về phía tây nam. Sở chỉ huy cơ bản ở Bích Khê, sở chỉ huy phía trước trong Thành cổ Quảng Trị.
Khoảng 6 giờ ngày 3-7, tiểu đoàn 11 thuộc Lữ đoàn dù số 3 ngụy có xe tăng yểm trợ tiến công ngã ba Long Hưng, do Trung đội 3 của Đại đội 11 Tiểu đoàn bộ binh 3 chốt giữ. Mặc dù không được pháo chi viện, bộ đội dựa vào công sự, chiến đấu ngoan cường đẩy lùi các đợt tiến công hung hăng của lính dù, góp phần cùng các trận địa khác của Trung đoàn bộ binh 48 phá vỡ kế hoạch của lính dù ngụy trong ngày 3-7 phải chiếm được thị xã Quảng Trị.
Để mặc cả trên bàn đàm phán hội nghị Pa-ri, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho tướng Ngô Quang Trưởng phải cắm bằng được cờ vào Thành cổ trước ngày hội nghị. Do đó các trận đánh vòng ngoài quanh thị xã càng diễn ra quyết liệt, đẫm máu.
4 giờ sáng 10-7, khu vực thị xã Quảng Trị sáng bừng lên bởi đạn pháo của ngụy quân thi nhau trút xuống các trận địa phòng ngự của bộ đội ta. Từ đài quan sát pháo binh và các chốt tiền tiêu liên tục báo về sở chỉ huy trong Thành cổ, rất đông lực lượng quân dù và biệt động quân cùng với xe tăng, thiết giáp ở An Thái, Đại Nại và đường số 1. Lập tức pháo binh chiến dịch được lệnh bắn cấp tập vào khu vực này. Lữ đoàn dù số 2 bị thương vong nặng và cuộc tiến công của quân ngụy đã không thành. Quân ngụy xốc lại lực lượng tổ chức tiến công suốt cả ngày 10-7 nhưng vô vọng vì vấp phải hệ thống phòng ngự vững chắc có chiều sâu của Trung đoàn bộ binh 48 và các đơn vị bám quanh thị xã Quảng Trị. Quân dù đã phải để lại 500 xác chết và 12 xe tăng.
Bị tổn thất nặng nề, ngụy quân phải tạm dừng tiến công, siết lại đội ngũ, bổ sung quân thay vào đó là những đợt B52 “rải thảm” và pháo hạm nã vào trận địa phòng thủ của ta.
Chiều 11-7, quân ngụy dùng trực thăng đổ một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ xuống bãi tha ma An Tiêm – Nại Cửu nhằm thu hút lực lượng và sự chý ý của ta ra vòng ngoài. Trung đoàn bộ binh 27 phối hợp cùng bộ đội địa phương đập tan cuộc đổ bộ, bắn rơi 9 trực thăng. Cùng ngày, tiểu đoàn 9 Lữ dù số 2 ngụy mở đợt tiến công vào ngã ba Long Hưng. Các chiến sĩ Đại đội 5, Tiểu đoàn 2 có 30 tay súng do chính trị viên đại đội Vũ Trung Thướng(2) chỉ huy chờ cho địch vào hết khu nhà một tầng, rồi dùng B40, B41 diệt gọn cả một trung đội địch. Cay cú, quân ngụy gọi pháo đánh vào chốt rồi tổ chức 3 đợt xung phong, nhưng đều bị các chiến sĩ chặn đánh quyết liệt. Quân ngụy buộc phải trở lại vị trí xuất phát tiến công. Ở hướng biển, Sư đoàn lính thủy đánh bộ vượt qua trục đường 68 và dải đất hẹp với những đụn cát trắng cố gắng tạo thế hợp vây cùng với sư đoàn dù đánh vào thị xã Quảng Trị từ hướng đông nam.
Ngày 14-7, Sư đoàn 312 do Thượng tá Thái Hòa làm Sư đoàn trưởng được lệnh của Bộ tổng tư lệnh vào tham gia chiến dịch và Trung đoàn 165, Sư đoàn 312 được tăng cường cho Sư đoàn bộ binh 308. Sau đó 2 trung đoàn của Sư đoàn 312 là 141 và 209 tiếp tục vào chiến đấu phá vỡ thế uy hiếp thị xã Quảng Trị.
Để chi viện kịp thời cho thị xã Quảng Trị, đập tan cố gắng mới của địch trong cuộc tiến công thứ 2, đêm 14-7, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 95, Sư đoàn bộ binh 325 vượt sông Thạch Hãn vào chiến đấu ở hướng đông nam thị xã tiếp sức cho Trung đoàn 48.
Tiếp đó, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 64 cũng được lệnh vượt sông Thạch Hãn vào thị xã chiến đấu trong đội hình Trung đoàn 48. Ta và địch đều được tăng cường lực lượng nên các trận chiến đấu giành đi, giật lại quyết liệt diễn ra giữa quân ta và các đơn vị lính dù, thủy quân lục chiến ở Tri Bưu, Thạch Hãn, khu Mỹ Đông, Trầm Lý, Đại Nại. Lính dù, lính biệt kích ngụy không từ một thủ đoạn nào miễn là đưa được lá cờ vàng 3 sọc đỏ lên được Thành cổ Quảng Trị. Đêm 12-7, một toán biệt kích dù 8 tên thuộc Lữ đoàn dù số 2 tổ chức cuộc đột nhập vào Thành cổ. Khi tên lính biệt kích dù Hồ Khang vừa leo lên bờ Thành cổ và giương lá cờ 3 sọc lên liền bị lực lượng bảo vệ Thành cổ tiêu diệt, 7 tên khác cùng chung số phận.
Quân ngụy tập trung về thị xã Quảng Trị ngày càng đông, ngày cao nhất lên đến 4 Lữ đoàn. Chúng thay nhau mở các đợt tiến công dồn dập vào thị xã Quảng Trị, với mật độ hỏa lực dày đặc, có tính hủy diệt.
Trong khi đó, ta không thể tập trung ở thị xã một lực lượng lớn do địa bàn chật hẹp. Cuộc chiến đấu ở đây được đẩy lên tới đỉnh cao về tinh thần chiến đấu ngoan cường, một ý chí thép của bộ đội và sự sáng tạo cách đánh bản lĩnh của người chỉ huy các cấp. Vì vậy, Bộ tư lệnh chiến dịch luôn chú trọng kiện toàn đội ngũ cán bộ chỉ huy trong Thành cổ, đưa vào thị xã các đơn vị có kinh nghiệm chiến đấu kịp thời như các Trung đoàn bộ binh 48, 64, 95 rất thiện chiến. Tuy nhiên, do chiến đấu căng thẳng, liên tục ngăn chặn và phản kích quân địch, quân số các đơn vị giảm nhanh, để duy trì quân số chiến đấu một tiểu đoàn bộ binh với 100 tay súng, đại đội bộ binh với 30 tay súng là điều cực kỳ khó khăn, mặc dù được bổ sung quân thường xuyên.
Để chia lửa với các đơn vị bảo vệ Thành cổ, phá thế vây ép của địch, Tư lệnh cánh đông, Thượng tá Nguyễn Sùng Lãm ra lệnh cho các đơn vị thuộc quyền tổ chức lực lượng luồn sâu đánh mạnh vào sau lưng địch, buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó với cánh đông nhất là ở khu vực đồng bằng Triệu Hải sát thị xã Quảng Trị.
Ngày 27-7-1972, sau khi thay sư đoàn dù và trở thành lực lượng chủ yếu đánh chiếm thị xã Quảng Trị, Sư đoàn lính thủy đánh bộ bắt đầu cuộc tiến công thị xã Quảng Trị với ưu thế hỏa lực pháo hạm và B52, ngày 1-8-1972 địch bắn phá mãnh liệt mang tính hủy diệt làm 4 bức tường xung quanh Thành cổ sụp đổ hoàn toàn, thành những đống gạch ngổn ngang, nát vụn, hố bom, hố pháo chồng lên nhau. Các chiến sĩ chúng ta ngồi trong hầm sâu dù không trúng mảnh bom, mảnh đạn thì máu ở tai, mũi, miệng cũng trào ra bởi sức ép của gần 40 nghìn viên đạn pháo và hàng chục quả bom nổ đinh tai, váng óc suốt ngày đêm. Trong mưa bom, bão đạn của quân thù, Trung đoàn 48, Trung đoàn 95, Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương tỉnh và các đơn vị bạn vẫn vững niềm tin, kiên cường bám trụ chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt nhiều đại đội lính thủy đánh bộ ngụy.
Lợi dụng lúc ta đang gặp khó khăn do mưa lũ gây nên, đầu tháng 9-1972, quân ngụy tiếp tục tăng quân để cùng Sư đoàn lính thủy đánh bộ tiến công vào các trận địa phòng ngự của ta. Sau nhiều trận chiến đấu quyết liệt, giành đi, giật lại từng đoạn hào, mô đất, bộ binh và xe tăng địch đã liên kết được với nhau trên các hướng nam, đông nam và đông, đông bắc thị xã Quảng Trị. Do lực lượng của ta mỏng, hỏa lực chi viện yếu, khi chiếm được mục tiêu, địch phản kích nên ta không còn đủ lực lượng để chốt giữ. Dựa vào hỏa lực máy bay và pháo binh vượt trội, những ngày sau đó địch liên tục tiến công chiếm lại các trận địa, có nơi bộ binh, xe tăng ngụy đã vào áp sát chân Thành cổ.
Trong số các đơn vị tham gia chiến đấu giữ Thành cổ Quảng Trị thì Tiểu đoàn 3 tỉnh đội Quảng Trị do Đại úy Đỗ Văn Mến(3) tiểu đoàn trưởng là một trong những đơn vị vào Thành cổ đầu tiên và bám trụ suốt 81 ngày đêm, tiểu đoàn chiến đấu hàng trăm trận, tiêu diệt hàng trăm tên địch. Đặc biệt, ngày 14-9-1972, Lữ đoàn 2, Sư lính thủy đánh bộ tổ chức nhiều đợt tiến công nhưng đều bị ta đánh bật ra. Địch bám trụ và đào hầm, hào bao vây thành. Lúc này lực lượng của Tiểu đoàn 3 còn hơn 20 tay súng. Đỗ Văn Mến lệnh cho các đơn vị tập trung các loại vũ khí lại, mỗi người sử dụng từ 3 đến 4 loại vũ khí và cơ động trong đoạn chiến hào dài khoảng 30m. Lợi dụng trời tối, từ 3 hướng địch liều lĩnh mở đợt tiến công dữ dội vào thành. Theo kế hoạch, hiệp đồng, Tiểu đoàn 8 tỉnh đội từ ngoài đánh vào, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 48 đánh thọc sườn địch, lực lượng Tiểu đoàn 3 từ trong đánh ra làm quân địch rối loạn thương vong lớn, không thực hiện được kế hoạch chiếm thành.
Ngày 16-9-1972, Bộ tư lệnh chiến dịch lệnh cho Trung đoàn 18 vượt sông sang thị xã. Lúc này nước sông Thạch Hãn đang lên to, không quân, pháo binh ngụy ra sức bắn phá khống chế các bến vượt, phương tiện vượt sông bị hỏng hết, Trung đoàn 18 phải rất chật vật mới đưa bộ phận đi đầu qua sông khi tình hình trong Thành cổ đã hết sức nghiêm trọng bởi lực lượng bảo vệ thị xã và Thành cổ bị thương vong lớn. Riêng Tiểu đoàn 3 còn 10 tay súng kể cả tiểu đoàn trưởng Đỗ Văn Mến. Các đơn vị buộc phải rút lui hồi 18 giờ ngày 16-9-1972, kết thúc 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị.
81 ngày đêm trụ vững ở thị xã Quảng Trị, đương đầu với cuộc đánh phá quy mô lớn, ác liệt chưa từng có từ trước đến nay của không quân, hải quân Mỹ, với tất cả những thủ đoạn bỉ ổi nhất, những đơn vị thiện chiến nhất của quân ngụy Sài Gòn, các đơn vị tham gia chiến dịch tiêu biểu là lực lượng bảo vệ thị xã Quảng Trị đã viết nên thiên anh hùng ca bất diệt về sức mạnh của quân dân ta trong cuộc đối đầu với đế quốc Mỹ xâm lược.
(còn nữa)
(1) Bí danh Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
(2) Năm 1973 Vũ Trung Thướng được tuyên dương anh hùng LLVT nhân dân.
(3) Đỗ Văn Mến được tuyên dương anh hùng LLVT nhân dân.
————————————
Kỳ 5: Trận then chốt quyết định
Chiếm được thị xã Quảng Trị nhưng quân ngụy cũng bị tổn thất nặng nề. 26.000 quân ngụy Sài Gòn bị loại khỏi vòng chiến đấu, 349 xe quân sự trong đó có 200 xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy, 205 máy bay bị bắn rơi. Sư đoàn lính thủy đánh bộ và Sư đoàn dù thiện chiến nhất bị thiệt hại nặng nề. Mặc dù làm chủ được thị xã Quảng Trị nhưng quân ngụy chưa chiếm được đồng bằng Triệu Phong, chưa tới được Đông Hà – Cửa Việt như kế hoạch đã vạch ra. Lực lượng và tinh thần ngụy quân tuy có giảm sút, nhưng trước yêu cầu chính trị, quân ngụy vẫn không từ bỏ tham vọng tập trung lực lượng để giành lại những vùng đất đã bị quân giải phóng chiếm giữ.
Ngày 17-9-1972, trong bức điện số 253-Đ do đồng chí Văn ký, thay mặt Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch: “… Bộ đội ta rút khỏi thị xã chỉ là một sự lui quân có tính chiến thuật. Cần có nhận thức đầy đủ rằng đứng về phạm vi cả mặt trận thì cuộc chiến đấu của ta còn đang tiếp tục…”. Tiếp sau đó Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương còn chỉ thị cho Bộ tư lệnh chiến dịch “Phải dứt khoát dùng hình thức phòng ngự trận địa mới giành được thắng lợi”.
Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, được sự giúp đỡ của các cơ quan Bộ Tổng tư lệnh và sự đôn đốc của Bộ tư lệnh chiến dịch, các hướng đã thực sự quán triệt được yêu cầu phải xây dựng hệ thống trận địa phòng ngự mới, đồng thời cụ thể cách thức xây dựng chốt liên hoàn, cách bố trí sử dụng binh lực, hỏa lực. Các đơn vị vừa khẩn trương xây dựng trận địa, vừa làm kế hoạch tác chiến phòng ngự, vừa điều chỉnh lực lượng, vừa tiếp tục chiến đấu. Trong những ngày này, lợi dụng mùa mưa, quân ngụy đang gây cho ta những khó khăn. Chúng tiếp tục tập trung cao độ hỏa lực không quân, hải quân đánh phá với cường độ lớn vào các trận địa phòng ngự của ta.
Các chiến sĩ Đại đội 10, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 tiến công đánh địch tại Cầu Sắt – Quảng Trị, ngày 23-7-1972. Ảnh tư liệu.
Cảnh giác và chủ động đối phó với địch, Bộ tư lệnh chiến dịch thông báo các đơn vị toàn mặt trận: “Ngày 20-10 có thể ta và Mỹ trở lại mật đàm ở Pa-ri. Hướng cánh đông phải đề phòng khả năng địch ném bom hủy diệt và đánh chiếm các vị trí quan trọng khi 2 bên bước vào đàm phán ở hội nghị”, đồng thời tư lệnh chiến dịch chỉ thị cho Sư đoàn 304 đưa Trung đoàn 24 là lực lượng dự bị vào cùng với lực lượng phòng ngự tiến hành phản kích. Trung đoàn 66 chiếm lại các điểm cao 124, 128. Tiểu đoàn 2 độc lập đang trên đường vào nam sông Mỹ Chánh, cũng được lệnh dừng lại để tăng cường cho hướng này.
Ở hướng đông, thế trận ngày càng vững vàng hơn. Cuộc sống của bộ đội dù được cải thiện từng bước nhưng vẫn còn không ít khó khăn. Thực hiện kế hoạch luân phiên, cuối tháng 10, Trung đoàn 101 ra củng cố ở bắc Cửa Việt. Trung đoàn 27 vào thay, chiến đấu trên khu vực An Long – Bích La – Chợ Sải.
Đêm 1-11, cuộc hành quân của Lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369 từ thị xã Quảng Trị bí mật vượt sông Thạch Hãn sang Nhan Biều, Ái Tử mang tên “Sóng thần 9” đánh chiếm đầu cầu Nhan Biều. Khi Tiểu đoàn 6 thủy quân lục chiến, bộ phận đi đầu của cuộc hành quân mới sang sông đã bị Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 18 chặn đánh và tiêu diệt gọn. Pháo binh chiến dịch của ta vừa chi viện trực tiếp cho Tiểu đoàn 8, vừa bắn trúng đội hình phía sau đang rối loạn của địch ở phía hữu ngạn và trong thị xã diệt nhiều tên. Bị thiệt hại nặng, Lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ phải bỏ cuộc tiến công và nhận kết cục cay đắng thất bại cuộc hành quân “Sóng thần 9”.
Do thế phòng ngự khu giữa đã được ổn định, Bộ tư lệnh chiến dịch điều Sư đoàn 312 vào thay thế Sư đoàn 308 và điều Trung đoàn 165 từ khu giữa sang tăng cường cho Sư đoàn 304. Như vậy, kể từ ngày 7-12, Sư đoàn 304 có thêm Trung đoàn 165 đã tổ chức phản kích lấy lại mỏm A1 nhưng không trụ lại được vì máy bay và pháo binh ngụy thay nhau bắn phá ác liệt.
Ngày 23-1-1973, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định mở một đợt phản kích để cải thiện tình hình ở hướng tây. Trung đoàn 95 ở khu giữa được lệnh sang sông cùng Trung đoàn 209 tiến công quân ngụy ở Tích Tường, Như Lệ, chiếm lại các điểm cao 52, 29, 15, giữ vững được tuyến ven sông Thạch Hãn cho đến ngày có lệnh ngừng bắn.
Nắm được âm mưu của địch mở cuộc hành quân mang tên “Tăng-gô Xi-ti” nhằm đánh chiếm Cửa Việt trước khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, 12 giờ 30 phút ngày 25-1, Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ thị cho Bộ tư lệnh cánh đông chuẩn bị phương án đánh địch ra Cửa Việt. Mọi công tác chuẩn bị đang được xúc tiến khẩn trương thì đêm 25 sáng 26-1-1973, không quân pháo hạm của Mỹ, pháo binh ngụy bắn phá dữ dội vào hệ thống phòng ngự cánh đông. Dứt tiếng bom, pháo nổ, lập tức bộ binh và xe tăng quân ngụy thực hành tiến công, cuộc chiến đấu giành giật giữa ta và địch diễn ra ác liệt, địch buộc phải co lại thành 4 cụm kéo dài từ nam Cửa Việt đến Vĩnh Hòa.
Liên tục trong hai ngày 28 và 29-1, lực lượng cánh đông đã tổ chức đánh địch nhưng không thành công. Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định tăng cường cho cánh đông Trung đoàn 24 và Trung đoàn 66 của Sư đoàn 304 cùng với một đại đội xe tăng; đồng thời cử Đại tá Cao Văn Khánh, Phó tư lệnh; Đại tá Hoàng Minh Thi, Phó chính ủy; Đại tá Doãn Tuế, Phó tư lệnh chiến dịch kiêm Tư lệnh pháo binh chiến dịch xuống đốc chiến Bộ tư lệnh cánh đông chỉ huy phản đột kích.
Sáng ngày 30-1-1973, Bộ tư lệnh cánh đông tổ chức lại đội hình đòn phản đột kích. Bộ phận chặn đầu gồm 2 đại đội của Trung đoàn 101, Sư đoàn 325 và Trung đoàn 48, Sư đoàn 320b, bộ phận K5 Hải quân và một bộ phận công binh Sư đoàn 320b, có nhiệm vụ giữ khu vực Cảng, Phó Hội, Hà Tây, kiên quyết ngăn chặn địch trước các chốt phòng ngự, không cho quân ngụy phát triển vào Cửa Việt.
Bộ phận khóa đuôi có Trung đoàn 64; Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 24; Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 101 chốt tại Vĩnh Hòa đánh địch tăng viện từ Thanh Hội lên và chặn quân rút chạy từ Cửa Việt xuống.
Bộ phận chủ lực, gồm Trung đoàn 101, Trung đoàn 24, Tiểu đoàn 38 và Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 271 có nhiệm vụ tiêu diệt quân ngụy từ xóm Mộ lên tới Cảng.
Vì chuẩn bị chậm, đến 12 giờ ngày 30-1 bộ đội ta nổ súng không đồng loạt, nên đòn phản kích này không hiệu quả. Sáng sớm ngày 31-1, Bộ tư lệnh cánh đông tập trung 5 tiểu đoàn của bộ phận chủ lực có một số xe tăng, xe bọc thép cùng các lực lượng chốt tiến công vào quân ngụy ở phía nam cảng. 6 giờ 30 phút các trận địa pháo chiến dịch, các trận địa pháo chống tăng bờ bắc ĐKZ 75, pháo 85mm, B72, các đội hỏa khí chống tăng đi cùng bắn mãnh liệt vào các cụm quân địch mở đầu trận đánh. Bị đòn phủ đầu, quân ngụy choáng váng, đội hình rối loạn. Lập tức các đơn vị theo nhiệm vụ đã được phân công đồng loạt tiến công vào 5 cụm quân. Pháo phòng không của ta khống chế toàn bộ vùng trời từ Long Quang đến Thanh Hội. Đến 8 giờ 30 phút ngày 31 tháng 1, bộ đội ta diệt xong cả 3 cụm quân ngụy ở phía nam cảng.
Một số quân ngụy sống sót theo các triền cát trắng dọc bờ biển Cửa Việt tháo chạy về tới Vĩnh Hòa, vấp phải các trận địa chốt của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 101, không chống cự, quân ngụy trút vũ khí đầu hàng. Thừa thắng, bộ đội ta đuổi quân ngụy vào tới Thanh Hội. Đến 10 giờ 30 phút, từ cảng Cửa Việt đến Vĩnh Hòa không còn một bóng ngụy quân, ta khôi phục lại tuyến phòng ngự từ Thanh Hội, Long Quang đến Chợ Sải. Cuộc hành quân “Tăng-gô Xi-ti” của ngụy quân bị thất bại hoàn toàn.
Đòn đánh tiêu diệt này đã làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và ngụy quân tại Quảng Trị, làm thất bại hoàn toàn âm mưu của địch chiếm lại vùng ta mới giải phóng. Ta đã tiêu diệt hơn 2.330 tên ngụy, bắt 200 tên, phá hủy 113 xe tăng, xe bọc thép, thu 12 xe, bắn rơi 5 máy bay, phá hủy 10 khẩu pháo, bắn cháy 1 tàu. Lữ đoàn đặc nhiệm bị tiêu diệt, Lữ đoàn lính thủy đánh bộ 147 và 4 chi đoàn thiết giáp bị thiệt hại nặng nề.
Trận phản đột kích Cửa Việt là một trận then chốt quyết định của Chiến dịch phòng ngự Quảng Trị năm 1972, đánh dấu sự kết thúc chiến dịch bằng một chiến thắng oanh liệt. Chiến thắng đó càng có ý nghĩa to lớn cả về quân sự, chính trị – ngoại giao, trong giai đoạn trước mắt cũng như giai đoạn đấu tranh sau Hiệp định Pa-ri.
Cuộc tiến công chiến lược Trị – Thiên năm 1972 đã diễn ra 308 ngày đêm, trong đó có chiến dịch tiến công và chiến dịch phòng ngự, tuy ta không giải phóng được Thừa Thiên và không giữ được Thành cổ Quảng Trị nhưng thắng lợi đó đã làm thay đổi thế và lực của ta trong thời điểm lịch sử vô cùng quan trọng này. Góp phần làm tê liệt chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri, phải rút hết quân Mỹ và đồng minh ra khỏi miền Nam nước ta, đẩy nhanh quân ngụy vào thế suy sụp. Thực tế trên chiến trường Trị – Thiên đã minh chứng, lần đầu tiên chiến trường miền Nam ta đã tiêu diệt nhiều đơn vị lớn của địch, nhất là 2 sư đoàn dự bị chiến lược tinh nhuệ nhất. Lần đầu tiên ta đã giải phóng hoàn toàn một tỉnh, tạo thế để củng cố và bảo vệ vững chắc tuyến đường vận tải chiến lược 559 và kéo dài thêm tuyến vận tải đường biển khá quan trọng với cảng Cửa Việt một trong những cảng lớn ở miền Trung và cả nước.
Thắng lợi ở Trị – Thiên là thắng lợi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, biểu tượng của tinh thần chiến đấu vô song, ý chí kiên cường, không gì có thể lay chuyển nổi, người trước ngã người sau tiến lên, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, trong chiến đấu quân – dân gắn bó keo sơn, một ý chí.
Thắng lợi ở Trị – Thiên cũng chính là thắng lợi của sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sự kết hợp tài tình đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị – ngoại giao của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh; sự chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch sáng tạo, kiên quyết của Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch, thể hiện bằng nghệ thuật tổ chức chiến trường, thế trận chiến dịch; cách đánh chiến dịch; chỉ đạo chiến thuật. Luôn tỉnh táo, chủ động trong bị động, phá thế mạnh của địch để giành lại thắng lợi của chiến dịch.
Tất cả những thành công, và thiếu sót ở hướng tiến công chiến lược Trị – Thiên năm 1972, chúng ta đã thu được những bài học vô cùng sâu sắc, quý giá, nhất là những vấn đề về nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch, chiến thuật cần phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của quân đội ta.