Hội nghị Genève về Đông Dương năm 1954, là một
diễn đàn quốc tế đa phương, do các nước lớn chi phối. Liên Xô và Trung
Quốc ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam trong kháng chiến và trong đàm phán. Tuy
nhiên, mỗi nước lại có lợi ích và tính toán riêng của mình mà chúng ta
chưa hiểu hết được, cho nên việc ứng xử với hai bạn đồng minh đặc biệt
là Trung Quốc không phải dễ dàng, trong đó có những quan điểm, toan tính
của Trung Quốc rất đáng nghiên cứu, như nghị sỹ Mỹ William Knowland
bình luận về Hiệp định Genève “Chu Ân Lai đã sẵn sàng hy sinh chiến
thắng quân sự của Hồ Chí Minh để phục vụ lợi ích quốc gia mình”, nhưng
với việc đánh giá đúng tình hình, Đảng ta đã xử lý linh hoạt mối quan
hệ, đem lại những thắng lợi lớn trên mặt trận ngoại giao, qua đó cho
Đảng ta bài học về xử lý mối quan hệ với đồng minh, nước lớn.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 07/5/1954, Hội nghị
Genève bàn về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông
Dương diễn ra từ ngày 08/5 đến 21/7/1954 Hiệp định được ký kết, với 31
phiên họp, trong đó 7 phiên toàn thể, 24 phiên họp cấp trưởng đoàn. Có 9
đoàn tham dự Hội nghị: Đoàn Liên Xô do Bộ trưởng ngoại giao Viacheslav Molotov dẫn đầu; đoàn Trung Quốc do Thủ tướng Chu Ân Lai đẫn đầu; đoàn Mỹ do Ngoại trường Bedell Smithdẫn đầu; đoàn Anh do Ngoại trưởng Anthony Edendẫn đầu; đoàn Pháp do Ngoại trưởng Georges Bidault dẫn
đầu; đoàn Việt Nam có đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa do Thủ tướng Phạm
Văn Đồng dẫn đầu, đoàn đại diện của chính quyền Bảo Đại; đoàn Chính phủ
Vương quốc Lào và đoàn Chính phủ vương quốc Campuchia.
Tại Hội thảo quốc tế Chiến thắng Điện Biên Phủ 50 năm
nhìn lại (4/2004), khi nói về Hội nghị Genèvenữ luật gia người Pháp
Laury Anne Bellessa nhận xét: “Nếu chúng ta đi sâu vào chi tiết các cuộc
thương lượng, chúng ta sẽ nhận thấy rằng các điều khoản của Hiệp định
chỉ để nhằm làm thoả mãn các cường quốc…Vì muốn bảo vệ quyền lợi của
mình ở khu vực Đông Nam Á mà các cường quốc đã tự quy định phần lớn các
điều khoản trong hiệp định, không cần tính đến phản ứng của các nước
Đông Dương. Không còn sự lựa chọn nào khác, các nước Đông Dương phải
nhượng bộ trước các áp lực rất lớn này… Thắng lợi trên thực địa nhưng
tại bàn Hội nghị, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không thể khai thác được thế
mạnh quân sự của mình”. Để bảo đảm lợi ích quốc gia họ, “lãnh đạo đoàn
đại biểu Trung Quốc Chu Ân Lai đã không hỗ trợ Việt Nam, đưa Việt Nam
đến chỗ phải chấp nhận những điều khoản mà rõ ràng không hề thoải mái
chấp nhận”[1]. Sáu mươi năm đã qua, nhìn lại Trung Quốc ở Hội nghị
Genève đã cho chúng ta thấy rõ: Ý đồ của lãnh đạo Trung Quốc ở Hội nghị;
Quan điểm, cách xử lý linh hoạt của chúng ta; và những bài học được rút
ra từ Hội nghị Genève 1954 về xử lý mối quan hệ với đồng minh, nước lớn
của Đảng ta.
1. Ý đồ của lãnh đạo Trung Quốc ở Hội nghị Genève về Đông Dương năm 1954
Là người chiến thắng trên chiến trường Điện Biên Phủ,
ngày 10/5/1954, đoàn đại biểu Việt Nam nêu rõ lập trường về một giải
pháp toàn diện cho vấn đề Đông Dương bao gồm 8 điểm: (1) Pháp công nhận
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam,
Campuchia và lào; (2) Ký Hiệp định về việc rút quân đội nước ngoài ra
khỏi Việt Nam, Campuchia và lào; (3)Tổ chức tổng tuyển cử tự do ở Việt
Nam, Campuchia và lào để thành lập Chính phủ thống nhất trong mỗi nước;
(4) Việt Nam dân chủ cộng hòa, Campuchia và Lào bằng lòng xem xét việc
tự nguyện gia nhập Liên hiệp Pháp; (5) Việt Nam dân chủ cộng hòa,
Campuchia và Lào công nhận các quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp, sẽ
cùng nước Pháp quy định các quyền này theo nguyên tắc bình đẳng và tôn
trọng quyền lợi lẫn nhau; (6) Hai bên không khủng bố những người hợp tác
với đối phương trong thời gian chiến tranh; (7) Trao đổi tù binh; (8)
Ngừng bắn hoàn toàn và đồng thời trên toàn Đông Dương, điều chỉnh các
vùng, đình chỉ đưa quân đội và thiết bị quân sự mới vào Đông Dương, lập
ủy ban tay đôi gồm đại biểu hai bên đối phương để kiểm tra bảo đảm thực
hiện Hiệp định đình chiến.
Với giải pháp 8 điểm trên đã phản ánh rõ lập trường,
quan điểm đúng đắn của Đảng, Chính phủ ta về giải quyết những lợi ích
chính đáng của nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân các dân tộc trên
bán đảo Đông Dương nói chung. Nhưng, hội nghị Genève do 4 nước triệu tập
và có 4 nước khác tham gia, đây là một cuộc thương lượng quốc tế nhiều
bên, trong đó mỗi bên đều có mục tiêu, ý đồ riêng của mình. Đối với
Trung Quốc, được mời dự hội nghị Genève là cơ hội vàng để thực hiện cùng
lúc 3 mục tiêu lớn [2]:
Một là: Thúc đẩy việc giải quyết nhanh chiến
tranh Đông Dương theo tinh thần “Triều Tiên hóa”, có nghĩa là đình chỉ
chiến sự mà không có giải pháp chính trị, các nước không có điều kiện để
thống nhất đất nước, với hy vọng dập tắt lửa cạnh nhà, đẩy Mỹ ra xa,
tạo lập một khu đệm ở Đông Nam Á và ngăn chặn Mỹ thay thế Pháp ở bán đảo
Đông Dương, hạn chế khả năng Mỹ can thiệp vào bán đảo này. Trung quốc
vừa tránh được nguy cơ đối diện trực tiếp với Mỹ, vừa thực hiện được vai
trò bảo trợ an ninh cho cả 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia;
Hai là: Đề cao vị thế quốc tế của Trung
Quốc, khôi phục lại vị thế một nước lớn có vai trò trong các vấn đề quốc
tế, mà trước hết là ở Châu Á. Bởi kể từ sau khi thành lập nước Trung
Hoa mới, đây là lần đầu tiên Trung Quốc có mặt tại một hội nghị quốc tế
lớn, được cả thế giới quan tâm theo dõi, điều đó có lợi cho việc đề cao
địa vị quốc tế của Trung Quốc. Mặt khác, nếu đàm phán tiến triển tốt có
thể giải quyết một số vấn đề quốc tế, nếu không thành công cũng có thể
tuyên truyền chủ trương của Trung Quốc;
Ba là: Mở rộng quan hệ với các nước Tây Âu,
trước hết là ngoại giao và thương mại, nhằm góp phần phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, phá thế bao vây cấm vận của Mỹ. Chính vì vậy, Chu Ân
Lai đã lên kế hoạch sử dụng diễn đàn hội nghị Genève một cách có lợi
nhất “Ngoài những vấn đề về Triều Tiên và Việt Nam, phải chuẩn bị các
vấn đề khác liên quan đến vùng Viễn Đông, đến hòa hình, an ninh ở châu
Á. Đặc biệt tiến hành các biện pháp nhằm triển khai quan hệ kinh tế,
trao đổi thương mại với các quốc gia khác nhau, làm giảm căng thẳng tình
hình quốc tế, phá vỡ sự phong tỏa và cấm vận của đế quốc Mỹ”[3]. Như
vậy, cho chúng ta thấy trong thời kỳ này, Trung Quốc là một nước lớn
nhưng vị thế chính trị quốc tế của Trung Quốc còn hạn chế, chưa có chân ở
Liên Hợp quốc, chưa có tư thế một nước lớn trên quốc tế.
Để thực hiện được mục tiêu đó, (1) Trung Quốc đã
chuẩn bị nhân sự cho đoàn ngoại giao với 200 người, tập trung nhân tài
ưu tú của ngành ngoại giao đi Genève. Chu Ân Lai tự hào nói về chất
lượng của đoàn đại biểu “mỗi người là một bộ phận hoàn hảo tạo nên khối
thống nhất mạnh mẽ”, qua sự chuẩn bị kỹ lưỡng, toàn diện, cẩn trọng cho
chúng ta thấy những mục đích sâu sa và quyết tâm cao độ thực hiện kỳ
được mục đích đó của lãnh đạo Trung Quốc.(2) Với tư cách là người láng
giềng, người bảo trợ cho cuộc chiến đấu của nhân dân 3 nước Đông Dương,
Trung Quốc tự đứng ra đóng vai trò là bên đối thoại chính, từ đó Pháp và
Trung Quốc trở thành trung tâm của cuộc mặc cả, dàn xếp. Trung Quốc vin
cớ làm thất bại sự phá hoại của Mỹ, mà sẵn sàng có những mền dẻo, nhân
nhượng trên vấn đề Việt Nam và thậm chí có những nhân nhượng quan trọng
trên vấn đề Lào và Campuchia, một thành viên đoàn đàm phán của Pháp là
Jacques de Folin đã viết “trên tất các vấn đề quan trọng, chính là Trung
Quốc … đã ép Phạm Văn Đồng có những nhân nhượng cần thiết để đạt được
thỏa thuận mà họ mong muốn” [4;102].
Mặt khác, muốn đưa Việt Nam nằm trong chính sách Đông
Nam Á của Trung Quốc. Chính vì vậy, lập trường của Trung Quốc ở hội
nghị Genève khác với lập trường của Việt Nam, nhưng phù hợp với lập
trường của Pháp. Cựu tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Quảng Châu, Dương
Danh Dy, nhận xét: “Khi hội nghị Genève diễn ra tại Thụy Sỹ năm 1954…
Trung Quốc đã đưa Việt Nam ra để dùng làm con bài nhằm nâng cao vị thế
của họ lên với phương Tây và chính quyền miền Nam Cộng hòa. Phó Thủ
tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng lúc đó phản đối kịch liệt và làm lộ rõ âm
mưu của Trung Quốc”[5].
2. Xử lý linh hoạt mối quan hệ với Trung Quốc của Đảng ta ở Hội nghị Giơnevơ năm 1954
Trên cơ sở nắm bắt lập trường, ý đồ chiến lược của
các nước lớn, chúng ta đã xử lý linh hoạt tình hình thông qua tiếp xúc,
trao đổi thương lượng song phương hoặc đa phương trong quá trình Hội
nghị Genève. Vấn đề trước tiên được chúng ta đặt ra là không để cho
những bất đồng, khác biệt về quan điểm lập trường giữa các nước lớn làm
hội nghị tan vỡ. Mặt khác phải nắm bắt ý đồ của đồng minh, nước lớn,
linh hoạt xử lý mối quan hệ để có lợi cho ta.
Tại hội nghị, Trung Quốc và Pháp đóng vai trò trung
tâm của đối thoại, Pháp cần Trung Quốc để tránh giáp trận với Việt Nam,
nhận thức rõ điều đó Trung Quốc muốn kéo Pháp để có những giải pháp phù
hợp với lợi ích của Trung Quốc. Chính vì vậy, giữa Trung Quốc và Pháp
diễn ra nhiều cuộc tiếp xúc riêng, chỉ tính từ 08/5- 23/6/1954, giữa
trưởng đoàn Pháp và Trung Quốc đã tiến hành đàm phán 4 lần. Đáng chú ý
là cuộc tiếp xúc ngày 17/6/1954 giữa Chu Ân Lai gặp Trưởng đoàn Pháp Georges Bidault,
trong cuộc tiếp xúc, vì lợi ích riêng Trung Quốc đã đưa ra những nhân
nhượng chính trị cơ bản có hại cho nhân dân 3 nước, Việt Nam, Lào,
Campuchia đó là: “Trung Quốc có thể chấp nhận Việt Nam có hai chính
quyền (Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ bù nhìn Bảo
Đại), công nhận Chính phủ Vương quốc Lào và Chính phủ Vương quốc
Campuchia, từ bỏ yêu cầu có đại biểu của Chính phủ kháng chiến Lào và
Chính phủ kháng chiến Campuchia tham dự hội nghị Genève và đưa vấn đề
quân đội nước ngoài, kể cả quân tình nguyện Việt Nam, phải rút khỏi Lào
và Campuchia”[6;30].
Từ ngày 20/6/1954 trở đi đã diễn ra nhiều sự kiện
quan trọng, tác động lớn đến chiều hướng vận động của Hội nghị Giơnevơđó
là: Quân viễn chinh Pháp bị sa lầy lớn trên chiến trường Đông Dương,
dẫn đến sự thay thế nội các Pháp; Chính quyền Mỹ bắt đầu triển khai kế
hoạch thay thế Pháp ở Đông Dương; Thủ tướng mới của Pháp Menđét
Phơrăngxơ và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai gặp nhau tại Bécnơ (Thụy Sĩ
ngày 23/6/1954) bàn về vấn đề phân vùng, thống nhất Việt Nam, vấn đề
Lào và Campuchia, trong cuộc gặp hai bên đã đạt được giải pháp khung cho
toàn bộ vấn đề Đông Dương như: chia cắt Việt Nam; hai miền Việt Nam
cùng tồn tại hòa bình, giải quyết vấn đề quân sự trước; tách rời giải
quyết 3 vấn đề Việt Nam, Lào, Campuchia; Trung Quốc sẵn sàng nhìn nhận 3
nước này trong khối Liên hiệp Pháp và muốn Lào, Campuchia sẽ có bộ mặt
mới ở Đông Nam Châu Á như Ấn Độ, Inđônêxxia, yêu cầu Mỹ không có căn cứ
quân sự ở Đông Dương, những điểm mà những người lãnh đạo Trung Quốc thỏa
thuận với Pháp rất phù hợp với giải pháp 7 điểm của Anh- Mỹ đưa ra
ngày 29/6/1954, tức là 6 ngày sau cuộc tiếp xúc giữa Thủ tướng Pháp
Menđét Phơrăngxơ và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai; Trong cuộc họp,
Pháp cũng tỏ ý muốn đàm phán trực tiếp với Việt Nam dân chủ Cộng hòa để
giải quyết các vấn đề cụ thể.
Trước tình thế mới phức tạp, Trung ương Đảng và Chính
phủ ta quyết định xúc tiến hai cuộc tiếp xúc với đại diện của Pháp và
Trung Quốc, là hai nước có vai trò đặc biệt quan trọng với tiến trình
Hội nghị Genève. Cuộc tiếp xúc thứ nhất vào ngày 04/7/1954, giữa đoàn
đại biểu Bộ tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam với đoàn đại diện bộ
tổng chỉ huy các lực lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương đã diễn ra tại
Trung Giã (Sóc Sơn- Hà Nội), hai bên đã thảo luận những vấn đề quân sự
do Hội Nghị Giơnevơđề ra, xác định biện pháp thi hành những quyết định
của Hội nghị; Cuộc tiếp xúc thứ hai diễn ra từ ngày 03-05/7/1954, ở Liễu
Châu (Quảng Tây- Trung Quốc) giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Chu
Ân Lai, chúng ta kiên trì lập trường của mình về vấn đề Việt Nam, Lào
và Campuchia, chủ trương đòi có đại biểu của Chính phủ kháng chiến Lào
và Chính phủ kháng chiến Campuchia tham dự như các bên đàm phán, định
giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam là vĩ tuyến 13, tổ chức tổng
tuyển cử tự do trong thời hạn 6 tháng để thống nhất nước nhà. Đối với
việc giải quyết vấn đề Lào và vấn đề Campuchia, Việt Nam giữ quan điểm ở
Lào có hai vùng tập kết của lực lượng kháng chiến đó là một vùng ở phía
Bắc giáp với Trung Quốc và Việt Nam, một vùng ở Trung và Hạ Lào. Còn ở
Campuchia có hai vùng tập kết, một ở phía Đông và Đông bắc song MêKông,
một ở phía Tây nam sông MêKông, tổ chức tổng tuyển cử tự do trong thời
hạn 6 tháng ở Lào và Campuchia, nhưng những đề nghị hợp tình, hợp lý của
Việt Nam đưa ra đều bị Trung Quốc gác lại.
Có thể nói, từ 23/6 đến 20/7/1954, đoàn đại biểu Pháp
tiến hành đàm phán trực tiếp với đoàn đại biểu Việt Nam để giải quyết
vấn đề cụ thể nhưng Trung Quốc luôn giữ vai trò thúc đẩy phía Việt Nam
nhân nhượng nhiều hơn. Tại điện văn của Chu Ân Lai gửi Ban Chấp hành
Đảng Cộng sản Trung Quốc, sao gửi Ban Chấp hành Đảng lao động Việt Nam,
lãnh đạo Trung Quốc đã xác định “Đánh giá phương án vĩ tuyến 16 khó có
thể thỏa thuận, nếu không được thì sẽ lấy Hải Phòng làm cửa bể tự do, ở
gần đó cho phép Pháp đóng một số quân nhất định, nếu không được nữa thì
đem đường số 5 và Hà Nội, Hải Phòng làm khu công quản và phi quân
sự”[6;32]. Hay, Việt Nam cần “có những điều kiện công bằng và hợp lý để
chính phủ Pháp có thể nhận được, để đi đến hiệp định trong vòng 10 ngày,
điều kiện đưa ra nên đơn giản, rõ ràng, dễ đi đến hiệp thương, không
nên làm phức tạp lôi thôi để tránh thảo luận mất thì giờ, rườm rà, kéo
dài đàm phán”[6;32]. Nhìn chung, lập trường của Trung Quốc ở Hội nghị
Genève khác hẳn lập trường của Việt Nam dân chủ cộng hòa, song lại phù
hợp với lập trường của Pháp. Đúng như Huygơ Tectre (Hugues Teetrais)
nhận xét “vào năm 1954, sự giúp đỡ quân sự của Trung Quốc đối với Việt
Nam là rất to lớn. Rõ ràng, sự giúp đỡ này đã góp phần quan trọng vào
chiến thắng Điện Biên Phủ. Về mặt ngoại giao, Hội nghị Genève là cơ hội
để Trung Quốc bước lên chính trường. Bỗng nhiên tiếng nói ngoại giao của
Trung Quốc trở nên quan trọng, hệt như tiếng nói của nước bá chủ đối
với Việt Nam trước khi có thực dân Pháp”[7].
Sau cuộc gặp Liễu Châu, Trung ương Đảng ta họp Hội
nghị vào trung tuần tháng 7, xác định: từ nay mọi việc của ta đều nhằm
vào chống đế quốc Mỹ với phương châm là giữ vững nguyên tắc, linh hoạt
về sách lược, phải đấu tranh trong một thời gian ngắn để đi đến ký kết
Hiệp định đình chiến với Chính phủ Pháp, không để chính quyền Mỹ lợi
dụng kéo dài Hội nghị Genève và phá hoại quá trình đàm phán. Sự điều
chỉnh sách lược này là đúng đắn, cần thiết và được cụ thể hóa thành
phương án chỉ đạo mới trong quá trình đàm phán của đoàn đại biểu Việt
Nam dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Giơnevơ, trên 3 nội dung cơ bản: (1) Về quân sự,
ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam, Lào, Campuchia; lấy vĩ tuyến 16 làm
ranh giới tạm thời hai miền Nam Bắc Việt Nam; không đưa bộ đội, nhân
viên quân sự mới vào khu vực này sau khi ngững bắn, không có căn cứ quân
sự nước ngoài và liên minh quân sự. (2) Về chính trị, thỏa thuận thời hạn tổng tuyển cử ở Việt Nam; vấn đề Việt Nam gia nhập Liên hiệp Pháp sau khi thống nhất. (3) Về phương châm đàm phán, chủ động giành lấy đình chiến ở 3 nước Đông Dương, tích cực thúc đẩy và chủ động đưa ra phương án của ta.
Trong 10 ngày cuối của quá trình đàm phán tại Hội
nghị Genève, từ ngày 10 đến 20 tháng 7 năm 1954, hàng loạt vấn đề đặt ra
phải thương lượng để đi đến các giải pháp cụ thể. Đoàn ta đã tiến hành
đàm phán tay đôi, tay ba với các đoàn Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc và
đại diện Thủ tướng Ấn Độ. Xuất phát từ truyền thống yêu chuộng hòa bình,
theo xu thế chung giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng,
mặt khác chúng ta cũng gặp khó khăn trước sự dàn xếp của nước lớn, nên
Việt Nam đã chấp nhận giải pháp: các nước tôn trọng quyền độc lập cơ bản
của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, ngừng bắn đồng
thời ở Việt Nam và trên toàn cõi Đông Dương, Pháp rút quân, đường giới
tuyến tạm thời là vĩ tuyến 17; thời hạn tổ chức tổng tuyển cử ở Việt Nam
là 2 năm; xác định khu vực đóng quân tạm thời cho Pathét Lào; các lực
lượng kháng chiến Campuchia sẽ giải ngũ hoặc tham gia vào các lực lượng
cảnh sát địa phương. Trong đêm 20/7/1954, ba Hiệp định về đình chiến sự ở
Việt Nam, Lào, Campuchia được ký kết.
Các bên tham gia Hội nghị Genève với những quan điểm
và mục tiêu khác nhau, nhưng cuối cùng đã thống nhất được những điều
khoản là do các bên đã tìm được mẫu số lợi ích chung, cùng nhau thỏa
hiệp, mỗi bên có được cái tối thiểu cần đạt được. Đối với Trung Quốc,
ở Hội nghị Genève, Trung Quốc đã đạt được các mục tiêu chiến lược đề
ra, nghiễm nhiên trở thành một trong năm cường quốc, tờ Nhân dân nhật
báo ra ngày 22/7/1954 khẳng định “Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã
giành được quy chế một cường quốc trên thế giới, được quốc tế thừa
nhận”. Trung Quốc đã đẩy được Mỹ ra xa, Hiệp định này đã làm tan rã ý đồ
của Mỹ bao vây Trung Quốc từ 3 phía Triều Tiên, Đài Loan và Đông Dương,
có các nước láng giềng làm khu đệm, có biên giới an toàn để tập trung
sức người, sức của để phát triển kinh tế, lại tạo được một Đông Dương đa
dạng mà Trung Quốc có khả năng quan hệ và ảnh hưởng. Mặt khác, Trung
Quốc đã mở rộng và tăng cường thêm quan hệ trên các mặt với Pháp, Anh,
Đức, Ý, Thụy Sĩ, Bỉ, không có gì là ngạc nhiên, dịp này Trung Quốc mở
cuộc ăn mừng toàn quốc; Đối với Việt Nam, bản Hiệp định bao gồm
6 loại điều khoản với tổng số 47 điều, trong đó các nước đã công nhận
những quyền cơ bản của nước Việt Nam là độc lập dân tộc, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, xác lập cơ sở pháp lý để quân và dân ta tiếp tục đấu
tranh. Hội nghị Genève đã đánh dấu một trong những thắng lợi vĩ đại của
nền ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
3. Những bài học rút ra từ Hội nghị Genève năm 1954 về xử lý mối quan hệ với đồng minh, nước lớn
Một là,đánh giá chính xác tình hình quốc tế, nhất là thái độ của đồng minh, nước lớn trong hoạt động đối ngoại, chọn đúng mục tiêu, nhân nhương có nguyên tắc
Qua Hội nghị Genève đã cho chúng ta thấy rõ, Đảng ta
đã không đánh giá sai tình hình quốc tế, không đánh giá sai các đối tác
và đã hiểu đúng chính sách của họ. Phải khẳng định rằng, Đảng ta ký Hiệp
định Genève là một giải pháp chiến lược của Việt Nam, bởi trong tình
thế cấp bách, đấu tranh cho một nền hòa bình và chấp nhận một giải pháp
như vậy là một sự lựa chọn rất khôn khéo, đúng đắn, sáng suốt. Chính sự
lựa chọn đó, trước mắt giúp cho dân tộc Việt Nam tạm đẩy lùi hiểm họa
của một cuộc chiến tranh đang lên cơn nóng từ phía Mỹ. Mặt khác Đảng ta
vẫn giữ được quan hệ tốt đẹp với Liên Xô, Trung Quốc, thắt chặt quan hệ
với Lào và Campuchia.
Kết quả cuối cùng được thể hiện trong Hiệp định Genève
so với giải pháp 8 điểm mà chúng ta đưa ra ban đầu có khoảng cách đáng
kể, thậm chí chứa đựng nhiều hạn chế. Nhưng đây là những khoảng cách và
hạn chế không thể tránh khỏi trong thời điểm lịch sử cụ thể. Mỗi lần
nhân nhượng, thỏa hiệp chúng ta đều cân nhắc kỹ, luôn thực hiện “Dĩ bất
biến, ứng vạn biến”, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, luôn
giữ mục tiêu. Những mục tiêu ta chọn đã được bảo đảm nghiêm ngặt, Pháp,
Trung Quốc và các nước lớn khác phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản
của nhân dân Việt Nam là: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn
lãnh thổ và thống nhất nước nhà, điều mà 9 năm trước tại Hiệp định sơ
bộ 06/3/1946, Pháp không chịu công nhận, mới chỉ công nhận Việt Nam là
nước tự do, nên không tạo được cơ sở pháp lý lâu bền, Việt Nam phải chấp
nhận để Pháp đưa quân ra miền Bắc.
Với Hiệp định Genève Pháp, Trung Quốc và các nước
phải công nhận trọn vẹn các quyền dân tộc cơ bản, đây chính là mục tiêu
chúng ta lựa chọn, là cơ sở về pháp lý và cả về đạo lý để nhân dân ta để
nhân dân ta đấu tranh chống Mỹ suốt hơn hai thập kỷ sau đó; là cơ sở để
lên án, tố cáo Mỹ; là cơ sở để đoàn kết nhân dân Đông Dương trong sự
nghiệp chung; là cơ sở để tập hợp lực lượng và tranh thủ sự ủng hộ của
quốc tế. Bài học quý này sẽ tiếp tục phát huy giá trị trên con đường hội
nhập quốc tế đầy thời cơ và thách thức đan xen như hiện nay, chúng ta
phải luôn kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, nhưng hết sức linh
hoạt, mềm dẻo trong từng sách lược cụ thể; coi giáo dục, thuyết phục,
chủ động phòng ngừa và kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm, thường
xuyên nắm chắc tình hình xử lý kịp thời các tình huống xâm phạm đến độc
lập, chủ quyền, an ninh quốc gia.
Hai là, không được mơ hồ về mục tiêu, lợi ích
và ý đồ chiến lược của đồng minh, nước lớn, ngay cả khi có nước lớn cùng
chung chế độ xã hội chủ nghĩa
Năm nước tham dự Hội nghị Genève
thuộc hai phe, hai hệ thống đối lập nhau. Một bên là các nước xã hội chủ
nghĩa gồm Liên Xô, Trung Quốc, bên kia là các nước tư bản, đế quốc gồm
Mỹ, Pháp, Anh. Theo logic hình thức thì sự ủng hộ của Liên Xô và Trung
Quốc đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa là tất yếu và vô điều kiện, song
ngay từ đầu những quan điểm, lập trường và giải pháp về vấn đề chấm dứt
chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương giữa các nước lớn theo chế độ
xã hội chủ nghĩa, đã không trùng quan điểm, lợi ích của Liên Xô và đặc
biệt là của Trung Quốc không hoàn toàn đồng nhất với lợi ích của Việt
Nam, sự dàn xếp, thỏa hiệp giữa các nước lớn làm phương hại đến lợi ích
của dân tộc Việt Nam cũng như của nhân dân hai nước Lào và Campuchia.
Những điều mà chúng ta tưởng như không thể xảy ra lại đã xảy ra cách đây
60 năm nhưng hiện nay vẫn chưa hết khả năng tái diễn.
Cách đây 60 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương
Đảng ta đã rất tỉnh táo, sắc bén, nắm bắt thấu đáo tình hình và xác định
mục tiêu, lợi ích quốc gia có sức chi phối rất lớn đối với lập trường,
quan điểm của lãnh đạo Trung Quốc về vấn đề Đông Dương. Từ đó, chúng ta
đã bình tĩnh trước những chủ trương do lãnh đạo Trung Quốc tự ý dàn xếp
với các nước tư bản, đế quốc tham dự Hội nghị, mặt khác chúng ta vừa
tích cực, linh hoạt, kiên trì đấu tranh, giữ vững quan điểm lập trường,
tranh thủ sự giúp đỡ, đồng thời chủ động, kiên quyết tránh để nước lớn
đặt chúng ta trong chính sách, chiến lược của họ.
Ba là, xử lý đúng mối quan hệ giữa thế và lực, chú trọng tăng cường thực lực của đất nước, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đối ngoại, bảo vệ độc lập, chủ quyềnđất nước
Lực: là sức mạnh tổng hợp về kinh tế, quân sự, tinh thần, vị thế..; Thế: là uy tín, vai trò của mình.Trong
đó, lực quyết định thế, thế tạo điều kiện để lực phát triển. Hồ Chí
Minh từng nói: Thực lực là cái chiêng. Ngoại giao là cái tiếng. Chiêng
có to thì tiếng mới lớn. Sẽ không thể giành thắng lợi trên bàn đàm phán
nếu không có thực lực về kinh tế, chính trị, quân sự và thắng lợi trên
chiến trường. Chính vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại
thì phải phát huy tối đa nội lực của đất nước. Sự hỗ trợ từ bên ngoài
bao giờ cũng đáng quý và cần được khai thác triệt để, nhưng không bao
giờ có thể thay thế được thực lực về kinh tế, quân sự, pháp lý, chính
trị, khoa học… của đất nước. Vì thế, xây dựng lực lượng và bồi đắp thực
lực là việc tối cần thiết, quyết định chính đến sự thành bại của công
cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền của quốc gia.
Trên thực tế, cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ
quyền không chỉ giới hạn trong lĩnh vực quân sự, mà còn diễn ra đồng bộ
và rộng khắp trong các mặt trận chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế,
văn hóa, học thuật… Vì thế, phát triển thực lực cần phải phải lưu ý
phát triển đồng bộ trong tất cả các lĩnh vực này. Thực lực cũng không
nên chỉ được xét đơn thuần ở khía cạnh vật chất, mà cần bao gồm cả những
yếu tố tinh thần như truyền thống lịch sử, tinh thần ái quốc, nghệ
thuật quốc phòng toàn dân, những bài học dựng nước và giữ nước mà cha
ông để lại. Chính những yếu tố tinh thần này đã giúp chúng ta bao phen
vượt qua những kẻ thù mạnh gấp bội trong lịch sử. Cho nên, sức mạnh tinh
thần là một thành phần quan trọng của thực lực và cần được nuôi dưỡng,
bồi đắp không ngừng.
Trong xu thế toàn cầu hoá, vừa có những mặt thuận lợi
vừa có nhiều vấn đề trắc ẩn, thì quan hệ đối ngoại không chỉ là ra sức
tranh thủ thuận lợi cho sự phát triển của đất nước mà còn phải tích cực
và chủ động góp phần giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế, góp phần xây
dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng. Cho dù các
cường quốc có nhiều khả năng chi phối, nhưng biện chứng của quan hệ quốc
tế là ở chỗ: các nước nhỏ bằng những nỗ lực của chính mình có thể tác
động trở lại. Sự phối hợp của Việt Nam với các nước trong khu vực, xây
dựng một cộng đồng Đông Nam Á hùng mạnh là cơ sở để phát huy thế chủ
động, cùng tranh thủ những điều kiện thuận lợi, đồng thời hợp tác để
vượt qua những thử thách do tình hình quốc tế mang lại, nhằm giữ vững
chủ quyền, hoà bình, ổn định và phát triển.
Bốn là, tích cực, chủ động vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong quan hệ với đồng minh, nước lớn, chú trọngtăng cường đối thoại và hợp tác, giữ vững ổn định và cùng phát triển
Trong quan hệ với đồng minh, nước lớn chúng ta không
nên quá cứng nhắc cho rằng nước Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo không
thể có quan hệ hợp tác với các mước Tư bản chủ nghĩa và cũng thật là ấu
trĩ nếu chúng ta xác định trong quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa
khác chỉ có hợp tác mà không có đấu tranh vì quyền lợi dân tộc. Trong
thực tiễn, hai thái cực sai lầm này đều được khắc phục ngay từ đầu Hội
nghị Genève, chính trong Hội nghị Genève chúng ta đã vượt lên trên mọi
khuôn mẫu mang tính giáo điều của tư duy và hoạt động đối ngoại phân
phe, phân tuyến rất đặc trưng của thời kỳ chiến tranh lạnh, phương châm
kết hợp hợp tác và đấu tranh đã được Đảng ta vận dụng có hiệu quả trong
và sau Hội nghị Genève, tạo ra phong cách linh hoạt đặc sắc của ngoại
giao Việt Nam.
Tình hình thế giới những năm gần đây có nhiều biến
đổi sâu sắc, sự phát triển kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh của
một quốc gia, dân tộc hay một khu vực đều đan xen những ảnh hưởng và lợi
ích của nhiều quốc gia, dân tộc khác. 60 năm đã trôi qua, bài học quý
này giúp chúng ta nhìn nhận rõ hơn những vấn đề đặt ra đối với nhận
thức về quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh, bạn, thù hay đối tác, đối
tượng là một trong những yêu cầu đặc biệt quan trọng và cấp thiết hiện
nay. Trong đó, Đảng ta luôn khẳng định những ai chủ trương tôn trọng độc
lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình
đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta mà chúng ta
cần phải hợp tác và bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xâm phạm đến chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của nước ta đều là đối tượng đấu tranh. Chúng ta xác
định rõ ba dạng đối tượng: đối tượng đối lập về ý thức hệ có âm mưu tập
trung xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đối tượng vì lợi ích dân
tộc hẹp hòi đang có tham vọng về chủ quyền lãnh thổ nước ta; đối tượng
có thể bị chuyển hóa bởi sự thao túng của nước lớn có âm mưu chống phá
ta. Tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc; khắc phục được hạn chế của tư
duy cũ, không cứng nhắc, làm cản trở hội nhập, hợp tác, không mơ hồ,
mất cảnh giác; vừa giữ nguyên tắc, vừa đủ linh hoạt, được xem như cẩm
nang “dĩ bất biến” để ứng với “vạn biến” trong quan hệ, xử lý các tình
huống chiến lược, tạo được sự đan xen lợi ích chiến lược, giữ vững và
củng cố môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4. Kết luận
Hội nghị Genève về Đông Dương năm 1954 là một diễn
đàn quốc tế đa phương theo đúng luật chơi quốc tế, các nước lớn vừa là
đạo diễn, vừa là diễn viên chính. Tại Hội nghị, Pháp và Trung Quốc đóng
vai trò trung tâm của đối thoại, Pháp cần Trung Quốc để tránh giáp trận
với Việt Nam, Trung Quốc kéo Pháp để sớm có giải pháp phù hợp với lợi
ích của Trung Quốc. Việt Nam tham gia với tư cách là một bên tham chiến,
giành thắng lợi trên chiến trường, song do sự chi phối của đồng minh,
nước lớn nên gặp không ít khó khăn trong việc phát huy thế thắng trên
chiến trường, khó giành thế chủ động trong đàm phán. Nhưng với sự nhạy
bén, sáng suốt trong xử lý, chúng ta đã giành thắng lợi to lớn trên mặt
trận ngoại giao, xử lý thỏa đáng mối quan hệ với nước lớn tham gia Hội
nghị, qua đó cho chúng ta những bài học mang dấu ấn của sự nhạy bén
chính trị, linh hoạt trong xử lý cách đây 60 năm là cơ sở quý báu cho
nền ngoại giao Việt Nam hiện nay.
Phạm Hồng Kiên
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.An analysis 0f Vietnam’s relations with China from the beginning of the Coid War to the Present, Wilson Quarterly 19 (1), p.35.
2.Khắc Huỳnh, Hiệp định Genève sau 50 năm nhìn lại và suy ngẫm, Tạp chí Lịch sử quân sự số 7/2004.
3. Preliminary Opinions on the Assessment of and Preparation for the Geneva Conperence’, Prepared by the PRC Ministry fo Foreign Affairs (drafted by PRC Premier and Foreign Minister Zhou Enlai)”[Excerpt] March 02, 1954, Ibid.
4. Tạp chí Pháp, Historia Special, số 28, tr 102.
6. Sự thật quan hệ Việt Nam- Trung Quốc trong 30 năm qua, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1979, tr30; 32.
7. Hugues Teetrais, Bài tham luận 1954-1975 so sánh và suy nghĩ, Nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và Hội nghị Genève (1954-1975).
8. Phạm Hồng Kiên, Góp phần tìm hiểu sự chủ động của Đảng trong kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược, Tạp chí Lịch sử Đảng số 6/2014.











