Thứ Ba, 28 tháng 10, 2014

Trung Quốc ở hội nghị Genève năm 1954 – 60 năm nhìn lại

Hội nghị Genève về Đông Dương năm 1954, là một diễn đàn quốc tế đa phương, do các nước lớn chi phối. Liên Xô và Trung Quốc ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam trong kháng chiến và trong đàm phán. Tuy nhiên, mỗi nước lại có lợi ích và tính toán riêng của mình mà chúng ta chưa hiểu hết được, cho nên việc ứng xử với hai bạn đồng minh đặc biệt là Trung Quốc không phải dễ dàng, trong đó có những quan điểm, toan tính của Trung Quốc rất đáng nghiên cứu, như nghị sỹ Mỹ William Knowland bình luận về Hiệp định Genève “Chu Ân Lai đã sẵn sàng hy sinh chiến thắng quân sự của Hồ Chí Minh để phục vụ lợi ích quốc gia mình”, nhưng với việc đánh giá đúng tình hình, Đảng ta đã xử lý linh hoạt mối quan hệ, đem lại những thắng lợi lớn trên mặt trận ngoại giao, qua đó cho Đảng ta bài học về xử lý mối quan hệ với đồng minh, nước lớn.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 07/5/1954, Hội nghị Genève bàn về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương diễn ra từ ngày 08/5 đến 21/7/1954 Hiệp định được ký kết, với 31 phiên họp, trong đó 7 phiên toàn thể, 24 phiên họp cấp trưởng đoàn. Có 9 đoàn tham dự Hội nghị: Đoàn Liên Xô do Bộ trưởng ngoại giao Viacheslav Molotov dẫn đầu; đoàn Trung Quốc do Thủ tướng Chu Ân Lai đẫn đầu; đoàn Mỹ do Ngoại trường  Bedell Smithdẫn đầu; đoàn Anh do Ngoại trưởng Anthony Edendẫn đầu; đoàn Pháp do Ngoại trưởng Georges Bidault dẫn đầu; đoàn Việt Nam có đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu, đoàn đại diện của chính quyền Bảo Đại; đoàn Chính phủ Vương quốc Lào và đoàn Chính phủ vương quốc Campuchia.
Tại Hội thảo quốc tế Chiến thắng Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại (4/2004), khi nói về Hội nghị Genèvenữ luật gia người Pháp Laury Anne Bellessa nhận xét: “Nếu chúng ta đi sâu vào chi tiết các cuộc thương lượng, chúng ta sẽ nhận thấy rằng các điều khoản của Hiệp định chỉ để nhằm làm thoả mãn các cường quốc…Vì muốn bảo vệ quyền lợi của mình ở khu vực Đông Nam Á mà các cường quốc đã tự quy định phần lớn các điều khoản trong hiệp định, không cần tính đến phản ứng của các nước Đông Dương. Không còn sự lựa chọn nào khác, các nước Đông Dương phải nhượng bộ trước các áp lực rất lớn này… Thắng lợi trên thực địa nhưng tại bàn Hội nghị, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không thể khai thác được thế mạnh quân sự của mình”. Để bảo đảm lợi ích quốc gia họ, “lãnh đạo đoàn đại biểu Trung Quốc Chu Ân Lai đã không hỗ trợ Việt Nam, đưa Việt Nam đến chỗ phải chấp nhận những điều khoản mà rõ ràng không hề thoải mái chấp nhận”[1]. Sáu mươi năm đã qua, nhìn lại Trung Quốc ở Hội nghị Genève đã cho chúng ta thấy rõ: Ý đồ của lãnh đạo Trung Quốc ở Hội nghị; Quan điểm, cách xử lý linh hoạt của chúng ta; và những bài học được rút ra từ Hội nghị Genève 1954 về xử lý mối quan hệ với đồng minh, nước lớn của Đảng ta.
1. Ý đồ của lãnh đạo Trung Quốc ở Hội nghị Genève về Đông Dương năm 1954
Là người chiến thắng trên chiến trường Điện Biên Phủ, ngày 10/5/1954, đoàn đại biểu Việt Nam nêu rõ lập trường về một giải pháp toàn diện cho vấn đề Đông Dương bao gồm 8 điểm: (1) Pháp công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và lào; (2) Ký Hiệp định về việc rút quân đội nước ngoài ra khỏi Việt Nam, Campuchia và lào; (3)Tổ chức tổng tuyển cử tự do ở Việt Nam, Campuchia và lào để thành lập Chính phủ thống nhất trong mỗi nước; (4) Việt Nam dân chủ cộng hòa, Campuchia và Lào bằng lòng xem xét việc tự nguyện gia nhập Liên hiệp Pháp; (5) Việt Nam dân chủ cộng hòa, Campuchia và Lào công nhận các quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp, sẽ cùng nước Pháp quy định các quyền này theo nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng quyền lợi lẫn nhau; (6) Hai bên không khủng bố những người hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh; (7) Trao đổi tù binh; (8) Ngừng bắn hoàn toàn và đồng thời trên toàn Đông Dương, điều chỉnh các vùng, đình chỉ đưa quân đội và thiết bị quân sự mới vào Đông Dương, lập ủy ban tay đôi gồm đại biểu hai bên đối phương để kiểm tra bảo đảm thực hiện Hiệp định đình chiến.
Với giải pháp 8 điểm trên đã phản ánh rõ lập trường, quan điểm đúng đắn của Đảng, Chính phủ ta về giải quyết những lợi ích chính đáng của nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân các dân tộc trên bán đảo Đông Dương nói chung. Nhưng, hội nghị Genève do 4 nước triệu tập và có 4 nước khác tham gia, đây là một cuộc thương lượng quốc tế nhiều bên, trong đó mỗi bên đều có mục tiêu, ý đồ riêng của mình. Đối với Trung Quốc, được mời dự hội nghị Genève là cơ hội vàng để thực hiện cùng lúc 3 mục tiêu lớn [2]:
Một là: Thúc đẩy việc giải quyết nhanh chiến tranh Đông Dương theo tinh thần “Triều Tiên hóa”, có nghĩa là đình chỉ chiến sự mà không có giải pháp chính trị, các nước không có điều kiện để thống nhất đất nước, với hy vọng dập tắt lửa cạnh nhà, đẩy Mỹ ra xa, tạo lập một khu đệm ở Đông Nam Á và ngăn chặn Mỹ thay thế Pháp ở bán đảo Đông Dương, hạn chế khả năng Mỹ can thiệp vào bán đảo này. Trung quốc vừa tránh được nguy cơ đối diện trực tiếp với Mỹ, vừa thực hiện được vai trò bảo trợ an ninh cho cả 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia;
Hai là: Đề cao vị thế quốc tế của Trung Quốc, khôi phục lại vị thế một nước lớn có vai trò trong các vấn đề quốc tế, mà trước hết là ở Châu Á. Bởi kể từ sau khi thành lập nước Trung Hoa mới, đây là lần đầu tiên Trung Quốc có mặt tại một hội nghị quốc tế lớn, được cả thế giới quan tâm theo dõi, điều đó có lợi cho việc đề cao địa vị quốc tế của Trung Quốc. Mặt khác, nếu đàm phán tiến triển tốt có thể giải quyết một số vấn đề quốc tế, nếu không thành công cũng có thể tuyên truyền chủ trương của Trung Quốc;
Ba là: Mở rộng quan hệ với các nước Tây Âu, trước hết là ngoại giao và thương mại, nhằm góp phần phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, phá thế bao vây cấm vận của Mỹ. Chính vì vậy, Chu Ân Lai đã lên kế hoạch sử dụng diễn đàn hội nghị Genève một cách có lợi nhất “Ngoài những vấn đề về Triều Tiên và Việt Nam, phải chuẩn bị các vấn đề khác liên quan đến vùng Viễn Đông, đến hòa hình, an ninh ở châu Á. Đặc biệt tiến hành các biện pháp nhằm triển khai quan hệ kinh tế, trao đổi thương mại với các quốc gia khác nhau, làm giảm căng thẳng tình hình quốc tế, phá vỡ sự phong tỏa và cấm vận của đế quốc Mỹ”[3]. Như vậy, cho chúng ta thấy trong thời kỳ này, Trung Quốc là một nước lớn nhưng vị thế chính trị quốc tế của Trung Quốc còn hạn chế, chưa có chân ở Liên Hợp quốc, chưa có tư thế một nước lớn trên quốc tế.
Để  thực hiện được mục tiêu đó, (1) Trung Quốc đã chuẩn bị nhân sự cho đoàn ngoại giao với 200 người, tập trung nhân tài ưu tú của ngành ngoại giao đi Genève. Chu Ân Lai tự hào nói về chất lượng của đoàn đại biểu “mỗi người là một bộ phận hoàn hảo tạo nên khối thống nhất mạnh mẽ”, qua sự chuẩn bị kỹ lưỡng, toàn diện, cẩn trọng cho chúng ta thấy những mục đích sâu sa và quyết tâm cao độ thực hiện kỳ được mục đích đó của lãnh đạo Trung Quốc.(2) Với tư cách là người láng giềng, người bảo trợ cho cuộc chiến đấu của nhân dân 3 nước Đông Dương, Trung Quốc tự đứng ra đóng vai trò là bên đối thoại chính, từ đó Pháp và Trung Quốc trở thành trung tâm của cuộc mặc cả, dàn xếp. Trung Quốc vin cớ làm thất bại sự phá hoại của Mỹ, mà sẵn sàng có những mền dẻo, nhân nhượng trên vấn đề Việt Nam và thậm chí có những nhân nhượng quan trọng trên vấn đề Lào và Campuchia, một thành viên đoàn đàm phán của Pháp là Jacques de Folin đã viết “trên tất các vấn đề quan trọng, chính là Trung Quốc … đã ép Phạm Văn Đồng có những nhân nhượng cần thiết để đạt được thỏa thuận mà họ mong muốn” [4;102].
Mặt khác, muốn đưa Việt Nam nằm trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc. Chính vì vậy, lập trường của Trung Quốc ở hội nghị Genève khác với lập trường của Việt Nam, nhưng phù hợp với lập trường của Pháp. Cựu tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Quảng Châu, Dương Danh Dy, nhận xét: “Khi hội nghị Genève diễn ra tại Thụy Sỹ năm 1954… Trung Quốc đã đưa Việt Nam ra để dùng làm con bài nhằm nâng cao vị thế của họ lên với phương Tây và chính quyền miền Nam Cộng hòa. Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng lúc đó phản đối kịch liệt và làm lộ rõ âm mưu của Trung Quốc”[5].
2. Xử lý linh hoạt mối quan hệ với Trung Quốc của Đảng ta ở Hội nghị Giơnevơ năm 1954
Trên cơ sở nắm bắt lập trường, ý đồ chiến lược của các nước lớn, chúng ta đã xử lý linh hoạt tình hình thông qua tiếp xúc, trao đổi thương lượng song phương hoặc đa phương trong quá trình Hội nghị Genève. Vấn đề trước tiên được chúng ta đặt ra là không để cho những bất đồng, khác biệt về quan điểm lập trường giữa các nước lớn làm hội nghị tan vỡ. Mặt khác phải nắm bắt ý đồ của đồng minh, nước lớn, linh hoạt xử lý mối quan hệ để có lợi cho ta.
Tại hội nghị, Trung Quốc và Pháp đóng vai trò trung tâm của đối thoại, Pháp cần Trung Quốc để tránh giáp trận với Việt Nam, nhận thức rõ điều đó Trung Quốc muốn kéo Pháp để có những giải pháp phù hợp với lợi ích của Trung Quốc. Chính vì vậy, giữa Trung Quốc và Pháp diễn ra nhiều cuộc tiếp xúc riêng, chỉ tính từ 08/5- 23/6/1954, giữa trưởng đoàn Pháp và Trung Quốc đã tiến hành đàm phán 4 lần. Đáng chú ý là cuộc tiếp xúc ngày 17/6/1954 giữa Chu Ân Lai gặp Trưởng đoàn Pháp Georges Bidault, trong cuộc tiếp xúc, vì lợi ích riêng Trung Quốc đã đưa ra những nhân nhượng chính trị cơ bản có hại cho nhân dân 3 nước, Việt Nam, Lào, Campuchia đó là: “Trung Quốc có thể chấp nhận Việt Nam có hai chính quyền (Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ bù nhìn Bảo Đại), công nhận Chính phủ Vương quốc Lào và Chính phủ Vương quốc Campuchia, từ bỏ yêu cầu có đại biểu của Chính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Campuchia tham dự hội nghị Genève và đưa vấn đề quân đội nước ngoài, kể cả quân tình nguyện Việt Nam, phải rút khỏi Lào và Campuchia”[6;30].
Từ ngày 20/6/1954 trở đi đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, tác động lớn đến chiều hướng vận động của Hội nghị Giơnevơđó là: Quân viễn chinh Pháp bị sa lầy lớn trên chiến trường Đông Dương, dẫn đến sự thay thế nội các Pháp; Chính quyền Mỹ bắt đầu triển khai kế hoạch thay thế Pháp ở Đông Dương; Thủ tướng mới của Pháp Menđét Phơrăngxơ và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai gặp nhau tại Bécnơ (Thụy Sĩ ngày 23/6/1954) bàn về vấn đề phân vùng, thống nhất Việt Nam, vấn đề Lào và Campuchia, trong cuộc gặp hai bên đã đạt được giải pháp khung cho toàn bộ vấn đề Đông Dương như: chia cắt Việt Nam; hai miền Việt Nam cùng tồn tại hòa bình, giải quyết vấn đề quân sự trước; tách rời giải quyết 3 vấn đề Việt Nam, Lào, Campuchia; Trung Quốc sẵn sàng nhìn nhận 3 nước này trong khối Liên hiệp Pháp và muốn Lào, Campuchia sẽ có bộ mặt mới ở Đông Nam Châu Á như Ấn Độ, Inđônêxxia, yêu cầu Mỹ không có căn cứ quân sự ở Đông Dương, những điểm mà những người lãnh đạo Trung Quốc thỏa thuận với Pháp rất phù hợp với giải pháp 7 điểm của Anh- Mỹ đưa ra  ngày 29/6/1954, tức là 6 ngày sau cuộc tiếp xúc giữa Thủ tướng Pháp Menđét Phơrăngxơ và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai; Trong cuộc họp, Pháp cũng tỏ ý muốn đàm phán trực tiếp với Việt Nam dân chủ Cộng hòa để giải quyết các vấn đề cụ thể.
Trước tình thế mới phức tạp, Trung ương Đảng và Chính phủ ta quyết định xúc tiến hai cuộc tiếp xúc với đại diện của Pháp và Trung Quốc, là hai nước có vai trò đặc biệt quan trọng với tiến trình Hội nghị Genève. Cuộc tiếp xúc thứ nhất vào ngày 04/7/1954, giữa đoàn đại biểu Bộ tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam với đoàn đại diện bộ tổng chỉ huy các lực lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương đã diễn ra tại Trung Giã (Sóc Sơn- Hà Nội), hai bên đã thảo luận những vấn đề quân sự do Hội Nghị Giơnevơđề ra, xác định biện pháp thi hành những quyết định của Hội nghị; Cuộc tiếp xúc thứ hai diễn ra từ ngày 03-05/7/1954, ở Liễu Châu (Quảng Tây- Trung Quốc) giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Chu Ân Lai, chúng ta kiên trì lập trường của mình về vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia, chủ trương đòi có đại biểu của Chính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Campuchia tham dự như các bên đàm phán, định giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam là vĩ tuyến 13, tổ chức tổng tuyển cử tự do trong thời hạn 6 tháng để thống nhất nước nhà. Đối với việc giải quyết vấn đề Lào và vấn đề Campuchia, Việt Nam giữ quan điểm ở Lào có hai vùng tập kết của lực lượng kháng chiến đó là một vùng ở phía Bắc giáp với Trung Quốc và Việt Nam, một vùng ở Trung và Hạ Lào. Còn ở Campuchia có hai vùng tập kết, một ở phía Đông và Đông bắc song MêKông, một ở phía Tây nam sông MêKông, tổ chức tổng tuyển cử tự do trong thời hạn 6 tháng ở Lào và Campuchia, nhưng những đề nghị hợp tình, hợp lý của Việt Nam đưa ra đều bị Trung Quốc gác lại.
Có thể nói, từ 23/6 đến 20/7/1954, đoàn đại biểu Pháp tiến hành đàm phán trực tiếp với đoàn đại biểu Việt Nam để giải quyết vấn đề cụ thể nhưng Trung Quốc luôn giữ vai trò thúc đẩy phía Việt Nam nhân nhượng nhiều hơn. Tại điện văn của Chu Ân Lai gửi Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Trung Quốc, sao gửi Ban Chấp hành Đảng lao động Việt Nam, lãnh đạo Trung Quốc đã xác định “Đánh giá phương án vĩ tuyến 16 khó có thể thỏa thuận, nếu không được thì sẽ lấy Hải Phòng làm cửa bể tự do, ở gần đó cho phép Pháp đóng một số quân nhất định, nếu không được nữa thì đem đường số 5 và Hà Nội, Hải Phòng làm khu công quản và phi quân sự”[6;32]. Hay, Việt Nam cần “có những điều kiện công bằng và hợp lý để chính phủ Pháp có thể nhận được, để đi đến hiệp định trong vòng 10 ngày, điều kiện đưa ra nên đơn giản, rõ ràng, dễ đi đến hiệp thương, không nên làm phức tạp lôi thôi để tránh thảo luận mất thì giờ, rườm rà, kéo dài đàm phán”[6;32]. Nhìn chung, lập trường của Trung Quốc ở Hội nghị Genève khác hẳn lập trường của Việt Nam dân chủ cộng hòa, song lại phù hợp với lập trường của Pháp. Đúng như Huygơ Tectre (Hugues  Teetrais) nhận xét “vào năm 1954, sự giúp đỡ quân sự của Trung Quốc đối với Việt Nam là rất to lớn. Rõ ràng, sự giúp đỡ này đã góp phần quan trọng vào chiến thắng Điện Biên Phủ. Về mặt ngoại giao, Hội nghị Genève là cơ hội để Trung Quốc bước lên chính trường. Bỗng nhiên tiếng nói ngoại giao của Trung Quốc trở nên quan trọng, hệt như tiếng nói của nước bá chủ  đối với Việt Nam trước khi có thực dân Pháp”[7].
Sau cuộc gặp Liễu Châu, Trung ương Đảng ta họp Hội nghị vào trung tuần tháng 7, xác định: từ nay mọi việc của ta đều nhằm vào chống đế quốc Mỹ với phương châm là giữ vững nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, phải đấu tranh trong một thời gian ngắn  để đi đến ký kết Hiệp định đình chiến với Chính phủ Pháp, không để chính quyền Mỹ lợi dụng kéo dài Hội nghị Genève và phá hoại quá trình đàm phán. Sự điều chỉnh sách lược này là đúng đắn, cần thiết và được cụ thể hóa thành phương án chỉ đạo mới trong quá trình đàm phán của đoàn đại biểu Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Giơnevơ, trên 3 nội dung cơ bản: (1) Về quân sự, ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam, Lào, Campuchia; lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới tạm thời hai miền Nam Bắc Việt Nam; không đưa bộ đội, nhân viên quân sự mới vào khu vực này sau khi ngững bắn, không có căn cứ quân sự nước ngoài và liên minh quân sự. (2) Về chính trị, thỏa thuận thời hạn tổng tuyển cử ở Việt Nam; vấn đề Việt Nam gia nhập Liên hiệp Pháp sau khi thống nhất. (3) Về phương châm đàm phán, chủ động giành lấy đình chiến ở 3 nước Đông Dương, tích cực thúc đẩy và chủ động đưa ra phương án của ta.
Trong 10 ngày cuối của quá trình đàm phán tại Hội nghị Genève, từ ngày 10 đến 20 tháng 7 năm 1954, hàng loạt vấn đề đặt ra phải thương lượng để đi đến các giải pháp cụ thể. Đoàn ta đã tiến hành đàm phán tay đôi, tay ba với các đoàn Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc và đại diện Thủ tướng Ấn Độ. Xuất phát từ truyền thống yêu chuộng hòa bình, theo xu thế chung giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng, mặt khác chúng ta cũng gặp khó khăn trước sự dàn xếp của nước lớn, nên Việt Nam đã chấp nhận giải pháp: các nước tôn trọng quyền độc lập cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn cõi Đông Dương, Pháp rút quân, đường giới tuyến tạm thời là vĩ tuyến 17; thời hạn tổ chức tổng tuyển cử ở Việt Nam là 2 năm; xác định khu vực đóng quân tạm thời cho Pathét Lào; các lực lượng kháng chiến Campuchia sẽ giải ngũ hoặc tham gia vào các lực lượng cảnh sát địa phương. Trong đêm 20/7/1954, ba Hiệp định về đình chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia được ký kết.
Các bên tham gia Hội nghị Genève với những quan điểm và mục tiêu khác nhau, nhưng cuối cùng đã thống nhất được những điều khoản là do các bên đã tìm được mẫu số lợi ích chung, cùng nhau thỏa hiệp, mỗi bên có được cái tối thiểu cần đạt được. Đối với Trung Quốc, ở Hội nghị Genève, Trung Quốc đã đạt được các mục tiêu chiến lược đề ra, nghiễm nhiên trở thành một trong năm cường quốc, tờ Nhân dân nhật báo ra ngày 22/7/1954 khẳng định “Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã giành được quy chế một cường quốc trên thế giới, được quốc tế thừa nhận”. Trung Quốc đã đẩy được Mỹ ra xa, Hiệp định này đã làm tan rã ý đồ của Mỹ bao vây Trung Quốc từ 3 phía Triều Tiên, Đài Loan và Đông Dương, có các nước láng giềng làm khu đệm, có biên giới an toàn để tập trung sức người, sức của để phát triển kinh tế, lại tạo được một Đông Dương đa dạng mà Trung Quốc có khả năng quan hệ và ảnh hưởng. Mặt khác, Trung Quốc đã mở rộng và tăng cường thêm quan hệ trên các mặt với Pháp, Anh, Đức, Ý, Thụy Sĩ, Bỉ, không có gì là ngạc nhiên, dịp này Trung Quốc mở cuộc ăn mừng toàn quốc; Đối với Việt Nam, bản Hiệp định bao gồm 6 loại điều khoản với tổng số 47 điều, trong đó các nước đã công nhận những quyền cơ bản của nước Việt Nam là độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, xác lập cơ sở pháp lý để quân và dân ta tiếp tục đấu tranh. Hội nghị Genève đã đánh dấu một trong những thắng lợi vĩ đại của nền ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
3. Những bài học rút ra từ Hội nghị Genève năm 1954 về xử lý mối quan hệ với đồng minh, nước lớn
Một là,đánh giá chính xác tình hình quốc tế, nhất là thái độ của đồng minh, nước lớn trong hoạt động đối ngoại, chọn đúng mục tiêu, nhân nhương có nguyên tắc
Qua Hội nghị Genève đã cho chúng ta thấy rõ, Đảng ta đã không đánh giá sai tình hình quốc tế, không đánh giá sai các đối tác và đã hiểu đúng chính sách của họ. Phải khẳng định rằng, Đảng ta ký Hiệp định Genève là một giải pháp chiến lược của Việt Nam, bởi trong tình thế cấp bách, đấu tranh cho một nền hòa bình và chấp nhận một giải pháp như vậy là một sự lựa chọn rất khôn khéo, đúng đắn, sáng suốt. Chính sự lựa chọn đó, trước mắt giúp cho dân tộc Việt Nam tạm đẩy lùi hiểm họa của một cuộc chiến tranh đang lên cơn nóng từ phía Mỹ. Mặt khác Đảng ta vẫn giữ được quan hệ tốt đẹp với Liên Xô, Trung Quốc, thắt chặt quan hệ với Lào và Campuchia.
Kết quả cuối cùng được thể hiện trong Hiệp định Genève so với giải pháp 8 điểm mà chúng ta đưa ra ban đầu có khoảng cách đáng kể, thậm chí chứa đựng nhiều hạn chế. Nhưng đây là những khoảng cách và hạn chế không thể tránh khỏi trong thời điểm lịch sử cụ thể. Mỗi lần nhân nhượng, thỏa hiệp chúng ta đều cân nhắc kỹ, luôn thực hiện “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, luôn giữ mục tiêu. Những mục tiêu ta chọn đã được bảo đảm nghiêm ngặt, Pháp, Trung Quốc và các nước lớn khác phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất nước nhà, điều mà 9 năm trước tại Hiệp định sơ bộ 06/3/1946, Pháp không chịu công nhận, mới chỉ công nhận Việt Nam là nước tự do, nên không tạo được cơ sở pháp lý lâu bền, Việt Nam phải chấp nhận để Pháp đưa quân ra miền Bắc.
Với Hiệp định Genève Pháp, Trung Quốc và các nước phải công nhận trọn vẹn các quyền dân tộc cơ bản, đây chính là mục tiêu chúng ta lựa chọn, là cơ sở về pháp lý và cả về đạo lý để nhân dân ta để nhân dân ta đấu tranh chống Mỹ suốt hơn hai thập kỷ sau đó; là cơ sở để lên án, tố cáo Mỹ; là cơ sở để đoàn kết nhân dân Đông Dương trong sự nghiệp chung; là cơ sở để tập hợp lực lượng và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Bài học quý này sẽ tiếp tục phát huy giá trị trên con đường hội nhập quốc tế đầy thời cơ và thách thức đan xen như hiện nay, chúng ta phải luôn kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, nhưng hết sức linh hoạt, mềm dẻo trong từng sách lược cụ thể; coi giáo dục, thuyết phục, chủ động phòng ngừa và kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm, thường xuyên nắm chắc tình hình xử lý kịp thời các tình huống xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia.
   Hai là, không được mơ hồ về mục tiêu, lợi ích và ý đồ chiến lược của đồng minh, nước lớn, ngay cả khi có nước lớn cùng chung chế độ xã hội chủ nghĩa
Năm nước tham dự Hội nghị Genève thuộc hai phe, hai hệ thống đối lập nhau. Một bên là các nước xã hội chủ nghĩa gồm Liên Xô, Trung Quốc, bên kia là các nước tư bản, đế quốc gồm Mỹ, Pháp, Anh. Theo logic hình thức thì sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa  là tất yếu và vô điều kiện, song ngay từ đầu những quan điểm, lập trường và giải pháp về vấn đề chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương giữa các nước lớn theo chế độ xã hội chủ nghĩa, đã không trùng quan điểm, lợi ích của Liên Xô và đặc biệt là của Trung Quốc không hoàn toàn đồng nhất với lợi ích của Việt Nam, sự dàn xếp, thỏa hiệp giữa các nước lớn làm phương hại đến lợi ích của dân tộc Việt Nam cũng như của nhân dân hai nước Lào và Campuchia. Những điều mà chúng ta tưởng như không thể xảy ra lại đã xảy ra cách đây 60 năm nhưng hiện nay vẫn chưa hết khả năng tái diễn.
Cách đây 60 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng ta đã rất tỉnh táo, sắc bén, nắm bắt thấu đáo tình hình và xác định mục tiêu, lợi ích quốc gia có sức chi phối rất lớn đối với lập trường, quan điểm của lãnh đạo Trung Quốc về vấn đề Đông Dương. Từ đó, chúng ta đã bình tĩnh trước những chủ trương do lãnh đạo Trung Quốc tự ý dàn xếp với các nước tư bản, đế quốc tham dự Hội nghị, mặt khác chúng ta vừa tích cực, linh hoạt, kiên trì đấu tranh, giữ vững quan điểm lập trường, tranh thủ sự giúp đỡ, đồng thời chủ động, kiên quyết tránh để nước lớn đặt chúng ta trong chính sách, chiến lược của họ.
Ba là, xử lý đúng mối quan hệ giữa thế và lực, chú trọng tăng cường thực lực của đất nước, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đối ngoại, bảo vệ độc lập, chủ quyềnđất nước
Lực: là sức mạnh tổng hợp về kinh tế, quân sự, tinh thần, vị thế..; Thế: là uy tín, vai trò của mình.Trong đó, lực quyết định thế, thế tạo điều kiện để lực phát triển. Hồ Chí Minh từng nói: Thực lực là cái chiêng. Ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn. Sẽ không thể giành thắng lợi trên bàn đàm phán nếu không có thực lực về kinh tế, chính trị, quân sự và thắng lợi trên chiến trường. Chính vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại thì phải phát huy tối đa nội lực của đất nước. Sự hỗ trợ từ bên ngoài bao giờ cũng đáng quý và cần được khai thác triệt để, nhưng không bao giờ có thể thay thế được thực lực về kinh tế, quân sự, pháp lý, chính trị, khoa học… của đất nước. Vì thế, xây dựng lực lượng và bồi đắp thực lực là việc tối cần thiết, quyết định chính đến sự thành bại của công cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền của quốc gia.
Trên thực tế, cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền không chỉ giới hạn trong lĩnh vực quân sự, mà còn diễn ra đồng bộ và rộng khắp trong các mặt trận chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, văn hóa, học thuật… Vì thế, phát triển thực lực cần phải phải lưu ý phát triển đồng bộ trong tất cả các lĩnh vực này. Thực lực cũng không nên chỉ được xét đơn thuần ở khía cạnh vật chất, mà cần bao gồm cả những yếu tố tinh thần như truyền thống lịch sử, tinh thần ái quốc, nghệ thuật quốc phòng toàn dân, những bài học dựng nước và giữ nước mà cha ông để lại. Chính những yếu tố tinh thần này đã giúp chúng ta bao phen vượt qua những kẻ thù mạnh gấp bội trong lịch sử. Cho nên, sức mạnh tinh thần là một thành phần quan trọng của thực lực và cần được nuôi dưỡng, bồi đắp không ngừng.
Trong xu thế toàn cầu hoá, vừa có những mặt thuận lợi vừa có nhiều vấn đề trắc ẩn, thì quan hệ đối ngoại không chỉ là ra sức tranh thủ thuận lợi cho sự phát triển của đất nước mà còn phải tích cực và chủ động góp phần giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế, góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng. Cho dù các cường quốc có nhiều khả năng chi phối, nhưng biện chứng của quan hệ quốc tế là ở chỗ: các nước nhỏ bằng những nỗ lực của chính mình có thể tác động trở lại. Sự phối hợp của Việt Nam với các nước trong khu vực, xây dựng một cộng đồng Đông Nam Á hùng mạnh là cơ sở để phát huy thế chủ động, cùng tranh thủ những điều kiện thuận lợi, đồng thời hợp tác để vượt qua những thử thách do tình hình quốc tế mang lại, nhằm giữ vững chủ quyền, hoà bình, ổn định và phát triển.
Bốn là, tích cực, chủ động vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong quan hệ với đồng minh, nước lớn, chú trọngtăng cường đối thoại và hợp tác, giữ vững ổn định và cùng phát triển
Trong quan hệ với đồng minh, nước lớn chúng ta không nên quá cứng nhắc cho rằng nước Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo không thể có quan hệ hợp tác với các mước Tư bản chủ nghĩa và cũng thật là ấu trĩ nếu chúng ta xác định trong quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa khác chỉ có hợp tác mà không có đấu tranh vì quyền lợi dân tộc. Trong thực tiễn, hai thái cực sai lầm này đều được khắc phục ngay từ đầu Hội nghị Genève, chính trong Hội nghị Genève chúng ta đã vượt lên trên mọi khuôn mẫu mang tính giáo điều của tư duy và hoạt động đối ngoại phân phe, phân tuyến rất đặc trưng của thời kỳ chiến tranh lạnh, phương châm kết hợp hợp tác và đấu tranh đã được Đảng ta vận dụng có hiệu quả trong và sau Hội nghị Genève, tạo ra phong cách linh hoạt đặc sắc của ngoại giao Việt Nam.
Tình hình thế giới những năm gần đây có nhiều biến đổi sâu sắc, sự phát triển kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh của một quốc gia, dân tộc hay một khu vực đều đan xen những ảnh hưởng và lợi ích của nhiều quốc gia, dân tộc khác. 60 năm đã trôi qua, bài học quý này giúp chúng ta nhìn nhận rõ hơn những  vấn đề đặt ra đối với nhận thức về quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh, bạn, thù hay đối tác, đối tượng là một trong những yêu cầu đặc biệt quan trọng và cấp thiết hiện nay. Trong đó, Đảng ta luôn khẳng định những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta mà chúng ta cần phải hợp tác và bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xâm phạm đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta đều là đối tượng đấu tranh. Chúng ta xác định rõ ba dạng đối tượng: đối tượng đối lập về ý thức hệ có âm mưu tập trung xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đối tượng vì lợi ích dân tộc hẹp hòi đang có tham vọng về chủ quyền lãnh thổ nước ta; đối tượng có thể bị chuyển hóa bởi sự thao túng của nước lớn có âm mưu chống phá ta. Tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc; khắc phục được hạn chế của tư duy cũ, không cứng nhắc, làm cản trở hội nhập, hợp tác, không mơ hồ, mất cảnh giác; vừa giữ nguyên tắc, vừa đủ linh hoạt, được xem như cẩm nang “dĩ bất biến” để ứng với “vạn biến” trong quan hệ, xử lý các tình huống chiến lược, tạo được sự đan xen lợi ích chiến lược, giữ vững và củng cố môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4. Kết luận
Hội nghị Genève về Đông Dương năm 1954 là một diễn đàn quốc tế đa phương theo đúng luật chơi quốc tế, các nước lớn vừa là đạo diễn, vừa là diễn viên chính. Tại Hội nghị, Pháp và Trung Quốc đóng vai trò trung tâm của đối thoại, Pháp cần Trung Quốc để tránh giáp trận với Việt Nam, Trung Quốc kéo Pháp để sớm có giải pháp phù hợp với lợi ích của Trung Quốc. Việt Nam tham gia với tư cách là một bên tham chiến, giành thắng lợi trên chiến trường, song do sự chi phối của  đồng minh, nước lớn nên gặp không ít khó khăn trong việc phát huy thế thắng trên chiến trường, khó giành thế chủ động trong đàm phán. Nhưng với sự nhạy bén, sáng suốt trong xử lý, chúng ta đã giành thắng lợi to lớn trên mặt trận ngoại giao, xử lý thỏa đáng mối quan hệ với nước lớn tham gia Hội nghị, qua đó cho chúng ta những bài học mang dấu ấn của sự nhạy bén chính trị, linh hoạt trong xử lý cách đây 60 năm là cơ sở quý báu cho nền ngoại giao Việt Nam hiện nay.
 Phạm Hồng Kiên
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.An analysis 0f Vietnams relations with China from the beginning of the Coid War to the Present, Wilson Quarterly 19 (1), p.35.
2.Khắc Huỳnh, Hiệp định Genève sau 50 năm nhìn lại và suy ngẫm, Tạp chí Lịch sử quân sự số 7/2004.
3. Preliminary Opinions on the Assessment of and Preparation for the Geneva Conperence, Prepared by the PRC Ministry  fo Foreign Affairs (drafted by PRC Premier and Foreign Minister Zhou Enlai)[Excerpt] March 02, 1954, Ibid.
4. Tạp chí Pháp, Historia Special, số 28, tr 102.
6. Sự thật quan hệ Việt Nam- Trung Quốc trong 30 năm qua, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1979, tr30; 32.
7. Hugues  Teetrais, Bài tham luận 1954-1975 so sánh và suy nghĩ, Nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ  và Hội nghị Genève (1954-1975).
8. Phạm Hồng Kiên, Góp phần tìm hiểu sự chủ động của Đảng trong kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược, Tạp chí Lịch sử Đảng số 6/2014.

Đừng Lợi Dụng Danh Nghĩa “Xã Hội Dân Sự” Để Làm Điều Xằng Bậy

Bài Viết Của John Lee – VHN.NET Đăng tải trên Tạp Chí Nhân Quyền Việt Nam 8-2014


Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam cũng không ngoại lệ, việc hội nhập mạnh mẽ như hiện nay đã làm thay đổi rất nhiều kể từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, khi mà đời sống vật chất, tinh thần của mỗi người dân trong nước được nâng cao thì quyền con người ngày càng được luật pháp quốc gia tôn trọng, bảo vệ. Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, vượt bậc trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, được thế giới ghi nhận và cổ vũ. Đặc biệt là Sau khi Việt Nam trúng cử vào Hội đồng nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014-2016, nhiều đại diện quốc gia đã bày tỏ vui mừng và chúc mừng Việt Nam. Ông Masood Khan, Trưởng phái đoàn Pakistan tại LHQ nói: “Đây là một thành công kỳ diệu. Tôi xin được chúc mừng Chính phủ và nhân dân Việt Nam cũng như phái đoàn Việt Nam tại LHQ”. Ông Santos Sergio, Trưởng phái đoàn thường trực Brazil tại LHQ cho rằng: “Việc Việt Nam nhận được số phiếu cao nhất trong các nước ứng cử cho thấy sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế với đất nước các bạn”. Trưởng phái đoàn Saudi Arabia tại LHQ, Abdallah Al-Muallimi cho biết: “Tôi cho rằng Việt Nam hoàn toàn xứng đáng trở thành thành viên của Hội đồng nhân quyền LHQ. Chúng tôi đánh giá cao những thành tựu của nhân dân Việt Nam và hy vọng sự tham gia của Việt Nam sẽ góp phần tăng cường và thúc đẩy những giá trị cũng như hoạt động của Hội đồng nhân quyền LHQ… Chúng tôi hy vọng Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì vị thế của mình tại Hội đồng nhân quyền LHQ”.
Ấy vậy mà một số cá nhân, tổ chức của cái gọi là “nhà dân chủ”  không “hài lòng” những gì mà dân tộc này đã nỗ lực phấn đấu đạt được, họ đã ra sức lợi dụng quyền tự do, dân chủ để che dấu hoạt động chống phá nhà nước, thóa mạ những thành quả cách mạng mà cả một dân tộc đã giành được khi phải hứng chịu những cuộc chiến tranh tàn khốc và những năm tháng cấm vận nghặt nghèo. Hành động của các nhà “Dân chủ” và các “Hội, đoàn…”  được sự tiếp sức, hà hơi của những cá nhân người Việt chống cộng cực đoan  ở hải ngoại mà đặc biệt là ở Hoa Kỳ. Những Hành động đó không chỉ làm xấu đi hình ảnh về đất nước, con người Việt Nam luôn yêu hòa bình, một đất nước luôn mở rộng vòng tay chào đón bạn bè trên khắp thế giới, một xã hội an toàn cho mọi người trong một thế giới đầy biến động. Hành động đó còn xâm phạm trực tiếp đến những quyền lợi hợp pháp khác  và lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội, gây bất ổn cho  an ninh quốc gia. Họ đã dùng những “Lý lẽ” viện dẫn những điều trong hiến pháp sửa đổi năm 2013 về các quyền của con người, lôi kéo những người không tỉnh táo, phụ họa, cổ súy cho những luận điệu như: đòi đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi tam quyền phân lập, xây dựng “xã hội dân sự” theo tiêu chí phương Tây, đòi “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang”, đòi “chuyển đổi thể chế chính trị …vv.
Trong những năm gần đây chúng ta đã chứng kiến một số thành công của mô hình “thúc đẩy xã hội dân sự” lật đổ chế độ chính trị ở một số quốc gia Đông Âu, Trung Đông bằng các cuộc “Cách mạng màu”. “Cách mạng hoa” bắt nguồn từ các “xã hội dân sự”. Lợi dụng quyền tự do lập hội để lập ra nhiều hội, nhóm không đúng quy định pháp luật, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng, thậm chí trá hình, hoạt động chống Đảng, Nhà nước Việt Nam. Để “Hợp thức hóa” âm mưu thâm độc thì những hội, nhóm này khoác lên trên mình những vỏ bọc nghe chừng vô hại như: các câu lạc bộ xã hội, hội nghề nghiệp, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, hội ủng hộ….vv. Đọc qua điều lệ ta không thấy họ lộ ra mục đích chống lại sự lãnh đạo của Đảng, chính phủ nhưng thực tế qua các vụ án với những lời khai trước tòa thì lộ ra những điều thực tế đó là: Thực hiện các hoạt động gây hại đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội bằng cách như: lôi kéo, móc nối người phát triển lực lượng trong nước và ngoài nước, xuyên tạc, vu khống,  tán phát, đăng tải các tài liệu, tin, bài viết kích động gây ngờ vực, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, bôi đen tất cả những thành quả mà nhân dân  cùng Đảng và chính phủ đã nỗ lực đạt được trong công cuộc đổi mới, xuyên tạc cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Một số tổ chức trong nước dựng lên những Website mời gọi những kẻ gọi là “Nhà dân chủ hải ngoại” viết bài theo kiểu “Bịt mắt nói càn” bất chấp lẽ phải bằng việc xuyên tạc, bóp méo, bôi đen tình hình nhân quyền Việt Nam, kêu gào các tổ chức, cá nhân ở một số nước có những thành kiến với Việt Nam làm ra những “Thỉnh nguyện, nghj quyết, phúc trình….” thông qua đó gây áp lực với quốc tế hòng vu cáo Việt Nam như: “Chính quyền Việt Nam đã làm cho tình trạng nhân quyền ở Việt Nam hiện nay suy thoái rất trầm trọng ,… Tòa án Việt Nam càng ngày xử càng nhiều những bloggers,… người dân phản đối chính quyền chiếm đất đai, nhà cửa của họ chính quyền đàn áp quyền tự do bày tỏ ý kiến và tự do hội họp của rất nhiều người thuộc mọi giới”… Chúng ta nhận thấy rằng thời gian này, một số cá nhân và nhóm người đòi hỏi Nhà nước Việt Nam phải tôn trọng và bảo đảm quyền công dân, quyền con người . Trong những quyền đó, người ta đặc biệt nhấn mạnh đến nhóm quyền dân sự chính trị. Họ ngụy tạo bằng những từ ngữ trong các “Tuyên cáo” như: Đấu tranh “Ôn hòa, bất bạo động…” hòng che dấu những ý đồ đen tối mà những cá nhân tổ chức này cố tình phớt lờ một điều quan trọng trong việc “đòi” của họ đó là: Bản chất gốc của các tổ chức xã hội dân sự ra đời không phải để đấu tranh chính trị mà là để thẩm định chất lượng quản trị đất nước của chính phủ.Tổ chức xã hội dân sự bày tỏ chính kiến của mình với mục đích cùng chính phủ quản lý tốt hơn các chính sách đã đề ra chứ không phải là “lật đổ” chính phủ hiện hành, đấu tranh chống đối nhà nước. Xin thưa với các nhà “Dân chủ” rằng: tất cả những điều các vị cao giọng về những hoạt động “ôn hòa bất bạo động”, thì thực tế nhãn tiền đã xảy ra ở các nước bắc phi, trung đông, đông âu, thực tế đời sống chính trị trên thế giới cho thấy lợi dụng xã hội dân sự làm quân bài chiến lược để thu hút đám đông và làm vỏ bọc cho mình thực hiện mưu đồ bạo loạn để trục lợi.
Vậy thì ở Việt Nam có các tổ chức dân sự không? Xin nói ngay rằng không những có mà rất đa dạng, người dân trong nước không lạ lẫm gì với các hội, đoàn mà họ đã và đang tham gia, toàn quốc đã có khoảng 460 hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp có phạm vi hoạt động trong toàn quốc, liên tỉnh, thành phố; 20 tổ chức công đoàn ngành, trên 36.000 tổ chức hội, hiệp hội, câu lạc bộ ở các địa phương hoạt động, ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Với số lượng các tổ chức dân sự nhiều và đa dạng đáp ứng hoàn toàn nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, mọi người dân hoàn toàn tự nguyện và thỏa mãn nhu cầu của mình, như vậy không thể nói xã hội dân sự ở Việt Nam là “Con số không tròn trĩnh” như các nhà “Dân chủ” lu loa được, và một điều tuyệt nhiên các tổ chức xã hội này không “đòi” lật đổ chế độ hiện hành như các vị.
Trong thời đại thông tin kỹ thuật bùng nổ và đa dạng như ngày nay, cho dù có không ít người, tổ chức đã lợi dụng nó để dẫn dắt một bộ phận người dân chưa có điều kiện tiếp nhận thông tin, họ đã tạo ra dư luận, để xuyên tạc, bôi nhọ, cản trở Việt Nam trên con đường hội nhập quốc tế để xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc. Song không phải lúc nào và ở đâu họ cũng có thể làm được điều mình mong muốn. Mọi người dân luôn sáng suốt nhận diện những cá nhân, tổ chức với mưu đồ bất chính của họ cho dù được bọc bằng những ngôn từ mĩ miều như thế nào chăng nữa thì hành động của họ sẽ bị chính người dân Việt Nam yêu hòa bình và công lý nhận diện và lên án
Nói về quyền con người thì như vũ trụ bao la! đâu là giới hạn cuối cùng ? đến nay chúng ta chưa hình dung hết được, một khi loài người càng tiến về phía trước thì dường như cái đích càng lùi xa…. nguyên do là tư tưởng con người không có giới hạn, nhu cầu đòi hỏi về vật chất không có điểm dừng…. bởi vậy cho nên mọi sự phấn đấu của mỗi một con người, sự tận tâm, tận lực của Đảng, nhà nước Việt Nam sẽ làm rất nhiều việc để cho cuộc sống của mỗi một người dân bảo đảm những quyền được hưởng về cả tinh thần lẫn vật chất như tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình.
Viết tại Texas Hoa Kỳ 20-7-2014
AMARI TX

Phủ nhận hai cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân: HÀNH ĐỘNG CỦA NHỮNG KẺ HOANG TƯỞNG VÀ ÁC ĐỘC

Bài viết của John Lee VHN.net Đăng trên Tạp Chí Nhân Quyền Việt Nam 7-2014
 
Hình ảnhHình ảnh: Bà Mẹ Việt Nam anh hùng : "Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về..... Mình mẹ lặng im "
Chiến tranh! Khi nhắc đến hai từ đó người ta thường nhớ đến một quá khứ hào hùng và bi tráng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Cũng chính vì thế, nhiều người trên thế giới mỗi khi nói đến Việt Nam lại nghĩ ngay đến chiến tranh. Rất nhiều sách báo đã nói về một Việt Nam anh hùng với lòng cảm phục. Mấy nghìn năm lịch sử dựng nước cũng là từng ấy thời gian dân tộc Việt Nam phải chống giặc giữ nước. Một lịch sử quá đậm nét sử thi từ thời Hùng Vương đến một “Điện Biên chấn động địa cầu” và cuối cùng là một “Chiến dịch Hồ Chí Minh” giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Vậy thì làm sao không nhắc đến chiến tranh khi chính ở trong đó, dân tộc Việt Nam đã có nhiều bài học đau thương, mất mát vô bờ bến vùng lên từ đống tro tàn đổ nát, trưởng thành và vững vàng cho đến ngày nay! Phải thế chăng mà người Việt Nam sẽ còn nhắc mãi và không bao giờ quên niềm tự hào về những gì mà cả một dân tộc “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Ấy vậy mà thời gian gần đây, một số người ở trong nước lại tung ra các bài viết, những phát biểu đòi “xét lại lịch sử”. Những người này, vốn trước đây “từ nhân dân mà ra”, từng theo Đảng, theo bộ đội đánh đuổi thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ xâm lược nay lại tỏ ra “sám hối”, tiếc nuối vì đã “lỡ” một thời theo Đảng. Họ lớn tiếng đòi “xét lại vai trò lãnh đạo” của Đảng, vu cáo Đảng Cộng sản Việt Nam “đặt lợi ích Đảng lên trên lợi ích dân tộc, đẩy dân tộc Việt Nam vào con đường binh đao máu lửa hơn 30 năm”. Họ phát biểu ào ào vô trách nhiệm rằng: “Đảng chỉ lấy dân làm vật thí nghiệm, vật hi sinh cho chủ nghĩa xã hội hư vô, đưa dân tộc Việt Nam vào con đường máu lửa”…
Chúng ta là người Việt Nam chân chính. Chúng ta phải nói một cách dứt khoát rằng, đây lại là một luận điệu xuyên tạc lịch sử với ý đồ bôi nhọ, chà đạp trắng trợn lên thành quả cách mạng mà toàn dân tộc phải đánh đổi bằng sinh mạng hàng triệu người con ưu tú, hàng triệu sinh mạng của người dân lành để đổi lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Luận điệu này chúng ta phải hết sức cảnh giác bởi nó dễ gây nên sự hiểu lầm, vì đối tượng phát tán tài liệu đã từng là người trải qua chiến tranh, và đã một thời đứng trong hàng ngũ của Đảng. Điều nguy hiểm là một số ít người thiếu hiểu biết lịch sử đất nước và lớp người trẻ sinh ra sau chiến tranh sẽ nhận thức sai lầm dẫn tới phủ nhận thành quả cách mạng, mất lòng tin vào chế độ, vào con đường đi tới của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Một người bất mãn – một nhà “dân chủ” tự phong đã viết trên RFA Việt ngữ: “Phan Châu Trinh mất sớm, con đường cứu nước đúng đắn Phan Châu Trinh vừa khởi xướng, đành bỏ dở! Sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam thôi đành phó thác cho những người Cộng sản! Và dân tộc Việt Nam phải trải qua con đường đấu tranh bạo lực dằng dặc máu lửa”. Thưa với nhà “dân chủ”, ông ngủ gật trong giờ học lịch sử hay sao? Lịch sử của dân tộc Việt Nam diễn tiến rất đúng quy luật và truyền thống như thế này: Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược và cả khi thiết lập được quyền cai trị trên đất nước Việt Nam thì dân tộc này đã kháng cự lại. Đã có biết bao cuộc nổi dậy của nhân dân dưới ngọn cờ của các sĩ phu yêu nước. Nhưng tất cả các cuộc kháng cự đó đều bị đè bẹp và bị dìm trong biển máu. Ông cho rằng vì cụ Phan Châu Trinh mất sớm, nếu không dân tộc này sẽ đi theo con đường của Ấn Độ đòi lại độc lập từ người Anh? Điều này cho thấy ông đã cố tình bẻ cong sự thật lịch sử và cố tình suy diễn theo cái lối “nói cho sướng miệng”. Sự thật thì sau nhiều cuộc khởi nghĩa và các phong trào chống Pháp không đem lại kết quả, đứng trước vận mệnh của đất nước, Đảng Cộng sản đã gánh vác sứ mệnh giải phóng dân tộc. Phong trào chống xâm lược do những người Cộng sản phát động có cùng mục đích như các phong trào khởi nghĩa trước đó là giành, giữ độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam có “hiếu chiến” như ông và các nhà “dân chủ” cùng hội cùng thuyền với ông quy kết không? Chúng ta cùng tìm hiểu vấn đề này. Những ai hiểu biết về hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, những người có lương tri trên thế giới, đều đứng về phía Việt Nam. Đáng lẽ sau Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta phải được sống trong hòa bình, độc lập, tự do để xây dựng chế độ mới. Nhưng thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược Việt Nam. Trong tình thế tương quan lực lượng bất lợi cho một chính phủ còn non trẻ, rất cần một khoảng thời gian để xây dựng lực lượng nên Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng chủ trương hòa hoãn với thực dân Pháp. Chúng ta đã nhượng bộ, chấp nhận nền độc lập hạn chế và nền thống nhất có điều kiện, cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc để đuổi 20 vạn quân Tưởng ra khỏi bờ cõi, khẳng định việc Nam Bộ có trở về với nước Việt Nam hay không là tùy thuộc vào kết quả của một cuộc trưng cầu ý dân. Nhưng thực dân Pháp quyết dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ nước ta. Chúng tăng quân trái phép ở miền Bắc, gây ra nhiều vụ xung đột đẫm máu và cuối cùng gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta, đòi quân, dân ta hạ vũ khí. Vậy thì xin hỏi các nhà “dân chủ”, ở vào tình thế như vậy, theo các vị thì Đảng Cộng sản Việt Nam mà người đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh phải xử lý ra sao? Nếu theo cách nói của các vị thì nên chọn con đường “không đổ máu” ư? Xin thưa, không đổ máu mà vẫn giữ được độc lập như các vị nói thì chỉ là con đường chấp nhận làm kiếp nô lệ mà thôi! Dân tộc này không bao giờ chọn con đường đó! Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Chúng ta nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Nhà sử học Pháp Philip Deville đã nhận định: “Trong khi máy bay, xe tăng và binh lính Pháp ùn ùn kéo đến Việt Nam để chuẩn bị xâm lược thì chỉ có một dân tộc cam chịu để mình bị cắt cổ, chỉ có một dân tộc ươn hèn, thực sự phản bội dân tộc mình mới không chuẩn bị gì, không hành động gì để chống lại”. Sau này Tổng thống Pháp F.Mitterand, trong dịp sang thăm chính thức Việt Nam, tháng 2-1993, đã trả lời các nhà báo rằng: “Ông Hồ Chí Minh đã tìm kiếm những người đối thoại, nhưng không tìm được. Dù rất mong muốn đàm phán để hướng tới độc lập, ông Hồ Chí Minh bị đẩy vào cuộc chiến tranh”. Đến đây hẳn các “nhà dân chủ” đã hiểu là các vị đang chụp mũ cho Đảng Cộng sản. Còn giả sử như không hiểu thì có lẽ chăng đầu óc các vị đã bị thiểu năng.
Các vị còn hồ đồ rằng: “Trong khi đội quân xâm lược Pháp lực đã kiệt, thế đã tàn thì lực lượng kháng chiến giành độc lập đã lớn mạnh, đang bừng bừng xốc tới, chỉ dấn thêm một bước là cả nước sạch bóng giặc ngoại xâm. Nhưng những người Cộng sản đặt giá trị giai cấp lên trên giá trị dân tộc thì giải phóng dân tộc không phải là mục đích duy nhất và cao nhất của họ.
Với ý thức hệ giai cấp, những người Cộng sản Việt Nam coi giải phóng dân tộc không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để họ làm cách mạng vô sản thế giới”. Thật nực cười cho cái lập luận méo mó, quái gở này. Các vị vì ngu dốt hay vì cố tình xuyên tạc cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta là cuộc chiến tranh ý thức hệ, chiến tranh ủy nhiệm, miền Bắc xâm lược miền Nam? Hiệp định Geneve quy định Pháp phải cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân về nước. Theo Hiệp định Geneve, tháng 7-1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước. Nhưng đế quốc Mỹ với âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, lập “đê chắn làn sóng đỏ” xuống phía Nam nên đã hất cẳng Pháp, nhảy vào xâm lược chia cắt lâu dài đất nước ta. Ngô Đình Diệm từng tuyên bố khi sang thăm Mỹ: “Biên giới Hoa Kỳ đến vĩ tuyến 17”. Trên thực tế, Mỹ và chính quyền tay sai Việt Nam Cộng hòa đã gây ra “cuộc chiến tranh một phía”. Họ dọa “lấp sông Bến Hải”, “Bắc tiến”, “giải phóng Cố đô rửa hận”. Sau này, đế quốc Mỹ còn thực hiện cuộc “chiến tranh cục bộ”, đưa trên nửa triệu quân Mỹ vào xâm lược miền Nam, và tiến hành cuộc “chiến tranh phá hoại”, đe dọa đẩy miền Bắc nước ta trở về “thời kỳ đồ đá”. Như thế thử hỏi có con đường độc lập, thống nhất không đổ máu ư? Không có gì quý hơn độc lập, tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”. Nhân dân Việt Nam, bạn bè trên thế giới, nhân dân tiến bộ Mỹ và cả một số người trong chính giới Hoa Kỳ hẳn vẫn không quên, trong suốt hơn 40 năm thù địch Việt Nam, Hoa Kỳ đã trực tiếp làm cho hơn 3 triệu người Việt Nam phải hy sinh và hàng triệu người khác bị tàn tật, phải chịu di hại của chiến tranh, của chất độc da cam, bao vây cấm vận làm cho nhân dân Việt Nam vốn đã khốn khó do phải khắc phục hậu quả chiến tranh lại càng thêm khốn khó.
Trong một cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam được tổ chức tháng 3-2007 tại tiểu bang Texas, các học giả Mỹ đã phân tích những nguyên nhân thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến yếu tố văn hóa. Cuộc hội thảo này đã đi đến kết luận: Sự thiếu hiểu biết của Hoa Kỳ về văn hóa, lịch sử và con người Việt Nam chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của Mỹ trên chiến trường. Tổng thống Nixon đã cay đắng thừa nhận: “Sai lầm nghiêm trọng của chúng ta là không biết một trong những quy luật của chiến tranh. Đó là, đừng bao giờ bước vào cuộc chiến tranh, nếu không biết cách nào để ra khỏi cuộc chiến tranh đó”. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara trong cuốn hồi ký “Nhìn lại quá khứ tấn thảm kịch và bài học về Việt Nam” đã viết: “Chúng tôi ở trong chính quyền Kennedy và Johnson, tham gia vào các quyết định về Việt Nam, đã hành động theo những gì mà chúng tôi coi là nguyên tắc và truyền thống của dân tộc này. Chúng tôi đã ra các quyết định dưới ánh sáng của các giá trị đó. Nhưng chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp”. Lẽ phải chỉ có một. Những người chủ mưu trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã thú nhận thì những lập luận kiểu “giá như” của những kẻ xuyên tạc, bóp méo lịch sử như các “nhà dân chủ” đều trở nên vô nghĩa. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của nhân dân Việt Nam đã được lịch sử ghi nhận.
Dân tộc Việt Nam từ thủa khai sơn phá thạch cho đến hôm nay luôn chủ trương sống và hành động theo tư tưởng “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”, “lấy chính nghĩa để thắng phi nghĩa” không thể là một dân tộc “nồi da nấu thịt”, “tắm máu” đồng bào như luận điệu xuyên tạc của những kẻ vì động cơ cá nhân, mục tiêu tư lợi đã lớn tiếng phê phán, chà đạp lên truyền thống tổ tiên… Thực tế lịch sử đã minh chứng, sau thắng lợi mùa Xuân năm 1975 không có chia cắt, chỉ có thống nhất; không có “tắm máu”, chỉ có hòa hợp dân tộc, thống nhất, hòa bình, xây dựng đất nước.
Thế giới đã bước sang giai đoạn mới, trong đó, hòa bình, hợp tác và phát triển đã trở thành xu thế chủ yếu của thời đại, tư duy sử dụng sức mạnh quân sự để giải quyết các vấn đề quốc tế đã trở nên lỗi thời. Lịch sử dân tộc đã chứng minh, dân tộc Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nâng niu từng mối quan hệ bang giao hữu hảo nhưng nếu độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ bị xâm phạm thì dân tộc này quyết không chịu lùi bước. Các “nhà dân chủ” trong khi phủ nhận hai cuộc chiến tranh thần thánh của nhân dân nhưng lại nuôi dã tâm gây ra “biến cố” làm mất ổn định đất nước hòng mong muốn trong sự rối loạn trục lợi cho những toan tính cá nhân. Thật chỉ là hành động của những kẻ hoang tưởng và ác độc!■

Hội nghị Paris: Kỷ niệm của người trong cuộc

“Phòng hạnh phúc”, “cuộc bao vây hữu nghị” hay món bánh cuốn sau mỗi lần thương thảo… là những kỷ niệm khó quên.
Tin liên quan
Cuộc đấu tranh ngoại giao kéo dài gần 5 năm tại bàn đàm phán Paris là một cuộc đấu tranh lặng lẽ, âm thầm, cũng có lúc cao trào, dữ dội. 40 năm, cuộc đấu tranh ấy dù đã đi qua nhưng những câu chuyện kể về nó vẫn chưa bao giờ có hồi kết để chúng ta hiểu thêm về thắng lợi của nền ngoại giao Cách mạng Việt Nam.
Giây phút ký Hiệp định
Suốt 5 năm tham gia bàn đàm phán Paris, nhà báo Hà Đăng-  nguyên là Người phát ngôn của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris luôn đinh ninh rằng sẽ có một ngày Mỹ phải kí kết hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam.
Và đúng như thế, 1 tuần sau thất bại với trận “Điện Biên phủ trên không” cuối năm 1972, Mỹ đã phải nối lại bàn đàm phán. Sau đó 3 tuần thì Mỹ đã chính thức kí hiệp định theo đúng đòi hỏi của chúng ta. Đó là những đòi hỏi mà trước đó Mỹ muốn ép ta phải thay đổi bằng nỗ lực chiến tranh cuối cùng của họ- tức là trận tập kích chiến lược bằng B52 đánh vào miền Bắc Việt Nam.
Hội nghị Paris: Kỷ niệm của người trong cuộc
Hội nghị Paris. Ảnh tư liệu  
Nhà báo Hà Đăng nhớ lại: Khi nhìn các bên kí hiệp định, tôi như được sống trong giây phút vừa hiện thực, vừa lãng mạn, mường tượng đến ngày này 2 tháng sau, khi quân Mỹ phải cuốn cờ về nước, đánh dấu sự chấm dứt của quân chiếm đóng nước ngoài ở nước ta.
Không ai có thể kìm nén sự xúc động khi chứng kiến giờ phút kí hiệp định Paris. Có được thành công ấy, những con người đã từng tham gia Hội nghị Paris như cố vấn Lê Đức Thọ, Bộ trưởng Xuân Thủy hay bà Nguyễn Thị Bình- trưởng đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã trải qua những cuộc đấu trí một mất một còn.
Ông Lưu Văn Lợi- Thư kí riêng của đồng chí Lê Đức Thọ vẫn nhớ: Ông Sáu Thọ vốn là một người thích làm thơ, yêu thơ ngay cả khi bị giam cầm trong chốn ngục tù. Ấy thế mà, suốt 5 năm đàm phán tại Paris, ông không làm nổi một bài thơ.
Tháng 6/1968, bác Thọ được Bác Hồ trực tiếp chỉ đạo làm cố vấn đặc biệt, sang dự cuộc nói chuyện với Mỹ ở Paris. 5 năm trời bác không làm một bài thơ nào. Tất cả tâm hồn, trí tuệ và suy nghĩ của bác đều tập trung cho cuộc đàm phán với Mỹ- một nước gây ra chiến tranh với chúng ta, hùng mạnh hơn chúng ta về mọi mặt, với những nhà ngoại giao sừng sỏ”, ông Lưu Văn Lợi cho biết.
“Phòng hạnh phúc”, “bao vây hữu nghị”
Với những thành viên trong đoàn đàm phán, không ai có thể quên kỷ niệm về “Phòng hạnh phúc”. Đó là “ám hiệu” về căn phòng bí mật chống nghe trộm. Ông Phạm Ngạc-nguyên Vụ trưởng Vụ Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao nói: “Chúng tôi gọi đó là “Phòng hạnh phúc” bởi vào đó là yên tâm lắm, thoải mái trao đổi không sợ lộ bí mật.
Hồi xưa lúc Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang họp hội nghị Fontainebleau phải ra ngoài đi dạo. Khi chúng tôi sang Geneve cũng vậy, phải đi ra ngoài vườn nói chuyện để không bị nghe lén. Còn khi vào “Phòng hạnh phúc thì lại yên tâm trao đổi về kế hoạch tác chiến đấu tranh ngoại giao.
Còn với ông Nguyễn Khắc Huỳnh- nguyên Vụ trưởng Vụ tổng hợp, Bộ Ngoại giao,  ấn tượng không thể phai mờ là những cuộc “bao vây hữu nghị” mà bạn bè quốc tế dành cho phái đoàn của ta: Tôi còn nhớ, khi tôi sang Italy, cuộc mít tinh vừa kết thúc thì hàng vạn thanh niên bao vây hội trường nơi chúng tôi đến phát biểu.
Tôi quay lại nói với đồng chí Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Italy là “chúng tôi bị bao vây rồi đấy”, thì ông ấy nói “đó là cuộc bao vây hữu nghị, rất hữu nghị, là biểu hiện tình cảm của nhân dân Italy với những người Việt Nam, những người Việt Nam đang chiến đấu, đàm phán ở Paris”.
Không chỉ có sự đoàn kết của bạn bè quốc tế mà sự ủng hộ của bà con Việt Kiều tại Paris cũng chính là nguồn động lực để những người con xa quê đang ngày ngày đấu tranh với kẻ thù trên bàn đàm phán có thêm niềm hi vọng. 5 năm đàm phán cũng là 5 cái Tết xa quê đối với những ai tham gia hội nghị Paris. Thiếu thốn tình cảm, nhưng hương vị của ngày Tết cổ truyền dân tộc thì không thiếu bởi những thành viên của đoàn đàm phán được sống trong tình cảm thương yêu, trìu mến của bà con Việt Kiều.
Ông Phạm Ngạc nhớ mãi cuộc gặp gỡ với bà con vào dịp Tết năm 1971. Không chỉ là những món ngon quê nhà, họ còn được thưởng thức những vở kịch, vở cải lương do chính đồng bào mình thể hiện tại thủ đô Paris.
Dịp đó chúng tôi rủ nhau đến nhà tương tế của Paris gặp gỡ, diễn văn nghệ. Anh chị em bên đó chủ yếu là trí thức miền Nam, họ đã chọn cải lương để hát. Anh Tổng thư kí- Nguyễn Ngọc Hà cũng đóng vai chính, có lúc đưa cả vợ con lên sân khấu. Các bạn sinh viên cũng hát những bài hát cách mạng, kháng chiến. Đó là chương trình vui nhất”, ông Ngạc kể.
Món bánh cuốn sau mỗi lần thương thảo
Và không mấy ai biết rằng, món bánh cuốn Việt Nam cũng có mặt ở Paris sau những lần thương thảo tại hội nghị. Chuyện kể rằng, đồng chí Xuân Thủy đã giao cho nhà bếp chuẩn bị món bánh cuốn, nước chấm cà cuống để mỗi khi thương thảo thành công sẽ cùng tổ chức liên hoan. Ông còn cho mời phía đối phương thưởng thức món ăn dân dã này khi hai bên đạt được nguyện vọng của mình trên bàn đàm phán.
Ông Tăng Văn Soát, bảo vệ đoàn nhớ lại: Nhiều khi có những cuộc họp phát sinh của hai đoàn lớn, cần gặp nhau để bàn bạc. Những ngày ấy chúng tôi cũng phải phục vụ cho cuộc họp. Thấy gu của họ thích ăn bánh cuốn, ông Xuân Thủy chỉ đạo làm ngay. Làm bánh cuốn ngay ở nơi họp, khi nào cuộc họp thành công thì mang bánh cuốn, nước mắm cà cuống ra chiêu đãi hai đoàn.
Kỷ niệm về 5 năm đàm phán tại hội nghị Paris không bao giờ có thể kể hết. Điều đó cũng giống như viết về một câu chuyện dưới nhiều góc độ khác nhau thì con mắt nhìn cũng vô vàn chi tiết không giống nhau. Chỉ có điều, mỗi câu chuyện là một kí ức không thể phai mờ và rất đáng trân trọng, cũng giống như giờ phút chúng ta có trong tay hòa bình thật đáng quý biết bao!.
Nhóm PV/VOV

Kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris: Kỷ vật 'kể chuyện'

Có lẽ chưa bao giờ, hai tiếng Paris được nhắc nhiều đến vậy giữa lòng Hà Nội. Hơn thế, tên những con phố, những dãy nhà, những người bạn Pháp chí tình cùng những câu chuyện ở Paris năm tháng ấy cũng được kể lại đầy xao xuyến.
Hôm qua, 23/1, tại Nhà triển lãm 29 Hàng Bài (Hà Nội), khai mạc triển lãm Kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp định Paris về Việt Nam. Triển lãm trưng bày nhiều hiện vật quý và có sự tham gia của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, lãnh đạo Bộ Ngoại giao, Bộ VH,TT&DL...  
"Phòng hạnh phúc"
Bên cạnh những kỷ vật, nhân chứng hào hùng, Triển lãm gây ấn tượng đặc biệt bởi sự xuất hiện của đoàn chuyên viên chịu trách nhiệm bảo vệ sự an toàn và bảo mật thông tin của hai phái đoàn ta tại Paris ngày đó. Họ cũng là những “người hùng thầm lặng” tới tận hôm nay.
Kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris: Kỷ vật 'kể chuyện'
Triển lãm thu hút sự chú ý đông đảo công chúng trong và ngoài nước 
Đại tá Phạm Trường Sơn (chuyên viên bảo vệ đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) chia sẻ với TT&VH: “Hồi đó, tôi làm phụ trách bảo mật thông tin. Khi phái đoàn ta mới nhận khách sạn tại Paris, việc đầu tiên chúng tôi làm là kiểm tra bảo mật. Không lâu sau, chúng tôi phát hiện được tới hơn chục thiết bị nghe trộm được gắn khắp nơi”.    
Dù đã cảnh giác cao, những cuộc họp kín của hai phái đoàn vẫn bị thiết bị tối tân của các lực lượng khác thu được.
"Và chúng tôi nghĩ ra kế hoạch lập "phòng hạnh phúc" để họp riêng. Kế hoạch tối mật tới mức, ngay cả các bạn "chủ nhà" Đảng Cộng sản Pháp cũng không biết chúng tôi lập phòng này. Chúng tôi âm thầm tỏa đi các ngả, mua những tấm gỗ dày, bọc quanh phòng để cản sóng từ các thiết bị nghe trộm.
Đồng thời, phòng còn có một lớp tre đan chống lọt ánh sáng để “vô hiệu hóa” các thiết bị ghi hình từ bên ngoài. Trong khi hai phái đoàn của ta họp kín, chúng tôi cũng bố trí một chiếc đài cassette bật nhạc và đổi sóng liên tục để gây nhiễu" - Đại tá Trần Hữu Diệt, chuyên viên bảo vệ phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam kể.
"Phòng hạnh phúc" đã thành công trong việc bảo mật thông tin của phái đoàn ta tại Paris. "Bằng chứng là nhiều luận điểm của ta chuẩn bị trước trong cuộc họp kín đã khiến phía bên kia sững sờ.
Khi báo chí Mỹ cố tình hỏi ác ý Chính phủ Cách mạnh Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam: "Các ông bảo các ông là chính phủ độc lập và có vùng giải phóng. Vậy ông có thể chỉ cho chúng tôi xem vùng giải phóng của các ông ở đâu trong bản đồ Việt Nam này?".
Ông Lý Văn Sáu - phát ngôn viên của phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam - vừa cười vừa nói: "Cần gì bản đồ. Các ông cứ thấy máy bay Mỹ dội bom ở đâu, vùng giải phóng của chúng tôi ở đấy. Nghe đâu dạo này máy bay Mỹ dội bom quanh ngoại thành Sài Gòn rồi đấy!". Cả hội trường đứng bật dậy vỗ tay không ngớt trong sự bẽ bàng của nhà báo đặt câu hỏi và phái đoàn Mỹ” - ông Diệt kể thêm.
Kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris: Kỷ vật 'kể chuyện'
Bản gốc Hiệp định Paris được trưng bày 

Và chuyện chiếc xoong quấy bột giữa phòng hội nghị
Đứng trước chiếc bút phớt đen tận tay đi mua tại Paris năm ấy, ông Lưu Văn Lợi (phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) kể: “Bốn Bộ trưởng Bộ Ngoại giao gồm:Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Nguyễn Duy Trinh), Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Nguyễn Thị Bình), Mỹ (William P.Rogers), Việt Nam Cộng hòa (Trần Văn Lắm) ngồi vào bàn.
Mỗi người ký vào 32 văn bản của Hiệp định, lại có cả Nghị định thư nên tất cả cần 36 chữ ký. Phía Mỹ chuẩn bị sẵn mỗi chữ ký mỗi bút. Sau tôi được biết những cái bút này đem bán đắt tiền lắm.
Kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris: Kỷ vật 'kể chuyện'
Chiếc xoong dùng để nấu xi đóng dấu niêm phong tại Hội nghị Paris 
Tôi là người trực tiếp đi mua những chiếc bút ký Hiệp định đang được trưng bày tại đây cho đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hồi đó, tôi cũng mua 36 chiếc bút phớt đen. Sau tất cả cũng đều được đưa vào viện bảo tàng, nhà lưu niệm."
Trầm ngâm trước chiếc xoong nhôm được trưng bày tại triển lãm, ông Lợi kể tiếp: “Trước ngày ký Hiệp định, ta chuẩn bị cẩn thận lắm. Nhưng do điều kiện đất khách lại không thực dư dả tài chính nên cũng lắm chuyện vui. Khi Hiệp định ký xong, bên Mỹ dùng con dấu đóng xi niêm phong rất bài bản. Còn ta mang cả chiếc xoong quấy bột trẻ con này để đun chảy xi và đóng ngay giữa hội nghị”.
Triển lãm cũng bày 140 bức ảnh, 21 lời trích, 23 hiện vật, 3 tài liệu, 8 cuốn sách, bản gốc Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam, con dấu và biển tên của đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, cuốn sổ tập hợp 10.000 chữ ký của nhân dân Cuba phản đối chiến tranh và ủng hộ nhân dân Việt Nam…
Phạm Mỹ
Thể thao & Văn hóa

Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973

140 bức ảnh quý giá là minh chứng rõ nét nhất về những cuộc đàm phán ngoại giao mà nhân dân ta đã dành thắng lợi trước đế quốc Mỹ và tiến tới chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

 Sáng 23/1, tại Nhà triển lãm 29 Hàng Bài - Hà Nội, đã khai mạc triển lãm “Kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp định Paris về Việt Nam”. Đến dự có nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, nguyên Trưởng đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời tại Hội nghị Paris, thứ trưởng Bộ VH TT&DL Huỳnh Vĩnh Ái, Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Nguyễn Phương Nga…

Triển lãm trưng bày nhiều hình ảnh và kỷ vật quý về các phiên đàm phán của ta với Mỹ và những hoạt động bên lề của Việt Nam trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Với 140 bức ảnh, 21 lời trích, 23 hiện vật, 3 tài liệu, 8 cuốn sách, trong đó có những hiện vật quý lần đầu được trưng bày kể từ 40 năm qua, như văn bản gốc hiệp định Paris.
Đây là triển lãm lớn nhất về sự kiện này từ trước tới nay ở Việt Nam, Hiệp định là 1 sự kiện trọng đại, 1 thắng lợi vẻ vang trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam và là đỉnh cao của ngoại giao VN thời đại Hồ Chí Minh.
Triển làm sống lại các hình ảnh và sự kiện của những năm tháng khốc liệt của cuộc đấu tranh phối hợp giữa ba yếu tố chính trị, quân sự và ngoại giao. Nó cũng là minh chứng “sống” rõ ràng nhất cho cuộc đấu tranh cam go trên mặt trận ngoại giao kéo dài 4 năm 8 tháng và 16 ngày, với hàng trăm cuộc gặp công khai và bí mật, để ký được Hiệp định Paris (27.1.1973), buộc Mỹ và các đế quốc, thực dân phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ nước ta.
 
Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973
Bộ trưởng Xuân Thủy cùng cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ rời cuộc gặp riêng tại địa điểm của đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở 11 phố Darthe 
Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973
Cuộc đấu bóng bàn giữa bà Dương Thị Duyên và bà Nguyễn Thị Bình tại Paris 
Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973
Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ tại buổi họp báo quốc tế 
Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973
Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ với nụ cười chiến thắng tại Hội nghị Paris 
Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973
Toàn cảnh Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam 
Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973
Nguyên phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình- một chứng nhân của Hội nghị Paris lịch sử đã có mặt tại buổi triển lãm 
Thiên Lam/ Dân trí

NGUYỄN VĂN HẢI NÓI GÌ KHI ĐÃ ĐẶT CHÂN LÊN NƯỚC MỸ?

Chiềng Chạ
Trả lời báo chí (Chủ yếu là báo chí của cộng đồng người Việt sống lưu vong tại Mỹ như Báo Người Việt, Saigon Broadcasting Television Network (SBTN) ngay sau khi đặt chân lên đất Mỹ, Nguyễn Văn Hải - Hải Điếu Cày đã có một đoạn nói tương đối ngắn gọn; và theo các nhà quan sát thì tương đối đầy đủ khi phản ánh đầy đủ những thắc mắc của Hải, hoàn cảnh hiện tại và cả dự định tương lai của Cựu tù nhân này. 

Xin được trích nguyên vẹn bài phát biểu của Nguyễn Văn Hải được báo Người Việt thực hiện: 


Phát biểu tại phi trường Los Angeles hôm 21/10, Blogger Điếu Cày nói: "Tôi thấy chính phủ Hoa Kỳ thì mong muốn tôi trở thành một công dân của Hoa Kỳ nhưng tôi không hiểu tại sao chính phủ Việt Nam lại muốn trục xuất tôi.
Những việc tôi làm chỉ mang lại lợi ích cho dân tộc Việt Nam, cho tổ quốc Việt Nam. Điều đó đáng để chính phủ Việt Nam phải suy nghĩ."
Khi được hỏi liệu ông có nghĩ trong tương lai sẽ về lại Việt Nam hay không, ông Nguyễn Văn Hải trả lời: "Tôi sang đây đấu tranh là để cho ngày trở về". 
Trong khuôn khổ bài viết này xin được làm rõ hơn nội dung Hải nói để những ai quan tâm cùng xét đoán. 
1. Về điều băn khoăn mà đến nay dù đã có mặt trên đất Mỹ và trở thành người tự do thì Hải vẫn chưa thể nào lí giải nổi: "Tôi thấy chính phủ Hoa Kỳ thì mong muốn tôi trở thành một công dân của Hoa Kỳ nhưng tôi không hiểu tại sao chính phủ Việt Nam lại muốn trục xuất tôi".
Rõ ràng, theo cách nói của Hải thì anh ta đang bị đối xử một cách khác biệt khi ở hai quốc gia khác nhau. Trên chính quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình theo cách nói của Hải thì Chính phủ muốn trục xuất anh ta nhưng chính cái nơi đất khách quê người - Chính phủ Mỹ lại muốn tiếp nhận Hải trở thành một công dân. Tôi cho rằng, điều này rất dễ hiểu, việc Hải cố tình đưa băn khoăn này ra đầu tiên trong bài phát biểu của mình có chăng cũng là cái cách ngờ hoặc quen thuộc của con người này; Dù đã qua sáu năm thụ án với 02 tội danh khác nhau từ tội "Trốn thuế" trong bản án thứ nhất và tội "Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCNVN" trong bản án thứ hai nhưng Hải chưa bao giờ tự tập cho cá nhân mình cái cách đối diện với sự thật. Và thay vì có một thái độ đúng mực trong chấp nhận sự thật thì Hải lại trốn tránh và tự tạo ra cho mình cái phản xạ phủ nhận hết  thảy tội lỗi của bản thân trong quá khứ. Đây cũng được cho là nguyên nhân chính yếu khiến Hải liên tục phát đi những màn phản kháng quen thuộc trước đó đã được Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Lý... tiến hành những bất thành: tuyệt thực, không chấp hành lệnh cải tạo lao động của trại giam nơi đang thi hành án. 

Nói như thế để thấy rằng, với băn khoăn và sự khó hiểu hiện tại về hai cách đối xử cũng xuất phát từ việc Hải chưa bao giờ nhận thức cho đầy đủ và đúng mực về tội danh của mình. Hải không biết hắn là một tù nhân, một kẻ đã bằng cách này, cách khác xâm phạm chính quyền lợi, quyền của các chủ thể được pháp luật bảo vệ. Và như thế, về phương diện cơ chế tự bảo vệ chẳng có  một chế độ nào chấp nhận một thứ công dân "Ngoại hạng" nào như thế. Song, cũng cần đính chính lại một điều được Hải nói ra là tuy có những sự 'ghét bỏ" nhất định đối với Hải nhưng Chính phủ Việt Nam chưa bao giờ có ý định trục xuất Hải. Việc Hải đi Mỹ hoàn toàn là ý định tự nguyện của bản thân kết hợp với lời đảm bảo và 'mời gọi" từ Chính phủ Mỹ như chính phát biểu của phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ vừa qua: "Tuy nhiên phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ không trực tiếp trả lời câu hỏi liệu blogger Điếu Cày có bị cưỡng ép phải rời Việt Nam ngay sau khi ông ra khỏi nhà tù hay không, mà chỉ nói rằng bà sẽ tham khảo lại với các giới chức Việt Nam về vấn đề này. Nhưng bà xác định rằng chính blogger Điếu Cày quyết định đi Mỹ..." Cho nên có thể thấy rằng, với lời trần tình thứ nhất, Nguyễn Văn Hải đã có một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thái độ trốn tránh sự thật và cách nói vu cáo 'thiện nghệ". Tuy nhiên, lời phát biểu của phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ đã bóc trần bản chất của vấn đề. Đoạn nói tiếp theo chính vì vậy được cho là hệ quả tất yếu của những nhận thức sai lầm ở đoạn trên: "Những việc tôi làm chỉ mang lại lợi ích cho dân tộc Việt Nam, cho tổ quốc Việt Nam. Điều đó đáng để chính phủ Việt Nam phải suy nghĩ." Xin chia buồn cùng Hải với bàn thua đầu tiên. 

2. Về dự định của mình trong tương lai trên đất Mỹ, Hải cho rằng: "Khi được hỏi liệu ông có nghĩ trong tương lai sẽ về lại Việt Nam hay không, ông Nguyễn Văn Hải trả lời: "Tôi sang đây đấu tranh là để cho ngày trở về".

Trần Khải Thanh Thủy và Cù Huy Hà Vũ cũng phát biểu tương tự như thế khi cập bến tại nước Mỹ. Thậm chí hai người đi trước này còn nói nhiều, nói cụ thể hơn Hải nhiều nhưng những ai quan tâm tới hai cá nhân này hẳn đã tường tận về kết quả của những dự định ấy. Trần Khải Thanh Thủy sau những ngày đầu có vẻ ăn ý với bộ sậu "Việt Tân Trung ương' trên đất Mỹ khi liên tục phát đi những lời kêu gọi, cho ra đời các bài viết mang tính đả kích được số này cho đó là thông cáo, là tuyên ngôn thì cuối cùng cũng bị chúng "quẳng" ra đường không hơn, không kém; tức chí, ả nhà văn này đã liên tiếp cho ra loạt bài không ngoài mục đích tố cáo bản chất nhơ nhớp của lũ "Việt Tân" trên đất Mỹ, thậm chí ả còn thằng thừng cho chuyến đi Mỹ của ả là hết sức sai lầm  và nếu không đi thì tiếng tăm, danh tiếng, tiền bạc của ả sẽ rủng rình hơn nhiều. Và không có gì lạ khi vị nữ sỹ này sau khi nghe thấy thông tin Hải được sang Mỹ đã cảm khái tặng một bài thơ nhưng tin được không, bình thường không khi chính Ả đang sống dở, chết dở trên đất Mỹ mà vẫn phát đi những lời có cánh về một viễn cảnh tốt đẹp trên đất Mỹ giành cho Hải; lí giải điều này, số người biết Trần Khải Thanh Thủy cho đó cũng là thói 'xấu bụng' của Ả và Ả càng không muốn chỉ có mình chịu đầy ải của cái gọi là "tự do', "dân chủ" và "nhân quyền' do lũ rận ngoại quốc vẽ nên. 

Đến lượt mình, Cù Huy Hà Vũ cũng làm điều tương tự dù trước lúc đi vị Tiến Xỹ này cũng đã được bạn bè, người thân cảnh báo về thân phận của Trần Khải Thanh Thủy trên đất Mỹ. Vũ cũng có một bài phát biểu ngay tại phi trường Mỹ nhưng thật nực cười đã 09 tháng trôi qua sau ngày sang Mỹ Vũ chỉ vẹn vẹn có nổi 02 lần trả lời phỏng vấn. Đáng chê trách hơn khi số bài phỏng vấn ấy không có lấy một nội dung cho là "trò", 'ra trống". Việc thiếu thông tin đã khiến những con gà đẻ trứng vàng này đành phải ngậm ngùi và tiếc nuối không nguôi. 

Và theo cách nói này thì Hải là người thứ ba. Ngay bây giờ cũng chưa có gì có thể kiểm chứng được lời Hải nói nhưng với những gì Thủy, Vũ đã qua, thứ tương lai phía trước của Hải cũng là dấu hỏi khó đoán định..../.