Những ngày còn lại ở đó là những ngày dài vô tận, nhừng đêm đen tối kinh hoàng, những lời cầu nguyện khôn nguôi.
Sáng
sớm hôm đó, mặt trời thức dậy như có được thêm niềm hy vọng, bầu trời
trong sáng hẳn ra. Khói thuốc súng của những đêm thiếu đạn trước đây,
như tàn theo với mây, biến mất với gió.
Rồi
tiếng người nói, có tiếng bước chân ai nặng nề dưới cái nắng bình minh,
bóng người to lớn dần, tiếng nói vang lên với âm điệu khác thường, xa
lạ, giọng nói đượm vẻ anh hùng như ra lệnh, cái lệnh gì không ai hiểu
cả. Chúng tôi ở “dưới hầm” chun ra, nhìn họ như nhìn vị cứu tinh, mặc dù
không hiểu, nhưng nhìn hành động của họ là mình hiểu ngay:
Quân đội đồng minh Hoa Kỳ đây! Tự do đây! Hòa bình đây!
Chúng
tôi như cá gặp nước, như người đói được cho ăn, như người chết được cứu
sống, vội vàng khăn gói trở lại mái nhà xưa. Ba, Mẹ và chúng tôi cám ơn
ông bà chủ nhà, ra về.
Trên
đường về, hai bên là những chàng lính Mỹ trẻ, tay cầm súng, miệng tươi
cười, như vừa chào đón, vừa bảo vệ cho đoàn người đang lần lượt đi qua.
Cũng
con đường bất an ấy, bây giờ sao nó bình an quá. Chúng tôi nhìn lại
những người lính Mỹ trẻ với sự cảm phục, với lòng biết ơn, và với chút
thẹn thùng, e lệ. Đi qua khỏi họ, mang theo hình ảnh họ, hình ảnh mới
nhất, khác nhất trong lòng tuổi trẻ chúng tôi.
Về
đến nhà, mới biết nhà tan, cửa nát, nhưng không vì thế mà buồn, chúng
tôi vui vẻ như gặp lại, tìm lại được những kỷ niệm của mình, Ba tôi thuê
người đến dọn sạch sẽ, lợp lại mái ngói, để tránh mưa, tránh nắng tạm
thời. Mẹ tôi kiểm điểm, dò hỏi thân nhân, bà con, người ăn, kẻ làm
v.v…Chỉ mấy ngày sau đó, thì tình hình vùng ngoại ô lại đến lúc bất an.
Ba, Mẹ tôi mở cửa để chào đón ông, bà chủ nhà đã cho chúng tôi lánh nạn
trước đây. Ngoài họ ra, Mẹ tôi còn tiếp một cặp vợ chồng người bà con
cùng họ với Mẹ ở bên kia cầu An Cựu. Theo với vợ chồng này là hai anh
con trai lớn của họ. Người anh tên Tứ, người em tên Đỗ. Họ chỉ ở nhà tôi
có vài ba ngày là đi. Còn cặp vợ chồng cho chúng tôi tị nạn ở nhà họ,
thì họ lại ở nhà tôi lâu hơn. Vì ở lâu hơn nên chúng tôi mới có dịp làm
quen, nói chuyện với họ. Người chồng tên là Bùi Xuân Trữ, còn người vợ
thì chúng tôi chỉ biết và nghe gọi là bà Ban Trữ, có thế thôi. Ông Ban
Trữ là một người thông minh, học cao, hiểu rộng. Ngoài chữ Nho, ông còn
nói thạo tiếng Pháp, ông đã từng đi học ở Pháp, và có con đang ở Pháp. Nói chuyện với ông chúng tôi học hỏi thật nhiều. Có lần ông gọi tôi lại và nói:
“Cô Thanh Sung! Nhìn cô tôi tưởng cô là người trong tranh.”
Nghe
đến đây, tôi mừng thầm vì hiểu lầm ông, tôi tưởng ông khen tôi đẹp, tôi
không nói gì cả, chỉ e lệ mỉm cười. Thấy thái độ của tôi như vậy, ông
biết ngay là tôi đã hiểu sai ý ông, nên ông mới đính chính ngay:
“Sở
dĩ tôi nói như vậy là vì đã mấy ngày hôm nay rồi, tôi thấy cô vẫn mặc
có một bộ áo quần mà cô đang mặc đó thôi. Ngày nào cô cũng giống ngày
nào, chẳng khác gì người trong tranh.”
Nhìn mặt ông lúc đó, tôi buồn muốn khóc. Không nói năng gì được được nữa cả, tôi bỏ đi, vừa, vừa đổ lỗi cho chiến tranh.
Ngày tôi mặc bộ đồ khác, cũng chính là ngày họ giã từ chúng tôi. Họ đi rôi1` nhưng không bao giờ chúng tôi quên được.
Chỉ
có vài ngày sau khi Huế không còn nghe tiếng súng nữa, thì gia đình tôi
bất an. Khi chiếc xe Jeep màu xanh, hai ông lính Công an đậu xe lại
trước nhà, nhảy xuống xe, họ đi thẳng vào nhà, Ba tôi đang đứng đó, họ
nói:
“Ông là Nguyễn Đăng Hiếu”
Ba tôi trả lời: “Dạ thưa phải.”
Họ không nói gì hết, đến gần và còng tay Ba tôi lại rồi kéo lên xe. Mẹ tôi ở nhà dưới chạy lên chận họ lại và hỏi:
“Tại sao lại bắt bắt chồng tôi? Ông ấy đã không làm gì cả.”
Một
ông trả lời với Mẹ tôi: “Chúng tôi có lệnh bắt. Chúng tôi không cần
biết ông ta có làm gì hay không. Chúng tôi bắt ông căn cứ trong quyển Sổ Vàng.
Khi đi bọn Việt Cộng đã vô tình hay cố ý để lại cho chúng tôi. Quyển Sổ
Vàng của chúng, lọt vào tay của chúng tôi, nó trở thành quyển Sổ Đen. Bà có biết không?”
Nhìn vào mặt Ba tôi, ông kia vừa kéo vừa nói:
“Ông nặng tội lắm, đi mau ra xe theo chúng tôi.”
Ba
nhìn theo chúng tôi, đôi mắt đỏ hoe, chúng tôi nhìn theo Ba nước mắt
lưng tròng. Hình dáng Ba khuất hẳn đằng xa, nước mắt chúng tôi trào ra
như mưa trút xuống trên nền nhà, tiếng khóc của Mẹ bây giờ vang lên như
lời than thở, vừa khóc Mẹ vừa nói:
“Lần
đầu tiên Ba mấy; con bị tù, Mẹ vì chưa biết phải làm gì, Mẹ đã đem số
tiền lớn ra chạy hết, nhưng khi ba con vào tù lần thứ nhì, lần này thì
Mẹ biết cách. Mẹ chạy đến cầu cứu Trung tá Nguyễn Sang. Trung tá là
người tốt, người đã thương gia đình mình, đã thấu hiểu nỗi oan ức của Ba
và nỗi khổ của Mẹ, và chúng con nên Trung tá, mới ra tay giúp đỡ nhà
ta. Sau đó trở thành bạn, cho đến ngày Trung tá bị đổi vào Nam.
Trung tá đi rồi, Ba bị bắt lại, Mẹ mới chạy đến cầu cứu ông Võ Như
Nguyện, cũng như Trung tá, ông Nguyện là một người tốt, đạo đức. Ông
cũng ra tay giúp đỡ gia đình mình và cũng đã trở thành bạn. Bây giờ đây,
đang lúc loạn lạc, chiến tranh, ông ấy và gia đình chạy loạn ở đâu chưa
về, thì làm sao Mẹ tính đây. Mấy lần trước đây, Ba con bị tù là nghi
oan. Lần này thì không còn nghi oan gì nữa, tên Ba đã nằm trong cuốn Sổ
Vàng rõ ràng quá. Trời ơi là trời! Thật đúng là tình ngay, mà lý gian.”
Vừa
khóc, Mẹ vừa than. Nhìn Mẹ, chúng tôi cảm thấy bất lực, dư thừa. Mặt
dầu trong nhà bây giờ là có đông đủ các con, và thêm ba ông rể.
Một
tuần sau ngày Ba tôi bị bắt, cũng một chiếc xe Jeep xanh đó, đậu trước
mặt nhà, nhưng lần này thì họ không bắt ai cả, chỉ đến báo tin mà thôi,
người lính (công an, NDVN) đến gần Mẹ tôi và nói:
“Bà và người nhà lên đường rầy xe hỏa gần nhà Ga, để nhận xác chồng bà. Khi nhận ra, nhớ đem về chôn cất ngay lập tức.”
Nói
xong, ông lên xe phóng đi không cần biết phản ứng của Mẹ tôi như thế
nào? Khi nghe ông nói thế, ban đầu Mẹ tôi hơi hoảng hốt, nhưng đến khi
hết hoảng hốt, thì Mẹ tôi ngất đi. Vài ba phút sau, Mẹ tôi tỉnh dậy. Còn
chúng tôi thì như bầu trời tự đâu rơi xuống đổ lên đầu, không còn đủ
sức để khóc nữa.
Anh Trai khóc xong, lên tiếng:
“Mẹ
ơi! Mẹ đừng buồn, đừng khóc nữa, con tin rằng Ba không thể nào chết một
cách thê thảm như vậy. Vì suốt đời Ba chưa làm một việc gì quá hung dữ,
để bây giờ phải chết như vậy! Mẹ tin con đi.”
Em của Mẹ là dì Nguyệt, đứng gần đó và cũng tin như vậy nên phụ theo:
“Tôi cũng tin mhư Trai, và nghỉ rằng Trai nói có lý. Chị đừng khóc nữa, để từ từ xem coi.”
Mẹ tôi lên tiếng lớn:
“Từ
từ gì nữa? Xem coi gì nữa? Đừng tin gì nữa? Người ta đến gọi đi lấy xác
rõ ràng quá rồi1, rõ ràng như cái tên nằm trong quyển Sổ Vàng thuộc về
phía bên kia, màu vàng là màu của phản bội. Khi quyển sách vàng lọt vào tay bên này, thì nó trở thành màu đen là màu của chết chóc. Ba của các con chết rồi còn gì nữa mà tin với không tin. Không tin để đừng đi lấy xác về à!”
Nghe vậy dì Nguyệt mới nói:
“Người ta đâu có nói đi lấy xác đâu? Người ta nói đi nhìn xác
trước, nếu nhận ra thì đem về chôn. Nhưng không vì vậy mà không đi
được. Chị thì quá khổ, quá yếu không đi nhìn xác được, tôi tình nguyện
đi cho, Trai đi theo với tôi.”
Nghe đến tên anh Trai, sợ thanh niên dễ bị bắt, nên Mẹ tôi nói:
“Không, Trai không đi được, để Mẹ đi.”
Thấy Mẹ tôi quá tội, tôi tình nguyện:
“Con và dì Nguyệt là mau nhất.”
Dì
cầm tay tôi hai dì cháu vừa đi, vừa chạy lên đường rầy xe lửa, qua khỏi
nhà Ga, đi theo đường rầy về phía núi, từ đằng xa nhìn tới, chúng tôi
đã bắt đầu thấy những xác chết nằm la liệt
hai bên đường rầy. Sự sợ sệt từ đâu bắt đầu chiếm lấy và bao phủ lên
người tôi, tôi cầm chặt tay dì như có ý định kéo lui. Dì lên tiếng như
để trấn an:
“Họ bị bắn đêm hôm qua, bây giờ họ chết keo rồi, không làm gì tụi mình được đâu. Vả lại mình phải đến tìm Ba con chớ.”
Tôi theo dì, đến gần nhìn từng xác chết, nhìn họ tôi thấy thương họ vô cùng, tôi không biết họ có tội không? Cũng như Ba tôi, nhưng tại sao? Nhìn vào họ là tôi muốn ói ra. Khó mà nhận ra xác lắm, lý do đầu tiên là họ bị giam đói trước khi bắn, lý do thứ nhì, khi bắn thì người ta bắn ngay vào mặt. Trước sự kinh hoàng như vậy mà dì tôi còn bình tĩnh để nói;
“Con
nhìn vào chân, vào đầu trọc để nhận ra Ba Con, đừng có nhìn vào mặt,
nhìn hết số người này vào mặt, dì nghĩ là mình không đủ can đảm để tiếp
tục đâu.”
Mới
đâu nghe dì nói thế tôi tưởng dì nói có lý, nhưng khi nhìn vào đầu
người ta, làm sao tránh được nhìn cái mặt. Nhìn đã gần hết số người rồi,
mà vẫn chưa thấy Ba tôi, tự nhiên tôi hết sợ, và tự đâu niềm hy vong
dâng lên. Dì tôi lên tiếng:
“Dì biết rõ lắm, dì tin vào lời Trai vì thấy nó nói có lý. Thôi đi về con hè! Hai mươi cái xác không có cái nào đi theo mình cả, cũng chẳng xác nào còn đủ sức để đưa tay ra vẫy chào.”
Chúng tôi giã từ xác chết, trên đường về nhà thấy lòng thanh thả với niềm hy vọng.
Về
đến nhà thấy mặt chúng tôi như là đi chợ Tết về, Mẹ tôi nhìn tôi như có
ý cho chúng tôi biết là bà đã chờ đến một thế kỷ dài. Dì lên tiếng:
“Không có, không thấy, và không tin được là anh phải chết như vậy.”
Tôi tiếp lời dì:
“Ba chưa chết đâu Mẹ ạ! Con đói bụng quá, đi kiếm cái gì ăn đã.”
Vừa nói tôi vừa chạy vao nhà bếp, chị Nhung, Huyền, Anh, Lan Anh, Tiến chạy theo, rồi cả bọn đua nhau lên tiếng:
“Thấy gì? Dễ sợ không? Kể cho tụi này nghe với.”
Đang
đi tới phía bếp, tôi bỗng quay đầu hẳn lại phía họ và đột nhiên lên
tiếng ồ ồ lớn, rồi vồ vào họ như xác chết đứng dậy để chụp lấy, cả bọn
hét lên đâm đầu chạy.
Kiếm
được thức ăn, tôi đem ra bàn ngồi ăn, mới vừa bỏ thức ăn vào miệng,
hình ảnh mấy xác chết hiện lên xin ăn vì đói quá. Tôi không nuốt xuống
được, đem thức ăn vào lại bếp.
Hai
ngày sau đi tìm Ba tôi, Mẹ tôi ra Lao Thừa phủ. Đi một vòng ngoài thấy
nhà tù vắng tanh, đến cổng dừng ngoài chờ. Không dám hỏi han, không dám
khơi dậy, vì linh tính cho Mẹ tôi biết có một sự nhầm lẫn, thiếu sót gì
đây trong việc Ba tôi còn sống. Đến gần chiều tối, thì trong cổng có một
người gác cổng già đang lụm khụm mở cổng đi ra.. Mẹ tôi chờ một phút
sau mới dám chạy theo và hỏi”
“Dạ thưa ông! Ông làm việc trong đó?”
Ông ta chậm chạp trả lời
“Tôi gác ở trong bây giờ hết phiên, tôi đi về.”
Mẹ tôi hỏi thêm:
“Tôi có người chồng tên Nguyễn Đăng Hiếu đang bị tù bên trong ấy, ông có biết có ai tên đó không?”
Nhìn chăm Mẹ tôi một hồi, ông mới lên tiếng:
“Trời ơi! Bà là vợ của cái ông đầu trọc, ốm nhom đó phải không? Trời ơi! Ông ấy thật là may, trong cái đêm người ta đem nhóm ông đi,
ông vì ốm, đau, ngồi trong góc, rồi chết luôn. Người ta đã không thấy,
và không biết nên bỏ quên ông luôn. Ngày sau tôi đến gác, dọn dẹp, tưởng
không có ai nữa, chết hết rồi,
thì bỗng nghe tiếng rên rĩ, tôi chạy vào té ra ông còn một mình ở đó,
còn sống. Thấy tội quá, tôi lặng lẽ đưa ông đến chỗ tù dành riêng cho
mấy người mới bị tình nghi đến chính trị mà thôi. Tội của họ chưa nặng
lắm. Thôi Bà về đi, để một vài ngày nữa, tình hình lắng dịu bớt, Bà tìm
cách chạy cho chồng Bà ra. Bây giờ vẫn đang còn lộn xộn lắm. Họ đang giành giựt quyền hành, đang lợi dụng tình hình để thanh toán lẫn nhau.”
Mẹ tôi cám ơn ông, biếu ông một số tiền, rồi ra về.
Đúng
một tuần sau, Mẹ tôi tìm đến ông Võ Như Nguyện, như một ân nhân, như
một người bạn chân tình. Ông giúp Mẹ tôi thêm một lần nữa. Mặc dù lúc đó
ông là Viện trưởng Viện Hán học.
Ba tôi về đến nhà, như người chết, sống lại…..
Tám
mươi phần trăm nhà cửa, chùa chiền, lâu đài, chợ búa bị điêu tàn. Người
chết cho hai bên cũng nhiều hơn các thành phố khác, và các trận giao
tranh trước đây…
Tiểu truyện 6: Hồi Ký: Thanh Sung “Không Biên Giới” (tr, 61 – tr, 73)
NDVN, ngày 11/12/07
Ghi chú:
Tiểu sử Nhà văn Nguyễn Thị Thanh Sung
Sinh ngày 12 tháng 8 năm 1949, tại An Cựu, Huế
Năm 18 tuổi xa gia đình vào học Sư phạm Qui Nhơn.
Dạy tiểu học tỉnh Quảng Tín.
Mùa Xuân 1973, gặp Bill Fleming* tại Huế.
Mùa Hè 1973, được phép cha mẹ làm dâu nhà Fleming.
Mùa Xuân 1974, theo Bill về quê chồng ở Mỹ.
Mùa Xuân 1975, theo chồng và con trai đầu lòng đi nhiều nơi trên thế giới.
[Bill làm việc trong bộ Ngọại giao, đọc “Cuộc Tháo Chạy Tán Loạn”, NDVN]
Mùa Hè 1991, cùng chồng và ba con Matthew, Mark, và Sarah về lai Hoa Kỳ
Bill vẫn tiếp tục phục vụ trong Bộ Ngoại Giao
Hiện sống cùng gia đình tại Potomac, Maryland