NDVN: Nhân Kỷ niệm 40 năm Tội Ác Mỹ Ngụy: Mậu Thân và Hậu Mậu Thân Huế 68. Chúng tôi cống hiến bạn đọc chứng liệu Huế Mậu Thân 68, trích từ tiểu truyện 6 của HỒI KÝ: THANH SUNG “KHÔNG BIÊN GIỚI”,
tác giả Thanh Sung, nhà xuất bản Thanh Văn, Văn Nghệ phát hành, năm
1996, do một người bạn già ở Mỹ gửi tặng bản photo copy quyển hồi ký,
vào tháng 2, năm 2005.
Quyển Hồi
Ký này, được ông Nguyễn Văn Khanh (đài Á Châu Tự Do, RFA?), nhà văn Bùi
Bích Hà, tiến sĩ (?) Lê Xuân Khoa và Nguyễn Đình Vĩnh đọc bản thảo, đưa
và giới thiệu nhà văn Doãn Quốc Sĩ và nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đọc
qua, duyệt, sữa và hiệu đính.
Nếu có chữ nào nặng nghĩa hơn hai chữ “cám ơn”
thì tôi xin dâng trọn về nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng. Vì nhờ anh, quyển
sách này của tôi mới được thành hình, mới được ra mắt bạn đọc…
Nguyễn Thị Thanh Sung, có lúc người con gái ấy nhiều khi còn được gọi là Me Mỹ
(tr, 11) nữa chứ! Vì người yêu và là chồng cô Sung, là cố vấn Bill
Fleming (phân cục trưởng CIA? NDVN) tại tòa lãnh sự Huế….và cô đã bị chà
đạp, đã bị sĩ nhục một cách trắng trợn…từ một anh thanh niên nói lớn: “Nhìn kìa! Con nhỏ không giống gì là gái điếm, thế mà lại đi làm điếm mới buồn chứ!”, (tr, 221)…một bà Huế với giọng Huế bà ta la lớn: “Nhìn kìa! Học sinh Đồng Khánh mà đi làm đĩ cho Mỹ” và bà bán nước với gịong Quảng: “Hèn gì bảo đừng có chiến tranh sao được”
(tr, 222) (Nhưng nay, nhà nước Việt Nam, mở cửa, kinh tế thị trường, tự
do quá độ…những cô gái Việt và gia đình không còn cảm nhận sĩ nhục, mà
trái lại hãnh diện trân tráo và ngu xuẩn được cặp tay những thằng dị tộc
và nhất là Bạch Quỷ Mỹ, Pháp …. NDVN)…
Bill đã vận đông ông trưởng phòng CIA can thiệp với ông
(Liên Thành, NDVN) Trưởng ty Cảnh sát Huế, thả ngay tức khắc cô em Lan
Anh, bị cảnh sát bắt, vì Lan Anh giao tiếp với trưởng phái đoàn Hung Gia
Lợi, năm 1973, chẳng qua CIA và Ty Cảnh Sát Huế, dàn dựng và khủng bố
gia đình cô Sung? (NDVN)….Giống hệt “hậu Mậu Thân 68”như những lần trước
đây, khi họ đến còng tay ông Nguyễn Đăng Hiếu (Ba cô Sung) đem vào tù
(tr, 243) để hy vọng Lan Anh hợp tác làm gián điệp cho CIA, như sau:…
”Cô Lan Anh đâu? Cô Lan Anh đâu? Chúng tôi có lệnh đến bắt cô ấy vào tù,”
Ba tôi hoảng hốt:
“Các
ông lầm rồi? Tôi mới chính là người các ông bắt, chứ con gái tôi còn
nhỏ, đâu làm tội tình gì mà quý ông đến bắt nó? Bắt con tôi về tội tình
gì mới được chứ?”
Vừa nói Ba tôi vừa đưa hai tay ra trước mặt họ. Một ông gạt hai tay Ba tôi ra một bên và lên tiếng hùng hổ:
“Chúng tôi có lệnh đến bắt cô Lan Anh, chúng tôi tuân lệnh, chỉ có thế thôi. Ông, bà không nên cãi vã vô ích. Cô ấy đâu?”….
Lan Anh lên tiếng như một Super Lan Anh ngay:
“Tôi đồng ý theo các ông, nhưng các ông phải cho tôi biết lý do?”
Ông lính có vẻ hiền hơn trả lời:
“Khi cấp trên ra lệnh, họ thường không nói lý do. Cô sẽ biết khi nào cô được thẩm vấn”
Không còn cách nào hơn. Mẹ tôi năn nỉ:
“Xin hai ông đừng còng tay con gái tôi. Nó còn nhỏ quá. Nó ngây thơ vô tội mà.”
Nghe vậy hai ông ấy cầm tay Lan Anh dẫn lên xe Jeep (màu xanh)…..
Mẹ tôi nhắc lai:
“ Mẹ nghe nói hai chữ thẩm vấn mà Mẹ sợ cho Lan Anh quá! Còn gì là đời con gái? Trời ơi! là trời”
Bỗng như Mẹ tôi làm như chụp được một phép nhiệm mầu, Mẹ tôi nói vội:
“Sung! Sung! Con
chạy ra sở Bill, xin gặp Bill gấp. Và nói với Bill về sự thể xẩy ra.
Xong nói với Bill là Mẹ muốn Lan Anh phải được thả ra nội trong ngày hôm
nay. Vì để đến ngày mai thì Lan Anh sẽ không còn con gái nữa. Tụi nó
mọi rợ lắm. Mẹ biết quá rõ.” …(tr, 243, tr 244)….
Ở đó Bill gặp được ông (Liên Thành,NDVN) Cảnh sát trưởng….., ông ta sẽ ra lệnh thả Lan Anh nội trong hôm nay… (tr, 246)…
Nghĩ
đến Bill, gia đình tôi thầm cám ơn Bill đã giúp gia đình tôi…Ba tôi
không còn dấu diếm gì tình thương ông đang trút hết lên đầu của Bill…(tr, 248).
Mà trước đây ông Nguyễn Đăng Hiếu, cho gọi hết mọi người lại….với giọng buồn, nước mắt lưng tròng ông nói:
“Con
ạ! Không được đâu con ạ!...Ba nhục nhã lắm con ạ…để đi gặp bà con lối
xóm, bạn bè thân thuộc…Con có biết không? Những ngày chính phủ bỏ tù Ba,
họ làm Ba hận thù họ vô cùng…Ba không có đảng phái, không tham gia
chính trị, không có súng ống v.v…(tr, 207).
….Con lại đi yêu đến ngay cái người thả bom trên đầu con? Như thế chính
con đã phản bội lấy con rồi. Chứ đừng nói gì đến gia đình, quê hương,
bạn bè, và nhất là học trò con…. Con
có thấy không? Biết bao nhiêu cô gái bán Bar? Bao nhiêu cô gái làm
điếm? Vì miếng ăn, đã phục vụ cho Mỹ, lấy Mỹ….Còn con là con nhà dư ăn,
dư mặc. Con là một cô giáo, thì sao con phải đi làm những điều như mấy
cô gái kia…Bill đến đây để tham dự cuộc chiến này, nhưng dưới hình khác
(xâm lược, NDVN) thế thôi. Còn cuộc chiến này? Là chiến tranh, không nằm
dưới hình thức nào khác ngoài sự chém giết, chết chóc” (tr, 208) …
Sau này, Bill cho biết:
Bill nói: (phân cục trưởng CIA?, cố vấn, NDVN)
“Em
có biết không? Chỉ có hai ngày sau ngày Lan Anh bị bắt. Nhân viên CIA,
người mà anh đã đến gặp để khiếu nại về chuyện Lan Anh bị tù đấy? Chính
ông ta đã gọi anh và đòi gặp anh để nói chuyện về vấn đề ông ta muốn Lan Anh tiếp tục giao thiệp với người Hung Gia Lợi ấy để lấy tin tức rồi tường thuật cho họ….”
Tôi hỏi:
“Thế thì không khác gì họ muốn Lan Anh làm gián điệp cho CIA rồi? Em có thể nói chuyện này riêng cho Lan Anh nghe được không?” (tr, 302)…
Và tại Sở thú Sàigon….
“Bill ơi! Con cọp này do ông Bunker tặng cho Chính phủ Việt Nam đó….để cho họ thả về cắn Ba em à? Anh có biết Chính phủ miền Nam
vi phạm trắng trợn nhân quyền của Ba em như thế nào không? Họ đã xé nát
từng mãnh tâm hồn của Mẹ em như thế nào không? Và họ đã giết chết tuổi
thơ của tụi em như thế nào
không? Anh có thể tưởng tượng được mỗi lần chúng em đánh lộn nhau, gây
bậy nhau rồi khóc la ồn nhà. Để cho tụi em đừng đánh nhau, đừng khóc la, chị Diệu Lê dọa tụi em như vậy há (ấn tượng thảm họa hậu Mậu Thân 68): Nếu lúc đó mà Ba em đang có mặt tại nhà, thì chị nói: “Đừng đánh nhau nữa, đừng khóc nữa, không thì xe Jeep xanh đến còng tay Ba ngay bây giờ” Còn nếu Ba em đang ở tù, thì chị ấy nói: “Đừng đánh nhau nữa, đừng khóc la nữa, không thôi thì lính của Hitler còng tay tụi bây đi lò gas ngay lập tức”. Mỗi lần nghe như vậy, cho dù có đau đớn, oan ức đến nhường nào, tụi em cũng tức tưởi kín miệng ngay. Bây giờ mỗi lần nghỉ đến ngày đó, em vẫn còn rùng mình” (tr, 280 - 281)….
Qua
một số trích đoạn ở trên, của quyển sách Hồi Ký này, có tất cả 26 tiểu
truyện hồi ký, đã để lại cho thế hệ sau này, biến cố lịch sử thảm họa
chiến tranh xâm lược Mỹ và Ngụy quyền VNCH, những sự tàn ác, tàn bạo ghê
tởm của Mỹ - Ngụy: Mậu Thân và Hậu Mậu Thân Huế 68.
Được nhà văn Nguyễn Thị Thanh Sung, viết ra ở tiểu truyện 6 và có viết
thêm một vài sự kiện bạo tàn Mỹ - Ngụy, trong một số tiểu truyện 16, 19,
23…của quyển HỒI KÝ: THANH SUNG: “KHÔNG BIÊN GIỚI”.
Nhân Dân Việt Nam, trích tiểu truyện 6 của quyển Hồi Ký này, nhân Kỷ Niệm 40 năm Chuyện Hoang Đường Vụ Thảm Sát Ở Huế 68 “The Myth Of The Hue Massacre 68”, cống hiến bạn đọc:
Tội Ác Mỹ-Ngụy: Mậu Thân và Hậu Mậu Thân Huế 68
NGUYỄN THỊ THANH SUNG
Về
đến Huế, nhìn lại gia đình, nhìn lại mái nhà xưa, con đường cũ, lòng
tôi hớn hở, hớn hở thật vì đây là lần đầu tiên trong đời tôi xa nhà. Tôi
không thấy anh Mua, tôi tưởng là anh Mua không còn muốn ở nhà tôi nữa?
Nhưng em tôi nói là anh Mua về nhà anh ăn Tết.
Những
ngày đầu Xuân, trời lành lạnh, hoa nở khắp nơi, hoa được bày bán khắp
mọi nẻo đường. Cảnh vật như được phủ lên một lớp sơn của bầu trời xanh
thẳm, lòng người rộn ràng theo với nhạc Xuân, bạn bè gặp nhau chào hỏi
ríu rít. Người xa trở về đem lại niềm vui gói trọn trong lòng, trong
những món quà trên tay, trong túi, và trong nụ cười luôn nở trên môi.
Không
gì đẹp bằng, rộn ràng bằng chúa Xuân. Để bày tỏ với chúa Xuân, để tranh
đua với chúa Xuân, trong những ngày đầu Xuân là tuổi Xuân, tuổi Xuân
trong lòng những người trẻ vì Xuân, cho Xuân.
Chúng
tôi là những mùa Xuân của chúa Xuân, bất kể đến chiến tranh, để sống
cho trọn những ngày Xuân. Chúng tôi dạo phố mùa Xuân, may áo quần mới,
mua hoa quả tươi,và mua những gì cần thiết để chào đón đêm Giao thừa, kể
cả những phong pháo màu đỏ như máu, máu của chiến tranh.
Đêm
Giao thừa, chúng tôi giúp Mẹ nấu cúng, bàn thờ hương khói nghi ngút.
Trước bàn thờ, Ba, Mẹ tôi quì xuống, miệng cầu lẩm bẩm những gì đó. Một
hồi lâu ông bà đứng dậy nhường chỗ cho chúng tôi. Chúng tôi chỉ còn lại
sáu đứa, mấy chị lớn đã đi lấy chồng, đón Xuân ở nhà nhà chồng, anh Trai
có về nhưng lại đi chơi nhà bạn. Những người làm được nghỉ. Sáu đứa
chúng tôi theo thứ tự từ lớn đến nhỏ.
Chị
Nhung, tôi, Huyền, Anh, Lan Anh đến Tiến quì trước bàn thờ tổ tiên,
chúng tôi cầu xin bất cứ một cái gì theo ý muốn. Ban phước lành hay
không là quyền của tổ tiên. Còn xin thì chúng tôi mặc sức mà xin. Xin
nhiều quá rồi, hết chuyện để xin, nhưng không đứa nào trong chúng tôi
dám đứng dậy trước. Thấy vậy Mẹ tôi ra lệnh cho đứng dậy, và cho phép
đem thức ăn vào phòng ăn, chúng tôi được lệnh ăn, ăn bất cứ cái gì đã
cúng xong. Còn cái gì chưa cúng thì khôngđược sờ tay đến hỗn với tổ tiên
là không được với Mẹ tôi. Người luôn luôn kính trọng người chết, hơn là
người sống. Nhưng chúng tôi quá no rồi, xin Mẹ đi đốt pháo, khi đó
tiếng pháo đêm Giao thừa đã bắt đầu rộn rã vang dội khắp mọi nơi. Ba tôi
không cho chúng tôi đốt pháo, vì nghỉ chúng tôi con gái lớn rồi, còn
con trai, thì lại còn nhỏ. Đi ngủ là giải pháp thích hợp nhất, giúp Mẹ
dọn dẹp xong là cả nhà đi ngủ, nhưng không ngủ làm sao ngủ được, tiếng
pháo mỗi ngày (lúc) mỗi lớn, rồi lại càng dồn dập hơn, dồn dập như tiếng
súng, thỉnh thoảng tiếng pháo trống phụ thêm vào làm như tiếng bom đạn.
Càng về khuya, thì cả hai thứ tiếng đua nhau nổ, nổ một hồi thì tiếng
pháo không đủ sức mạnh để đua tiếng súng, tiếng pháo trống nhường lại
cho tiếng bom, tiếng lựu đạn.
Không
còn nghi ngờ gì nữa cả. Chiến tranh đang đánh đuổi chúa Xuân ra khỏi
thành phố, ra khỏi lòng người. Trong chốc lát, trong đêm tối, giấc mơ
Xuân từ giả tuổi Xuân, thay thế cho nhạc Xuân là lời nguyện cầu. Lời cầu
nguyện như không bao giờ chấm dứt, cầu nguyện để đừng bị chết oan trong
đêm Xuân, đang độ Xuân thì.
Mặt
trời mọc, ánh sáng mặt trời mạnh đủ để tạm dẹp yên tiếng súng trong
phút chốc. Lợi dụng ánh sáng mặt trời, quân đội đồng minh Hoa Kỳ, và
lính Cộng Hòa xuất hiện trên con đường Duy Tân, từng nhà một, họ gõ cửa,
cửa mở, họ ra lệnh cho mọi người phải từ bỏ thanh phố ngay lập tức, đi
về vùng quê để tránh bom đạn. Thế là như bão táp, đoàn người lần lượt bỏ
nhà ra đi, đi đâu, không biết đi đâu? Cứ cấm đầu đi như cái máy, đi như
như người không có hồn, đi theo làn sóng người.
Riêng
gia đình tôi, vì cây muối lớn ở trước nhà bị bom nổ trúng, nên gốc cây
bật ra, thân cây, và cành cây bổ xuống, chấn ngang cửa, cửa không mở
được. Quân đội Mỹ để cho gia đình tôi chết cô đơn, chết một mình trong
Thành phố chết. Nhưng may thay, Ba tôi trèo lên cao, nhìn qua khe cửa
thấy được những gì đang xẩy ra bên ngoài, Ba tôi ra lệnh Mẹ tôi, và
chúng tôi gói gắm được bất cứ cái gì đem theo được là đem. Ba tôi lấy
chìa khóa mở cánh cửa sau và
chúng tôi ra đi, mặc dù có hơi muộn một tí, nhưng không sao. Làm cái
đuôi lẻ loi, còn hơn chết cô đơn một mình.
Ba,
Mẹ tôi đi trước, đàn con sáu đứa lủi thủi theo sau, đi mà không biết đi
đâu. Đến đầu cầu An Cựu, giữa ngã tư đường, sự lựa chọn thiên đàng nơi
địa ngục trong lúc chiến tranh thật là khó. Ba tôi nhìn qua, nhìn lại,
nhìn trước, nhìn sau, nhìn đến Mẹ tôi, rồi đến chúng tôi, không tìm được
câu trả lời, cuối cùng Ba tôi nói:
“
Đằng trước mặt là cầu An Cựu, không qua cầu được, xác chết đang nằm
trên cầu. Đằng sau lưng, không đi lui được, thành phố đằng sau đang bốc
cháy. Không đi về phía tay mặt được, vì đó là con đường đi đến nhà thờ,
chúng ta không phải là tín đồ Công giáo, Thiên Chúa sẽ không nhận chúng ta.
Con đường còn lại duy nhất là con đường bất an nhất, vì ngay ngày
thường, súng đạn còn hay nổ, nói gì đế lúc bất thường. Nhưng dừng chân ở
đây cũng không được! Đây là địa ngục rõ ràng nhất, người chết đang nằm ỏ
đó kìa.”
Sau
một hồi do dự, Ba tôi ra lệnh, đi con đường bất an, vì Ba tôi nghỉ rằng
ngày thường nó bất an, nhưng ngày bất an thì biết đâu nó lại bình
thường?
Mẹ tôi dẫn chúng tôi theo Ba, vừa đi vừa nói:
“Con
người sống chết có số, có mạng cả rồi. Có đi đến chỗ chết cũng vì cái
số, thôi thì đi mau lên, đi cho đến khi không còn đi được nữa thì ngừng.
Ngừng để sống, hay ngừng để chết thì có đi mới biết được.”
Con
đường chúng tôi đi qua là con đường Phát Lát, khi đi ngang qua ngôi
trường Tiểu học thời thơ ấu, ngôi trường xưa nhìn chúng tôi, chúng tôi
nhìn lại, lòng nghẹ ngào, tê tái không nói được một câu. Trường thanh
vắng quá, không vào thăm trường được, thế thì đoàn người lẻ loi của gia
đình tôi tiếp tục trên con đường buồn tẻ.
Khi
đi ngang qua một ngôi nhà quen thuộc, Mẹ tôi biết được là nhà của một
người bạn, Mẹ tôi dừng bước, nhìn vào trong nhà, biết được chủ nhà không
chạy đi đâu cả. Mẹ tôi dẫn Ba tôi, và chúng tôi vào, đến trước cổng nhà
thì ông chủ nhà ra tiếp. Sau một hồi bắt tay, mặt mừng, họ nhận cho
chúng tôi tạm trú tại đó, chờ ngày bình yên.
Ở đó có một số người đang trị nạn. Họ là bà con của Bà chủ. Ông chủ chỉ vào một bên góc và nói:
“Trong
góc là chỗ tránh dễ tránh bom đạn nhất, anh chị cứ tự nhiên, hay muốn ở
góc nào thì tự ý, chúng tôi đã có cái hầm ở đằng sau lưng nhà, rất tiếc
là hầm không rộng đủ cho gia đình anh chị.”
Sau
khi cám ơn họ xong, Mẹ tôi lấy cái góc nhà, nơi có kê một cái sập gỗ
lớn, để tất cả đồ đạc chúng tôi mang theo được trên sập gỗ, Ba tôi kê
sập cao hơn để làm cái hầm tâm lý. Trải một chiếc chiếu lớn ở dưới sập
gỗ là chúng tôi cả sáu đứa chun vào ngồi bên nhau, nhìn lên trên đầu
thấy có tấm gỗ là chúng tôi yên tâm. Đêm đến tiếng súng lại vang lên,
tiếng bom đạn phụ họa vào, lời nguyện cầu của chúng tôi vang lên trong
đêm thâu như tiếng nhạc buồn.
Cái
đêm kinh hoàng nhất là cái đêm có một trái bom bay xuyên qua mái nhà
chúng tôi đang tạm trú, làm thủng mái nhà, rồi đâm đầu xuống vạt đất
trống bên hông nhà. Khi nghe tiếng nổ lớn, gần, rồi tiếng bom đâm
thủng mái nhà, chúng tôi kêu gào thật lớn, ôm nhau thật chặt, xong nhắm
mắt lại, nín thở để chờ tiếng nổ, và chờ sự chết. Chờ một giây, hai
giây, mà giống như chờ cả thế kỷ, chờ gần tắt thở, tưởng là chết vì tắt
thở, nhưng không nghe tiếng nổ, không thấy sự chết, chúng tôi thở ra
thật mạnh, để biết mình còn sống.
Mạng
sống, và sự sống của chúng tôi như chuông treo chỉ mành, nhưng rồi thời
gian vẫn trôi qua, những cái chuông tiếp tục đeo theo chỉ mành.
Tối
hôm đó, có ba người Việt Cộng, tay cầm súng AK đến đòi gặp tất cả mọi
người trong nhà, sau một hồi tra hỏi, ba người Việt Cộng đưa ra một cuốn
sổ nhỏ, họ gọi là Sổ Vàng, yêu cầu Ba tôi phải đóng góp, phải ủng hộ Cách Mạng.
Ba
tôi sợ đưa hết tiền, gạo mang theo thì chúng tôi sẽ chết đói, Ba tôi
lưỡng lự, thấy vậy một ông trong nhóm đưa khẩu súng lên làm như ra dấu:
Tiền hay là súng?
Mẹ tôi biết ý, nói:
“Bom chưa giết được người, đừng có lấy súng dọa, bỏ súng xuống, tiền đây”
Mẹ tôi đưa hết số tiền đem theo cho họ, rồi tiếp tục nói:
“Không
chết vì bom, ai lai đi chết vì tiền, còn lương thực thì mấy hôm nay ra
vườn đào củ chuối, các ông ra chỗ đó có quả bom mà đào”
Họ không cần nghe Mẹ tôi nói gì hết. Họ bận đếm tiền, đếm xong họ hỏi tên Ba tôi, rồi lật sổ vàng ra ghi vào.
Đêm
hôm đó Ba tôi không hề nhắm mắt được, quyển sổ vàng ám ảnh Ba tôi. Màu
vàng là màu của phản bội. Ngày xưa đời Vua chúa, họ lấy màu vàng cho
Hoàng tộc, ai mặc áo quần màu vang, dùng đến cái gì có màu vàng là họ đem ra chém. Màu của độc tài.
|
|||||