Thứ Tư, 12 tháng 5, 2021
Chủ Nhật, 9 tháng 5, 2021
TK( Phần 9). LI KÌ CUỘC ĐỐI ĐẦU GIỮA ĐỘI ĐẶC NHIỆM VIỆT NAM VÀ CIA MẼO(349)
TK.( Phần 8). LI KÌ CUỘC ĐỐI ĐẦU GIỮA ĐỘI ĐẶC NHIỆM VIỆT NAM VÀ CIA MẼO(348)
Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2021
Những đòn nghi binh chết người
Tại phiên họp ngày 18-2-1975, chính Tổng Thống Thiệu tái xác định khả năng địch có thể tấn công Pleiku ở Vùng II. Ðiều này càng làm cho Tướng Phú thêm tin tưởng là ông đã nghĩ đúng về mục tiêu tấn công sắp tới của miền Bắc.
Ðầu tháng 2-1975, một đơn vị của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh QLVNCH bắt được 1 binh sĩ miền Bắc tại một địa điểm ở phía Tây tỉnh Bình Ðịnh, gần đèo An Khê. Qua thẩm vấn được biết binh sĩ này đã tháp tùng viên tư lệnh của Sư đoàn 3 miền Bắc đi thám sát đèo An Khê. Trong mình binh sĩ này có giữ một bản đồ ghi rõ các địa điểm mà Sư đoàn 3 dự định sẽ đóng chốt để cắt đứt Quốc Lộ 19 là con đường huyết mạch nối liền Qui Nhơn (tỉnh lỵ của tỉnh Bình Ðịnh) với Pleiku.
Cùng lúc đó, phòng 2 của Quân đoàn II cũng nắm được tin Sư đoàn 968 của miền Bắc đang đóng tại Lào đã di chuyển sang lãnh thổ VNCH. Tướng Phú tin rằng những người Cộng sản đang chuẩn bị tấn công Pleiku, và ông đã ra lệnh cho Trung Ðoàn 47 của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh đến trấn giữ đèo An Khê.

Đèo An Khê trên Quốc lộ 19 nối Quy Nhơn với Pleiku
Lý do Trung đoàn 47 được giao cho nhiệm vụ này vì sĩ quan Trung đoàn trưởng, Trung tá Lê Cầu, là người rất quen thuộc địa hình vùng đèo An Khê. Ông đã từng chiến đấu tại đây trong trận Tổng tấn công mùa hè 1972.
Trong suốt tháng 2-1975, các đơn vị miền Bắc hiện diện trong vùng liên tục pháo kích Kontum và Pleiku cũng như đánh phá các chốt bảo vệ đèo An Khê trên Quốc Lộ 19 của Trung Ðoàn 47.
Các đơn vị này do 2 Sư Ðoàn F10 và 320 để lại nhằm thực hiện kế hoạch nghi binh, còn toàn bộ 2 sư đoàn này đã di chuyển xuống phía Nam để chuẩn bị tấn công Buôn Ma Thuột. Tất cả những hoạt động này của địch làm cho Tướng Phú càng thêm tin là Pleiku sẽ là mục tiêu chính của cuộc tấn công sắp tới của miền Bắc.
Giữa tháng 2-1975, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Nguyễn Tú của báo Chính Luận, Tướng Phú đã nói ra tất cả những gì ông suy nghĩ và phân tích về cuộc tấn công sắp tới của địch. Ṓng tin rằng địch sẽ sử dụng một lực lượng cấp sư đoàn để cắt đứt Quốc lộ 19 trước khi tấn công Pleiku.

Lính VNCH được điều động phòng thủ Quốc lộ 19 nối Quy Nhơn và Pleiku
Ngày 18-2-1975, Tướng Phú về Sài Gòn dự phiên họp với các tướng tư lệnh quân đoàn do Tổng Thống Thiệu triệu tập để duyệt lại kế hoạch phòng thủ cho năm 1975. Tại phiên họp này, chính Tổng Thống Thiệu tái xác định khả năng miền Bắc có thể tấn công Pleiku ở Vùng II. Ðiều này càng làm cho Tướng Phú thêm tin tưởng là ông đã nghĩ đúng về mục tiêu tấn công sắp tới của đối phương.
Do đó, ông đã một lần nữa bác bỏ nhận định của Ðại tá Tiếu về khả năng địch sẽ tấn công Buôn Ma Thuột tại phiên họp của ban tham mưu Quân Ðoàn II ở Pleiku vào ngày hôm sau, 19-2-1975.
Ðầu tháng 3-1975, trước một số tin tình báo về các hoạt động của đối phương xung quanh Buôn Ma Thuột làm Tướng Phú có phần nao núng. Ngày 4-3-1975, ông ra lệnh cho Trung đoàn 45 của Sư đoàn 23 Bộ binh di chuyển về Buôn Ma Thuột. Việc di chuyển này sắp bắt đầu thì vào lúc 2 giờ trưa cùng ngày, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II tại Pleiku bị địch quân pháo kích, Tướng Phú ra lệnh hủy bỏ việc chuyển quân này.

Các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam giải phóng Chi khu Đức Lập trong Chiến dịch Tây Nguyên
Cùng ngày đối phương tấn công dữ dội vào các đơn vị của Trung đoàn 47 và cắt đứt Quốc lộ 19 tại hai nơi. Tướng Phú tin chắc là miền Bắc đã bắt đầu chiến dịch tấn công vào Pleiku.
Việc chuyển quân của Sư đoàn 316 từ Bắc vào Nam cũng như của Sư đoàn 968 từ Lào sang Việt Nam, mặc dù được ngụy trang rất kỹ như đã trình bày bên trên, sau cùng vẫn bị SIGINT (tình báo tín hiệu) của QLVNCH phát hiện.
Sau khi phân tích tín hiệu, và đánh giá, Phòng 7 BTTM QLVNCH nhận định quân đội VNDCCH sẽ tấn công Buôn Ma Thuột.

Bản đồ của Mỹ mô tả các mũi tấn công của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào Buôn Ma Thuột tháng 3/1975
Ngày 7-3-1975, 3 ngày trước khi trận Buôn Ma Thuột nổ ra, Chuẩn Tướng Phạm Hữu Nhơn, Trưởng phòng 7, BTTM QLVNCH, cùng với Tom Glenn là Trưởng đơn vị của Cơ quan An ninh quốc gia (National Security Agency – NSA) của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã bay lên Pleiku để đích thân báo cho Thiếu Tướng Phú về nhận định của Phòng 7 là đối phương sẽ tấn công Buôn Ma Thuột (cuộc họp này có mặt cả Ðại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 của Quân đoàn 2) nhưng Tướng Phú vẫn không tin.
Ngay cả vào lúc 10 giờ sáng ngày 9-3-1975, sau khi Thuần Mẫn, thuộc tỉnh Phú Bổn, đã mất, và Ðức Lập, thuộc tỉnh Quảng Ðức cũng đã bị chiếm, ông bay xuống Ban Mê Thuột để họp với các đơn vị trưởng tại đây để duyệt xét tình hình, Tướng Phú vẫn còn tiếp tục nghĩ và tin là tất cả chỉ là nghi binh. Ông vẫn chờ cuộc tấn công vào Pleiku, một cuộc tấn công chẳng bao giờ xảy ra.
Sáng sớm ngày hôm sau, 10-3-1975, trận tấn công vào Buôn Ma Thuột nổ ra và chỉ trong 2 ngày toàn bộ thị xã này đã lọt vào tay VNDCCH.

Ngày 11/3/1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam giải phóng Buôn Ma Thuột
QLVNCH thua trận Buôn Ma Thuột không phải vì tình báo yếu kém mà rõ ràng là do Tướng Phú, Tư lệnh Quân đoàn II bị định kiến quá nặng nề.
Việc phản công tái chiếm Buôn Ma Thuột đã không thể thực hiện được. Và đó là một trong những lý do đưa đến quyết định triệt thoái Quân đoàn II rất tai hại của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong phiên họp định mệnh ngày 14-3-1975 tại Cam Ranh.
Việt Nam Cộng hòa đã chủ quan ở Buôn Ma Thuột
Trước khi cuộc tấn công nổ ra, những hoạt động tình báo của hai bên đã diễn ra như thế nào và phía VNDCCH đã làm gì để chuẩn bị cho cuộc tấn công?
Việc VNDCCH quyết định tấn công Buôn Ma Thuột thay vì Pleiku một phần lớn là do họ đã nắm được tin tức về buổi họp của Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia của VNCH vào 2 ngày 9-10 tháng 12/1974. Toàn bộ kế hoạch phòng thủ cho năm 1975 của Ðại Tướng Cao Văn Viên trình bày tại buổi họp đã được một điệp viên thuộc loại “trường kỳ mai phục,” làm việc ngay trong văn phòng của Tướng Viên tại BTTM QLVNCH, báo cáo đầy đủ về Hà Nội.

Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH
Trong khi đó, nội bộ ban tham mưu của Quân Ðoàn II lại không đồng ý với nhau về mục tiêu tấn công của miền Bắc tại Vùng II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn II tin rằng họ sẽ tấn công Pleiku, trong khi đó thì Ðại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 (phụ trách về tình báo) của Quân Ðoàn II thì lại tin là miền Bắc sẽ tấn công Buôn Ma Thuột.
Việc Tướng Phú không tin vào nhận định của Ðại Tá Tiếu có thể do 3 lý do. Thứ nhất, Tướng Phú tin tưởng và dựa vào kế hoạch phòng thủ năm 1975 của BTTM như đã trình bày trên.
Thứ hai, sự tin tưởng này của Tướng Phú được tăng cường thêm sau buổi họp ngày 18-2-1975 tại Sài Gòn để duyệt lại kế hoạch phòng thủ 1975 này và chính Tổng Thống Thiệu lưu ý ông việc Cộng quân có thể sẽ đánh Pleiku. Chính vì vậy, trong buổi họp ngày hôm sau, 19-2-1975, tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn ở Pleiku, ông đã một lần nữa bác bỏ báo cáo của Ðại Tá Tiếu về khả năng tấn công Buôn Ma Thuột dựa trên những tin tình báo mới.
Thứ ba, khi nhận chức Tư Lệnh Quân Ðoàn II, Tướng Phú không chọn được những sĩ quan thân tín của mình mà phải chấp nhận những sĩ quan đang phục vụ trong bộ tham mưu của Quân Ðoàn (trong đó có Ðại Tá Tiếu).

Tướng Phạm Văn Phú
Về phía VNDCCH, dựa vào kế hoạch phòng thủ năm 1975 của VNCH mà họ đã nắm được cộng thêm việc bố trí lực lượng phòng thủ dày đặc của Quân Ðoàn II ở phía Bắc của Vùng II, họ thấy rõ là Tướng Phú tin rằng họ sẽ tấn công Pleiku. Do đó, họ cố gắng làm mọi động tác giả để đánh lừa Tướng Phú, làm cho ông tin rằng ông đã tính toán đúng là họ sẽ đánh Pleiku chứ không phải Buôn Ma Thuột.
Nhìn chung, những người Cộng sản đã lại áp dụng phương thức mà họ đã từng sử dụng trong lúc chuẩn bị trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân để đạt được mục tiêu này. Phương thức đó gồm 2 phần: 1) Bảo mật tối đa về mục tiêu thật của trận tấn công là Buôn Ma Thuột; và, 2) Thực hiện môt số động tác giả để đánh lừa đối phương khiến cho đối phương tin là mục tiêu thật của trận tấn công sẽ là Pleiku-Kontum.

Tóm tắt Chiến dịch Tây Nguyên
Về phương diện bảo mật, rút kinh nghiệm từ trận Mậu Thân, mục tiêu Buôn Ma Thuột của trận tấn công được giữ kín tối đa. Các tư lệnh tại mặt trận chỉ được biết vào cuối tháng 1-1975, và tư lệnh các đơn vị sẽ tham gia tấn công chỉ được thông báo từ đầu tháng 2-1975.
Hà Nội cũng quyết định giữ nguyên các đơn vị đang có mặt ở phía Bắc của Vùng II (Pleiku-Kontum) là các Sư Ðoàn 2, Sư Ðoàn 3, Sư Ðoàn F10 và 2 Trung Ðoàn độc lập 25 và 95A, và ra lệnh cho các đơn vị đó tăng cường các hoạt động đe dọa vùng này.
Trong khi đó, các đơn vị sẽ tham gia tấn công Buôn Ma Thuột đều là các đơn vị trừ bị đang đóng quân tại Lào hay tại Bắc Việt được bí mật di chuyển vào các vị trí chung quanh Buôn Ma Thuột để chuẩn bị tấn công.
Sư Ðoàn 316, đơn vị chủ lực của trận tấn công vào Buôn Ma Thuột, trước kia chỉ hoạt động tại Lào, sau đó được điều dộng trở về Miền Bắc, đã nhận được lệnh di chuyển vào Nam vào ngày 15-1-1975, nhưng để lại bộ phận truyền tin tại Miền Bắc để tiếp tục gửi đi các báo cáo nhằm đánh lừa các đơn vị SIGINT của QLVNCH.
Buôn Ma Thuột bất ngờ bị tấn công
Tình báo trong chiến tranh Việt Nam, như phía Mỹ đã từng tổng kết: Các bên đã thực hiện công việc với mức độ “tinh vi”. Qua thực tế, cả Mỹ và Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đều thừa nhận họ đã bị miền Bắc Việt Nam (VNDCCH) nhiều lần đánh bại trong cuộc chiến âm thầm nhưng không kém phần khốc liệt này. Tạp chí Khám phá tiếp tục gửi tới quý độc giả loạt bài của nhà nghiên cứu VNCH trước đây, ông Lâm Vĩnh Thế. Đây là tài liệu nghiên cứu được tác giả tổng hợp từ các nguồn tài liệu của CIA và hệ thống các cơ quan tình báo của VNCH trước đây. Kính mời quý độc giả cùng theo dõi.
Trận Buôn Ma Thuột diễn ra chỉ trong khoảng 1 tuần lễ ngắn ngủi (từ ngày 10-3 đến ngày 18-3-1975) nhưng có tầm vóc hết sức quan trọng trong cuộc chiến kéo dài gần 20 năm.
Bộ binh và xe tăng Mặt trận Tây Nguyên đột kích tấn công trụ sở Sư đoàn 23 VNCH
Trận đánh mở màn cho Chiến dịch Tây Nguyên của những người cộng sản, trực tiếp đưa đến quyết định tai hại của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệt thoái khỏi Vùng II và gián tiếp tạo ra sự sụp đổ của VNCH vào cuối tháng 4-1975.
Sau khi mất tỉnh Phước Long (vào đầu tháng 1-1975, mà chính quyền VNCH quyết định bỏ luôn, không tìm cách đánh chiếm lại như đối với tỉnh Quảng Trị trong mùa Hè 1972), các nhà lãnh đạo quân sự của VNCH đều nghĩ và tin rằng VNDCCH sẽ tấn công mạnh ở Vùng II, tại Cao Nguyên Trung Phần.
Thật ra, ngay từ trước khi xảy ra trận Phước Long, vào 2 ngày 9-10 tháng 12-1974, Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia đã nhóm họp tại Dinh Ðộc Lập dưới sự chủ tọa của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, để thảo luận về kế hoạch phòng thủ cho năm 1975 Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH đã tiên đoán là miền Bắc sẽ không tiến hành một cuộc tổng tấn công như họ đã làm trong mùa Hè năm 1972, mà chỉ thực hiện những cuộc tấn công có quy mô lớn, khởi sự tại Vùng II và thời điểm sẽ là trong tháng 3-1975.
Tại Vùng II, ông dự đoán là họ sẽ tập trung các cố gắng ở phía Bắc của vùng chiến thuật này, cụ thể là Kontum và phía Bắc của Bình Ðịnh.
Chính vì vậy, dự kiến VNDCCH sẽ cắt đứt các quốc lộ chính từ duyên hải lên cao nguyên, từ cuối tháng 1-1975, BTTM đã cho chuyển lên Pleiku và Kontum một số lượng rất lớn về lương thực và đạn dược đủ để cho lực lượng phòng thủ Pleiku và Kontum (ước lượng khoảng 20.000 quân) sử dụng trong 60 ngày mà không cần tiếp tế.
Bản đồ dưới đây cho thấy rõ sự tập trung phòng thủ dày đặc của QLVNCH ở phía Bắc của Vùng II (Pleiku và Kontum) vào đầu tháng 3-1975 như sau:

Bản đồ bố trí các lực lựợng phòng thủ tại Vùng II vào đầu tháng 3-1975
- 3 Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân (BÐQ) bảo vệ Kontum và 1 Liên Ðoàn BÐQ bảo vệ Quốc Lộ 14 (nối liền Kontum và Pleiku; chạy thẳng xuống phía Nam, đến Ban Mê Thuột)
- 2 Trung Ðoàn 44 và 45 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh bảo vệ Pleiku
- 4 Trung Ðoàn 40, 41, 42 và 47 của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh bảo vệ phía Bắc Bình Ðịnh và các đèo Mang Giang và An Khê trên Quốc Lộ 19 (nối liền Qui Nhơn – tỉnh lỵ của Bình Ðịnh – với Kontum).
Ðể bảo vệ Ban Mê Thuột chỉ có Liên Ðoàn 21 BÐQ đóng ở Buôn Hồ (một thị trấn nằm cách Ban Mê Thuột khoảng 40 km về hướng Ðông Bắc), các đơn vị cơ hữu của tỉnh Đắk Lắc, và Trung Ðoàn 53 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh.
Theo Ðại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Darlac, trên thực tế, Trung Ðoàn 53, đóng tại Phi trường Phụng Dực (cách Ban Mê Thuột khoảng 8 km về hướng Ðông), vào lúc đó chỉ gồm có bộ chỉ huy Trung Ðoàn và 1 Tiểu Ðoàn mà thôi.
Khi trận tấn công Ban Mê Thuột nổ ra vào ngày 10-3-1975, lực lượng hai bên được bố trí như trong bản đồ sau đây:

Bản đồ trận Ban Mê Thuột
Nhìn vào bản đồ bên trên, chúng ta thấy rõ quân đội VNDCCH đã tấn công vào Ban Mê Thuột từ 5 phía với các lực lượng như sau:
- Từ hướng Tây Bắc: với Trung Ðoàn 148, thuộc Sư Ðoàn 316
- Từ hướng Ðông Bắc: với Trung Ðoàn 95B, thuộc Sư Ðoàn 325
- Từ hướng Ðông Nam: với Trung Ðoàn 149, thuộc Sư Ðoàn 316
- Từ hướng Tây: với Tiểu Ðoàn 4, thuộc Trung Ðoàn 24, Sư Ðoàn F10
- Từ hướng Nam: với Trung Ðoàn 174, thuộc Sư Ðoàn 316
Như vậy, lực lượng chính tấn công Buôn Ma Thuột là Sư Ðoàn 316, với 3 Trung Ðoàn cơ hữu là 148, 149, và 174, tăng cường thêm với 1 trung đoàn của Sư Ðoàn 325 và 1 tiểu đoàn của Sư Ðoàn F10, và, dĩ nhiên, với các đơn vị pháo binh, chiến xa, và đặc công.
Sư Ðoàn 316 trước đây chỉ hoạt động tại Lào và từ năm 1974 đã được lệnh quay trở về Bắc Việt. Sư hiện diện của sư đoàn này tại Miền Nam sẽ là một bất ngờ cho giới tình báo VNCH.