Thứ Ba, 28 tháng 10, 2014

Phủ nhận hai cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân: HÀNH ĐỘNG CỦA NHỮNG KẺ HOANG TƯỞNG VÀ ÁC ĐỘC

Bài viết của John Lee VHN.net Đăng trên Tạp Chí Nhân Quyền Việt Nam 7-2014
 
Hình ảnhHình ảnh: Bà Mẹ Việt Nam anh hùng : "Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về..... Mình mẹ lặng im "
Chiến tranh! Khi nhắc đến hai từ đó người ta thường nhớ đến một quá khứ hào hùng và bi tráng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Cũng chính vì thế, nhiều người trên thế giới mỗi khi nói đến Việt Nam lại nghĩ ngay đến chiến tranh. Rất nhiều sách báo đã nói về một Việt Nam anh hùng với lòng cảm phục. Mấy nghìn năm lịch sử dựng nước cũng là từng ấy thời gian dân tộc Việt Nam phải chống giặc giữ nước. Một lịch sử quá đậm nét sử thi từ thời Hùng Vương đến một “Điện Biên chấn động địa cầu” và cuối cùng là một “Chiến dịch Hồ Chí Minh” giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Vậy thì làm sao không nhắc đến chiến tranh khi chính ở trong đó, dân tộc Việt Nam đã có nhiều bài học đau thương, mất mát vô bờ bến vùng lên từ đống tro tàn đổ nát, trưởng thành và vững vàng cho đến ngày nay! Phải thế chăng mà người Việt Nam sẽ còn nhắc mãi và không bao giờ quên niềm tự hào về những gì mà cả một dân tộc “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Ấy vậy mà thời gian gần đây, một số người ở trong nước lại tung ra các bài viết, những phát biểu đòi “xét lại lịch sử”. Những người này, vốn trước đây “từ nhân dân mà ra”, từng theo Đảng, theo bộ đội đánh đuổi thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ xâm lược nay lại tỏ ra “sám hối”, tiếc nuối vì đã “lỡ” một thời theo Đảng. Họ lớn tiếng đòi “xét lại vai trò lãnh đạo” của Đảng, vu cáo Đảng Cộng sản Việt Nam “đặt lợi ích Đảng lên trên lợi ích dân tộc, đẩy dân tộc Việt Nam vào con đường binh đao máu lửa hơn 30 năm”. Họ phát biểu ào ào vô trách nhiệm rằng: “Đảng chỉ lấy dân làm vật thí nghiệm, vật hi sinh cho chủ nghĩa xã hội hư vô, đưa dân tộc Việt Nam vào con đường máu lửa”…
Chúng ta là người Việt Nam chân chính. Chúng ta phải nói một cách dứt khoát rằng, đây lại là một luận điệu xuyên tạc lịch sử với ý đồ bôi nhọ, chà đạp trắng trợn lên thành quả cách mạng mà toàn dân tộc phải đánh đổi bằng sinh mạng hàng triệu người con ưu tú, hàng triệu sinh mạng của người dân lành để đổi lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Luận điệu này chúng ta phải hết sức cảnh giác bởi nó dễ gây nên sự hiểu lầm, vì đối tượng phát tán tài liệu đã từng là người trải qua chiến tranh, và đã một thời đứng trong hàng ngũ của Đảng. Điều nguy hiểm là một số ít người thiếu hiểu biết lịch sử đất nước và lớp người trẻ sinh ra sau chiến tranh sẽ nhận thức sai lầm dẫn tới phủ nhận thành quả cách mạng, mất lòng tin vào chế độ, vào con đường đi tới của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Một người bất mãn – một nhà “dân chủ” tự phong đã viết trên RFA Việt ngữ: “Phan Châu Trinh mất sớm, con đường cứu nước đúng đắn Phan Châu Trinh vừa khởi xướng, đành bỏ dở! Sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam thôi đành phó thác cho những người Cộng sản! Và dân tộc Việt Nam phải trải qua con đường đấu tranh bạo lực dằng dặc máu lửa”. Thưa với nhà “dân chủ”, ông ngủ gật trong giờ học lịch sử hay sao? Lịch sử của dân tộc Việt Nam diễn tiến rất đúng quy luật và truyền thống như thế này: Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược và cả khi thiết lập được quyền cai trị trên đất nước Việt Nam thì dân tộc này đã kháng cự lại. Đã có biết bao cuộc nổi dậy của nhân dân dưới ngọn cờ của các sĩ phu yêu nước. Nhưng tất cả các cuộc kháng cự đó đều bị đè bẹp và bị dìm trong biển máu. Ông cho rằng vì cụ Phan Châu Trinh mất sớm, nếu không dân tộc này sẽ đi theo con đường của Ấn Độ đòi lại độc lập từ người Anh? Điều này cho thấy ông đã cố tình bẻ cong sự thật lịch sử và cố tình suy diễn theo cái lối “nói cho sướng miệng”. Sự thật thì sau nhiều cuộc khởi nghĩa và các phong trào chống Pháp không đem lại kết quả, đứng trước vận mệnh của đất nước, Đảng Cộng sản đã gánh vác sứ mệnh giải phóng dân tộc. Phong trào chống xâm lược do những người Cộng sản phát động có cùng mục đích như các phong trào khởi nghĩa trước đó là giành, giữ độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam có “hiếu chiến” như ông và các nhà “dân chủ” cùng hội cùng thuyền với ông quy kết không? Chúng ta cùng tìm hiểu vấn đề này. Những ai hiểu biết về hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, những người có lương tri trên thế giới, đều đứng về phía Việt Nam. Đáng lẽ sau Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta phải được sống trong hòa bình, độc lập, tự do để xây dựng chế độ mới. Nhưng thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược Việt Nam. Trong tình thế tương quan lực lượng bất lợi cho một chính phủ còn non trẻ, rất cần một khoảng thời gian để xây dựng lực lượng nên Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng chủ trương hòa hoãn với thực dân Pháp. Chúng ta đã nhượng bộ, chấp nhận nền độc lập hạn chế và nền thống nhất có điều kiện, cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc để đuổi 20 vạn quân Tưởng ra khỏi bờ cõi, khẳng định việc Nam Bộ có trở về với nước Việt Nam hay không là tùy thuộc vào kết quả của một cuộc trưng cầu ý dân. Nhưng thực dân Pháp quyết dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ nước ta. Chúng tăng quân trái phép ở miền Bắc, gây ra nhiều vụ xung đột đẫm máu và cuối cùng gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta, đòi quân, dân ta hạ vũ khí. Vậy thì xin hỏi các nhà “dân chủ”, ở vào tình thế như vậy, theo các vị thì Đảng Cộng sản Việt Nam mà người đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh phải xử lý ra sao? Nếu theo cách nói của các vị thì nên chọn con đường “không đổ máu” ư? Xin thưa, không đổ máu mà vẫn giữ được độc lập như các vị nói thì chỉ là con đường chấp nhận làm kiếp nô lệ mà thôi! Dân tộc này không bao giờ chọn con đường đó! Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Chúng ta nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Nhà sử học Pháp Philip Deville đã nhận định: “Trong khi máy bay, xe tăng và binh lính Pháp ùn ùn kéo đến Việt Nam để chuẩn bị xâm lược thì chỉ có một dân tộc cam chịu để mình bị cắt cổ, chỉ có một dân tộc ươn hèn, thực sự phản bội dân tộc mình mới không chuẩn bị gì, không hành động gì để chống lại”. Sau này Tổng thống Pháp F.Mitterand, trong dịp sang thăm chính thức Việt Nam, tháng 2-1993, đã trả lời các nhà báo rằng: “Ông Hồ Chí Minh đã tìm kiếm những người đối thoại, nhưng không tìm được. Dù rất mong muốn đàm phán để hướng tới độc lập, ông Hồ Chí Minh bị đẩy vào cuộc chiến tranh”. Đến đây hẳn các “nhà dân chủ” đã hiểu là các vị đang chụp mũ cho Đảng Cộng sản. Còn giả sử như không hiểu thì có lẽ chăng đầu óc các vị đã bị thiểu năng.
Các vị còn hồ đồ rằng: “Trong khi đội quân xâm lược Pháp lực đã kiệt, thế đã tàn thì lực lượng kháng chiến giành độc lập đã lớn mạnh, đang bừng bừng xốc tới, chỉ dấn thêm một bước là cả nước sạch bóng giặc ngoại xâm. Nhưng những người Cộng sản đặt giá trị giai cấp lên trên giá trị dân tộc thì giải phóng dân tộc không phải là mục đích duy nhất và cao nhất của họ.
Với ý thức hệ giai cấp, những người Cộng sản Việt Nam coi giải phóng dân tộc không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để họ làm cách mạng vô sản thế giới”. Thật nực cười cho cái lập luận méo mó, quái gở này. Các vị vì ngu dốt hay vì cố tình xuyên tạc cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta là cuộc chiến tranh ý thức hệ, chiến tranh ủy nhiệm, miền Bắc xâm lược miền Nam? Hiệp định Geneve quy định Pháp phải cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân về nước. Theo Hiệp định Geneve, tháng 7-1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước. Nhưng đế quốc Mỹ với âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, lập “đê chắn làn sóng đỏ” xuống phía Nam nên đã hất cẳng Pháp, nhảy vào xâm lược chia cắt lâu dài đất nước ta. Ngô Đình Diệm từng tuyên bố khi sang thăm Mỹ: “Biên giới Hoa Kỳ đến vĩ tuyến 17”. Trên thực tế, Mỹ và chính quyền tay sai Việt Nam Cộng hòa đã gây ra “cuộc chiến tranh một phía”. Họ dọa “lấp sông Bến Hải”, “Bắc tiến”, “giải phóng Cố đô rửa hận”. Sau này, đế quốc Mỹ còn thực hiện cuộc “chiến tranh cục bộ”, đưa trên nửa triệu quân Mỹ vào xâm lược miền Nam, và tiến hành cuộc “chiến tranh phá hoại”, đe dọa đẩy miền Bắc nước ta trở về “thời kỳ đồ đá”. Như thế thử hỏi có con đường độc lập, thống nhất không đổ máu ư? Không có gì quý hơn độc lập, tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”. Nhân dân Việt Nam, bạn bè trên thế giới, nhân dân tiến bộ Mỹ và cả một số người trong chính giới Hoa Kỳ hẳn vẫn không quên, trong suốt hơn 40 năm thù địch Việt Nam, Hoa Kỳ đã trực tiếp làm cho hơn 3 triệu người Việt Nam phải hy sinh và hàng triệu người khác bị tàn tật, phải chịu di hại của chiến tranh, của chất độc da cam, bao vây cấm vận làm cho nhân dân Việt Nam vốn đã khốn khó do phải khắc phục hậu quả chiến tranh lại càng thêm khốn khó.
Trong một cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam được tổ chức tháng 3-2007 tại tiểu bang Texas, các học giả Mỹ đã phân tích những nguyên nhân thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến yếu tố văn hóa. Cuộc hội thảo này đã đi đến kết luận: Sự thiếu hiểu biết của Hoa Kỳ về văn hóa, lịch sử và con người Việt Nam chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của Mỹ trên chiến trường. Tổng thống Nixon đã cay đắng thừa nhận: “Sai lầm nghiêm trọng của chúng ta là không biết một trong những quy luật của chiến tranh. Đó là, đừng bao giờ bước vào cuộc chiến tranh, nếu không biết cách nào để ra khỏi cuộc chiến tranh đó”. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara trong cuốn hồi ký “Nhìn lại quá khứ tấn thảm kịch và bài học về Việt Nam” đã viết: “Chúng tôi ở trong chính quyền Kennedy và Johnson, tham gia vào các quyết định về Việt Nam, đã hành động theo những gì mà chúng tôi coi là nguyên tắc và truyền thống của dân tộc này. Chúng tôi đã ra các quyết định dưới ánh sáng của các giá trị đó. Nhưng chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp”. Lẽ phải chỉ có một. Những người chủ mưu trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã thú nhận thì những lập luận kiểu “giá như” của những kẻ xuyên tạc, bóp méo lịch sử như các “nhà dân chủ” đều trở nên vô nghĩa. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của nhân dân Việt Nam đã được lịch sử ghi nhận.
Dân tộc Việt Nam từ thủa khai sơn phá thạch cho đến hôm nay luôn chủ trương sống và hành động theo tư tưởng “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”, “lấy chính nghĩa để thắng phi nghĩa” không thể là một dân tộc “nồi da nấu thịt”, “tắm máu” đồng bào như luận điệu xuyên tạc của những kẻ vì động cơ cá nhân, mục tiêu tư lợi đã lớn tiếng phê phán, chà đạp lên truyền thống tổ tiên… Thực tế lịch sử đã minh chứng, sau thắng lợi mùa Xuân năm 1975 không có chia cắt, chỉ có thống nhất; không có “tắm máu”, chỉ có hòa hợp dân tộc, thống nhất, hòa bình, xây dựng đất nước.
Thế giới đã bước sang giai đoạn mới, trong đó, hòa bình, hợp tác và phát triển đã trở thành xu thế chủ yếu của thời đại, tư duy sử dụng sức mạnh quân sự để giải quyết các vấn đề quốc tế đã trở nên lỗi thời. Lịch sử dân tộc đã chứng minh, dân tộc Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nâng niu từng mối quan hệ bang giao hữu hảo nhưng nếu độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ bị xâm phạm thì dân tộc này quyết không chịu lùi bước. Các “nhà dân chủ” trong khi phủ nhận hai cuộc chiến tranh thần thánh của nhân dân nhưng lại nuôi dã tâm gây ra “biến cố” làm mất ổn định đất nước hòng mong muốn trong sự rối loạn trục lợi cho những toan tính cá nhân. Thật chỉ là hành động của những kẻ hoang tưởng và ác độc!■

Hội nghị Paris: Kỷ niệm của người trong cuộc

“Phòng hạnh phúc”, “cuộc bao vây hữu nghị” hay món bánh cuốn sau mỗi lần thương thảo… là những kỷ niệm khó quên.
Tin liên quan
Cuộc đấu tranh ngoại giao kéo dài gần 5 năm tại bàn đàm phán Paris là một cuộc đấu tranh lặng lẽ, âm thầm, cũng có lúc cao trào, dữ dội. 40 năm, cuộc đấu tranh ấy dù đã đi qua nhưng những câu chuyện kể về nó vẫn chưa bao giờ có hồi kết để chúng ta hiểu thêm về thắng lợi của nền ngoại giao Cách mạng Việt Nam.
Giây phút ký Hiệp định
Suốt 5 năm tham gia bàn đàm phán Paris, nhà báo Hà Đăng-  nguyên là Người phát ngôn của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris luôn đinh ninh rằng sẽ có một ngày Mỹ phải kí kết hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam.
Và đúng như thế, 1 tuần sau thất bại với trận “Điện Biên phủ trên không” cuối năm 1972, Mỹ đã phải nối lại bàn đàm phán. Sau đó 3 tuần thì Mỹ đã chính thức kí hiệp định theo đúng đòi hỏi của chúng ta. Đó là những đòi hỏi mà trước đó Mỹ muốn ép ta phải thay đổi bằng nỗ lực chiến tranh cuối cùng của họ- tức là trận tập kích chiến lược bằng B52 đánh vào miền Bắc Việt Nam.
Hội nghị Paris: Kỷ niệm của người trong cuộc
Hội nghị Paris. Ảnh tư liệu  
Nhà báo Hà Đăng nhớ lại: Khi nhìn các bên kí hiệp định, tôi như được sống trong giây phút vừa hiện thực, vừa lãng mạn, mường tượng đến ngày này 2 tháng sau, khi quân Mỹ phải cuốn cờ về nước, đánh dấu sự chấm dứt của quân chiếm đóng nước ngoài ở nước ta.
Không ai có thể kìm nén sự xúc động khi chứng kiến giờ phút kí hiệp định Paris. Có được thành công ấy, những con người đã từng tham gia Hội nghị Paris như cố vấn Lê Đức Thọ, Bộ trưởng Xuân Thủy hay bà Nguyễn Thị Bình- trưởng đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã trải qua những cuộc đấu trí một mất một còn.
Ông Lưu Văn Lợi- Thư kí riêng của đồng chí Lê Đức Thọ vẫn nhớ: Ông Sáu Thọ vốn là một người thích làm thơ, yêu thơ ngay cả khi bị giam cầm trong chốn ngục tù. Ấy thế mà, suốt 5 năm đàm phán tại Paris, ông không làm nổi một bài thơ.
Tháng 6/1968, bác Thọ được Bác Hồ trực tiếp chỉ đạo làm cố vấn đặc biệt, sang dự cuộc nói chuyện với Mỹ ở Paris. 5 năm trời bác không làm một bài thơ nào. Tất cả tâm hồn, trí tuệ và suy nghĩ của bác đều tập trung cho cuộc đàm phán với Mỹ- một nước gây ra chiến tranh với chúng ta, hùng mạnh hơn chúng ta về mọi mặt, với những nhà ngoại giao sừng sỏ”, ông Lưu Văn Lợi cho biết.
“Phòng hạnh phúc”, “bao vây hữu nghị”
Với những thành viên trong đoàn đàm phán, không ai có thể quên kỷ niệm về “Phòng hạnh phúc”. Đó là “ám hiệu” về căn phòng bí mật chống nghe trộm. Ông Phạm Ngạc-nguyên Vụ trưởng Vụ Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao nói: “Chúng tôi gọi đó là “Phòng hạnh phúc” bởi vào đó là yên tâm lắm, thoải mái trao đổi không sợ lộ bí mật.
Hồi xưa lúc Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang họp hội nghị Fontainebleau phải ra ngoài đi dạo. Khi chúng tôi sang Geneve cũng vậy, phải đi ra ngoài vườn nói chuyện để không bị nghe lén. Còn khi vào “Phòng hạnh phúc thì lại yên tâm trao đổi về kế hoạch tác chiến đấu tranh ngoại giao.
Còn với ông Nguyễn Khắc Huỳnh- nguyên Vụ trưởng Vụ tổng hợp, Bộ Ngoại giao,  ấn tượng không thể phai mờ là những cuộc “bao vây hữu nghị” mà bạn bè quốc tế dành cho phái đoàn của ta: Tôi còn nhớ, khi tôi sang Italy, cuộc mít tinh vừa kết thúc thì hàng vạn thanh niên bao vây hội trường nơi chúng tôi đến phát biểu.
Tôi quay lại nói với đồng chí Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Italy là “chúng tôi bị bao vây rồi đấy”, thì ông ấy nói “đó là cuộc bao vây hữu nghị, rất hữu nghị, là biểu hiện tình cảm của nhân dân Italy với những người Việt Nam, những người Việt Nam đang chiến đấu, đàm phán ở Paris”.
Không chỉ có sự đoàn kết của bạn bè quốc tế mà sự ủng hộ của bà con Việt Kiều tại Paris cũng chính là nguồn động lực để những người con xa quê đang ngày ngày đấu tranh với kẻ thù trên bàn đàm phán có thêm niềm hi vọng. 5 năm đàm phán cũng là 5 cái Tết xa quê đối với những ai tham gia hội nghị Paris. Thiếu thốn tình cảm, nhưng hương vị của ngày Tết cổ truyền dân tộc thì không thiếu bởi những thành viên của đoàn đàm phán được sống trong tình cảm thương yêu, trìu mến của bà con Việt Kiều.
Ông Phạm Ngạc nhớ mãi cuộc gặp gỡ với bà con vào dịp Tết năm 1971. Không chỉ là những món ngon quê nhà, họ còn được thưởng thức những vở kịch, vở cải lương do chính đồng bào mình thể hiện tại thủ đô Paris.
Dịp đó chúng tôi rủ nhau đến nhà tương tế của Paris gặp gỡ, diễn văn nghệ. Anh chị em bên đó chủ yếu là trí thức miền Nam, họ đã chọn cải lương để hát. Anh Tổng thư kí- Nguyễn Ngọc Hà cũng đóng vai chính, có lúc đưa cả vợ con lên sân khấu. Các bạn sinh viên cũng hát những bài hát cách mạng, kháng chiến. Đó là chương trình vui nhất”, ông Ngạc kể.
Món bánh cuốn sau mỗi lần thương thảo
Và không mấy ai biết rằng, món bánh cuốn Việt Nam cũng có mặt ở Paris sau những lần thương thảo tại hội nghị. Chuyện kể rằng, đồng chí Xuân Thủy đã giao cho nhà bếp chuẩn bị món bánh cuốn, nước chấm cà cuống để mỗi khi thương thảo thành công sẽ cùng tổ chức liên hoan. Ông còn cho mời phía đối phương thưởng thức món ăn dân dã này khi hai bên đạt được nguyện vọng của mình trên bàn đàm phán.
Ông Tăng Văn Soát, bảo vệ đoàn nhớ lại: Nhiều khi có những cuộc họp phát sinh của hai đoàn lớn, cần gặp nhau để bàn bạc. Những ngày ấy chúng tôi cũng phải phục vụ cho cuộc họp. Thấy gu của họ thích ăn bánh cuốn, ông Xuân Thủy chỉ đạo làm ngay. Làm bánh cuốn ngay ở nơi họp, khi nào cuộc họp thành công thì mang bánh cuốn, nước mắm cà cuống ra chiêu đãi hai đoàn.
Kỷ niệm về 5 năm đàm phán tại hội nghị Paris không bao giờ có thể kể hết. Điều đó cũng giống như viết về một câu chuyện dưới nhiều góc độ khác nhau thì con mắt nhìn cũng vô vàn chi tiết không giống nhau. Chỉ có điều, mỗi câu chuyện là một kí ức không thể phai mờ và rất đáng trân trọng, cũng giống như giờ phút chúng ta có trong tay hòa bình thật đáng quý biết bao!.
Nhóm PV/VOV

Kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris: Kỷ vật 'kể chuyện'

Có lẽ chưa bao giờ, hai tiếng Paris được nhắc nhiều đến vậy giữa lòng Hà Nội. Hơn thế, tên những con phố, những dãy nhà, những người bạn Pháp chí tình cùng những câu chuyện ở Paris năm tháng ấy cũng được kể lại đầy xao xuyến.
Hôm qua, 23/1, tại Nhà triển lãm 29 Hàng Bài (Hà Nội), khai mạc triển lãm Kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp định Paris về Việt Nam. Triển lãm trưng bày nhiều hiện vật quý và có sự tham gia của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, lãnh đạo Bộ Ngoại giao, Bộ VH,TT&DL...  
"Phòng hạnh phúc"
Bên cạnh những kỷ vật, nhân chứng hào hùng, Triển lãm gây ấn tượng đặc biệt bởi sự xuất hiện của đoàn chuyên viên chịu trách nhiệm bảo vệ sự an toàn và bảo mật thông tin của hai phái đoàn ta tại Paris ngày đó. Họ cũng là những “người hùng thầm lặng” tới tận hôm nay.
Kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris: Kỷ vật 'kể chuyện'
Triển lãm thu hút sự chú ý đông đảo công chúng trong và ngoài nước 
Đại tá Phạm Trường Sơn (chuyên viên bảo vệ đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) chia sẻ với TT&VH: “Hồi đó, tôi làm phụ trách bảo mật thông tin. Khi phái đoàn ta mới nhận khách sạn tại Paris, việc đầu tiên chúng tôi làm là kiểm tra bảo mật. Không lâu sau, chúng tôi phát hiện được tới hơn chục thiết bị nghe trộm được gắn khắp nơi”.    
Dù đã cảnh giác cao, những cuộc họp kín của hai phái đoàn vẫn bị thiết bị tối tân của các lực lượng khác thu được.
"Và chúng tôi nghĩ ra kế hoạch lập "phòng hạnh phúc" để họp riêng. Kế hoạch tối mật tới mức, ngay cả các bạn "chủ nhà" Đảng Cộng sản Pháp cũng không biết chúng tôi lập phòng này. Chúng tôi âm thầm tỏa đi các ngả, mua những tấm gỗ dày, bọc quanh phòng để cản sóng từ các thiết bị nghe trộm.
Đồng thời, phòng còn có một lớp tre đan chống lọt ánh sáng để “vô hiệu hóa” các thiết bị ghi hình từ bên ngoài. Trong khi hai phái đoàn của ta họp kín, chúng tôi cũng bố trí một chiếc đài cassette bật nhạc và đổi sóng liên tục để gây nhiễu" - Đại tá Trần Hữu Diệt, chuyên viên bảo vệ phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam kể.
"Phòng hạnh phúc" đã thành công trong việc bảo mật thông tin của phái đoàn ta tại Paris. "Bằng chứng là nhiều luận điểm của ta chuẩn bị trước trong cuộc họp kín đã khiến phía bên kia sững sờ.
Khi báo chí Mỹ cố tình hỏi ác ý Chính phủ Cách mạnh Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam: "Các ông bảo các ông là chính phủ độc lập và có vùng giải phóng. Vậy ông có thể chỉ cho chúng tôi xem vùng giải phóng của các ông ở đâu trong bản đồ Việt Nam này?".
Ông Lý Văn Sáu - phát ngôn viên của phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam - vừa cười vừa nói: "Cần gì bản đồ. Các ông cứ thấy máy bay Mỹ dội bom ở đâu, vùng giải phóng của chúng tôi ở đấy. Nghe đâu dạo này máy bay Mỹ dội bom quanh ngoại thành Sài Gòn rồi đấy!". Cả hội trường đứng bật dậy vỗ tay không ngớt trong sự bẽ bàng của nhà báo đặt câu hỏi và phái đoàn Mỹ” - ông Diệt kể thêm.
Kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris: Kỷ vật 'kể chuyện'
Bản gốc Hiệp định Paris được trưng bày 

Và chuyện chiếc xoong quấy bột giữa phòng hội nghị
Đứng trước chiếc bút phớt đen tận tay đi mua tại Paris năm ấy, ông Lưu Văn Lợi (phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) kể: “Bốn Bộ trưởng Bộ Ngoại giao gồm:Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Nguyễn Duy Trinh), Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Nguyễn Thị Bình), Mỹ (William P.Rogers), Việt Nam Cộng hòa (Trần Văn Lắm) ngồi vào bàn.
Mỗi người ký vào 32 văn bản của Hiệp định, lại có cả Nghị định thư nên tất cả cần 36 chữ ký. Phía Mỹ chuẩn bị sẵn mỗi chữ ký mỗi bút. Sau tôi được biết những cái bút này đem bán đắt tiền lắm.
Kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris: Kỷ vật 'kể chuyện'
Chiếc xoong dùng để nấu xi đóng dấu niêm phong tại Hội nghị Paris 
Tôi là người trực tiếp đi mua những chiếc bút ký Hiệp định đang được trưng bày tại đây cho đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hồi đó, tôi cũng mua 36 chiếc bút phớt đen. Sau tất cả cũng đều được đưa vào viện bảo tàng, nhà lưu niệm."
Trầm ngâm trước chiếc xoong nhôm được trưng bày tại triển lãm, ông Lợi kể tiếp: “Trước ngày ký Hiệp định, ta chuẩn bị cẩn thận lắm. Nhưng do điều kiện đất khách lại không thực dư dả tài chính nên cũng lắm chuyện vui. Khi Hiệp định ký xong, bên Mỹ dùng con dấu đóng xi niêm phong rất bài bản. Còn ta mang cả chiếc xoong quấy bột trẻ con này để đun chảy xi và đóng ngay giữa hội nghị”.
Triển lãm cũng bày 140 bức ảnh, 21 lời trích, 23 hiện vật, 3 tài liệu, 8 cuốn sách, bản gốc Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam, con dấu và biển tên của đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, cuốn sổ tập hợp 10.000 chữ ký của nhân dân Cuba phản đối chiến tranh và ủng hộ nhân dân Việt Nam…
Phạm Mỹ
Thể thao & Văn hóa

Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973

140 bức ảnh quý giá là minh chứng rõ nét nhất về những cuộc đàm phán ngoại giao mà nhân dân ta đã dành thắng lợi trước đế quốc Mỹ và tiến tới chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

 Sáng 23/1, tại Nhà triển lãm 29 Hàng Bài - Hà Nội, đã khai mạc triển lãm “Kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp định Paris về Việt Nam”. Đến dự có nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, nguyên Trưởng đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời tại Hội nghị Paris, thứ trưởng Bộ VH TT&DL Huỳnh Vĩnh Ái, Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Nguyễn Phương Nga…

Triển lãm trưng bày nhiều hình ảnh và kỷ vật quý về các phiên đàm phán của ta với Mỹ và những hoạt động bên lề của Việt Nam trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Với 140 bức ảnh, 21 lời trích, 23 hiện vật, 3 tài liệu, 8 cuốn sách, trong đó có những hiện vật quý lần đầu được trưng bày kể từ 40 năm qua, như văn bản gốc hiệp định Paris.
Đây là triển lãm lớn nhất về sự kiện này từ trước tới nay ở Việt Nam, Hiệp định là 1 sự kiện trọng đại, 1 thắng lợi vẻ vang trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam và là đỉnh cao của ngoại giao VN thời đại Hồ Chí Minh.
Triển làm sống lại các hình ảnh và sự kiện của những năm tháng khốc liệt của cuộc đấu tranh phối hợp giữa ba yếu tố chính trị, quân sự và ngoại giao. Nó cũng là minh chứng “sống” rõ ràng nhất cho cuộc đấu tranh cam go trên mặt trận ngoại giao kéo dài 4 năm 8 tháng và 16 ngày, với hàng trăm cuộc gặp công khai và bí mật, để ký được Hiệp định Paris (27.1.1973), buộc Mỹ và các đế quốc, thực dân phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ nước ta.
 
Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973
Bộ trưởng Xuân Thủy cùng cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ rời cuộc gặp riêng tại địa điểm của đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở 11 phố Darthe 
Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973
Cuộc đấu bóng bàn giữa bà Dương Thị Duyên và bà Nguyễn Thị Bình tại Paris 
Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973
Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ tại buổi họp báo quốc tế 
Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973
Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ với nụ cười chiến thắng tại Hội nghị Paris 
Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973
Toàn cảnh Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam 
Những bức ảnh quý giá về Hiệp định Paris năm 1973
Nguyên phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình- một chứng nhân của Hội nghị Paris lịch sử đã có mặt tại buổi triển lãm 
Thiên Lam/ Dân trí

NGUYỄN VĂN HẢI NÓI GÌ KHI ĐÃ ĐẶT CHÂN LÊN NƯỚC MỸ?

Chiềng Chạ
Trả lời báo chí (Chủ yếu là báo chí của cộng đồng người Việt sống lưu vong tại Mỹ như Báo Người Việt, Saigon Broadcasting Television Network (SBTN) ngay sau khi đặt chân lên đất Mỹ, Nguyễn Văn Hải - Hải Điếu Cày đã có một đoạn nói tương đối ngắn gọn; và theo các nhà quan sát thì tương đối đầy đủ khi phản ánh đầy đủ những thắc mắc của Hải, hoàn cảnh hiện tại và cả dự định tương lai của Cựu tù nhân này. 

Xin được trích nguyên vẹn bài phát biểu của Nguyễn Văn Hải được báo Người Việt thực hiện: 


Phát biểu tại phi trường Los Angeles hôm 21/10, Blogger Điếu Cày nói: "Tôi thấy chính phủ Hoa Kỳ thì mong muốn tôi trở thành một công dân của Hoa Kỳ nhưng tôi không hiểu tại sao chính phủ Việt Nam lại muốn trục xuất tôi.
Những việc tôi làm chỉ mang lại lợi ích cho dân tộc Việt Nam, cho tổ quốc Việt Nam. Điều đó đáng để chính phủ Việt Nam phải suy nghĩ."
Khi được hỏi liệu ông có nghĩ trong tương lai sẽ về lại Việt Nam hay không, ông Nguyễn Văn Hải trả lời: "Tôi sang đây đấu tranh là để cho ngày trở về". 
Trong khuôn khổ bài viết này xin được làm rõ hơn nội dung Hải nói để những ai quan tâm cùng xét đoán. 
1. Về điều băn khoăn mà đến nay dù đã có mặt trên đất Mỹ và trở thành người tự do thì Hải vẫn chưa thể nào lí giải nổi: "Tôi thấy chính phủ Hoa Kỳ thì mong muốn tôi trở thành một công dân của Hoa Kỳ nhưng tôi không hiểu tại sao chính phủ Việt Nam lại muốn trục xuất tôi".
Rõ ràng, theo cách nói của Hải thì anh ta đang bị đối xử một cách khác biệt khi ở hai quốc gia khác nhau. Trên chính quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình theo cách nói của Hải thì Chính phủ muốn trục xuất anh ta nhưng chính cái nơi đất khách quê người - Chính phủ Mỹ lại muốn tiếp nhận Hải trở thành một công dân. Tôi cho rằng, điều này rất dễ hiểu, việc Hải cố tình đưa băn khoăn này ra đầu tiên trong bài phát biểu của mình có chăng cũng là cái cách ngờ hoặc quen thuộc của con người này; Dù đã qua sáu năm thụ án với 02 tội danh khác nhau từ tội "Trốn thuế" trong bản án thứ nhất và tội "Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCNVN" trong bản án thứ hai nhưng Hải chưa bao giờ tự tập cho cá nhân mình cái cách đối diện với sự thật. Và thay vì có một thái độ đúng mực trong chấp nhận sự thật thì Hải lại trốn tránh và tự tạo ra cho mình cái phản xạ phủ nhận hết  thảy tội lỗi của bản thân trong quá khứ. Đây cũng được cho là nguyên nhân chính yếu khiến Hải liên tục phát đi những màn phản kháng quen thuộc trước đó đã được Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Lý... tiến hành những bất thành: tuyệt thực, không chấp hành lệnh cải tạo lao động của trại giam nơi đang thi hành án. 

Nói như thế để thấy rằng, với băn khoăn và sự khó hiểu hiện tại về hai cách đối xử cũng xuất phát từ việc Hải chưa bao giờ nhận thức cho đầy đủ và đúng mực về tội danh của mình. Hải không biết hắn là một tù nhân, một kẻ đã bằng cách này, cách khác xâm phạm chính quyền lợi, quyền của các chủ thể được pháp luật bảo vệ. Và như thế, về phương diện cơ chế tự bảo vệ chẳng có  một chế độ nào chấp nhận một thứ công dân "Ngoại hạng" nào như thế. Song, cũng cần đính chính lại một điều được Hải nói ra là tuy có những sự 'ghét bỏ" nhất định đối với Hải nhưng Chính phủ Việt Nam chưa bao giờ có ý định trục xuất Hải. Việc Hải đi Mỹ hoàn toàn là ý định tự nguyện của bản thân kết hợp với lời đảm bảo và 'mời gọi" từ Chính phủ Mỹ như chính phát biểu của phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ vừa qua: "Tuy nhiên phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ không trực tiếp trả lời câu hỏi liệu blogger Điếu Cày có bị cưỡng ép phải rời Việt Nam ngay sau khi ông ra khỏi nhà tù hay không, mà chỉ nói rằng bà sẽ tham khảo lại với các giới chức Việt Nam về vấn đề này. Nhưng bà xác định rằng chính blogger Điếu Cày quyết định đi Mỹ..." Cho nên có thể thấy rằng, với lời trần tình thứ nhất, Nguyễn Văn Hải đã có một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thái độ trốn tránh sự thật và cách nói vu cáo 'thiện nghệ". Tuy nhiên, lời phát biểu của phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ đã bóc trần bản chất của vấn đề. Đoạn nói tiếp theo chính vì vậy được cho là hệ quả tất yếu của những nhận thức sai lầm ở đoạn trên: "Những việc tôi làm chỉ mang lại lợi ích cho dân tộc Việt Nam, cho tổ quốc Việt Nam. Điều đó đáng để chính phủ Việt Nam phải suy nghĩ." Xin chia buồn cùng Hải với bàn thua đầu tiên. 

2. Về dự định của mình trong tương lai trên đất Mỹ, Hải cho rằng: "Khi được hỏi liệu ông có nghĩ trong tương lai sẽ về lại Việt Nam hay không, ông Nguyễn Văn Hải trả lời: "Tôi sang đây đấu tranh là để cho ngày trở về".

Trần Khải Thanh Thủy và Cù Huy Hà Vũ cũng phát biểu tương tự như thế khi cập bến tại nước Mỹ. Thậm chí hai người đi trước này còn nói nhiều, nói cụ thể hơn Hải nhiều nhưng những ai quan tâm tới hai cá nhân này hẳn đã tường tận về kết quả của những dự định ấy. Trần Khải Thanh Thủy sau những ngày đầu có vẻ ăn ý với bộ sậu "Việt Tân Trung ương' trên đất Mỹ khi liên tục phát đi những lời kêu gọi, cho ra đời các bài viết mang tính đả kích được số này cho đó là thông cáo, là tuyên ngôn thì cuối cùng cũng bị chúng "quẳng" ra đường không hơn, không kém; tức chí, ả nhà văn này đã liên tiếp cho ra loạt bài không ngoài mục đích tố cáo bản chất nhơ nhớp của lũ "Việt Tân" trên đất Mỹ, thậm chí ả còn thằng thừng cho chuyến đi Mỹ của ả là hết sức sai lầm  và nếu không đi thì tiếng tăm, danh tiếng, tiền bạc của ả sẽ rủng rình hơn nhiều. Và không có gì lạ khi vị nữ sỹ này sau khi nghe thấy thông tin Hải được sang Mỹ đã cảm khái tặng một bài thơ nhưng tin được không, bình thường không khi chính Ả đang sống dở, chết dở trên đất Mỹ mà vẫn phát đi những lời có cánh về một viễn cảnh tốt đẹp trên đất Mỹ giành cho Hải; lí giải điều này, số người biết Trần Khải Thanh Thủy cho đó cũng là thói 'xấu bụng' của Ả và Ả càng không muốn chỉ có mình chịu đầy ải của cái gọi là "tự do', "dân chủ" và "nhân quyền' do lũ rận ngoại quốc vẽ nên. 

Đến lượt mình, Cù Huy Hà Vũ cũng làm điều tương tự dù trước lúc đi vị Tiến Xỹ này cũng đã được bạn bè, người thân cảnh báo về thân phận của Trần Khải Thanh Thủy trên đất Mỹ. Vũ cũng có một bài phát biểu ngay tại phi trường Mỹ nhưng thật nực cười đã 09 tháng trôi qua sau ngày sang Mỹ Vũ chỉ vẹn vẹn có nổi 02 lần trả lời phỏng vấn. Đáng chê trách hơn khi số bài phỏng vấn ấy không có lấy một nội dung cho là "trò", 'ra trống". Việc thiếu thông tin đã khiến những con gà đẻ trứng vàng này đành phải ngậm ngùi và tiếc nuối không nguôi. 

Và theo cách nói này thì Hải là người thứ ba. Ngay bây giờ cũng chưa có gì có thể kiểm chứng được lời Hải nói nhưng với những gì Thủy, Vũ đã qua, thứ tương lai phía trước của Hải cũng là dấu hỏi khó đoán định..../.
 

Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2014

TỌA ĐÀM KỶ NIỆN 67 NĂM NGÀY TBLS

Hôm nay KP1 Phường 3 tổ chức tọa đàm kỷ niệm 67 năm ngày Thương binh Liệt sĩ.
Sau lễ dâng hương, một số đồng chí thương binh, cựu chiến binh đã phát biểu cảm tưởng.




Hàng năm, dù khó khăn đến mấy Khu phố 1 phường 3 cũng tổ chức tọa đàm kỷ niệm Ngày Thương binh Liệt sĩ.

LỄ KẾT NẠP ĐẢNG


    Được sự giáo dục, bồi dưởng  và giup đở của các đồng chí đảng  viên trong chi bộ , trực tiếp là đồng chí Phó bí thư chi bộ Nguyễn Hồng Hiến, quần chúng Nguyễn văn Công,Bí thư Chi đoàn khu phố đã không ngừng phấn đấu, rèn luyện, tu dưởng đẻ sớm được đứng vào hàng ngủ quang vinh của Đảng Cộng sản Việt nam nhằm cống hiến trí tuệ và năng lực cho lý tưởng cách mạng của Đảng.
    Chiều hôm nay, 25 tháng 7 năm 2014, Chi bộ khu phố 1 phường 3 tổ chức Lễ kết nạp đảng cho quần chúng Nguyễn văn Công.
    Đến dự Lễ kết nạp đảng có  :
-Đồng chí Lê Hông Minh,Phó bí thư thường trực Đảng ủy phường 3.
-Ông Phạm Tham.Khu phố trưởng khu phố.
 
Trao quyết đinh kết nạp Đảng 


 Tuyên thệ