Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2015

Hang động Brai, Hướng Hóa

Hướng Hóa là một huyện miền núi phía Tây của tỉnh Quảng Trị, cách thành phố Đông Hà khoảng 65 km về phía tây. Có cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo nằm trên trục đ­ường Quốc lộ 9 thông thương với Lào.
Hướng Hóa được biết đến với nhiều địa danh di tích lịch sử nổi tiếng như : cứ điểm Khe Sanh,Sân Bay Tà Cơn, Làng Vây, Nhà Tù Lao Bảo ...
Không những thế với địa hình núi non thiên nhiên hùng vĩ đã ban tặng cho nơi đây rất nhiều thắng cảnh ngoạn mục đẹp mắt. Một trong những số ấy là một Hang Động vừa mới được phát hiện ngày 12/8/2012 tại dãy núi thuộc thôn A Soc, xã Hướng Lập, huyện Hướng Hóa với nhiều khối thạch nhũ tuyệt đẹp.

Chỉ dẫn đường đi
Từ TP Đông vượt QL9 khoảng 65km chúng ta đến với TT Khe Sanh. Rồi rẽ phải lên đường Hố Chí Minh (Tây) tại Ngã Ba QL9 giao nhau với đường Hồ Chí Minh đến đây chúng ta đã đi hơn 1 nữa đường, tiếp tục men theo đường HCM khoảng 60km nữa chúng ta sẽ đến với ASoc, Hướng Lập, Hướng Hóa nơi có hang động tuyệt đẹp.
Hang Động Quảng Trị
Hang Động Hướng Hóa Quảng Trị
Đây là một hang động hoang sơ rất rộng và cao, cửa hình tam giác nhiều người có thể đi qua. Động có nhiều khối thạch nhũ màu vàng, trắng với hình dáng khác nhau. Bên trong còn có những khoảng rộng với các bãi đá ngầm, có nước chảy như dòng suối nhỏ. Càng vào sâu bên trong có nhiều khối thạch nhũ lớn và đẹp hơn.
Hang Động Brai
Hang Động Quảng Trị | Du Lịch Quảng Trị
Hiện chỉ mới  khám phá bên trong hang động khoảng 500 m, theo phán đoán của cán bộ Khu bảo tồn bắc Hướng Hóa thì chắc chắn hang này còn rất sâu, vì có thể nằm trong hệ thống đá vôi nối liền với Quảng Bình. Hang Động này được Khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa đặt tên là động Brai. dự kiến sẽ đưa vào tuyến du lịch sinh thái , đây là điểm du lịch mới làm sinh động Du Lịch Quảng Trịvà rất hấp dẫn các tuyến du lịch sinh thái.

Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2015

Trở Lại Nơi Xảy Ra Vụ Thảm Sát Mỹ Lai

Seymour M. Hersh / The New Yorker (30-3-2015)
Người Dịch: Nguyễn Minh Tâm / Calitoday (20-4-2015)

TRONG MỘT CÁI HỐ KHÁ DÀI  ở làng Mỹ Lai. Sáng ngày 16 tháng Ba năm 1968, người ta chất đầy xác người xuống hố – hàng chục phụ nữ, trẻ em, và người già cả, tất cả đều bị binh sĩ Hoa Kỳ bắn chết. Bây giờ 47 năm sau, đường mương dài ở làng Mỹ Lai hình như  rộng hơn, nếu tôi so với tấm hình đăng trên báo hồi xưa. Đất soi mòn, và thời gian đã làm cho đường rãnh lớn hơn.
Photo courtesy: www.cleveland.com
 Hồi còn chiến tranh Việt Nam, gần đường rãnh có  một ruộng lúa nhỏ, nhưng ngày nay ruộng lúa đã được đắp thành đường đi để người ta có thể đến Mỹ Lai dễ dàng. Điạ điểm vụ thảm sát trở thành một điạ danh lôi cuốn du khách. Mỗi năm có hàng ngàn du khách đến đây, họ đi lang thang quanh nơi ghi dấu vụ tàn sát khủng khiếp. Mỹ Lai là điểm mốc then chốt của cuộc chiến tranh phi lý: Một đại đội binh sĩ Hoa Kỳ tên là Charlie Company nhận được tin tức tình báo sai lạc cho hay họ sẽ đụng đầu với quân Việt Cộng, và cảm tình viên VC ở làng Mỹ Lai. Nhưng khi đến nơi, họ chỉ gặp những người dân làng hiền lành đang ăn sáng. Vậy mà lính Mỹ của đại đội Charlie vẫn xông vào làng, hãm hiếp phụ nữ, đốt nhà dân, và chĩa súng M-16 bắn vào thường dân, không có vũ khí trong tay. Người chỉ huy đại đội Charlie là Trung Úy William L. Calley, một sinh viên bỏ học dở dang ở đại học cộng đồng thành phố Miami.
Vào đầu năm 1969, đa số binh sĩ trong Đại Đội Charlie đều hoàn tất chuyến công tác ở Việt Nam, và quanh về Mỹ. Lúc đó tôi đang là một ký giả độc lập ở Hoa Thịnh Đốn, mới 32 tuổi. Cố tình muốn tìm hiểu vì sao nhũng thanh niên trẻ tuổi, mặt búng ra sữa, lại làm cái chuyện tàn sát như vậy, tôi theo sát vết chân của họ để hỏi thăm từng người trong nhiều tuần lễ. Đa số đều nói chuyện với tôi rất cởi mở, họ kể lại một cách thành thật những gì xảy ra ở Mỹ Lai, và làm cách nào để họ có thể tiếp tục sống với những ấn tượng hãi hùng sau vụ tàn sát.
Trong cuộc điều trần trước Uỷ Ban Điều Tra Lục Quân, một số quân nhân công nhận họ có mặt tại đường mương đầy xác người, nhưng khai rằng họ đã cãi lệnh Trung Úy Calley, người ra lệnh cho họ phải giết dân làng. Họ nói hai người xả súng bắn vào thường dân là Trung Úy Calley và Binh Nhất Paul Meadlo. Sự thực xảy ra như thế nào khó mà biết chính xác. Tuy nhiên, đa số người lính trong đại đội đều nhớ một hình ảnh khá rõ ràng. Sau khi Trung Úy Calley ra lệnh bắn, binh nhất Meadlo và nhiều binh sĩ khác bắn nhiều băng đạn vào cái hố đầy xác người. Cuối cùng họ còn ném thêm vài trái lựu đạn xuống hố.
Bỗng dưng có một tiếng khóc ré lên, rất lớn của một thằng bé trai khoảng hai hay ba tuổi, trên người nhuộm đầy máu, nó bò từ trong đống xác người đi ra ngoài ruộng lúa. Có lẽ mẹ của nó đã ôm chặt lấy thằng bé để che chở cho nó. Calley trông thấy đứa bé bò ra, Calley chạy theo đứa bé, kéo nó trở lại, ném nó xuống hố, và bắn nó.
Sáng ngày hôm sau, Meadlo đạp phải mìn trong lúc đi tuần, bàn chân phải của Meadlo bị văng đi mất. Trong lúc chờ trực thăng đưa đi bệnh viện dã chiến, anh ta chửi rủa Trung Úy Calley thậm tệ. Một người lính nghe rõ Meadlo chửi: “Tiên sư mày, Calley, Chúa sẽ trừng phạt mày vì những gì mày gây ra cho tao.”.
Trung úy Calley hét lớn, ra lệnh: “Gọi trực thăng đem nó đi.”
Meadlo tiếp tục chửi Calley cho đến lúc trực thăng đến bốc anh ta đi.
Meadlo lớn lên trong vùng nhà quê ở  phía tây Indiana. Sau khi tốn rất nhiều tiền xu, và đợi chờ ở máy điện thoại công cộng, tôi tìm ra được điạ chỉ gia đình Meadlo, ghi trên cuốn niên giám điện thoại tỉnh New Goshen, một thị trấn nhỏ gần vùng Terre Haute. Một người đàn bà, mẹ của Paul Meadlo, bà Myrtle trả lời điện thoại. Tôi giới thiệu với bà tôi là một ký giả viết về chiến tranh Việt Nam. Tôi hỏi thăm anh Paul dạo này ra sao, và xin phép bà đến nói chuyện với anh Paul vào ngày hôm sau. Bà nói bà sẵn sàng tiếp đón tôi.
Anh Paul Meadlo sống trong một căn nhà nhỏ đơn sơ vách ván, bên cạnh trại nuôi gà tồi tàn. Khi tôi lái chiếc xe tôi thuê đến sát căn nhà, bà Myrtle chạy ra đón tôi, và nói rằng anh Paul đang ngồi ở trong nhà. Nhưng bà không biết anh Paul có đồng ý tiếp tôi hay không. Rõ ràng là anh Paul kể cho mẹ anh nghe rất ít về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Sau đó, bà Myrtle lầm bầm trong miệng than thở về cuộc chiến mà mọi người oán ghét. Đại khái bà nói rằng: “Tôi đẻ con ra là những đứa bé ngoan, khi lớn lên chiến tranh người ta biến chúng nó thành những tên sát nhân.”.
Anh Meadlo mời tôi vào nhà, và đồng ý nói chuyện với tôi. Lúc bấy giờ anh được 22 tuổi. Anh đã có vợ trước khi sang Việt Nam. Hai vợ chồng anh có một đứa con trai hai tuổi và một bé gái sơ sinh. Mặc dù bị cụt chân, song anh vẫn tìm được việc làm trong một xưởng sản xuất, kiếm đủ tiền nuôi vợ con. Tôi yêu cầu anh cho xem vết thương và nói sơ về việc chữa trị vết thương này. Anh tháo phần chân giả lấy ra cho tôi xem, và kể lại thời gian anh được chữa trị vết thương. Một hồi sau câu chuyện dẫn đến vụ thảm sát Mỹ Lai. Anh Meadlo nói rất nhiều, nói say sưa, như là để cải chính, để dành lại ít nhiều sự kính nể. Anh xúc động khi anh kể về lệnh giết người của Trung Úy Calley. Anh không tìm cách biện minh cho hành động của mình, nhưng anh nói: “Vụ thảm sát này làm lương tâm tôi cắn rứt lắm. Nhưng chúng tôi làm như vậy một phần là vì đồng đội của mình bị giết nhiều quá.”.
Anh Meadlo kể lại chi tiết vụ thảm sát với giọng đều đều vô cảm. Anh nói với tôi: “Chúng tôi nhận được tin Việt Cộng ở làng Mỹ Lai. Chúng tôi có nhiệm  vụ phải tảo thanh. Khi đến nơi, chúng tôi lôi dân làng ra, tập trung vào một chỗ… và thẩm vấn từng người một. Lúc đó có khoảng 40 hay 45 người thường dân đứng tập trung thành vòng tròn, ngay giữa làng…Calley dặn tôi và vài người bạn hãy đứng canh chừng dân làng. Rồi anh Meadlo nhớ lại là khi Calley quanh trở lại, ông ta ra lệnh: “Giết hết chúng nó đi. Tôi muốn mấy anh bắn chết hết bọn chúng.”. Đứng cách Meadlo chừng mười thước, Calley ra lệnh: “Bắn đi, còn chờ gì nữa…. Tôi bắt đầu bắn, nhưng những người lính khác không chịu bắn. Calley và Meadlo nhắc những lính Mỹ khác: “ Đi tới, bắn chúng nó đi.”. Meadlo ước tính anh đã bắn chết khoảng 15 người đứng ở vòng tròn đó. Anh nói với tôi: “Chúng tôi làm theo lệnh cấp trên, và nghĩ rằng điều chúng tôi làm là đúng. Lúc bấy giờ, tôi không thắc mắc gì về việc bắn giết cả.”. Trong lời khai, Meadlo nói anh rất bực tức với lệnh của Calley. Một người lính trong đại đội Charlie kể lại rằng sau khi Calley ra lệnh cho Meadlo canh chừng dân làng, anh Meadlo đã vui vẻ đứng chơi với lũ trẻ con, anh cho chúng kẹo. Nhưng khi Calley quanh trở lại ra lệnh ông muốn giết hết dân làng. Anh Meadlo trố mắt đứng nhìn Trung Úy Calley với sự ngạc nhiên không tin. Anh hỏi lại: “Giết sạch chúng ư?”. Khi Calley xác nhận giết sạch, anh Meadlo bắt đầu bắn dân làng, và anh ta khóc.
Ông Mike Wallace, ký giả đài truyền hình CBS tỏ ý quan tâm đến cuộc phỏng vấn của tôi, ông mời anh Meadlo lên kể lại câu chuyện trên đài truyền hình toàn quốc. Tôi ngồi coi đoạn phim phỏng vấn này tại ghế sa lông nhà anh Meadlo. Sáng hôm sau, tôi trở về New York cùng với vợ chồng anh Meadlo. Ở đó, chúng tôi có nhiều thì giờ tâm sự hơn. Anh Meadlo kể cho tôi nghe thời gian anh chữa bệnh trong bệnh viện của quân đội Mỹ ở bên Nhật. Khi trở về Mỹ, anh không hề hé răng nói chuyện gì về chiến tranh Việt Nam. Một đêm, theo lời kể của vợ anh, chị thức giấc và nghe tiếng khóc tức tưởi bên phòng ngủ của mấy đứa con. Chị bước sang xem chuyện gì xảy ra, chị trông thấy anh Paul, chồng chị đang nắm chặt đứa con gằn giọng, và khóc tức tưởi.
TÔI ĐƯỢC GEOFFREY COWAN, một luật sư phản chiến trẻ tuổi ở Hoa Thịnh Đốn mách cho biết về vụ giết người ở Mỹ Lai. Anh Cowan không biết nhiều chi tiết về vụ này, nhưng anh được một người lính Mỹ dấu tên nói với anh rằng lính Mỹ đã giết người thường dân Việt Nam một cách điên khùng. Trước đó ba năm, trong lúc làm việc cho hãng thông tấn AP phụ trách tin tức về Ngũ Giác Đài, tôi đã nghe các sĩ quan từ chiến trường trở về kể chuyện thường dân Việt Nam bị giết oan trong lúc chiến sự tiếp diễn. Một hôm trong lúc theo dõi nguồn tin do anh Cowan mách, tôi gặp một đại tá Bộ Binh còn trẻ. Ông này tôi quen khi còn làm việc ở Ngũ Giác Đài. Ông bị thương ở chân, trong khi chờ chữa lành vết thương, ông được vinh thăng lên cấp tướng. Hiện ông ngồi làm việc văn phòng, theo dõi tin tức chiến sự hàng ngày. Khi tôi hỏi thăm ông về tin tức liên quan đến người quân nhân dấu tên đưa tin về vụ thảm sát. Ông nhìn tôi với ánh mắt tức giận, nói như hét vào mặt tôi: “Thằng nhóc Calley đó chưa bao giờ bắn một ai cao hơn đầu gối tôi.”.
Nhờ ông buột miệng nói ra, tôi biết đến tên Calley, tên người tôi muốn tìm. Tại thư viện điạ phương, tôi tìm được tờ báo The New York Times, đăng tin Trung Úy Calley bị binh chủng Bộ Binh truy tố về tội giết người vì đã giết chết thường dân người Việt, không rõ con số bao nhiêu người. Tôi truy tìm tiếp, và biết được binh chủng Bộ Binh đã tạm dấu người Trung Úy này trong một khu gia cư sĩ quan trong trại lính Fort Benning, ở Columbus, tiểu bang Georgia. Lúc đó, một người trong Bộ Binh đã cho tôi xem nguyên văn bản án kết tội Calley. Người sĩ quan đã giết chết 109 “người Đông phương”.
http://www.pbs.org/wgbh/americanexperience/features/biography/mylai-biographies/ http://www.globalresearch.ca/seymour-hersh-exposes-us-government-lies-on-syrian-sarin-attack/5361034
Bên trái: Trung úy William Calley (1943- ) - Bên phải: ký giả Seymour Hersh.
Gặp mặt Calley, trông ông ta không có vẻ gì là ác độc, cuồng sát. Dáng người gầy, lúc nào cũng tỏ ra bối rối, ở lứa tuổi trên hai mươi, da mặt trắng xanh, nhợt nhạt. Ông cố làm ra vẻ là người hung tợn dữ dằn. Sau khi uống vài lon bia, ông kể cho tôi nghe ông và nhiều người lính khác đã đánh giặc và giết quân thù như thế nào ở Mỹ Lai, trong một trận đụng độ ác liệt. Chúng tôi ngồi nói chuyện suốt đêm. Có một lúc, ông Calley xin phép đi vào nhà vệ sinh. Ông lỡ để cánh cửa hé mở, và tôi trông thấy ông ta ói ra máu.
Tháng 11 năm 1969, tôi viết vài bài báo về Calley, Meadlo và vụ thảm sát. Tôi nhờ báoLife và báo Look  đăng, nhưng không được. Vì vậy tôi phải gửi cho một hãng thông tấn nhỏ ở Hoa Thịnh Đốn, chuyên đăng tin phản chiến, tên là Dispatch News Service. Đây là thời điểm nước Mỹ đang sôi sục vì có nhiều chuyện xáo trộn xảy ra. Richard Nixon thắng cử năm 1968, hứa sẽ tìm cách chấm dứt chiến tranh. Nhưng trong bụng ông ta muốn thắng cuộc chiến này bằng cách leo thang, và bí mật ném bom. Trong năm 1969, mỗi tháng số lính Mỹ tử trận ở Việt Nam lên đến 1,500 người, giống như con số tử vong trong năm trước. 
Những phóng viên chiến trường như Homer Bigart, Bernard Fall, David Halberstam, Neil Sheehan, Malcolm Browne, Francisc Fitzgerald, Gloria Emerson, Morley Safer, và Ward Just gửi về vô số bản tin chiến trường nói rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam không có căn bản đạo đức, chúng ta hoàn toàn thua về mặt chiến lược. Sự thực ngoài chiến trường khác hẳn với những điều giới chức quân sự và chính trị nói với công chúng ở Saigon và Hoa Thịnh Đốn. Ngày 15 tháng 11, hai ngày sau khi tôi gửi báo cáo về vụ thảm sát ở Mỹ Lai, một cuộc biểu tình chống chiến tranh lớn xảy ra ở Hoa Thịnh Đốn, tụ tập gần nửa triệu người. Phụ tá thân tín của Nixon, ông H.R Haldeman, viết phúc trình ghi nhận sự kiện này gửi lên Oval Office (Văn Phòng Tổng thống), 18 năm sau phúc trình này mới được tiết lộ. Báo cáo nói rằng ngày 1 tháng 12 năm 1969 khi tin tức về lời khai của Paul Meadlo được loan truyền, Nixon bật đèn xanh cho phụ tá sử dụng “đòn ma giáo” là phủ nhận lời khai của nhân chứng về vụ thảm sát. Qua đến năm 1971, khi bồi thẩm đoàn của binh chủng Bộ Binh kết án Calley về tội sát nhân, với  án tù chung thân khổ sai, Nixon can thiệp, ra lệnh thả Calley ra khỏi nhà tù của Bộ Binh, và đặt đương sự trong tình trạng “tù tại gia” để chờ duyệt lại án lệnh. Calley được trả tự doba tháng sau khi Nixon từ chức. Ông Calley ta dùng hết quãng đời còn lại phụ giúp cha vợ trông nom tiệm bán nữ trang ở Columbus, tiểu bang Georgia. Calley chỉ đồng ý trả lời những cuộc phỏng vấn nếu được trả tiền. Cuối cùng, mãi đến năm 2009, trong một bài diễn văn đọc ở Kiwanis Club, ông ta mới nói: “trong suốt thời gian  qua, không có ngày nào tôi không cảm thấy ân hận” về chuyện xảy ra ở Mỹ Lai, nhưng ông tự bào chữa rằng ông chỉ làm theo mệnh lệnh cấp trên “ một cách ngu xuẩn”. Năm nay Calley được 71 tuổi. Ông là người sĩ quan duy nhất bị kết tội trong vụ thảm sát ở Mỹ Lai.
Tháng Ba năm 1970, ban điều tra của Lục quân đưa ra bản cáo trạng dành cho 14 sĩ quan dính líu đến vụ Mỹ lai, gồm đủ mọi tội, từ tội sát nhân đến tội bất tuân lệnh. Một số tướng lãnh, và đại tá bị kết tội che dấu tài liệu về vụ thảm sát. Ngoài Calley ra, chỉ có một sĩ quan khác bị đưa ra toà  quân sự, sau đó, người sĩ quan này được xét là vô tội.
Vài tháng sau, khi những cuộc biểu tình phản chiến của sinh viên lên đến cực điểm- sinh viên biểu tình chống chiến tranh sau vụ Vệ Binh Quốc Gia bắn chết bốn sinh viên ở Ohio – tôi đọc một bài diễn văn chống chiến tranh ở trường Macalester College, thành phố St. Paul, Minnesota. Ông Hubert Humphrey trước đó là Phó Tổng thống trung thành với ông Lyndon Johnson, bấy giờ đang giảng dạy môn chính trị học tại đây. Ông bị Richard Nixon đánh bại trong cuộc tranh cử tổng thống vào năm 1968, có lẽ vì tên tuổi của ông dính liền với tên ông Johnson. Sau bài diễn văn, ông Humphrey đòi gặp tôi để nói chuyện. Ông nói: “Tôi không có vấn đề gì với ông cả ông Hersh à, ông có việc của ông, tôi có việc của tôi. Ông làm việc của ông giỏi lắm. Nhưng riêng cái vụ lũ sinh viên cứ reo hò câu nguyển rủa: “Hey, hey LBJ, hôm nay mày giết được mấy đứa trẻ.” Tôi không chịu nổi. Nói tới đây, mặt ông Humphrey đỏ bừng tức giận, và nói lớn lên: “Tổ cha chúng nó, chỉ nói bậy là giỏi.”.
CÁCH ĐÂY VÀI THÁNG, lần đầu tiên tôi cùng gia đình trở lại thăm Mỹ Lai, quân đội Hoa Kỳ gọi là “Ấp Mỹ Lai”. Trở lại thăm khung cảnh xảy ra tội phạm đối với người ký giả ở tuổi của tôi hẳn là mọi sự đã khác xưa nhiều lắm. Nhưng tôi vẫn cứ bị thôi thúc phải đi thăm Mỹ Lai một lần cho thoả trí tò mò. Ngày xưa, hồi năm 1970, tôi xin phép chính phủ Saigon mấy lần mà không được, bởi vì lúc đó Ngũ Giác Đài đang mở cuộc điều tra, nên họ cấm người ngoài lai vãng tới. Năm 1972, tôi gia nhập với đoàn ký giả của tờ The New York Times đi thăm Hà Nội, Bắc Việt. Năm 1980, năm năm sau khi Saigon sụp đổ, tôi  đi du lịch Việt Nam để thực hiện một vài cuộc phỏng vấn cho cuốn sách tôi đang viết cho tờ Times. Tôi cứ nghĩ rằng tôi đã biết hết mọi chuyện, hay ít ra cũng gần hết tin tức về vụ thảm sát này. Nhưng rốt cuộc tôi đã lầm.
Mỹ Lai nằm ở miền Trung Việt Nam, không xa quốc lộ 1, nối liền Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, tức là Saigon ngày trước, như mọi người vẫn quen gọi. Phạm Thành Công là giám đốc bảo tàng viện Mỹ Lai. Ông là người sống sót trong vụ thảm sát này. Khi mới gặp ông Công lần đầu, ông ta kể cho tôi nghe rất ít về kinh nghiệm bản thân của ông trong vụ thảm sát này. Ông chỉ nói với một giọng đều đều những câu viết sẵn quen thuộc. Ông có dáng người mạnh khoẻ, to lớn, ở lứa tuổi trên 50. Ông nói đúng theo sách vở tuyên truyền như sau: “Người Việt nam chúng tôi luôn luôn chào đón du khách. Chúng tôi tha thứ cho lỗi lầm trong quá khứ, nhưng chúng tôi không quên những đau đớn chúng tôi từng gánh chịu.”.  Sau đó, khi chúng tôi bước ra ngoài viện bảo tàng, ngồi nghỉ chân trên chiếc ghế băng, ông Công mô tả lại vụ thảm sát mà ông chứng kiến.
http://www.baomoi.com/Cuoc-Tham-sat-My-Lai-Lan-dau-tien-duoc-ke-qua-hoi-ky-cua-mot-nhan-chung/152/13319104.epi
Thời thơ ấu của ông Phạm Thành Công. Ảnh baomoi.com
Lúc bấy giờ, Công là một đứa trẻ 11 tuổi. Khi máy bay trực thăng Mỹ đổ bộ xuống làng, Công cùng với mẹ và bốn anh chị em chạy xuống hầm trú ẩn ở trong căn nhà mái tranh. Lính Mỹ ra lệnh cho sáu mẹ con phải ra khỏi hầm trú ẩn, rồi lại bắt họ chui xuống hầm trở lại, và liệng trái lựu đạn xuống hầm, bắn súng M-16 xuống hầm để giết tất cả. Công bị thương ở ba chỗ: trên đầu, bắp đùi bên phải, và chân phải. Công bị ngất đi. Khi tỉnh dậy, Công thấy mình đang nằm trên một đống xác, gồm có mẹ của Công, ba chị em gái, và đứa em trai sáu tuổi. Lính Mỹ nghĩ rằng Công cũng đã chết. Đến chiều, khi máy bay trực thăng của lính Mỹ đã đi khỏi, cha của Công và một số dân làng còn sống sót, quanh trở lại để chôn cất người chết. Cha của Công tìm thấy Công.  
Về sau, trong lúc ngồi ăn trưa với gia đình tôi, ông Công nói với tôi: “Tôi sẽ không bao giờ quên được nỗi đau đớn.” Và với việc làm hiện tại, ông ta không thể bỏ qua những kỷ niệm cũ sang một bên. Ông Công kể thêm cho tôi biết cách đây vài năm có một cựu chiến binh Mỹ tên là Kenneth Schiel đến thăm Mỹ Lai. Ông ấy ghé vào xem bảo tàng viện. Ông ta là người lính duy nhất của Đại Đội Charlie quanh trở lại Mỹ Lai. Kỳ này ông ấy đến nhân danh ký gỉả đi làm phóng sự tài liệu cho đài truyền hình Al Jazeera, để kỷ niệm 20 năm ngày xảy ra vụ thảm sát. Schiel đăng lính vào Bộ Binh sau khi tốt nghiệp trung học ở tỉnh Swartz Creek, một tỉnh nhỏ gần Flint, tiểu bang Michigan. Sau  vụ thảm sát ở Mỹ Lai, Schiel bị kết tội giết chết 9 dân làng. (Bản án sau đó được hủy bỏ).
Đoạn phim tài liệu mô tả cuộc đối thoại giữa Schiel với ông Công, và chỉ giới thiệu Schiel là một cựu chiến binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, không hề nói ông ta từng tham dự vào vụ Mỹ Lai. Trong đoạn phim này, Schiel nói với người phỏng vấn: “Hỏi rằng tôi có bắn chết người không? Tôi trả lời rằng tôi đã bắn cho đến khi tôi nhận ra là mình sai. Tôi không xác nhận tôi có bắn dân làng hay không.” Ông ta cũng không trực tiếp nói với ông Công về việc này, mặc dù sau đó ai cũng biết ông là người tham dự cuộc bắn giết  ở Mỹ Lai. Schiel nhắc đi nhắc lại đôi ba lần rằng ông muốn “xin lỗi người dân làng Mỹ Lai.”. Nhưng ông không chịu đi xa hơn. Ông nói: “Tôi vẫn thắc mắc tự hỏi vì sao sự việc lại xảy ra như vậy. Tôi không biết.”.
Ông Công gặng hỏi Schiel: “Anh nghĩ sao khi anh cầm súng bắn vào người dân vô tội? Việc đó có khó cho anh không?”. Schiel trả lời rằng ông ta không phải là một trong những người lính Mỹ bắn vào thường dân. Công bèn trả lời: “Như vậy có lẽ tôi mời ông đến nhà để ông bắn chết bà con của tôi hay sao?”.
Bản sao của cuốn phim hiện đang được lưu trữ trong bào tàng viện, chứa đựng mẩu đối thoại trên. Nhiều lần Schiel nói: “Điều duy nhất tôi có thể làm được bây giờ là xin lỗi.” Ông Công cứ vặn hỏi thêm, và Schiel tiếp tục nói hai chữ: “Sorry, sorry.” Khi ông Công hỏi bắn người xong, anh về trại lính, anh ăn có ngon không. Schiel bắt đầu khóc, và năn nỉ: “Làm ơn đừng hỏi thêm câu nào nữa, tôi giữ bình tĩnh không được nữa đâu.” Sau đó Schiel yêu cầu ông Công cùng làm lễ khấn vong linh những người chết với ông ta để tưởng niệm 20 năm ngày xảy ra vụ thảm sát.
Ông Công thẳng tay từ chối, và nói: “Dân trong làng sẽ cảm thấy xấu hổ, và tức giận nếu họ biết rằng ông là một trong những người tham dự vào cuộc thảm sát.”.
Trước khi rời khỏi bào tàng viện, tôi hỏi ông Công vì sao ông tỏ ra khó khăn quá đối với Schiel như vậy. Nét mặt của ông trở nên cứng cỏi hơn. Ông nói rằng ông không ưa việc an ủi sự đau khổ của người lính Mỹ trong vụ Mỹ Lai vì ông đó không hoàn toàn nhận lỗi về việc làm của mình. Cha của Công là một cán binh Việt Cộng, sống với Công sau vụ thảm sát. Đến năm 1970 ông ta bị quân đội Mỹ giết trong một cuộc hành quân. Công phải sống nhờ vào bà con, suốt ngày lo việc chăn trâu, chăn bò. Mãi đến khi chiến tranh chấm dứt, Công mới được cắp sách đi học. 
Khi đọc những con số thống kê mà ông Công thu thập để ghi trong bảo tàng viện, người đọc phải tìm hiểu thêm mới biết được. Tên tuổi người chết được ghi trên tấm “plaque” bằng đá cẩm thạch, chiếm gần hết gian phòng triển lãm. Theo con số của bảo tàng viện có 504 người là nạn nhân, thuộc 247 gia đình. Hai mươi bốn gia đình bị hoàn toàn chu diệt- ba thế hệ cùng bị giết, không một người sống sót. Trong số người chết có 182 người phụ nữ, trong đó 17 người đang mang thai. 173 trẻ em bị hành quyết, trong đó có 56 em là trẻ sơ sinh. Sáu chục ông gìa bị chết. Con số trưng bầy trong viện bảo tàng này không phải là con số nạn nhân ở riêng làng Mỹ Lai (tên chính thức của nó là Mỹ Lai 4) nhưng còn thêm cả nạn nhân ở khu định cư kế bên, người Mỹ gọi là làng Mỹ Khê 4. Khu định cư này cách Mỹ Lai một dậm về phía đông, và bị Đại Đội Bravo lính Mỹ tấn công.  Bảo tàng viện liệt kê 407 nạn nhân ở làng Mỹ Lai 4, và 97 nạn nhân ở làng Mỹ Khê 4.
Qua sự việc này chúng ta thấy rõ những gì xảy ra ở Mỹ Lai 4 là chuyện xảy ra rất thường ở nơi khác, tuy nhiên, con số nạn nhân ít hơn. Như trường hợp Đại Đội Bravo, đơn vị tấn công vào làng cũng chính là Lực Lượng Đặc Nhiệm Baker - giống như trong Đại Đội Charlie. Cuộc hành quân tấn công vào hai làng đều nằm trong kế hoạch hành quân của sư đoàn American Division, Lực Lượng Đặc Nhiệm, đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Samuel Koster. Ông tướng này đi ra đi vào những ngôi làng bị tấn công nhiều lần trong ngày để theo dõi tình hình.
Tình hình chiến sự lúc bấy giờ hết sức tồi tệ. Vào năm 1967, chiến cuộc xảy ra bất lợi trên khắp các tỉnh miền Nam. Đặc biệt ba tỉnh cực bắc trung phần: Quảng Ngãi, Quảng Nam và Quảng Trị. Ba tỉnh này được coi được coi là bất trị, chính phủ trung ương trong miền Nam không kiểm soát nổi. Ba tỉnh coi như đã rơi vào tay Việt Cộng và quân chính quy miền Bắc. Quảng Trị là tỉnh bị ăn bom nhiều nhất. Máy bay Mỹ còn rải thuốc khai quang, dùng nhiều hoá chất độc hại, và chất Da Cam, hay Agent Orange.  
TRONG CHUYẾN ĐI VIỆT NAM GẦN ĐÂY, tôi ra thăm Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam thống nhất. Một số sĩ quan hồi hưu, và đảng viên Cộng Sản nói với tôi rằng vụ thảm sát Mỹ Lai giúp Bắc Việt thắng được cuộc chiến tranh. Bởi vì nhờ đó mà phong trào phản chiến ở Mỹ được lớn mạnh. Tôi nghe nói nhiều lần rằng vụ Mỹ Lai là trường hợp duy nhất đáng kể bởi vì qui mô của vụ thảm sát. Câu nói đánh giá thẳng thừng nhất về vụ Mỹ Lai do bà Nguyễn Thị Bình đưa ra. Ở Việt Nam, người ta thường gọi là Bà Bình. Hồi đầu thập niên 1970, bà Bình là trưởng phái đoàn ngoại giao của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đi dự hoà đàm Paris. Bà nổi tiếng vì lối nói bộc trực, và dáng điệu sắc bén thông minh của bà. Năm nay bà Bình được 87 tuổi, bà về hưu, không còn giữ một chức vụ công nào, sau khi đã làm Phó Chủ Tịch nước trong hai nhiệm kỳ. Tuy nhiên, bà vẫn còn trực tiếp tham gia vào hoạt động từ thiện liên quan đến nạn nhân chiến tranh, những nạn nhân của thuốc khai quang, và chất Da Cam Agent Orange. Nhiều người trở nên tật nguyền, hay dị dạng vì hoá chất độc hại này.
Bà Bình nói với tôi: “Tôi nói thật với ông rằng vụ Mỹ Lai chỉ trở nên quan trọng ở Mỹ chỉ vì nó do một người Mỹ viết.”. Thực vậy, vài tuần sau vụ thảm sát, một phát ngôn viên của phái đoàn Bắc Việt ở hoà đàm Paris đã mô tả chi tiết sự kiện này, nhưng không ai để ý, bởi vì câu chuyện bị coi là một hành động tuyên truyền. Bà Bình nói thêm với tôi bằng tiếng Pháp: “Tôi nhớ rõ lắm. Phong trào phản chiến ở Mỹ lớn mạnh vì vụ Mỹ Lai. Nhưng ở Việt Nam, không phải chỉ có một vụ Mỹ Lai, mà còn có nhiều vụ khác tương tự..”.
Một buổi sáng, tôi ngồi uống cà phê với ông Võ Cao Lợi ở bãi biển Đã Nẵng. Đây là một thành phố cảng ở miền Trung với dân số khoảng một triệu người. Ông Lợi là một trong những người sống sót sau vụ Đại Đội Bravo tấn công làng Mỹ Khê 4. Ông kể cho tôi nghe qua lời thông dịch viên, khi đó ông ta mới được 15 tuổi, mẹ của ông “linh cảm” sẽ có chuyện không hay xảy ra khi bà nghe tiếng máy bay trực thăng bay gần đến làng. Ông kể thêm: “Bỗng dưng sao lại có máy bay Mỹ đến làng. Trước khi đến, chúng thường bắn pháo, và bỏ bom cầy nát trong làng, rồi mới đổ quân xuống.” Lính Mỹ và lính quân đội Nam Việt Nam từng vào làng hành quân nhiều lần, nhưng lần này họ đuổi tất cả dân làng ra ngoài. Lợi cũng phải đi theo mẹ. Ông có hai người anh trai đã đi bộ đội theo Việt Cộng. Một người mới bị giết trước đó sáu ngay trong cuộc đụng độ. Ông Lợi kể rằng mẹ của ông lôi ông đi theo vì bà sợ rằng khi đó ông đã lớn, có thể bị quân đội Nam Việt bắt đi lính. Ông kể tiếp: “Tôi đi về phía con sông, mới đi được chừng 50 thước, tôi nghe có tiếng súng bắn. Tôi sợ quá, nằm núp im dưới mé sông cho đến chiều tối. Tôi quanh về nhà để chôn mẹ tôi và bà con trong xóm.”.
Hai ngày sau, Việt Cộng đến rủ Lợi đi bộ đội. Họ đem Lợi vào bộ chỉ huy đặt trên núi phía tây. Lúc đó, Lợi còn nhỏ quá để đi bộ đội, nhưng cậu bé được đưa đến trước đơn vị bộ đội tỉnh Quảng Ngãi thuật lại chuyện lính Mỹ giết dân làng Mỹ Khê, nhằm khơi dậy lòng phẫn uất của cán binh. Cuối cùng, Lợi cũng đi bộ đội, và chiến đấu cho đến ngày chiến tranh kết thúc. Máy bay trinh sát Mỹ và lính Mỹ thường xuyên theo dõi truy lùng đơn vị bộ đội của Lợi. Lợi kể cho tôi nghe: “Đơn vị chúng tôi liên tục rời bộ chỉ huy mỗi khi nghe nói lính Mỹ đến gần. Cách tổ chức đơn vị bộ đội gồm có ba vòng. Vòng trong cùng dành cho các cấp lãnh đạo, chỉ gồm những người tuyệt đối trung thành. Chỉ có tư lệnh sư đoàn mới được ở vòng trong cùng. Khi họ di chuyển, họ ăn mặc giống như bộ đội thường, không ai biết họ là cấp chỉ huy. Họ đi đến các làng gần bên để ẩn náu. Có trường hợp lính Mỹ giết được cấp chỉ huy, nhưng họ không hề biết rằng họ đã giết được cấp lãnh đạo.”. Khi nói về quân đội Mỹ, Lợi cho biết các sĩ quan Việt Cộng thường thổi phồng con số lính Mỹ bị giết để khích lệ tinh thần cán binh. 
Lợi nói rằng vụ tàn sát thường dân ở Mỹ Lai và Mỹ Khê vô cùng tàn bạo, nên đã khơi dậy lòng căm phẫn, nâng cao tinh thần chiến đấu của cán binh Việt Cộng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Được hỏi vì sao các sĩ quan lãnh đạo quân đội Mỹ lại dễ dàng tha thứ cho cấp dưới làm những chuyện tàn ác như vậy. Lợi trả lời rằng ông ta không biết. Song ông tin rằng cấp chỉ huy quân đội Mỹ phải chịu trách nhiệm về việc làm của binh lính dưới quyền. Lợi nói: “Người lính chỉ biết thi hành mệnh lệnh, và phải làm đúng theo nhiệm vụ của mình.”.
Lợi cho biết ông vẫn đau lòng về cái chết của người thân trong gia đình, và thỉnh thoảng ông vẫn có những cơ ác mộng về vụ thảm sát này. Nhưng khác với ông Công, Lợi có ngay một gia đình đỡ đầu. Ông nói: “Bộ đội Việt Cộng thương yêu, đùm bọc tôi, và dạy dỗ tôi.”. Tôi nói cho Lợi nghe về sự tức giận của ông Công đối với Kenneth Schiel, ông Lợi phân trần: “Dù rằng kẻ thù có làm gì đi nữa, mình cũng nên tha thứ cho chúng để còn nhìn về tương lai.”. Sau chiến tranh, Lợi được gia nhập Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân, quân chính qui, chủ lực của Việt Nam. cuối cùng, ông ta về hưu với quân hàm Đại Tá sau 38 năm ở trong quân đội. Hiện nay ông và bà vợ làm chủ một quán cà phê ở Đà Nẵng.
GẦN 70% DÂN SỐ VIỆT NAM hiện nay ở lứa tuổi dưới 40. Mặc dù ảnh hưởng của cuộc chiến ngày xưa vẫn còn là đề tài để bàn, song nó chỉ dành cho những người lớn tuổi. Du khách Mỹ đến thăm Việt Nam nườm nượp. Đó là nguồn lợi lớn cho nền kinh tế. Nếu lính Mỹ có can tội giết người tập thể, thì của đáng tội, trước đó người Pháp và người Tầu cũng phạm tội diệt chủng ở Việt Nam. Nói theo cách nói ngoại giao hiện nay thì ít ra  người Mỹ cũng là bạn, có tiềm năng sẽ giúp Việt Nam chống lại Trung quốc ở phương bắc. Hàng ngàn người Việt làm việc cho Mỹ, hay làm việc chung với người Mỹ đã chạy thoát khỏi Việt Nam hồi năm 1975. Một số con cái của những người này đi ngược lại chủ trương của cha mẹ. Họ trở về Việt Nam, mặc dù họ biết ở Việt nam hiện đang có rất nhiều tệ nạn, ví dụ như tham nhũng tràn lan, và chính quyền kiểm soát đủ thứ.
ợng đài kỷ niệm vụ thảm sát Mỹ Lai
Nguyễn Qúi Đức, một nhà văn, một ký giả 57 tuổi hiện đang khai thác một quán rượu, nhà hàng nổi tiếng ở Hà Nội. Ông là người đã trốn thoát khỏi Việt nam hồi năm 1975. Ba mươi mốt năm sau, ông quay trở lại Việt Nam. Hồi còn ở San Francisco, ông là một ký giả đoạt nhiều giải thưởng, và là một nhà làm phim tài liệu nổi tiếng. Ông nói với tôi: “Lúc nào tôi cũng muốn quanh trở về và sống ở Việt nam. Tôi cảm thấy mình thiếu cái gì đó khi bỏ nước ra đi ở lứa tuổi 17, và sống như mọi người khác tại Hoa Kỳ. Tôi cám ơn những cơ hội mà nước Mỹ đã cho tôi, nhưng tôi vẫn cần một tình cảm dân tộc. Tôi đến Hà Nội lần đầu tiên trong tư cách một phóng viên của đài NPR, và tôi mê ngay cái thành phố này.”.
Ông Đức cũng nói với tôi rằng, giống như nhiều người Việt khác, ông phải tập thói quen chấp nhận sự tàn bạo của chiến tranh. Ông nói: “Lính Mỹ đã làm những hành vi giết người tàn bạo, nhưng chuyện đó vẫn thuờng xảy ra khi có chiến tranh. Và đó là sự thật mà người Việt không thể chất chứa mãi trong lòng. Người Việt nam chúng tôi có một thái độ ứng xử thực tế là hãy quên đi kẻ thù xấu để có được bạn tốt.”.
Trong thời chiến, thân phụ của ông Đức, cụ Nguyễn Văn Đãi, và Đại Biểu Chính Phủ ở Miền Trung, một chức vụ khá lớn trong chính phủ miền nam Việt Nam. Cụ bị Việt Cộng bắt đi hồi năm 1968, và bỏ tù cho đến năm 1980. Năm 1984, với sự giúp đỡ của một nhà ngoại giao Mỹ, ông Đức đã xin cho cha của mình sang Mỹ đoàn tụ với gia đình ở California. Ông Đức xa người cha trong 16 năm trời. Ông nói khi đến phi trường đón cha, ông lo lắng cho tình trạng sức khoẻ của cha. Ông cụ bị đưa đi biệt giam trong nhà tù của Cộng Sản ở gần biên giới Trung Hoa, ông cụ bị bại liệt hai chân. Ra đón cha, ông Đức lo không biết ông cụ có phải ngồi xe lăn hay không, và đầu óc có tỉnh táo hay không? Cha của ông Đức đến vào lúc ở California đang có cuộc tranh cử vòng bộ của đảng Dân chủ chọn ứng viên tổng thống. Ông cụ bước ra khỏi máy bay, và mừng rỡ khi gặp con trai. Ông cụ hỏi ngay: “Liệu Jesse Jackson có được phiếu nào không con?”. Ông cụ làm cán sự xã hội và sống thêm được 16 năm trước khi mất.
MỘT SỐ CỰU CHIẾN BINH MỸ cũng sang Việt nam để sinh sống. Ông Chuck Palazzo lớn lên trong một gia đình có nhiều sóng gió, trên đường Arthur Avenue, khu Bronx, New York. Sau khi bỏ học ở trường trung học, ông đăng lính, xin đi Thủy Quân Lục Chiến. Vào mùa Thu năm 1970, sau một năm huấn luyện ông được phái đi trong đơn vị trinh sát thứ dữ. Nhiệm vụ của đơn vị này là kiểm tra tin tức tình báo để nã súng cối vào điạ điểm của Việt Cộng vào ban đêm, và xông vào tấn công vào ban ngày. Có khi ông và đồng đội phải nhảy dù vào giữa vùng giao tranh. Trong một lần ngồi uống bia với tôi ở Đà Nẵng, nơi ông đang sống, và làm việc, ông Palazzo kể với tôi rằng: “Tôi từng tham dự nhiều trận đánh dữ dội với quân chính quy Bắc Việt cũng như với Việt Cộng. Nhiều đồng đội bị chết trong lúc giao tranh.”. Ông kể tiếp với tôi: “Nhưng rồi những đụng độ, trận mạc cũng qua đi. Tôi bắt đầu đọc sách, tìm hiểu về chính trị của cuộc chiến tranh, và một sĩ quan đã nói riêng với tôi rằng cuộc chiến tranh này là sai, là vô nghĩa. Người sĩ quan đón tôi: “Hãy ráng giữ mình và rút chân ra khỏi cuộc chiến cà chớn này.”.
Lần đầu tiên Palazzo đến Đà Nẵng vào năm 1970, và anh lính trẻ trông thấy những quan tài chở lính Mỹ sắp hàng đưa lên máy bay. Khi đó anh mới biết mình đang ở giữa chiến tranh. Mười ba tháng sau, anh ta mới lên máy bay trở về Mỹ, nhưng tên của anh không có trong danh sách hành khách. Sau vài phút cãi cọ, người sắp xếp chuyến bay cho anh nói rằng nếu anh muốn lên máy bay về Mỹ, anh phải ngồi trong máy bay chở quan tài, loại C-141. Và anh đã về Mỹ trên chuyến máy bay chở hàng kỳ quái đó.
Sau khi rời khỏi binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, anh Palazzo đi học đại học, và lấy được văn bằng trở thành chuyên viên điện toán. Nhưng giống như nhiều chiến binh khác, anh trở về đời sống dân sự với những khủng hoảng hậu tai biến, và anh mắc vào vòng nghiện ngập. Hôn nhân của anh bị đổ vỡ. Anh bị mất việc. Năm 2006, anh làm một quyết định “hết sức ích kỷ” là quanh trở lại thành phố Sài Gòn cũ mà bây giờ họ gọi là thành phố Hồ Chí Minh để tự chữa bệnh cho mình. Anh nói không ngờ đó là cách rất hay để anh chống trả lại chứng bệnh khủng hoảng sau tai biến, còn gọi là PTSD. Anh trực diện đối đầu với những bóng ma anh hay gặp trong cơn mê. Cuộc trở lại đầu tiên khiến anh khoái và mê người Việt. Palazzo đang cố gắng làm tất cả những gì anh có thể làm được để giúp nạn nhân của chất Da Cam- Agent Orange.
Ở Hà Nội, tôi gặp Chuck Searcy, một người đàn ông gầy, tóc bạc, 72 tuổi. Ông là người gốc tiểu bang Georgia. Cha của Searcy trước đây từng bị ngườì Đức bắt làm tù binh trong mặt trận Bulge, và Searcy không tìm cách trốn lính để khỏi phải đi đánh nhau ở Việt Nam. Ông nói với tôi: “Tôi cứ nghĩ rằng Tổng Thống Johnson và các vị dân biểu, nghị sĩ ở Quốc Hội biết rõ những gì chúng ta làm ở Việt Nam.” Năm 1966, Searcy bỏ ngang chương trình học ở đại học  để đăng lính. Ông làm chuyên viên viên phân tích tin tức tình báo, một đơn vị ở gần phi trường Saigon. Mỗi ngày ông phân tích, đánh giá, thẩm lượng tin tình báo và viết phúc trình.
Ông Searcy tâm sự với tôi: “Chỉ trong vòng ba tháng, tôi nhận ý nghĩa của cuộc chiến, bộ mặt thật của nó. Đang từ một cậu thanh niên Georgia yêu nước nồng nàn, tôi đâm hoài nghi về việc làm của nước tôi. Những tin tức tinh báo tôi ngồi phân tích hàng ngày cho thấy có sự dối trá tồi tệ về mặt trí thức.” Người Miền Nam rõ ràng không biết chút xíu gì về việc tin tức tình báo được thu thập như thế nào. Một đồng nghiệp của tôi ra chợ mua một con cá ở Saigon, và ông trông thấy tờ giấy gói con cá chính là mảnh giấy viết báo cáo tin mật trong đơn vị của ông. Ông Searcy nói với tôi: “Khi tôi rời khỏi Việt Nam vào tháng Sáu năm 1968, tôi cảm thấy tức tối, và cay đắng vô cùng.”.
Ông Searcy đi Âu châu để làm cho xong phần còn lại của nghĩa vụ quân sự trong Bộ Binh. Khi trở về Mỹ, ông hoàn toàn thất vọng về việc làm của mình trong quân đội. Ông kể với tôi: “Cha tôi nghe tôi nói về chiến tranh, ông đâm ra hoài nghi. Ông hỏi tôi phải chăng tôi bị tẩy não và đi theo Cộng Sản? Ông và mẹ tôi chửi tôi rất nặng, và không coi tôi là đứa con của ông bà, bởi vì tôi không còn là người Mỹ yêu nước nữa. Hai người đuổi tôi ra khỏi nhà.”. Searcy cắp sách đi học đại học, tốt nghiệp trường University of Georgia, làm việc cho tờ báo ở Athens, Georgia. Sau đó, ông tham gia vào hoạt động chính trị, và chính sách công quyền. Ông từng làm phụ tá cho Dân Biểu Wyche Fowler, của đảng Dân chủ ở tiểu bang Georgia.
Năm 1992, Searcy đi du lịch Việt Nam, và quyết định gia nhập với một nhóm cựu chiến binh Mỹ đang làm việc ở đây. Ông tâm sự với tôi: “Tôi biết, ngay từ lúc rời khỏi Việt Nam hồi năm 1968, sẽ có một ngày tôi trở lại đất nước này, hy vọng khi đó có hoà bình. Lúc bấy giờ tôi luôn luôn mang cảm tưởng là mình đã bỏ rơi người Việt Nam, phó mặc vùng đất này cho một số phận thê thảm. Người Mỹ đã phần nào chịu trách nhiệm vì gây ra điều oan nghiệt cho người Việt. Cảm nghĩ đó lúc nào cũng vấn vương trong tâm khảm của tôi.”. Ông Searcy làm việc trong chương trình tháo gỡ mìn. Hoa Kỳ đã ném bom ở Việt Nam với số lượng gấp ba lần số bom họ ném trong Thế Chiến Thứ Hai. Trong khoảng thời gian từ lúc chấm dứt chiến tranh cho đến năm 1998, hơn 100,000 người Việt bị chết, hay bị thương vì đạp phải mìn chưa nổ. Trong hơn hai thập niên, Hoa Kỳ từ chối không bồi thường thiệt hại gây ra bởi bom đạn, hay độc tố Da Cam, mặc dù hồi năm 1996, chính phủ Mỹ có cho ít tiền để tài trợ cho chương trình gỡ mìn. Từ năm 2001 đến năm 2011, quỹ Viet Nam Veterans Memorial Fund cũng giúp tài trợ cho chương trình gỡ mìn. Ông Searcy phân tích: “Rất nhiều cựu chiến binh Mỹ tin rằng chúng ta cần phải nhận một phần trách nhiệm về việc làm của mình.”. Chương trình gỡ mìn dạy cho người Việt, nhất là dân ở đồng ruộng và trẻ em, biết sự nguy hiểm của các loại vũ khí chưa nổ. Do đó, mức độ thương vong giảm đi rất nhiều.
Quan niệm của Searcy về cuộc chiến tranh phi lý đã được minh chứng trước khi quá trễ. Cha của ông gọi điện thoại cho ông, và kêu ông về nhà ngồi uống cà phê với cụ. Hai vợ chồng cụ đã từ đứa con trai, đuổi Searcy ra khỏi nhà, bây giờ họ mời Searcy về. Ông nói với tôi: “Cha tôi và bà cụ bắt đầu nói chuyện lại với tôi. Họ bảo tôi rằng tôi đúng, và họ sai. Bây giờ họ mời tôi về nhà nói chuyện.”. Ông Searcy quanh về nhà ngay lập tức. Từ đó, ông sống gần với cha mẹ đến ngày hai cụ qua đời. Ông Searcy đã hai lần ly dị, và trong một e mail, ông tâm sự với tôi: “Tôi ráng cưỡng lại sự tử tế của một người Việt để không lập gia đình thêm một lần nữa.”.
CÒN CÓ NHIỀU THỨ KHÁC ĐỂ HỌC Ở VIỆT NAM. Vào đầu năm 1969, đa số lính trong Đại Đội Charlie đã về Mỹ, hay được gửi đi đơn vị chiến đấu khác. Việc che dấu vụ thảm sát này có kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, không hiểu vì sao, vào lúc đó lại có một cựu quân nhân Bộ Binh hết sức can đảm, tên là Ronald Ridenhour. Anh ta cả gan viết xuống từng chi tiết vụ của sự việc, anh gọi là “vụ thảm sát đen tối và đẫm máu.”. Anh gửi bản sao bài báo cáo đến cho 30 viên chức cao cấp trong chính quyền và một số Dân Biểu, Nghị Sĩ trong Quốc Hội. Chỉ trong vòng vài tuần, lá thư của anh đến tay bộ chỉ huy quân sự của Hoa Kỳ  ở Việt Nam.
Trong chuyên đi Hà Nội mới đây của tôi, viên chức chính phủ Việt Nam đề nghị tôi nên ghé vào văn phòng tỉnh Quảng Ngãi, trước khi lái xe xuống Mỹ Lai, cách đó vài dặm. Tại đây tôi được tặng cho một cuốn sách vừa mới xuất bản, hướng dẫn du khách về tỉnh Quảng Ngãi. Trong cuốn sách này có một bài mô tả một vụ thảm sát khác do lính Mỹ làm ở làng Trường Lệ, nằm bên ngoài tỉnh Quảng Ngãi. Theo bài báo trong cuốn sách này vào sáng ngày 18/4/1969 một Trung đội lính Mỹ hành quân theo kiểu “truy lùng và diệt địch” ở làng Trường Lệ, chưa đầy một năm sau vụ Mỹ Lai. Lính Mỹ đã lôi phụ nữ và trẻ con ra khỏỉ nhà, và châm lửa đốt nguyên cả làng. Ba giờ sau, lính Mỹ quanh trở lại, và giết chết 41 trẻ em, 22 phụ nữ, chỉ có 9 người sống sót. Rõ ràng là sau khi xảy ra vụ Mỹ Lai, chẳng có gì thay đổi khác trước.
Năm 1998, vài tuần trước ngày kỷ niệm 30 năm xảy ra vụ Mỹ Lai, một viên chức hồi hưu của Ngũ Giác Đài, ông W. Donald Stewart cho tôi xem một phúc trình chưa hề được công bố, do ông soạn vào hồi tháng 8 năm 1967. Phúc trình đó nói rằng đa số lính Mỹ ở Việt nam không hiểu trách nhiệm của mình như thế nào chiếu theo Công Ước Geneve. Khi đó, ông Stewart đang là trưởng ban điều tra của Văn Phòng Tổng Thanh Tra tại Ngũ Giác Đài. Phúc trình của ông là kết quả của nhiều tháng đi công tác, và phỏng vấn rất nhiều người. Bản phúc trình này được thực hiện theo lệnh của ông Robert McNamara, Bộ Trưởng Quốc Phòng dưới thời hai tổng thống Kennedy và Johnson. Bản phúc trình của Stewart nói rằng nhiều lính Mỹ khi được phỏng vấn nói rằng: “họ cảm thấy hoàn toàn tự do diễn dịch, gỉai thích Công Ước Geneve theo ý của họ…Chính những người lính trẻ thiếu kinh nghiệm này tha hồ muốn giết hay đối xử tàn bạo với tù nhân chiến tranh theo kiểu nào tùy ý mặc dù đã có chỉ thị nói rằng họ phải làm theo luật quốc tế.”
Ông McNamara thôi làm người lãnh đạo Ngũ Giác Đài vào tháng Hai năm 1968, và bản phúc trình này chưa bao giờ được công bố. Sau này, ông Stewart cho tôi biết lý do vì sao bản báo cáo này bị dấu kín. Ông phân tích: “Người ta gửi ra chiến trường những thanh niên mới 18 tuổi đầu, và chúng tôi không muốn họ tìm ra rằng những người lính trẻ đó đã cắt tai quân địch. Tôi sang Nam Việt Nam để điều tra sự việc, trở về trong lòng nặng chĩu vì thấy sự việc xảy ra hết sức bừa bãi, không kiểm soát nổi…Tôi biết vụ Calley, biết rõ lắm.”.
Thì ra chính ông Robert McNamara cũng biết có những vụ giết người, tàn sát xảy ra. Tôi không hề hay biết gì về báo cáo của Stewart khi tôi viết bài tường thuật về vụ Mỹ Lai năm 1968, nhưng tôi biết rằng ông McNamara đã được cảnh báo về tệ nạn giết người như thế này từ nhiều năm trước xảy ra ở miền Trung Việt Nam. Sau bài viết đầu tiên của tôi về vụ Mỹ Lai được đăng báo, anh Jonathan Schell, lúc bấy giờ là một ký giả trẻ tuổi của tuần báo The New Yorker đã xuất bản  một bài phân tích tai hại về những vụ ném bom không ngừng xảy ra cho tỉnh Quảng Ngãi, và các tỉnh lân cận. Anh Schell qua đời năm ngoái, trước đó, anh có điện thoại nói chuyện với tôi. Anh kể rằng bài phân tích của anh, về sau biến thành cuốn sách mang tựa đề “The Military Half” mô tả rằng  giới chức quân sự Hoa Kỳ ở Việt nam tin rằng Việt Cộng nhất định cố thủ ở miền Trung, và được sự tiếp viện rất hùng hậu. Do đó, họ cương quyết sẽ tàn phá kịch liệt vùng này, không phân biệt quân đội và thường dân có mặt ở trong khu vực, gồm có làng Mỹ Lai.
Schell quay trở về Mỹ vào năm 1967. Trong lòng anh tan nát, tơi bời vì những gì anh chứng kiến. Anh xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc ở New York. Cha của anh là một luật sư cho giới tài chánh ở Wall Street. Ông cụ rất rộng lượng, nổi tiếng trong các sinh hoạt bảo trợ mỹ thuật. Khi đi nghỉ hè ở khu Martha’s Vineyard, chỉ dành riêng cho giới qúi tộc Mỹ, ông cụ là hàng xóm của ông Jerome Winesner, cố vấn về khoa học cho Tổng thống John F. Kennedy. Ông Wiesner lúc bấy giờ là Chủ tịch đại học tổng hợp Massachusetts Institute of Technology (M.I.T). Chính ông là người tham gia vào dự án lập hàng rào điện tử McNamara, ngăn chặn Bắc Việt chuyển vận quân nhu, vũ khí vào miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh. (Hàng rào điện tử này chưa bao giờ được hoàn thành). Anh Schell ngồi kể hết cho giáo sư Wiesner những gì anh trông thấy ở Việt nam. Giáo sư Wiesner cũng chia sẻ sự bất mãn chán chường của anh. Ông cố thu xếp cho anh được gặp ông McNamara để trình bầy tất cả sự việc.
Ít lâu sau anh Schell có dịp bàn luận với ông Mc Namara ở Hoa Thịnh Đốn về nhận xét cuả  anh. Anh Schell thú nhận anh không thoải mái khi phải làm báo cáo cho viên chức chính phủ trước khi viết thành bài báo. Nhưng anh cảm thấy mình phải làm ngay điều này. Ông McNamara yêu cầu anh hãy giữ bí mật về chuyện ông gặp anh, và ông hứa sẽ không làm gì để cản trở việc làm của Schell. Ông cũng dành cho Schell một văn phòng làm việc ngay tại Ngũ Giác Đài. Báo cáo của anh được viết thành hai bản. Ông McNamara hứa sẽ dùng bản của ông để bắt đầu điều tra về những việc đối xử tàn bạo như anh Schell mô tả.
Đầu năm sau, báo cáo của anh Schell được hoàn tất. Anh không nghe gi thêm về phía ông McNamara, cũng như không thấy dấu hiệu gì về thay đổi chính sách của chính phủ. Thế rồi bài viết của tôi về vụ thảm sát Mỹ Lai xuất hiện. Anh Schell gọi điện thoại cho ông McNamara, khi đó ông đang làm Chủ tịch Ngân Hàng Thế Giới. Anh nhắc ông McNamara rằng anh đã viết chi tiết về vụ giết người ở Mỹ Lai. Anh Schell hỏi ý tôi có nên tiết lộ việc anh gặp ông McNamara và báo cho ông biết về những vụ giết người xảy ra ở Việt Nam hay không. Tôi phân tích cho anh rõ rằng anh đã có giao ước phải giữ bí mật – ông McNamara gọi là “off the records”- về cuộc gặp gỡ giữa hai người, anh phải tôn trọng.
Anh Schell giữ đúng lời hứa. Trong bài tiểu luận tưởng nhớ ông McNamara đăng trên tạp chí  The Nation năm 2009, anh có nhắc về cuộc gặp gỡ với ông McNamara, nhưng anh không đề cập đến thoả ước ngoại lệ giữ bí mật về cuộc gặp gỡ này. Anh Schell viết rằng anh được Neil Sheehan, người ký giả của hãng thông tấn Associated Press, báo Times, và The New Yorker, tác giả cuốn “A Bright Shining Lie” tiết lộ những tin như sau:  Ông McNamara gửi bản sao tài liệu của anh Schell đến ông đại sứ Mỹ ở Saigon, ông Ellsworth Bunker. Khi tài liệu này gửi sang Saigon, ông McNamara những tưởng rằng sẽ được ông đại sứ dùng làm tài liệu để điều tra, nhưng nào ngờ ở Saigon người ta làm đủ mọi cách để phủ nhận tài liệu của Schell, không cho phổ biến. Điều này chính ông McNamara cũng không biết. 
Vài tháng sau khi bài báo của tôi xuất hiện, nhà xuất bản Harper’s phổ biến một đoản văn trích trong cuốn sách của tôi, tựa đề: “My Lai 4: A Report on the Massacre and its Aftermath.”, “Mỹ Lai 4: Phúc trình về một vụ Thảm sát và những hậu qủa sau đó.”. Đoạn văn này mô tả chi tiết chuyện gì đã xảy ra cho những người lính trong đại đội của Trung Úy Calley, đưa đến việc họ tàn sát dã man dân làng Mỹ Lai. Anh Craig, 20 tuổi, con trai của Bộ trưởng McNamara, một người chống chiến tranh, gọi điện thoại cho tôi và nói rằng anh đã để một copy bài báo này trên bàn làm việc của cha anh. Sau đó, anh thấy cuốn báo đó để gần ở lò sưởi, tức là cha anh có đọc bài báo. Khi về hưu, không còn làm chức vụ công, ông McNamara tích cực hoạt động trong phong trào chống vũ khí nguyên tử, ông cố gắng tìm cách xin mọi người tha tội cho ông vì vai trò của ông trong chiến tranh Việt Nam. Năm 1995, trong cuốn hồi ký của ông: “In Restrospect: The Tragedy and Lessons of Việt Nam.” “Trong Hồi Tưởng: Thảm Kịch và Những Bài Học qua Chiến Tranh Việt Nam.”, ông McNamara thú nhận rằng cuộc chiến là “một thảm hoạ”. Nhưng trong cả cuốn sách, hiếm khi nào ông tỏ ra ân hận, hối lỗi về những tổn hại gây ra cho người dân Việt nam, và cho những người lính Mỹ như anh Paul Meadlo. Ông tâm sự với nhà làm phim Errol Morris, khi ông này thực hiện cuốn phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam, tựa đề là “The Fog of War”, công chiếu vào năm 2003, ông nói: Tôi rất hãnh diện về những thành tựu tôi đã làm được, và tôi cảm thấy hối tiếc là trong lúc làm những việc tốt đó, tôi đã phạm một số lỗi lầm.”.
Khi tài liệu về chiến tranh Việt Nam lần lượt được giải mật, người ta mới thấy rằng trong những năm ông McNamara cầm đầu Ngũ Giác Đài, nhiều lần ông đã bầy tỏ riêng tư với Tổng Thống Johnson sự hoài nghi của ông về cuộc chiến tranh. Nhưng chưa bao giờ ông mạnh dạn nói ra sự hoài nghi, hay mối bi quan của ông trước công chúng. Ông Craig McNamara tâm sự với tôi rằng lúc gần từ gĩa cõi đời, nằm bên giường bệnh chờ chết, cha của ông nói với ông rằng: “Bố có cảm tưởng như Chúa đã bỏ rơi bố, không nhìn bố nữa.”.
Thảm kịch không chỉ xảy ra riêng cho ông Robert McNamara.

Bài ký sự của Seymour M. Hersh trên The New Yorker ngày 30/3/2015
Nguyễn Minh Tâm dịch

Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2015

Chiến thắng ở Xuân Lộc, rung chuyển Sài Gòn


"Chiến thắng Xuân Lộc (từ 9 - 21/4/1975) làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch xung quanh Sài Gòn, làm cho tinh thần quân địch càng thêm suy sụp. Tin chiến thắng đã làm nức lòng nhân dân cả nước" (Đại tướng Võ Nguyên Giáp).

Mở toang “cánh cửa thép”

Xuân Lộc là một thị xã của tỉnh Long Khánh (thị xã Long Khánh, Đồng Nai hiện nay), rộng khoảng 2,5 km. Đây là địa bàn án ngữ những trục giao thông quan trọng như: Quốc lộ số 1, quốc lộ 20, quốc lộ 15, rất thuận lợi cho quân ta cơ động lực lượng tiến thẳng vào nội đô Sài Gòn. Xuân Lộc - Long Khánh có tầm quan trọng về địa lý, quân sự, nhằm bảo vệ Sài Gòn từ hướng đông. 


Tiếp quản Tiểu khu Long Khánh.

Để biến Xuân Lộc thành “cánh cửa thép”, địch đã tập trung ở đây một sư đoàn bộ binh, một liên đoàn biệt động quân, một thiết đoàn xe tăng - thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo binh và lực lượng được tổng trù sẵn sàng ứng trợ đặc biệt. 

Chính Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ Đại tướng Frederick C. Weyand, đã trực tiếp lên Xuân Lộc thị sát và nhấn mạnh: "Phải giữ cho được Xuân Lộc, mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn".

Đánh giá đúng tầm quan trọng của cửa ngõ Xuân Lộc, ngày 2/4/1975, quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Miền đã quyết địch mở cuộc tiến công giải phóng Xuân Lộc, nhằm tiêu diệt sư đoàn 18 ở vòng ngoài, phá âm mưu phòng ngự từ xa, phá thế phòng ngự củng cố Sài Gòn của địch, chia cắt giao thông, cô lập Sài Gòn. Nhiệm vụ tiến công Xuân Lộc được giao cho Quân đoàn 4. Đồng chí Hoàng Cầm được giao trọng trách làm Tư lệnh chiến dịch.

5 giờ 40 phút ngày 9/4, Quân đoàn 4 nổ súng tấn công Xuân Lộc. Các trận địa pháo của Quân đoàn, sư đoàn lần lượt nhả đạn. Một giờ sau, bộ binh bắt đầu xung phong. Trong ngày chiến đấu đầu tiên, quân ta đã chiếm được một phần hai thị xã, toàn bộ khu hành chính tiểu khu. 

Những ngày sau đó, chiến sự ở Xuân Lộc - Long Khánh diễn ra ngày càng thêm ác liệt và đã gây tổn thất lớn cho cả ta và địch. Quyết “tử thủ” Xuân Lộc, ngày 12/4, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn quyết định tăng cường lực lượng, vũ khí và phương tiện chiến tranh cho Xuân Lộc. 

Chỉ sau thời gian ngắn, lực lượng địch ở Xuân Lộc - Long Khánh đã gia tăng đột biến: Chiếm 50% bộ binh, 60% pháo binh, hầu hết số lượng xe tăng thiết giáp của Quân đoàn 3 và lực lượng tổng dự bị chiến lược của quân đội Sài Gòn.

Trước tình hình khó khăn, ta đã nghiên cứu diễn biến trận đánh, quyết định tổ chức lại lực lượng, thay đổi cách đánh từ tiến công trực tiếp chuyển sang thế trận bao vây, cô lập nhằm làm suy yếu lực lượng địch trong thị xã; tiêu diệt các lực lượng tiếp viện của địch mới được điều đến còn đứng chân chưa vững ở vòng ngoài. 

Ta tổ chức đánh chiếm ngã ba Dầu Giây, Núi Thị, cắt quốc lộ 1 và chặn đánh quân tiếp viện từ Biên Hòa, Trảng Bom, cắt rời Xuân Lộc ra khỏi Biên Hòa. Rạng sáng 15/4, quân ta bắt đầu bắn phá sân bay Biên Hòa. Ở khu vực Xuân Lộc, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 liên tục quần nhau với địch, đánh tan hai chiến đoàn còn lại (43 và 48) của Sư đoàn 18 và diệt một bộ phận quân dù. 

Thấy không thể bảo vệ được Xuân Lộc, ngày 20/4, địch rút chạy, bị quân ta truy kích tiêu diệt. Ngày 21/4, thị xã Xuân Lộc và toàn bộ tỉnh Long Khánh được giải phóng. Kết thúc chiến dịch Xuân Lộc, quân ta đã đánh thiệt hại nặng sư đoàn 18, lữ đoàn dù 1, tiêu diệt chiến đoàn 52 (sư đoàn 18), đánh thiệt hại trung đoàn 5 và lữ đoàn 3 thiết giáp, diệt và bắt hàng nghìn tên địch, thu hàng chục ô tô và hàng nghìn súng các loại, phá hủy 42 xe tăng, xe thiết giáp.

Tạo thời cơ lịch sử, giải phóng Sài Gòn

Việc chọn địa bàn và thời điểm mở chiến dịch tiến công Xuân Lộc - Long Khánh là hoàn toàn đúng đắn, cần thiết và rất kịp thời trong thời điểm lịch sử chuyển biến hết sức mau lẹ của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. 

Chiến dịch tiến công thắng lợi đã đập tan “cánh cửa thép” án ngữ cửa ngõ phía đông Sài Gòn, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch quanh Sài Gòn, làm suy sụp nhanh thêm tinh thần chiến đấu của quân ngụy còn lại trên toàn miền Nam. 

Xuân Lộc - Long Khánh được giải phóng, kế hoạch quân sự của Mỹ - ngụy bị đảo lộn, theo đó âm mưu chính trị cũng tan vỡ theo. Thắng lợi của chiến dịch đã tạo ra một địa bàn tập kết thuận lợi, làm bàn đạp xuất phát tiến công của Cánh quân hướng Đông - một trong 5 mũi chủ lực cơ động của đội hình chiến dịch mang tên Bác Hồ kính yêu tiến vào giải phóng Sài Gòn - Gia Định.

Sau khi “cánh cửa thép” Xuân Lộc tan rã, một loạt sự kiện liên quan đã liên tiếp diễn ra. Ngay tối ngày Xuân Lộc được giải phóng, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức và hai ngày sau đó thì trốn chạy khỏi Sài Gòn. Bên kia bờ đại dương, ngày 23/4/1975, Tổng thống Mỹ Gerald Ford tuyên bố “Cuộc chiến tại Việt Nam đã chấm dứt đối với người Mỹ”. 

Mặt trận hướng Đông được khai thông, các cánh quân rầm rập tiến về Sài Gòn với khí thế không gì lay chuyển nổi. “Cánh cửa thép” Xuân Lộc bị phá đã mở toang cánh cửa cho đại quân ta mở Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tiến vào giải phóng Sài Gòn, xông thẳng vào sào huyệt cuối cùng của chế độ Mỹ - ngụy, góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước oanh liệt của dân tộc Việt Nam.

Từ Chiến thắng Xuân Lộc đã rút ra nhiều bài học giá trị. Đó là cách quán triệt ý đồ chiến lược của Trung ương Đảng, hạ quyết tâm kịp thời, chính xác; biết tổ chức và sử dụng lực lượng tại chỗ, phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân; trong chỉ đạo, chỉ huy kịp thời, nhạy bén, linh hoạt; phát huy thế tiến công chiến lược, chớp thời cơ giành thắng lợi. 

Chiến thắng Xuân Lộc là một trong những điểm nhấn của mùa Xuân toàn thắng 1975. Bài học rút ra từ cuộc chiến năm xưa vẫn nguyên giá trị để nghiên cứu, vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.


Trần Tiến Duẩn

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử

Những ngày đầu chiến dịch
Thời cơ nối tiếp thời cơ, chiến dịch mở ra chiến dịch, hội nghị Bộ chính trị ngày 31/3/1975 xác định "Từ giờ phút này trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân dân ta đã bắt đầu". Các nghị sĩ Mỹ theo dõi tình hình miền Nam quả quyết, đã quá muộn để làm bất cứ việc gì nhằm lật ngược tình thế ở Việt Nam.

Ngày 1/4/1975 chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu được chuẩn bị theo tư tưởng chỉ đạo "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng" với tốc độ "một ngày bằng 20 năm". Ngày 14/4/1975 Bộ chính trị phê chuẩn đề nghị của bộ chỉ huy chiến dịch đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là "Chiến dịch Hồ Chí Minh", phương án chiến dịch được thông qua lần cuối.

 Như một bức tranh hoành tráng, xe pháo và tàu thuyền đủ loại, bộ đội và dân nhân du kích, dân công và Thanh niên xung phong, những ngả đường tấp nập..., cả dân tộc từ Bắc chí Nam đang hành quân, hậu phương đang dốc toàn lực ra tiền tuyến, nửa miền Nam vừa được giải phóng cũng góp sức vào chuẩn bị giải phóng nửa còn lại.

 Đầu tháng 4/1975 Trung ương cục miền Nam ra chỉ thị cho quân dân Nam bộ và Nam Trung bộ (B2) hãy "táo bạo đánh các điểm theo chốt... khi có thời cơ". Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn quyết định mở chiến dịch chia cắt địch trong toàn B2 để bao vây cô lập dịch ở Sài Gòn. Điện của Bộ chính trị và Quân ủy trung ương nhắc nhở cần chuẩn bị thêm trước khi làm ăn lớn. Chỉ thị của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn căn dặn phải biết tập trung lực lượng đầy đủ vào các trận then chốt.

Ngày 8/4/1975, ta cho ném bom Dinh Độc Lập¹. Ngày 9/4/1975 ta tiến đánh địch ở Xuân Lộc. Ngày 16/4/1975 ta đập tan phòng tuyến phòng thủ từ xa của địch ở Phan Rang. Ngày 17/4/1975 Phnôm-pênh giải phóng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Campuchia đã kết thúc thắng lợi. Trong khi đó ở Lào chính phủ liên hiệp đóng cửa sứ quán ngụy Sài Gòn và ngụy Phnôm-pênh, sau đó vua Lào ra lệnh giải tán quốc hội, cuộc đấu tranh của quân và dân Lào bước hẳn sang thời kỳ chính trị hiệp thương để giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 18/4/1975 tổng thống Mỹ. G.Ford ra lệnh di tản người Mỹ² khỏi Việt Nam. Ngày 20/4/1975 Mỹ buộc Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ngày 23/4/1975 Mỹ tuyên bố chiến tranh kết thúc, không thể giúp chính phủ Nam Việt Nam. Ngày 24/4/1975 Mỹ - Hương đề nghị xin ngưng bắn... Diễn biến dồn dập ấy diễn ra cùng lúc với 5 cách quân gồm 270.000 bộ đội chủ lực và 180.000 người khác phục vụ chiến dịch đang từng bước chiếm lĩnh các vị trí xuất phát tiến công vào Sài Gòn.

17 giờ ngày 26/4/1975 cuộc tổng kích đáng chiếm Sài Gòn bắt đầu, các mục tiêu tấn công ngập chìm trong bão lửa. Mỹ vội vàng mở chiến dịch "người liều mạng" để di tản. Các tướng tá quân đội Sài Gòn từ các sư đoàn bị đánh tơi tả, kẻ bị bắt, kẻ đầu hàng, kẻ tự sát, kẻ cởi quân phục lẩn trốn vào đám tàn quân. Tổng thống ngụy muốn xin "bàn giao chính quyền", các đại diện Mỹ, Pháp tìm kế hoãn binh... Nhưng tất cả đã không thể ngăn cản được sức tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng trong "trận đánh cuối cùng" để kết thúc chiến tranh 30 năm.


  Diễn biến chiến dịch Hồ Chí Minh tại Sài Gòn

 Tại Sài Gòn, sáng ngày 30 tháng 4, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (tướng Vĩnh Lộc tổng tham mưu trưởng đã bỏ chạy) và Nguyễn Hữu Có, lên gặp Dương Văn Minh báo cáo tình hình quân sự, đã thúc đẩy Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu (thủ tướng) đi đến quyết định đơn phương ngừng bắn, chờ "bàn giao trong vòng trật tự". Dương Văn Minh họp bộ hạ và đưa ra ý kiến "tuyên bố thành phố bỏ ngỏ". Sau khi bàn luận, Vũ Văn Mẫu viết bản tuyên bố kêu gọi đơn phương ngưng bắn và bàn giao chính quyền cho cách mạng. Bản tuyên bố được phát trên đài phát thanh Sài Gòn lú 9 giờ 30 phút.

 Trên tất cả các hướng vào Sài Gòn, quân ta tiếp tục tiến công theo mệnh lệnh của Bộ Chính trị "tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống đối của chúng".

Địch dùng pháo từ phía Đông xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa bắn ra cắt đội hình lữ đoàn xe tăng 20. Một phân đội của lữ đoàn rẽ vào đánh diệt chúng ở liên trường Thủ Đức (ở Cây Mai). Tại đây chiếc xe 707 đã phải chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và người cuối cùng. 9 giờ 30 phút đoàn xe tăng tiến thuận lợi qua cầu Rạch Chiếc do Z23, lữ đoàn 316 đặc công biệt động đang chiến giữ. Phía trước là cầu Sài Gòn, ở đây tiểu đoàn 4 Thủ Đức đã chiến đấu quyết liệt, giằng co với địch từ đêm 29 rạng 30 tháng 4, đến 7 giờ sáng ngày 30 tháng 4 mới chiếm lại được đầu cầu phía Đông. Đoàn xe tăng lữ đoàm 203 đến đầu cầu Sài Gòn, 2 xe dẫn đầu đội hình tăng tốc vượt qua được nửa cầu thì bị xe tăng địch ở phía Tây vòm cầu bắn cháy. Đội hình xe tăng ta phải dừng lại ở đầu cầu phía Tây. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn xe tăng Ngô Văn Nhỡ cầm cờ hiệu và điện đài chỉ huy tốp xe dẫn đầu vượt cầu lại bị trúng đạn địch và hy sinh trên tháp pháo. Lữ đoàn phó Trần Minh Công lên chỉ huy vượt cầu. Địch tiếp tục bắn hỏng thêm 2 xe tăng. Đại đội trưởng Bùi Quang Thận và chính trị viên Vũ Đặng Toàn chỉ huy đại đội 4 vượt qua cầu. Địch lui về ngã tư Hàng xanh, ta bám sát và bắn cháy một xe tăng của chúng tại đây. Các lực lượng tại chỗ bao vây, vận động vô hiệu hóa một số xe khác. Địch ở cầu Thị Nghè ngoan cố chống cự, ta bắn cháy thêm 1 xe tăng, 1 xe thiết giáp.

Qua cầu Thị Nghè, nữ chiến sĩ liệt động Nga (lữ đoàn 16) lên xe tăng cùng Phạm Duy Đô làm nhiệm vụ dẫn đường. Lữ đoàn 203 tiến vào Dinh Độc Lập theo đường Hồng Thập Tự và Đại lộ Thống Nhất do xe tăng 483 của trung úy Bùi Quang Thận dẫn đầu. Một số chiến sĩ biệt động đã có mặt trước dinh Độc Lập. Trong Dinh cũng đã có mặt một số cán bộ tình báo đường dài của ta: Tô Văn Cang, Vũ Ngọc Nhạm một cơ sở binh vận (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh). Chiếc xe tăng 843 húc cánh cổng sắt Dinh Độc Lập, tiến thẳng vào cửa Dinh. Ngay tức khắc chiến sĩ lái xe Jeep Bùi Ngọc Vân cầm cờ chạy lên tầng 2 phất mạnh trước dân chúng đang reo vui ở cổng Dinh Độc lập. Trong lúc đó, Bùi Quang Thận nhảy ra khỏi xe, cùng một số chiến sĩ tiến thẳng lên ban công thượng của tòa nhà, giật bỏ lá cờ vàng 3 sọc và kéo cờ giải phóng lên cột cờ cao nhất của Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút. Đại đội trưởng Phạm Duy Đô chạy thẳng vào trong Dinh quan sát và trở ra báo cáo ngay với trung tá chính ủy lữ đoàn 203 Bùi Văn Tùng xác nhận sự có mặt của tổng thống và nội các ngụy quyền tại Dinh. Trung tá lữ trưởng Nguyễn Tấn Tài lệnh điều chỉnh đội hình xe tăng bao vây Dinh đề phòng địch phản kích, đồng thời phái một bộ phận ra đánh chiếm cảng Sài Gòn.

Đại úy trung đoàn phó trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng một số cán bộ, chiến sĩ ta được Nguyễn Hữu Hạnh dẫn đường tiến thẳng vào phòng khánh tiết gặp Dương Văn Minh và nội các Vũ Văn Mẫu. Tiếp đó, các đồng chí Bùi Văn Tùng và Nguyễn Tấn Tài vào phòng khánh tiết. Hai cán bộ tình báo của ta cũng đã có mặt tại đây từ sáng với tư cách là người của lực lượng thứ ba đến vận động Dương Văn Minh sớm đầu hàng: Vũ Ngọc Nhạ, Tô Văn Can. Dương Văn Minh đứng dậy nói: "Chúng tôi đang đợi các ông để bàn giao". Ta tuyên bố: "Các ông đã bị bắt làm tù bình, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Các ông không còn gì để bàn giao".

Dương Văn Minh chấp nhận, trao khẩu súng ngắn cho đại úy Phan Xuân Thệ và đến đài phát thanh đọc bản tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời chấp nhận đầu hàng của Dương Văn Minh.

Từ sáng ngày 30 tháng 4 cho đến lúc này tại trung tâm Sài Gòn đã có 34 điểm nổi dậy của quần chúng và lực lượng tại chỗ.

Sau 11 giờ 30 phút ở 41 điểm chủ lực ta chưa tới, quân chúng và lực lượng tại chỗ tiếp tục nổi dậy.

Ở quận 3, tại phường cư xá Đô Thành, lúc 12 giờ ngày 30 tháng 4 khi lực lượng võ trang ta tiến công quận 3, anh Tư và anh Công, người địa phương, cùng một cán bộ biệt động của Z15 (lữ đoàn 316) dùng loa hô hào nhân dân nổi dậy giành chính quyền, kêu gọi sĩ quan và binh lính địch nộp vũ khí đầu hành. Ngay chiều 30 tháng 4 hàng trăm đồng bào xin nhận công tác theo yêu cầu của cách mạng, hàng trăm người khác tự động ra đường thu gom vũ khí, quân trang, quân dụng của địch. Đồng bào treo đầy cờ giải phóng trước nhà riêng, công sở và tự nguyện góp cấp thời lương thực thực phẩm cho bộ đội.

Tại phường Bàn cờ quận 3, các đông chí cơ sở mật của ta: Chị Bảy, anh Châu, anh Ba Đông, phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, chiếm giữ các kho tàng của địch, giữ gìn trật tự, an ninh, làm vệ sinh đường phố. Đồng bào thu gom được 3.000 súng các loại đem nộp cho cách mạng. 16 giờ ngày 30 tháng 4, phường Bàn Cờ tổ chức mít tinh, có 13.000 người dự lễ mừng chiến thắng và giới thiệu những người tốt vào chính quyền mới. Đến 17 giờ, thành lập xong các bạn phụ trách phường, khóm và tổ chức chuyên việc đăng ký ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện.

Ở hướng xa lộ Biên Hòa, Z27 sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiếm giữ cầu Rạch Chiếc cho lữ đoàn 203 đi qua, theo lệnh trên, tiến chiếm nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy Zetcô (nay là liên hợp công trình 4) và giữ nhà máy điện Thủ Đức. Nhờ đó, điện ở thành phố chỉ gián đoạn có vài giờ trong ngày 30 tháng 4.

Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, sau khi lữ đoàn 203 xe tăng qua cầu Sài Gòn tiếp tục tổ chức đánh chiếm các đồn bót địch trên trục lộ 33 đoạn từ ngã ba Bình Trưng đến ngã ba Phú Hữu, cùng cán bộ địa phương phát động quần chúng nổi dậy trừng trị ác ôn, giải phóng hai xã Bình Trưng và Phú Hữu.

Tại nhà máy nước Thủ Đức, từ những ngày 27 và 28 tháng 4, nòng cốt công nhân đã lập đội bảo vệ nhà máy. Hàng trăm công nhân và kỹ sư liên tục bám giữ máy, không cho địch phá, bảo đảm cung cấp đầy đủ nước cho thành phố cả nước và sau khi giải phóng. Ngày 30 tháng 4, khi xe tăng ta tiến gần đến, đồng chí Muống, đứng đầu ủy ban khởi nghĩa nhà máy, lãnh đạo công nhân tung tin hù dọa địch và tự mình leo lên nóc nhà máy treo một lá cờ lớn. Địch ở đây rất đông: thường xuyên có một tiểu đoàn thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn cao xạ, 1 đại đội bảo an và ngày 30 tháng 4, còn kéo về đây thêm khoảng 40 xe tăng và thiết giáp... nhưng trước thế tiến như vũ bão của ta và khí thế công nhân tại chỗ, tất cả địch ở đây đã phải bỏ chạy.

Toàn bộ lực lượng địch ở Thủ Đức tan rã. Quần chúng xông vào chiếm giữ các căn cứ quân sự của địch, tiến chiếm trụ sở quận. Toàn bộ ngụy quyền quận bỏ chạy.

Với mọi chuẩn bị từ trước, khi đại quân ta tiến vào Sài Gòn, cơ sở cách mạng và quần chúng lao động nội thành kịp thời nổi dậy chiếm lĩnh, làm chủ và bảo vệ các cơ sở kinh tế, chính trị văn hóa quan trong, bảo đảm mọi sinh hoạt bình thường của một thành phố mới giải phóng.

Ở nhà máy điện Chợ Quán, ngay lúc địch đang tồn tại và thiết quân luật, công nhân đã thay phiên nhau đi sửa chữa đường dây, ổn định dòng điện. Anh em kêu gọi binh lính ngụy quay về với chính nghĩa, ủng hộ hành động nổi dậy của công nhân.

Tại xưởng Ba Son, công nhân tháo gỡ hết chất nổ địch gài, bảo vệ nguyên vẹn nhà máy.

Ở các hãng Esso, Shell, công nhân thành lập các ủy ban công nhân võ trang bảo vệ kho xăng Nhà Bè.

Công nhân các xí nghiệp Vimytes, Sicovina, Vinatexco, Biopharma và hàng loạt hãng, xưởng khác bất chấp công an, mật vụ, đã nổi dậy chiếm xưởng bảo vệ máy móc.

Các cơ sở cách mạng và quần chúng nổi dậy chiếm lĩnh, cắm cờ trụ sở khóm hai phường Huyện Sĩ, ngã ba Thủ Khoa Huân, đường Lê Thánh Tôn, chợ Bến Thành, cư xá Đô Thành, ty cảnh sát quận 3, sở văn hóa... Một trí thức, cơ sở của ta, đã giữ gìn và trao lại nguyên vẹn cho cách mạng toàn bộ phòng báo chí Phủ tổng thống ngụy của Hoàng Đức Nhã (đặt tại số 116 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai).

15 giờ ngày 30 tháng 4 tất cả cán bộ Thành ủy cánh A (luồn vào từ đêm 29 tháng 4) đã có mặt trong thành phố, tập kết nhận nhiệm vụ kế tiếp tại khu trường Pétrus Ký.

Cán bộ, chiến sĩ cánh B của Thành ủy có mặt cùng nhân dân thực hiện nổi dậy giành chính quyền, giành quyền làm chủ từ ấp, xã đến thị trấn ngoại thành, cũng đã hội tụ về nhận nhiệm vụ tại dinh tỉnh trưởng Gia Định.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, riêng quân dân Sài Gòn - Gia Định đã diệt và làm tan rã 31.000 tên địch, bắt sống 12.619 tù binh, chiếm 9 căn cứ quân sự, 5 chi khu, 21 phân chi khu và trụ sở tề... thu 12.275 súng và gần như toàn bộ hồ sơ các cơ quan từ Phủ tổng thống trở xuống. Số ngụy quân lần lượt ra trình diện là 40 vạn và số công an cảnh sát là 10 vạn.

17 giờ ngày 30 tháng 4, tiếng súng đã thực sự chấm dứt ở "thủ đô" ngụy quyền, trừ một số mục tiêu quân sự. Thành phố hơn 3 triệu dân vừa qua cuộc chiến tranh 30 năm, vẫn nguyên vẹn đã chuyển sang trạng thái bình yên đến độ gây ngạc nhiên cho mọi người trên thế giới đang có mặt: nước vẫn chảy đều trong các đường ống; dòng điện chỉ tạm ngừng trong 2 giờ rồi mọi nhà lại sáng; công nhân nhà máy vẫn sẵn sàng cho máy chạy; chợ búa, quán xá vẫn sẵn sàng mở; đường phố vẫn đông người, xe cộ... Người dân Sài Gòn - Gia Định náo nức cắt dàn cờ hoa để xuống đường ngày 1-5 mừng cuộc toàn thắng và chờ đêm hội pháo hoa.


  Chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử

Sài Gòn là đô thị lớn nhất Việt Nam, nằm giữa miền Trung và miền Đông Nam Bộ, là trung tâm các đầu mối giao thông chiến lược cả về đường bộ, đường thủy và đường không. Các vùng nông thôn rừng núi, trung du đồng bằng và ven biển bao xung quanh thành phố có mối quan hệ mật thiết về các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa. Trong thành phố, nhà cửa san sát với những cao ốc nhiều tầng, dân cư đông và tập trung ở mật độ cao. Những đặc điểm nêu trên làm cho Sài Gòn giữ một vị trí địa lý đặc biệt quan trọng.

Đối với địch, nhất là trong chiến tranh xâm lược của Mỹ, Sài Gòn là thủ đô, trung tâm, chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội của cả miền Nam. Nơi đây là sào huyệt của tổ chức chính quyền trung ương ngụy và các đảng phái chính trị, tôn giáo, văn hóa, nơi tập trung cơ cấu chỉ đạo, chỉ huy quân sự của toàn bộ cuộc chiến tranh với từng vùng chiến trường, nơi phát ra và chỉ đạo thực hiện các chủ trương chiến lược, các kế hoạch, biện pháp và thủ đoạn chiến lược, chiến thuật trên toàn chiến trường miền Nam và Campuchia. Chúng tập trung ở Sài Gòn và vùng phụ cận một bộ phận quan trọng lực lượng, sinh lực và phương tiện chiến tranh lớn cùng hệ thống phòng thủ nhiều tầng, từ xa, tập trung các cơ sở kinh tế công nghiệp, thương mại, đáp ứng phần lớn âm mưu cướp vét sức người sức của "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh"; đồng thời xây dựng, bố trí các cơ sở dự trữ vật chất, phương tiện chiến tranh lớn nhất ở Đông Dương. Đối phó với phong trào cách mạng quần chúng, ngoài mạng lưới kềm kẹp đồ sộ và nghiêm ngặt, địch tiến hành đánh phá thường xuyên và ác liệt, tinh vi trên mọi phương tiệnc hính trị, quân sự, văn hóa, kinh tế, nơi chúng thực hiện một cách tập trung, đầy đủ nhất chủ nghĩa thực dân kiểu cũ (từ năm 1945 đến năm 1954) và kiểu mới (từ năm 1945 đến năm 1975). Thành phố Sài là nơi thực dân Pháp nổ súng tiến công mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược và là nơi đế quốc Mỹ cố giữ đến phút cuối cùng của cuộc chiến tranh, là điểm mở đầu và kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của hai đế quốc Pháp và Mỹ trong 30 năm qua.

 Đối với ta, thành phố Sài Gòn là nơi tập trung số lượng dân cư đông đảo nhất ở miền Nam, nơi có lực lượng học sinh sinh viên, nhân sĩ trí thức, tư sản dân tộc và đặc biệt là lực lượng công nhân công nghiệp (vốn có quan hệ huyết thống gần gũi với nông dân vùng nông thôn Nam Bộ và với công nhân các đồn điền cao su). Nhân dân Sài Gòn có truyền thống yêu tự do, bất khuất chống ngoại xâm rất sâu sắc và liên tục trong suốt lịch sử 300 năm của thành phố. Mọi biến động ở thành phố Sài Gòn, do vị trí trung tâm của nó, đều có ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình toàn miền Nam, cả nước và trên thế giới. Sài Gòn trở thành trung tâm đấu tranh chính trị của cả miền Nam trong cả hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là địa điểm quyết chiến chiến lược cuối cùng của cuộc chiến tranh cách mạng xét về mặt mục tiêu cơ bản của công cuộc giải phóng hoàn toàn đất nước của dân tộc ta.

Những đặc điểm nêu trên tác động sâu sắc đến toàn bộ tiến trình cuộc kháng chiến diễn ra trên địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.

Tiếng súng gây hấn ngày 23 tháng 9 năm 1945 là hành động kết thúc quá trình chuẩn bị trở lại xâm lược Đông Dương của giới tư bản quân phiệt Pháp từ khi nước Pháp còn bị phát xít Đức chiếm đóng. Chuẩn bị và xác định ngay từ đầu quyết tâm kháng chiến, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã đứng dậy tiến hành cuộc đấu tranh toàn dân chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đồng thời nỗ lực đặt nền móng và phát triển mọi nhân tố của một Nhà nước Dân chủ Cộng hòa mới được thành lập. 15 tháng đầu kháng chiến của quân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định vào Nam Bộ, Nam Trung Bộ đã giáng một đoàn phủ đầu vào dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, làm xáo trộn kế hoạch chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của chúng, tạo ra khoảng thời gian quý báu để nhân dân cả nước có điều kiện xây dựng lực lượng mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài diễn ra trên phạm vi toàn quốc.

 Từ đầu năm 1947, trong điều kiện Sài Gòn bị chiếm đóng hoàn toàn, "được bình định, ổn định" và ngày càng trở thành trung tâm chiến lược xây dựng Nam Bộ thành hậu phương dự trữ của chúng trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã từng tiếp tục xây dựng lực lượng mọi mặt, xây dựng các loại lực lượng vũ trang thích hợp, mở rộng phong trào chiến tranh du kích, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến toàn diện cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, đưa cuộc kháng chiến phát triển thành cao trào vào năm 1950.

Sau năm 1950, được sự chi viện của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp ra sức bình định Nam Bộ, trọng tâm là Sài Gòn, Chợ Lớn - Gia Định, đẩy phong trào cách mạng vào thời kỳ khó khăn kéo dài. Quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định năng động tổ chức lại chiến trường, bố trí lực lượng, kết hợp nhiều hình thức đấu tranh, vượt qua nhiều khó khăn nhằm khôi phục, giữ vững và phát triển phong trào trong điều kiện bị địch bao vây và đánh phá ác liệt. Hoạt động kháng chiến ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã làm suy yếu địch từ trong hậu phương của chúng, cầm chân địch tại chỗ, tạo điều kiện cho quân và dân toàn miền đẩy mạnh đợt hoạt động hưởng ứng chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Từ sau Hiệp định Genève 1954, đế quốc Mỹ gạt Pháp và các thế lực thân Pháp, từng bước nắm quyền thống trị miền Nam Việt Nam, xây dựng ngụy quân quyền, thi hành chính sách thực dân mới. Sài Gòn trở thành thủ đô của ngụy quyền miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã phát động phong trào đấu tranh chính trị tiến công địch ngay từ đầu, phát triển phong trào bảo vệ hòa bình, đòi thi hành Hiệp định Genève, đưa Sài Gòn trở thành trung tâm đấu tranh chính trị của toàn miền Nam. Vượt qua khó khăn thử thách trong những năm tiếp sau, đặc biệt trong các năm 1957 - 1958 - 1959, nhân dân Sài Gòn - Gia Định vẫn bền bỉ bảo tồn, gầy dựng và duy trì phong trào đấu tranh chính trị liên tục, nhằm bảo vệ quyền dân sinh, dân chủ, chống chính sách tố cộng diệt cộng, từng bước xây dựng lực lượng tự vệ vũ trang ở vùng nông thôn Gia Định, phối hợp đấu tranh liên kết giữa đô thị và nông thôn nội ngoại thành, đưa dần đấu tranh chính trị phát triển lên đấu tranh chính trị có tự vệ vũ trang hỗ trợ, tiến đến thực hiện nổi dậy từng phần, giành quyền làm chủ ở một số vùng nông thôn ven sát sào huyệt địch (1960 - 1961)

Chuyển sang thời kỳ chiến tranh cách mạng, chống chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ngụy, quân và dân Sài Gòn - Gia Định bám sát đường lối chủ trương và phương châm chiến lược đấu tranh cách mạng của trên, phát huy tính năng động cách mạng, đề ra phương thức tổ chức và hình thức đấu tranh cụ thể cho các vùng hoạt động (nội đô, ven đô, nông thôn, ngoại thành), trong xây dựng các loại lực lượng và kết hợp sử dụng các hình thức đấu tranh thích hợp ở từng vùng trong thừng thời kỳ lịch sử nhất định. Các tầng lớp quần chúng nhân dân ở nội ngoại ô thành phố đều được huy động vào mặt trận đấu tranh chống Mỹ và ngụy quyền tay sai (đặc biệt lực lượng học sinh sinh viên và quần chúng lao động, phật tử) đưa phong trào cách mạng phát triển lên thế chủ động tấn công địch, góp phần làm khủng hoảng sâu sắc chế độ chính trị ngụy quyền và cùng với lực lượng nhân dân ở vùng nông thôn làm phá sản quốc sách ấp chiến lược của chúng, Giữa năm, 1965, đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược chiến tranh, ào ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam, tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ. Quân và dân Sài Gòn - Gia Định xác định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, hình thành mặt trận chống Mỹ cứu nước ngày càng rộng lớn ngay tại Sài Gòn - Gia Định. Cao trào đấu tranh chính trị chống Mỹ cùng với những trận tập kích quân sự vang dội trong nội đô và sự phát triển tiến công của Quân giải phóng ở các hướng xung quanh thành phố đã góp phần làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966 - 1967 của Mỹ ngụy. Bước sang năm 1968, ngay tại sào huyệt địch, các lực lượng cách mạng Sài Gòn - Gia Định đã tích cực chuẩn bị táo bạo cùng lực lượng toàn miền thực hành tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, đánh vào nhiều mục tiêu chiến lược quan trọng bậc nhất của Mỹ ngụy, gây cho chúng những tổn thất nặng nề, góp phần cùng cả nước làm suy sụp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Paris.

Sau đợt 2 Tết Mậu Thân 1968, dù trong điều kiện bị địch phản kích đánh phá khốc liệt, lực lượng bị tiêu hao giảm sút, cơ sở bị bể vỡ nhiều, nhưng quân và dân Sài Gòn - Gia Định vẫn vững tin vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, kiên trì bám trụ địa bàn, chịu đựng gian khổ hy sinh, khéo léo chuyển hướng và phương pháp đấu tranh, quay về khôi phục xây dựng cơ sở, thực lực, giữ vững và tiến tới đẩy mạnh cao trào đấu tranh chính trị dưới nhiều hình thức ở nội đô, kiên cường đánh địch càn quét, liên tục chống phá chương trình bình định nông thôn của địch, giành lại và mở nhiều lõm làm chủ, giải phóng, phát triển hệ thống thông tin giao thông liên lạc ở vùng ven, tạo lại thế tiến công mới cho đến Hiệp định Paris.

Trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh, quân và dân Sài Gòn - Gia Định kịp thời đề phòng và uốn nắn những biểu hiện hòa bình chủ nghĩa sau ngày ký Hiệp định Paris, tranh thủ thời cơ, tiếp tục phát triển thực lực cách mạng, tạo thế tạo lực mới. Từ cuối năm 1974, khi thời cơ cách mạng chúng bắt đầu xuất hiện, đã tích cực xây dựng lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, phát huy hiệu lực ở cả ba mũi chính trị, quân sự, binh vận, đẩy mạnh tiến công địch trên khắp nội ngoại ô thành phố, góp phần thúc đẩy tính thế cách mạng nhanh chính chín muồi. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Sài Gòn - Gia Định kịp thời đón nhận thời cơ, tham gia tổng tiến quân và nổi dậy trong chiến dịch Hồ Chí Minh, tạo điều kiện cho các binh đoàn chủ lực tiến vào thành phố, đập tan bộ máy ngụy quân ngụy quyền từ cơ sở tới trung ương, làm chủ mọi sinh hoạt của thành phố ngay từ giờ phút đầu giải phóng.

Ba mươi năm chiến tranh ròng rã, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã hoàn thành vẻ vang sứ mạng mà lịch sử giao phó "đi trước về sau", cùng quân và dân cả nước lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Trải suốt những năm chiến tranh tàn khốc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định một lòng son sắt với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Bác Hồ, kiên cường chịu đựng và vượt qua mọi gian lao thử thách, kiên cường chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng quê hương, giải phóng đất nước. Cả trong những ngày cam go nhất của buổi đầu kháng chiến, giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1953, giai đoạn năm 1957 - 1958 - 1959, những ngày địch khủng bố ác liệt sau Tết Mậu Thân, dân và quân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định vẫn vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, lần hồi gầy dựng cơ sở (có khi đi trở lại từ con số không), sẵn sàng chấp nhận hy sinh vì sự nghiệp chung, lòng không hề vướng bọn mảy may lợi ích riêng tư của bản thân mình. Trên mảnh đất Củ Chi, có những căn nhà được dựng đi dựng lại không dưới mươi lần trên nền đất cũ, có những người mẹ chít ngang đầu 8 vành tang trắng. Hàng ngàn đồng bào, chiến sĩ trải hết các nhà tù, nếm đủ các đoàn tra tấn dã man và thâm hiểm nhất mà kẻ thù có thể nghĩ ra vẫn một lòng trung trinh với sự nghiệp cách mạng. Không thể nào ghi lại được đầy đủ chiến công và sự hy sinh của toàn thể dân, quân, cán bộ, đảng viên Sài Gòn - Gia Định những chiến sĩ anh hùng cách mạng. Máu của họ thấm đẫm trên mọi góc phố, cửa ô, mọi nẻo đường, làng xóm, vườn tược. Khôn thể nào nhắc lại được đầy đủ lịch sử các địa danh Vườn Thơm, Láng Le, Bàn Cờ, Bình Mỹ, Khu 5 Hóc Môn, Rừng Sác, Bưng Sáu Xã, Tám Giác Sắt, Củ Chi... những mảnh đất mà tên gọi và sự tích chắc chắn sẽ lưu lại mãi mãi trong lịch sử cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta.

Thắng lợi của quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của toàn dân tộc trong cuộc chiến tranh 30 năm vừa qua, một cuộc chiến tranh "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ hai mươi, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế và có tính thời sự sâu sắc" (Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần IV)

Ba mươi năm, xương máu, mồ hôi của hàng vạn đồng bào, cán bộ, chiến sĩ thành phố đổ xuống đã vun tưới thêm truyền thống chống ngoại xâm vốn được tinh cất trong suốt chiều dài lịch sử ba trăm năm của cư dân vùng đất Bến Nghé này. Đó là tình yêu quê hương đất nước, yêu độc lập tự do, là lòng trung thành vô hạn và ý nguyện dấn thân vào con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Đó là ý chí bất khuyất và năng động trước mọi ngăn trở của hoàn cảnh, tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường và trí tuệ mưu lược thấm đẫm tinh thần thượng võ, nghĩa hiệp, là phẩm chất cần cù lao động sáng tạo xây dựng cuộc sống mới. Đó chính là tinh thần đoàn kết gắn bó, là tình thương yêu giai cấp, thương yêu đồng loại, là lối ứng xử bặt thiệp, hào hiệp, nhân nghĩa, có thủy có chung.

Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định được vinh dự mang tên Bác Hồ - Thành phố Hồ Chí Minh. Quân và dân thành phố lại tiếp tục bước vào cuộc đấu tranh mới: khắc phục hậu quả chiến tranh, sửa đổi lệch lạc trong bước đi, đổi mới sự lãnh đạo, khôi phục và phát triển lực lượng sản xuất mới, từng bước đưa thành phố tiến lên theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành phố ngày càng giàu mạnh, văn minh, đấu tranh giữ vững thành quả cách mạng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tăng cường và củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc. Hàng ngàn người con của thành phố đã lên đường chiến đấu anh dũng giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm tròn nghĩa vụ quốc tế trên đất nước Campuchia.

Lịch sử cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài gần một phần ba thế kỷ đang lùi xa vào quá khứ. Nhưng những giá trị quyền thống và bài học lịch sử của nó thì còn lại mãi mãi với các thế hệ cư dân chủ nhân của thành phố Hồ Chí Minh - thành phố anh hùng


  (¹) Người ném bom Dinh Độc Lập là Nguyễn Thành Trung, người cán bộ nội tuyến binh vận của ta được cài vào trong lực lượng không quân quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 8.4.1975, anh đã lái máy bay F.5 xuất phát từ sân bay Thành Sơn (Phan Rang) bay vào ném bom trúng dinh Độc Lập và sau đó hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long. Sự kiện này góp phần gây hoang mang cực độ trong giới đầu sỏ ngụy quyền Sài Gòn.

      Ngày 28.4.1975, không đầy 10 phút sau khi tướng Dương Văn Minh thay Thiệu nhậm chức Tổng thống, Nguyễn Thành Trung đã dẫn đường cho 4 chiếc A.37 do Mỹ chế tạo từ sân bay Thành Sơn (Phan Rang), lượn vòng trên bầu trời Sài Gòn. Lúc 17 giờ 40 phút phi đội của Nguyễn Thành Trung đã ném bom và bắn đạn DK.28 vào sân bay Tân Sơn Nhất khiến 3 máy bay AC.119 và nhiều chiếc C.47 bị phá hủy. Hai trái bom nổ giữa trung tâm điều khiển và vọng kiểm soát. Máy bay phản kích của địch bay mò vì trạm hướng dẫn đã bị hỏng. Cuộc oanh tạc táo bạo, bất ngờ làm tiêu tan hy vọng "thương lượng" của "tân tổng thống" lẫn Hoa Kỳ, làm tăng thêm sự hoang mang và hỗn loạn của địch.


(²) Trong "cơn lốc kinh hoàng" của cuộc tháo chạy mệnh danh "người liều mạng" rồi "móng quặp chặt", hàng ngàn người tranh nhau bám càng trực thăng trong cơn hoảng loạn, mặc dù từ ngày 10 tháng 4 năm 1975 Bộ chỉ huy quân Giải phóng đã tuyên bố: "Quân giải phóng lúc nào cũng sẵn sàng tạo điều kiện cho cố vấn Hoa Kỳ rút về nước bình an vô sự".

  Ngày 3 tháng 4, sau những cơn giận dữ của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Schlesiger và cố vấn Kissinger ở Washington vì sự nấn ná quá đáng của Đại sứ Martin ở Sài gòn để cố tạo ra vẻ "người Mỹ đàng hoàng ra đi", Tổng thống Ford ra lệnh dứt khoát: "Chấm dứt cuộc di tản vào 3 giờ 30 phút, giờ địa phương, sáng 30 tháng 4". Tuy nhiên, lệnh không thi hành được.

  4 giờ 20 phút, tiếp tục cuộc tháo chạy, một máy bay CH-53 đổ xuống lầu thượng tòa Đại sứ, Martin lại nhận được điện của Nhà Trắng: "Tổng thống ra lệnh đại sứ phải đi chuyến này". Martin vẫn chậm chạp. Một nhân viên cấp dưới tỏ vẻ bực tức: "Lệnh là lệnh, đại sứ phải lên. mà lên ngay, vì quân đội Bắc Việt Nam đã ở dưới đường. Họ sẽ nổi giận và bắn chúng ta nếu họ thấy chiếc máy bay để ở đây lâu quá".

  Nhà Trắng lại có lệnh rõ ràng: "Cầu hàng không ngừng lúc bản thân Martin đã đi".

  Nhưng chiếc CH-53 chở Martin đã rời sân thượng, tòa Đại sứ Mỹ vẫn còn 5 nhân viên, 4 lính thủy đánh bộ người Mỹ và ngót 420 người Việt Nam phần đông là nhân vật cao cấp của Thiệu, nhân viên Sứ quán Nam Triều Tiên, đứng đầu là 1 thiếu tướng... Tất cả những người này chấp nhận bỏ hành lý để thoát cho được.

  Moorefield, người được Martin chọn "giúp cai trị" ở toà Đại sứ là người Mỹ cuối cùng rời Sài Gòn lúc 5 giờ 24 phút ngày 30 tháng 4. Ông ta kể lại cảnh tượng Sài Gòn lúc đó, nhìn từ bầu trời xuống: "Bình yên, phẳng lặng. Trừ một vài đám cháy ở đàng xa..."

  Tom Polgar, nhân viên cao cấp ở tòa Đại sứ "Người nguy hiểm nhất đối với Martin" vì những nhận định, báo cáo lên Nhà Trắng cứ trái ngược, nhưng rất "hợp Martin" ở chỗ "chống cộng kịch liệt và ham thích nghiên cứu", cùng ngồi với Martin trên chiếc CH-53 trong cuộc tháo chạy tán loạn, đã ghi lại nhận xét của mình ngày hôm ấy: "Đó là một cuộc chiến tranh (chiến tranh Việt Nam) lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt. Nhưng... Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải nhắc lại lịch sử".


(Lịch sử Sài Gòn - Chợ LớnGia Định kháng chiến 1945-1975. NXB TP.HCM)