Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014
CÚNG LÀNG
Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2014
Quan hệ Việt – Trung trong thập niên70 thế kỷ 20
Mở đầu
Việt Nam – Trung Quốc, hai nước láng giềng núi sông liền dải, đã tồn tai bên nhau hàng nghìn năm lịch sử, từ xa xưa mối quan hệ bang giao đã được hình thành và không ngừng phát triển theo năm tháng.
Sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945 và nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1949 đã tạo điều kiên cho mối quan hệ giữa hai nước phát triển lên một tầm cao mới. Đó là tình hữu nghị “vừa là đồng chí vừa là anh em” do chủ tich Hồ Chí Minh và chủ tich Mao Trạch Đông dày công vun đắp. Trong 2 cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam, chính phủ, nhân dân Trung Quốc đã nhiệt tình giúp đỡ, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Việt Nam – Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại tới nay đã hơn nửa thế kỷ qua (1950), mối quan hệ Việt - Trung đã trải qua những bước thăng trầm quanh co uốn khúc. Rất vui mừng là sau gần 20 năm rơi vào tình trạng căng thẳng, quan hệ Việt – Trung đã được cải thiện (1991). Nhân dân 2 nước lại được sống trong bầu không khí láng giềng hữu nghị, cùng nhau ‘khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” vì sự phát triển lâu dài của 2 dân tộc.
20 năm đó đã để lại nhiều đau thương cho nhân dân 2 nước, ảnh hưởng không tốt cho cách mạng mỗi nước và phong trào cách mạng thế giới. Tiêu biểu là trong thập niên 70 – giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam và những năm đầu sau ngày Việt Nam thống nhất. Mối quan hệ Việt – Trung đã từng bước đi vào khúc quanh, đi vào những ngày đen tối nhất.
Thời gian đã đi qua, dù muốn hay không thì lịch sử vẫn diễn ra rồi, tuy nhiên vấn đề cần được nhìn nhận phân tích một cách rõ ràng, khách quan, để từ lịch sử chúng ta góp phần củng cố, xây đắp cho mối quan hệ Việt – Trung ngày càng phát triển hơn.
Ngày nay trong quan hệ Việt – Trung, các vấn đề liên quan đến hai quốc gia đã và đang được giải quyết bằng đàm phán thương lượng hòa bình, có những vấn đề lãnh thổ từ hôm qua tới hôm nay vẫn đang còn là một vấn đề thời sự nóng bỏng, chẳng hạn như vấn đề Hoàng Sa.
Nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ Việt – Trung trong lịch sử nói chung và trong thập niên 70 thế kỷ 20 nói riêng không chỉ đơn thuần là mổ xẻ, xem xét vấn đề một cách khoa học mà nó còn có ý nghĩa thực tế sâu sắc. 10 năm đầu cho 1 khúc quanh 20 năm trong quan hệ Việt – Trung, hội tụ đủ 2 mặt tốt và xấu, tích cực và tiêu cực trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Việt Nam. Qua đó cũng thấy được sự lãnh đạo cách mạng tài tình của Đảng ta, dù trong tình huống nào, chiến tranh hay hòa bình, Đảng ta, nhân dân ta vẫn nắm vững ngọn cờ độc lập tự chủ của mình để từng bước đưa cách mạng nước ta tiến lên dành thắng lợi này đến thắng lợi khác, đập tan mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù.
Chương 1
Khái quát quan hệ Việt – Trung trước thập niên 70 thế kỷ 20
1. Việt Nam – Trung Hoa, hai nước láng giềng tương đồng về lịch sử văn hóa
Nước Việt Nam cong hình chữ S, bao bọc phía đông bán đảo Đông Dương. Phía bắc Việt Nam là nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng lớn. Núi liền núi sông liền sông, từ bao đời nay hai nước đã có mối quan hệ qua lại khăng khít với nhau và có nhiều điểm tương đồng trong lịch sử, văn hóa.
Cách đây 4000 năm người Việt cổ đã bước vào thời đại kim khí và nhà nước Văn Lang của các vua Hùng đã ra đời trên lãnh thổ Việt Nam. Ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ 2 nhà Hạ cũng đã được thành lập. Người dân Việt cổ cũng như người Trung Quốc cổ chính thức bước vào thời kỳ có nhà nước, một giai đoạn mới trong lịch sử các dân tộc đã bắt đầu.
Trải qua các đời Hạ - Thương – Chu, Trung Quốc bước vào thời kỳ phong kiến hơn 2000 năm với nhiều triều đại: Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Nửa cuối thế kỷ 19, thực dân phương tây xâm nhập tranh nhau xâu xé biến Trung Quốc thành một nước phong kiến nửa thuộc địa.
Ở Việt Nam trải qua thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc là 1000 năm bắc thuộc. Năm 905 Khúc Thừa Dụ dành quyền tự chủ, mở đầu cho thời kỳ phong kiến độc lập với nhiều triều đại khác nhau: Ngô – Đinh – Lê – Lý – Trần – Lê – Tây Sơn – Nguyễn. Cũng vào thế kỷ 19, Pháp xâm lược, biến Việt Nam thành một nước phong kiến nửa thuộc địa.
Nhân dân Việt Nam, nhân dân Trung Quốc đã không ngừng nổi dậy chống phong kiến, thực dân, phát xít xâm lược. Cuối cùng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, cách mạng hai nước đã thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945) và nhà nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1949) đã ra đời, mở ra một trang mới trong tiến trình đi lên của hai dân tộc. Trung Hoa tiến lên theo con đường chủ nghĩa xã hội, từ 1978 tới nay thực hiện cải cách mở cửa, đã và đang dành được nhiều thắng lợi.
Nhân dân Việt Nam từ 1946 tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh Pháp, đuổi Mỹ, thống nhất đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ 1986 tới nay, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đã và đang dành được nhiều thành tựu to lớn.
Việt Nam – Trung Hoa, hai nước láng giềng thực sự có mối tương đồng trong lịch sử, ngày nay trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế, hai nước Viêt – Trung vẫn kiên trì đi theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Là những nước phương đông đi lên từ nền văn minh nông nghiệp, lại là láng giềng của nhau, hai nước Việt -Trung cũng có nhiều điểm tương đồng trong văn hóa. Điều đó được thể hiện rõ trong thể chế chính trị, tôn giáo, phong tục, tập quán, sản xuất, ẩm thực, trang phục, lễ hội…
Khởi phát từ nền văn minh nông nghiệp, chế độ phong kiến trung ương tập quyền đã tồn tại lâu dài trong lịch sử hai dân tộc. Ngày nay nhân dân hai nước đang được sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Nói riêng về tôn giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống tinh thần của nhân dân và ảnh hưởng không nhỏ tới nếp cảm, nếp nghĩ, tính cách, lối sống, phong tục tập quán của nhân dân hai nước. Bên canh đó nhân dân Việt – Trung còn có sự tương đồng trong ẩm thực, trang phục, lễ hội…Một ngày tết mà nhân dân hai nước đều mừng vui chào đón trong năm là tết cổ truyền, và còn thật nhiều điểm tương đồng khác nữa. Những giá trị văn hóa tốt đẹp của hai dân tộc sẽ được gìn giữ và phát huy hơn nữa .
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, trên cơ sở gắn kết về địa lý, cộng đồng dân cư, phương thức sản xuất, hai dân tộc Việt – Trung đã có nhiều điểm tương đồng trong lịch sử văn hóa. Sự tương đồng này là cơ sở vững chắc cho việc tạo lập hình thành mói quan hệ bang giao trong lich sử, và là một yếu tố quan trọng trong việc xây đắp phát triển mối quan hệ khăng khít giữa hai dân tộc Việt – Trung.
2. Quan hệ Việt – Trung thời phong kiến
Chế độ phong kiến đã tồn tại lâu dài trong lịch sử hai nước, qua hàng nghìn năm phong kiến ấy quan hệ qua lại giữa hai dân tộc đã được thiết lập, nhưng tùy vào từng triều đại , từng thời điểm lịch sử khác nhau mà có lúc bền chặt có lúc đối chọi nhau, quan hệ Việt - Trung không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, có lúc cũng phải vượt thác ghềnh, nhưng nhìn chung trên chặng đường đã qua của hàng nghìn năm phong kiến, tình hòa hảo vẫn là lâu dài. Hòa bình và xung đột trong quan hệ Việt – Trung là đan xen với nhau.
Việt Nam là một nước nhỏ về lãnh thổ. Trung Quốc là một nước lớn đông dân. Các triều đại Trung Quốc luôn mang trong mình tư tưởng đại Hán, coi Trung Quốc là trung tâm của thế giới và những dân tộc xung quanh là phên thuộc, chư hầu. Tư tưởng “thiên triều” đã ăn sâu vào máu thịt giai cấp thống trị Trung Quốc. Họ đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh để khuất phục láng giềng và Việt Nam cũng nằm trong tầm ngắm đó. Cuộc kháng chiến đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là cuộc kháng chiến chống quân Tần xâm lược (214 – 208 tcn). Sau thất bại của vua tôi nhà Thục chống quân Triệu Đà (179 tcn) dân tộc Việt Nam đã đau thương trong hơn 1000 năm bắc thuộc. Nhưng cuối cùng ách đô hộ của phong kiên Trung Quốc đã bị lật đổ, các cuộc tiến công xâm lược đã bị nhân dân Việt Nam đánh bại.
Các triều đại phong kiến Trung Quốc kế tiếp nhau: Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, luôn mang tham vọng thôn tính Việt Nam, nhưng họ đã không thể thực hiện được điều đó, bởi “ núi sông bờ cõi đã chia”, nhân dân Việt Nam đoàn kết một lòng chiến đấu kiên cường dũng cảm đập tan mọi cuộc hành quân lấn chiếm của phong kiến phương bắc, với những chiến công lẫy lừng như: chiến thắng Bạch Đằng (938), hai lần đánh bại quân Tống (981, 1076) ba lần chiến thắng quân Nguyên (1258, 1285, 1288), quân Minh (1428), quân Thanh (1789) cũng đi theo vết xe đổ đó.
Sau mỗi cuộc chiến tranh xâm lược và chống xâm lược kết thúc, quan hệ Việt – Trung lại được bình thường hóa, các triều đình phong kiến lại trao đổi sứ bộ với nhau, nhân dân hai nước lại trao đổi buôn bán. Nhân dân Việt Nam luôn giữ quan hệ hòa hiếu với nhân dân Trung Quốc, phần vì đó là tình cảm của một nước nhỏ đối với một nước lớn, phần vì khát khao hòa bình để xây dựng một cuộc sống ấm êm. Lê Lợi vừa đánh bại quân Minh (1428) đã cấp ngay lương thảo thuyền bè để quân chiến bại rút về nước, liền đó cử một đoàn sứ bộ sang thông hiếu với nhà Minh. Quang Trung sau khi đại phá quân Thanh (1789) cũng cử một đoàn sứ bộ sang thông hiếu với nhà Thanh. Đó là những nghĩa cử cao đẹp của một dân tộc luôn yêu chuộng hòa bình.
Các triều đại phong kiến Việt Nam chấp nhận chính sách: sách phong, triều cống đối với triều đình Trung Quốc là để góp phần gìn giữ quan hệ hòa hiếu Trung – Việt. đứng cạnh một nước lớn như Trung Quốc các triều đại phong kiến Việt Nam luôn thực hiện chính sách nhân nhượng mềm dẻo để giữ vững chủ quyền dân tộc.
Quan hệ Việt – Trung thời phong kiến là tổng hòa các mối quan hệ ngoại giao, chính trị, kinh tế, văn hóa. Mối quan hệ đó có nhiều bước thăng trầm phụ thuộc vào từng điều kiện lịch sử cụ thể, có lúc tốt đẹp hòa hiếu, có lúc xung đột chiến tranh, nhưng nhìn chung thời gian hòa bình vẫn nhiều hơn tất cả. quan hệ Việt – Trung là mối quan hệ láng giềng thân thuộc đóng vai trò quan trọng trong đời sống bang giao của các triều đại Việt Nam – Trung Quốc.
3. Quan hệ Việt -Trung những năm 20 đến trước những năm 70 của thế kỷ 20
Từ những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, cuộc đấu tranh chống phong kiến thực dân của nhân dân 2 nước Việt – Trung đã có nhiều thay đổi, quan hệ Việt – Trung đã trở nên gắn bó thân thiết hơn. Những thập kỷ tiếp theo phát triển cao hơn trở thành tình anh em đồng chí. Sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng hai nước nhiều khi đã trở thành tình hữu nghị mẫu mực trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“ Mối tình thắm thiết Việt Hoa
Vừa là đồng chí vừa là anh em”
Cách mạng Tân Hợi 1911 chấm dứt sự tồn tại hơn 2000 năm chế độ phong kiến ở Trung Quốc, đưa Trung Quốc bước vào thời kỳ mới. Năm 1921 đảng cộng sản Trung Quốc ra đời, trực tiếp lãnh đạo cách mạng đấu tranh chống đế quốc, thực dân phản động.
Cũng năm 1911, Nguyễn Aí Quốc ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghã Mác – Lê nin. Năm1923 Người về Trung Quốc hoạt động tại trung tâm cách mạng Quảng Châu dưới sự giúp đỡ của những người cách mạng Trung Quốc. Người đã chuyển tổ chức yêu nước Việt Nam “ tâm tâm xã” thành “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”, ra báo thanh niên, tổ chức huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam, một số học viên đã được đưa đi đào tạo ở trường quân sự Hoàng Phố. Năm 1930 hội nghị thành lập đảng cộng sản Việt Nam cũng được tiến hành tại Trung Quốc.
Đất nước Trung Quốc ,cùng với sự giúp đỡ của những người cách mạng Trung Quốc, đã trở thành mảnh đất dừng chân, ươm trồng các tổ chức và cán bộ cách mạng Việt Nam. Ngược lại các chiến sĩ cách mạng Việt Nam đã tích cực tham gia phong trào cách mạng, gắn bó với lịch sử đấu tranh gian khổ của đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc, tham gia Quảng Châu công xã, gia nhập hồng quân, tham gia chiến tranh du kích…..
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đối đầu với thực dân Pháp xâm lược. Cách mạng Trung Quốc đang tiến hành nội chiến chống Tưởng Giới Thạch. Trong những năm tháng gian khổ ấy, quân dân Việt Nam đã ủng hộ nhiệt tình một bộ phận quân đội Trung Quốc, phối hợp với quân giải phóng nhân dân Trung Quốc mở rộng khu giải phóng Điền Quế, tấn công quân Tưởng, giải phóng Hoa Nam (1949). Những nghĩa trang liệt sĩ Việt Nam tại Trung Quốc (Đông Hưng – Giang Bình) là tượng đài bất tử về tình thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân hai nước. Sự hi sinh đó đã góp phần nhỏ bé vào công cuộc giải phóng của nhân dân Trung Quốc. Cách mạng Trung Quốc thành công (1949)
.
Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ của nhân dân Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ to lớn của Đảng, chính phủ, và nhân dân TrungQuốc. Bắt đầu từ 1950, sau những năm dài chiến đấu trong vòng vây, ngày 18.1.1950 nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay sau đó Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũng công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta. Sự kiện đó đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta.
Cách mạng Việt Nam đã được nối liền với hậu phương xã hội chủ nghĩa rộng lớn, Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam cả về vật chất lẫn tinh thần. Trung Quốc trở thành một trong hai nước viện trợ chính và là nơi quá cảnh cho hàng viện trợ đến Việt Nam. Từ 1950 đến 1954 Việt Nam đã nhận được tổng số viện trợ là 21517 tấn, bao gồm: vũ khí, lương thực, ngoài ôtô, hỏa tiễn, cachiusa, pháo cao xạ, tiểu liên k50 là của Liên Xô và các nước Đông Âu, số còn lại là của Trung Quốc, trong đó bao gồm : lương thực, xăng đầu , vũ khí bộ binh, pháo 75 ly, 100 ly, cùng các loại đạn. Sự giúp đỡ đó có ý nghĩa vô cùng to lớn, tăng cường sức mạnh cho bộ đội Việt Nam.
Ngoài viện trợ trên Trung Quốc còn cử một đoàn cố vấn gồm 79 cán bộ ưu tú sang giúp đỡ cho bộ đội Việt Nam, đóng góp ý kiến và phổ biến kinh nghiệm chiến đấu của quân giải phóng Trung Quốc.
Sự giúp đỡ to lớn ấy đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam. Đó cũng là thắng lợi của tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, góp phần củng cố, bảo vệ Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em trước âm mưu đen tối của kẻ thù.
Kháng Pháp vừa thắng lợi, nhân dân Việt Nam đã phải đối đầu với cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Một lần nữa chính phủ và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Trung Quốc tiếp tục ủng hộ to lớn cho Việt Nam.
Trung Quốc là một trong ngững nước lên tiếng phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh phi nghĩa của đế quốc Mỹ đối với Việt Nam, khẳng định tình đoàn kết và trách nhiệm cao cùng nhân dân Việt Nam đánh đuổi xâm lược Mỹ.
Bên cạnh sự ủng hộ về chính trị, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam một khối lượng vật chất vũ khí , kỷ thuật, phương tiện chiến tranh, quân trang, quân dụng khá lớn, kéo dài trong nhiều năm. Trung Quốc còn đảm nhận một công việc rất quan trọng là vận chuyển quá cảnh số lượng vũ khí, đạn dược mà các nước khác dành cho Việt Nam. Một số cảng của Trung Quốc đã trở thành nơi tiếp nhận hàng viện trợ nước ngoài cho Việt Nam. Từ 1965 đến 1969 một số đơn vị công binh và bộ đội phòng không Trung Quốc đã sang giúp đỡ Việt Nam nâng cấp, sữa chữa các tuyến đường giao thông trên bộ, thuộc các tỉnh biên giới Việt – Trung, bảo vệ cho việc vận chuyển đường sắt và đường ôtô từ biên giới Trung Quốc tới các tuyến đường trong lãnh thổ Việt Nam. Những việc làm trên đã thúc đẩy nhanh tốc độ vận chuyển hàng hóa cho chiến trường miền nam, đóng góp có hiệu quả đối với sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam.
50 năm kể từ khi đảng cộng sản Trung Quốc thành lập đến trước thập niên 70, đặc biệt là từ khi nước Việt Nam mới và nước Trung Hoa mới ra đời, quan hệ Việt – Trung đã trở nên vô cùng thắm thiết, vừa là quan hệ láng giềng hữu nghị, vừa là quan hệ đồng chí anh em. Đảng chính phủ và nhân dân hai nước đã nhiệt tình giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ tịch Mao Trạch Đông là những người đã dàycông vun xới cho mối tình hữu nghị ấy. Từ 1950 cho tới trước những năm 70 “mối tình thắm thiết Việt Hoa” đã thực sự đem lại nhiều hương thơm trái ngọt cho mối quan hệ tốt đẹp giữa hai dân tộc. Đặc biệt là nhân dân Việt Nam có thêm một sức mạnh mới trong công cuộc đánh đổ đế quốc, thực dân, giải phóng đất nước.
Chương 2
Quan hệ Việt – Trung trong những năm 1971 đến 1975
1 Bối cảnh lịch sử
1.1 Quốc tế
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, trật tự thế giới mới từng bước được thiết lập, Mỹ và Liên Xô trở thành đối trọng của nhau trong quan hệ quốc tế.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động do Mỹ cầm đầu, ngày càng tấn công điên cuồng vào chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới. Chúng phát động chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang , thiết lập các liên minh quân sự, giật dây cho các cuộc chiến tranh , đảo chính khắp nơi trên thế giới.
Sau chiến tranh , ba dòng thác cách mạng cũng không ngừng phát triển. Chủ nghĩa xã hội từ một nước đã trở thành hệ thống thế giới, lan rộng châu Âu, châu As, châu Mỹ La Tinh. Liên Xô đã trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội thế giới. Từ giữa những năm 70 sức mạnh quân sự giữa Liên Xô và Mỹ đạt được sự cân bằng có lợi cho phong trào cách mạng thế giới.
Phong trào giải phóng dân tộc phát triển rầm rộ, từng bước làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và bước đầu làm thất bại chủ nghĩa thực dân mới. Hầu hết các nước từ địa vị phụ thuộc, thuộc địa đã trở thành quốc gia độc lập: Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, An Giê Ri, Nic Ca Ra Goa….. nhiều nước đã đi lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Phong trào công nhân ở các nước tư bản, đấu tranh cho tự do, dân chủ, hòa bình cũng không ngừng phát triển.
Ba dòng thác cách mạng đã tạo nên một sức mạnh vô địch tấn công mạnh mẽ vào chủ nghĩa đế quốc.
Tuy nhiên phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, do việc bất đồng về đường lối chính trị cũng như vai trò lãnh đạo cách mạng thế giới, giữa các đảng cộng sản đã nảy sinh mâu thuẫn . Tình hình đó đã gây bất lợi cho cách mạng từng nước và phong trào cách mạng thế giới.
Ở Trung Quốc cách mạng thành công, nước cộng hòa nhân nhân Trung Hoa ra đời (1949) đã bắt tay vào xây dựng chế độ mới và gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể. nhưng ngay sau đó do thực hiên đường lối “ba ngọn cờ hồng” và đại cách mạng văn hóa vô sản đã gây nên một cục diện hỗn loạn đau thương trong lịch sử Trung Quốc, đỉnh cao là những năm 1966 – 1968 và kéo dài tới 1976.
Đó thực chất là một cuộc thanh trừng nội bộ, tranh dành quyền lực gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho đất nước Trung Quốc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế , chính trị, văn hóa, xã hội. giới lãnh đạo Trung Quốc đã thực hiện đường lối đối ngoại bất lợi cho cách mạng Trung Quốc và cách mạng thế giới, chống Liên Xô, coi Liên Xô là kẻ thù số một, phá hoại cách mạng Đông Dương. Mâu thuẫn Trung – Xô phát triển đến đỉnh cao dẫn tới chiến tranh biên giới (1969). Từ đối địch Trung Quốc ngày càng xích lại gần với Mỹ, chĩa mũi nhọn vào Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Như vậy từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến giữa những năm 70, mặc cho đế quốc và các thế lực phản động, điên cuồng phản kích nhưng phong trào cách mạng thế giới vẫn không ngừng phát triển. Quan hệ quốc tế có nhiều biến đổi phức tạp tác động hai chiều vừa tích cực, vừa tiêu cực đến cách mạng Việt Nam.
1.2 Trong nước
Chín năm kháng chiến dũng cảm dưới sự lãnh đạo của đảng ta, nhân dân ta đã đánh bại thực dân Pháp xâm lược (1954) miền bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương lớn cho tiền tuyến miền nam. Ở miền nam, đế quốc Mỹ nhảy vào cấu kết với bọn phản động tay sai ra sức phá hoại cách mạng. Chúng muốn biến miền nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, đè bẹp cách mạng Việt Nam, ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan tràn xuống Đông Nam Á, răn đe phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ trên thế giới.
Nhân dân ta tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ để giải phóng miền nam thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta với đường lối độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh dựa vào sức mình là chính, đồng thời tăng cường củng cố mở rộng các mối quan hệ quốc tế, đặc biệt là với các nước xã hội chủ nghĩa, cách mạng nước ta đã không ngừng lớn mạnh. Quân dân ta kết hợp đấu tranh trên các mặt trận, chính trị, quân sự, ngoại giao và từng bước dành được những thắng lợi to lớn: đánh bại chiến lược Aixenhao (1954 – 1960) chiến lược “chiến tranh đặc biệt”(1961 – 1965) chiến lược “ chiến tranh cục bộ”(1965 – 1968). Từ 1969 – 1973 Mỹ thực hiện chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh” tăng cường phá hoại miền bắc, mở rộng chiến tranh ra Đông Dương.
Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược 1972 ở miền nam và trận “ Điện Biên Phủ trên không”cuối 1972 ở miền bắc, Mỹ đã phải ký hiệp định Pa ri (27.1.1973) cuốn cờ rút khỏi Việt Nam. Quân dân ta trên đà thắng lợi tiến lên đánh cho ngụy nhào. Bằng đại thắng mùa xuân 1975 sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi. Miền nam giải phóng, nước nhà thống nhất, một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc đã được mở ra.
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước là thắng lợi của sức mạnh dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của tinh thần đoàn kết giữa các nước xã hội chủ nghĩa, cũng như lực lượng yêu chuộng hòa bình dân chủ và tiến bộ trên thế giới, trong đó có nhân dân Trung Quốc.
Việt Nam – Trung Quốc, hai nước láng giềng núi sông liền dải, đã tồn tai bên nhau hàng nghìn năm lịch sử, từ xa xưa mối quan hệ bang giao đã được hình thành và không ngừng phát triển theo năm tháng.
Sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945 và nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1949 đã tạo điều kiên cho mối quan hệ giữa hai nước phát triển lên một tầm cao mới. Đó là tình hữu nghị “vừa là đồng chí vừa là anh em” do chủ tich Hồ Chí Minh và chủ tich Mao Trạch Đông dày công vun đắp. Trong 2 cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam, chính phủ, nhân dân Trung Quốc đã nhiệt tình giúp đỡ, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Việt Nam – Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại tới nay đã hơn nửa thế kỷ qua (1950), mối quan hệ Việt - Trung đã trải qua những bước thăng trầm quanh co uốn khúc. Rất vui mừng là sau gần 20 năm rơi vào tình trạng căng thẳng, quan hệ Việt – Trung đã được cải thiện (1991). Nhân dân 2 nước lại được sống trong bầu không khí láng giềng hữu nghị, cùng nhau ‘khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” vì sự phát triển lâu dài của 2 dân tộc.
20 năm đó đã để lại nhiều đau thương cho nhân dân 2 nước, ảnh hưởng không tốt cho cách mạng mỗi nước và phong trào cách mạng thế giới. Tiêu biểu là trong thập niên 70 – giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam và những năm đầu sau ngày Việt Nam thống nhất. Mối quan hệ Việt – Trung đã từng bước đi vào khúc quanh, đi vào những ngày đen tối nhất.
Thời gian đã đi qua, dù muốn hay không thì lịch sử vẫn diễn ra rồi, tuy nhiên vấn đề cần được nhìn nhận phân tích một cách rõ ràng, khách quan, để từ lịch sử chúng ta góp phần củng cố, xây đắp cho mối quan hệ Việt – Trung ngày càng phát triển hơn.
Ngày nay trong quan hệ Việt – Trung, các vấn đề liên quan đến hai quốc gia đã và đang được giải quyết bằng đàm phán thương lượng hòa bình, có những vấn đề lãnh thổ từ hôm qua tới hôm nay vẫn đang còn là một vấn đề thời sự nóng bỏng, chẳng hạn như vấn đề Hoàng Sa.
Nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ Việt – Trung trong lịch sử nói chung và trong thập niên 70 thế kỷ 20 nói riêng không chỉ đơn thuần là mổ xẻ, xem xét vấn đề một cách khoa học mà nó còn có ý nghĩa thực tế sâu sắc. 10 năm đầu cho 1 khúc quanh 20 năm trong quan hệ Việt – Trung, hội tụ đủ 2 mặt tốt và xấu, tích cực và tiêu cực trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Việt Nam. Qua đó cũng thấy được sự lãnh đạo cách mạng tài tình của Đảng ta, dù trong tình huống nào, chiến tranh hay hòa bình, Đảng ta, nhân dân ta vẫn nắm vững ngọn cờ độc lập tự chủ của mình để từng bước đưa cách mạng nước ta tiến lên dành thắng lợi này đến thắng lợi khác, đập tan mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù.
Chương 1
Khái quát quan hệ Việt – Trung trước thập niên 70 thế kỷ 20
1. Việt Nam – Trung Hoa, hai nước láng giềng tương đồng về lịch sử văn hóa
Nước Việt Nam cong hình chữ S, bao bọc phía đông bán đảo Đông Dương. Phía bắc Việt Nam là nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng lớn. Núi liền núi sông liền sông, từ bao đời nay hai nước đã có mối quan hệ qua lại khăng khít với nhau và có nhiều điểm tương đồng trong lịch sử, văn hóa.
Cách đây 4000 năm người Việt cổ đã bước vào thời đại kim khí và nhà nước Văn Lang của các vua Hùng đã ra đời trên lãnh thổ Việt Nam. Ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ 2 nhà Hạ cũng đã được thành lập. Người dân Việt cổ cũng như người Trung Quốc cổ chính thức bước vào thời kỳ có nhà nước, một giai đoạn mới trong lịch sử các dân tộc đã bắt đầu.
Trải qua các đời Hạ - Thương – Chu, Trung Quốc bước vào thời kỳ phong kiến hơn 2000 năm với nhiều triều đại: Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Nửa cuối thế kỷ 19, thực dân phương tây xâm nhập tranh nhau xâu xé biến Trung Quốc thành một nước phong kiến nửa thuộc địa.
Ở Việt Nam trải qua thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc là 1000 năm bắc thuộc. Năm 905 Khúc Thừa Dụ dành quyền tự chủ, mở đầu cho thời kỳ phong kiến độc lập với nhiều triều đại khác nhau: Ngô – Đinh – Lê – Lý – Trần – Lê – Tây Sơn – Nguyễn. Cũng vào thế kỷ 19, Pháp xâm lược, biến Việt Nam thành một nước phong kiến nửa thuộc địa.
Nhân dân Việt Nam, nhân dân Trung Quốc đã không ngừng nổi dậy chống phong kiến, thực dân, phát xít xâm lược. Cuối cùng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, cách mạng hai nước đã thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945) và nhà nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1949) đã ra đời, mở ra một trang mới trong tiến trình đi lên của hai dân tộc. Trung Hoa tiến lên theo con đường chủ nghĩa xã hội, từ 1978 tới nay thực hiện cải cách mở cửa, đã và đang dành được nhiều thắng lợi.
Nhân dân Việt Nam từ 1946 tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh Pháp, đuổi Mỹ, thống nhất đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ 1986 tới nay, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đã và đang dành được nhiều thành tựu to lớn.
Việt Nam – Trung Hoa, hai nước láng giềng thực sự có mối tương đồng trong lịch sử, ngày nay trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế, hai nước Viêt – Trung vẫn kiên trì đi theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Là những nước phương đông đi lên từ nền văn minh nông nghiệp, lại là láng giềng của nhau, hai nước Việt -Trung cũng có nhiều điểm tương đồng trong văn hóa. Điều đó được thể hiện rõ trong thể chế chính trị, tôn giáo, phong tục, tập quán, sản xuất, ẩm thực, trang phục, lễ hội…
Khởi phát từ nền văn minh nông nghiệp, chế độ phong kiến trung ương tập quyền đã tồn tại lâu dài trong lịch sử hai dân tộc. Ngày nay nhân dân hai nước đang được sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Nói riêng về tôn giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống tinh thần của nhân dân và ảnh hưởng không nhỏ tới nếp cảm, nếp nghĩ, tính cách, lối sống, phong tục tập quán của nhân dân hai nước. Bên canh đó nhân dân Việt – Trung còn có sự tương đồng trong ẩm thực, trang phục, lễ hội…Một ngày tết mà nhân dân hai nước đều mừng vui chào đón trong năm là tết cổ truyền, và còn thật nhiều điểm tương đồng khác nữa. Những giá trị văn hóa tốt đẹp của hai dân tộc sẽ được gìn giữ và phát huy hơn nữa .
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, trên cơ sở gắn kết về địa lý, cộng đồng dân cư, phương thức sản xuất, hai dân tộc Việt – Trung đã có nhiều điểm tương đồng trong lịch sử văn hóa. Sự tương đồng này là cơ sở vững chắc cho việc tạo lập hình thành mói quan hệ bang giao trong lich sử, và là một yếu tố quan trọng trong việc xây đắp phát triển mối quan hệ khăng khít giữa hai dân tộc Việt – Trung.
2. Quan hệ Việt – Trung thời phong kiến
Chế độ phong kiến đã tồn tại lâu dài trong lịch sử hai nước, qua hàng nghìn năm phong kiến ấy quan hệ qua lại giữa hai dân tộc đã được thiết lập, nhưng tùy vào từng triều đại , từng thời điểm lịch sử khác nhau mà có lúc bền chặt có lúc đối chọi nhau, quan hệ Việt - Trung không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, có lúc cũng phải vượt thác ghềnh, nhưng nhìn chung trên chặng đường đã qua của hàng nghìn năm phong kiến, tình hòa hảo vẫn là lâu dài. Hòa bình và xung đột trong quan hệ Việt – Trung là đan xen với nhau.
Việt Nam là một nước nhỏ về lãnh thổ. Trung Quốc là một nước lớn đông dân. Các triều đại Trung Quốc luôn mang trong mình tư tưởng đại Hán, coi Trung Quốc là trung tâm của thế giới và những dân tộc xung quanh là phên thuộc, chư hầu. Tư tưởng “thiên triều” đã ăn sâu vào máu thịt giai cấp thống trị Trung Quốc. Họ đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh để khuất phục láng giềng và Việt Nam cũng nằm trong tầm ngắm đó. Cuộc kháng chiến đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là cuộc kháng chiến chống quân Tần xâm lược (214 – 208 tcn). Sau thất bại của vua tôi nhà Thục chống quân Triệu Đà (179 tcn) dân tộc Việt Nam đã đau thương trong hơn 1000 năm bắc thuộc. Nhưng cuối cùng ách đô hộ của phong kiên Trung Quốc đã bị lật đổ, các cuộc tiến công xâm lược đã bị nhân dân Việt Nam đánh bại.
Các triều đại phong kiến Trung Quốc kế tiếp nhau: Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, luôn mang tham vọng thôn tính Việt Nam, nhưng họ đã không thể thực hiện được điều đó, bởi “ núi sông bờ cõi đã chia”, nhân dân Việt Nam đoàn kết một lòng chiến đấu kiên cường dũng cảm đập tan mọi cuộc hành quân lấn chiếm của phong kiến phương bắc, với những chiến công lẫy lừng như: chiến thắng Bạch Đằng (938), hai lần đánh bại quân Tống (981, 1076) ba lần chiến thắng quân Nguyên (1258, 1285, 1288), quân Minh (1428), quân Thanh (1789) cũng đi theo vết xe đổ đó.
Sau mỗi cuộc chiến tranh xâm lược và chống xâm lược kết thúc, quan hệ Việt – Trung lại được bình thường hóa, các triều đình phong kiến lại trao đổi sứ bộ với nhau, nhân dân hai nước lại trao đổi buôn bán. Nhân dân Việt Nam luôn giữ quan hệ hòa hiếu với nhân dân Trung Quốc, phần vì đó là tình cảm của một nước nhỏ đối với một nước lớn, phần vì khát khao hòa bình để xây dựng một cuộc sống ấm êm. Lê Lợi vừa đánh bại quân Minh (1428) đã cấp ngay lương thảo thuyền bè để quân chiến bại rút về nước, liền đó cử một đoàn sứ bộ sang thông hiếu với nhà Minh. Quang Trung sau khi đại phá quân Thanh (1789) cũng cử một đoàn sứ bộ sang thông hiếu với nhà Thanh. Đó là những nghĩa cử cao đẹp của một dân tộc luôn yêu chuộng hòa bình.
Các triều đại phong kiến Việt Nam chấp nhận chính sách: sách phong, triều cống đối với triều đình Trung Quốc là để góp phần gìn giữ quan hệ hòa hiếu Trung – Việt. đứng cạnh một nước lớn như Trung Quốc các triều đại phong kiến Việt Nam luôn thực hiện chính sách nhân nhượng mềm dẻo để giữ vững chủ quyền dân tộc.
Quan hệ Việt – Trung thời phong kiến là tổng hòa các mối quan hệ ngoại giao, chính trị, kinh tế, văn hóa. Mối quan hệ đó có nhiều bước thăng trầm phụ thuộc vào từng điều kiện lịch sử cụ thể, có lúc tốt đẹp hòa hiếu, có lúc xung đột chiến tranh, nhưng nhìn chung thời gian hòa bình vẫn nhiều hơn tất cả. quan hệ Việt – Trung là mối quan hệ láng giềng thân thuộc đóng vai trò quan trọng trong đời sống bang giao của các triều đại Việt Nam – Trung Quốc.
3. Quan hệ Việt -Trung những năm 20 đến trước những năm 70 của thế kỷ 20
Từ những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, cuộc đấu tranh chống phong kiến thực dân của nhân dân 2 nước Việt – Trung đã có nhiều thay đổi, quan hệ Việt – Trung đã trở nên gắn bó thân thiết hơn. Những thập kỷ tiếp theo phát triển cao hơn trở thành tình anh em đồng chí. Sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng hai nước nhiều khi đã trở thành tình hữu nghị mẫu mực trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“ Mối tình thắm thiết Việt Hoa
Vừa là đồng chí vừa là anh em”
Cách mạng Tân Hợi 1911 chấm dứt sự tồn tại hơn 2000 năm chế độ phong kiến ở Trung Quốc, đưa Trung Quốc bước vào thời kỳ mới. Năm 1921 đảng cộng sản Trung Quốc ra đời, trực tiếp lãnh đạo cách mạng đấu tranh chống đế quốc, thực dân phản động.
Cũng năm 1911, Nguyễn Aí Quốc ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghã Mác – Lê nin. Năm1923 Người về Trung Quốc hoạt động tại trung tâm cách mạng Quảng Châu dưới sự giúp đỡ của những người cách mạng Trung Quốc. Người đã chuyển tổ chức yêu nước Việt Nam “ tâm tâm xã” thành “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”, ra báo thanh niên, tổ chức huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam, một số học viên đã được đưa đi đào tạo ở trường quân sự Hoàng Phố. Năm 1930 hội nghị thành lập đảng cộng sản Việt Nam cũng được tiến hành tại Trung Quốc.
Đất nước Trung Quốc ,cùng với sự giúp đỡ của những người cách mạng Trung Quốc, đã trở thành mảnh đất dừng chân, ươm trồng các tổ chức và cán bộ cách mạng Việt Nam. Ngược lại các chiến sĩ cách mạng Việt Nam đã tích cực tham gia phong trào cách mạng, gắn bó với lịch sử đấu tranh gian khổ của đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc, tham gia Quảng Châu công xã, gia nhập hồng quân, tham gia chiến tranh du kích…..
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đối đầu với thực dân Pháp xâm lược. Cách mạng Trung Quốc đang tiến hành nội chiến chống Tưởng Giới Thạch. Trong những năm tháng gian khổ ấy, quân dân Việt Nam đã ủng hộ nhiệt tình một bộ phận quân đội Trung Quốc, phối hợp với quân giải phóng nhân dân Trung Quốc mở rộng khu giải phóng Điền Quế, tấn công quân Tưởng, giải phóng Hoa Nam (1949). Những nghĩa trang liệt sĩ Việt Nam tại Trung Quốc (Đông Hưng – Giang Bình) là tượng đài bất tử về tình thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân hai nước. Sự hi sinh đó đã góp phần nhỏ bé vào công cuộc giải phóng của nhân dân Trung Quốc. Cách mạng Trung Quốc thành công (1949)
.
Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ của nhân dân Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ to lớn của Đảng, chính phủ, và nhân dân TrungQuốc. Bắt đầu từ 1950, sau những năm dài chiến đấu trong vòng vây, ngày 18.1.1950 nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay sau đó Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũng công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta. Sự kiện đó đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta.
Cách mạng Việt Nam đã được nối liền với hậu phương xã hội chủ nghĩa rộng lớn, Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam cả về vật chất lẫn tinh thần. Trung Quốc trở thành một trong hai nước viện trợ chính và là nơi quá cảnh cho hàng viện trợ đến Việt Nam. Từ 1950 đến 1954 Việt Nam đã nhận được tổng số viện trợ là 21517 tấn, bao gồm: vũ khí, lương thực, ngoài ôtô, hỏa tiễn, cachiusa, pháo cao xạ, tiểu liên k50 là của Liên Xô và các nước Đông Âu, số còn lại là của Trung Quốc, trong đó bao gồm : lương thực, xăng đầu , vũ khí bộ binh, pháo 75 ly, 100 ly, cùng các loại đạn. Sự giúp đỡ đó có ý nghĩa vô cùng to lớn, tăng cường sức mạnh cho bộ đội Việt Nam.
Ngoài viện trợ trên Trung Quốc còn cử một đoàn cố vấn gồm 79 cán bộ ưu tú sang giúp đỡ cho bộ đội Việt Nam, đóng góp ý kiến và phổ biến kinh nghiệm chiến đấu của quân giải phóng Trung Quốc.
Sự giúp đỡ to lớn ấy đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam. Đó cũng là thắng lợi của tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, góp phần củng cố, bảo vệ Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em trước âm mưu đen tối của kẻ thù.
Kháng Pháp vừa thắng lợi, nhân dân Việt Nam đã phải đối đầu với cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Một lần nữa chính phủ và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Trung Quốc tiếp tục ủng hộ to lớn cho Việt Nam.
Trung Quốc là một trong ngững nước lên tiếng phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh phi nghĩa của đế quốc Mỹ đối với Việt Nam, khẳng định tình đoàn kết và trách nhiệm cao cùng nhân dân Việt Nam đánh đuổi xâm lược Mỹ.
Bên cạnh sự ủng hộ về chính trị, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam một khối lượng vật chất vũ khí , kỷ thuật, phương tiện chiến tranh, quân trang, quân dụng khá lớn, kéo dài trong nhiều năm. Trung Quốc còn đảm nhận một công việc rất quan trọng là vận chuyển quá cảnh số lượng vũ khí, đạn dược mà các nước khác dành cho Việt Nam. Một số cảng của Trung Quốc đã trở thành nơi tiếp nhận hàng viện trợ nước ngoài cho Việt Nam. Từ 1965 đến 1969 một số đơn vị công binh và bộ đội phòng không Trung Quốc đã sang giúp đỡ Việt Nam nâng cấp, sữa chữa các tuyến đường giao thông trên bộ, thuộc các tỉnh biên giới Việt – Trung, bảo vệ cho việc vận chuyển đường sắt và đường ôtô từ biên giới Trung Quốc tới các tuyến đường trong lãnh thổ Việt Nam. Những việc làm trên đã thúc đẩy nhanh tốc độ vận chuyển hàng hóa cho chiến trường miền nam, đóng góp có hiệu quả đối với sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam.
50 năm kể từ khi đảng cộng sản Trung Quốc thành lập đến trước thập niên 70, đặc biệt là từ khi nước Việt Nam mới và nước Trung Hoa mới ra đời, quan hệ Việt – Trung đã trở nên vô cùng thắm thiết, vừa là quan hệ láng giềng hữu nghị, vừa là quan hệ đồng chí anh em. Đảng chính phủ và nhân dân hai nước đã nhiệt tình giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ tịch Mao Trạch Đông là những người đã dàycông vun xới cho mối tình hữu nghị ấy. Từ 1950 cho tới trước những năm 70 “mối tình thắm thiết Việt Hoa” đã thực sự đem lại nhiều hương thơm trái ngọt cho mối quan hệ tốt đẹp giữa hai dân tộc. Đặc biệt là nhân dân Việt Nam có thêm một sức mạnh mới trong công cuộc đánh đổ đế quốc, thực dân, giải phóng đất nước.
Chương 2
Quan hệ Việt – Trung trong những năm 1971 đến 1975
1 Bối cảnh lịch sử
1.1 Quốc tế
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, trật tự thế giới mới từng bước được thiết lập, Mỹ và Liên Xô trở thành đối trọng của nhau trong quan hệ quốc tế.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động do Mỹ cầm đầu, ngày càng tấn công điên cuồng vào chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới. Chúng phát động chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang , thiết lập các liên minh quân sự, giật dây cho các cuộc chiến tranh , đảo chính khắp nơi trên thế giới.
Sau chiến tranh , ba dòng thác cách mạng cũng không ngừng phát triển. Chủ nghĩa xã hội từ một nước đã trở thành hệ thống thế giới, lan rộng châu Âu, châu As, châu Mỹ La Tinh. Liên Xô đã trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội thế giới. Từ giữa những năm 70 sức mạnh quân sự giữa Liên Xô và Mỹ đạt được sự cân bằng có lợi cho phong trào cách mạng thế giới.
Phong trào giải phóng dân tộc phát triển rầm rộ, từng bước làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và bước đầu làm thất bại chủ nghĩa thực dân mới. Hầu hết các nước từ địa vị phụ thuộc, thuộc địa đã trở thành quốc gia độc lập: Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, An Giê Ri, Nic Ca Ra Goa….. nhiều nước đã đi lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Phong trào công nhân ở các nước tư bản, đấu tranh cho tự do, dân chủ, hòa bình cũng không ngừng phát triển.
Ba dòng thác cách mạng đã tạo nên một sức mạnh vô địch tấn công mạnh mẽ vào chủ nghĩa đế quốc.
Tuy nhiên phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, do việc bất đồng về đường lối chính trị cũng như vai trò lãnh đạo cách mạng thế giới, giữa các đảng cộng sản đã nảy sinh mâu thuẫn . Tình hình đó đã gây bất lợi cho cách mạng từng nước và phong trào cách mạng thế giới.
Ở Trung Quốc cách mạng thành công, nước cộng hòa nhân nhân Trung Hoa ra đời (1949) đã bắt tay vào xây dựng chế độ mới và gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể. nhưng ngay sau đó do thực hiên đường lối “ba ngọn cờ hồng” và đại cách mạng văn hóa vô sản đã gây nên một cục diện hỗn loạn đau thương trong lịch sử Trung Quốc, đỉnh cao là những năm 1966 – 1968 và kéo dài tới 1976.
Đó thực chất là một cuộc thanh trừng nội bộ, tranh dành quyền lực gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho đất nước Trung Quốc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế , chính trị, văn hóa, xã hội. giới lãnh đạo Trung Quốc đã thực hiện đường lối đối ngoại bất lợi cho cách mạng Trung Quốc và cách mạng thế giới, chống Liên Xô, coi Liên Xô là kẻ thù số một, phá hoại cách mạng Đông Dương. Mâu thuẫn Trung – Xô phát triển đến đỉnh cao dẫn tới chiến tranh biên giới (1969). Từ đối địch Trung Quốc ngày càng xích lại gần với Mỹ, chĩa mũi nhọn vào Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Như vậy từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến giữa những năm 70, mặc cho đế quốc và các thế lực phản động, điên cuồng phản kích nhưng phong trào cách mạng thế giới vẫn không ngừng phát triển. Quan hệ quốc tế có nhiều biến đổi phức tạp tác động hai chiều vừa tích cực, vừa tiêu cực đến cách mạng Việt Nam.
1.2 Trong nước
Chín năm kháng chiến dũng cảm dưới sự lãnh đạo của đảng ta, nhân dân ta đã đánh bại thực dân Pháp xâm lược (1954) miền bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương lớn cho tiền tuyến miền nam. Ở miền nam, đế quốc Mỹ nhảy vào cấu kết với bọn phản động tay sai ra sức phá hoại cách mạng. Chúng muốn biến miền nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, đè bẹp cách mạng Việt Nam, ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan tràn xuống Đông Nam Á, răn đe phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ trên thế giới.
Nhân dân ta tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ để giải phóng miền nam thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta với đường lối độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh dựa vào sức mình là chính, đồng thời tăng cường củng cố mở rộng các mối quan hệ quốc tế, đặc biệt là với các nước xã hội chủ nghĩa, cách mạng nước ta đã không ngừng lớn mạnh. Quân dân ta kết hợp đấu tranh trên các mặt trận, chính trị, quân sự, ngoại giao và từng bước dành được những thắng lợi to lớn: đánh bại chiến lược Aixenhao (1954 – 1960) chiến lược “chiến tranh đặc biệt”(1961 – 1965) chiến lược “ chiến tranh cục bộ”(1965 – 1968). Từ 1969 – 1973 Mỹ thực hiện chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh” tăng cường phá hoại miền bắc, mở rộng chiến tranh ra Đông Dương.
Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược 1972 ở miền nam và trận “ Điện Biên Phủ trên không”cuối 1972 ở miền bắc, Mỹ đã phải ký hiệp định Pa ri (27.1.1973) cuốn cờ rút khỏi Việt Nam. Quân dân ta trên đà thắng lợi tiến lên đánh cho ngụy nhào. Bằng đại thắng mùa xuân 1975 sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi. Miền nam giải phóng, nước nhà thống nhất, một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc đã được mở ra.
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước là thắng lợi của sức mạnh dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của tinh thần đoàn kết giữa các nước xã hội chủ nghĩa, cũng như lực lượng yêu chuộng hòa bình dân chủ và tiến bộ trên thế giới, trong đó có nhân dân Trung Quốc.
2. Quan hệ Việt – Trung trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ 1971 – 1975
2. 1 Trung Quốc tiếp tục giúp đỡ Việt Nam
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta đã nhận được sự ủng hộ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của bạn bè quốc tế, của nhân dân tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ, trong đó có sự ủng hộ của đảng, chính phủ và nhân dân Trung Quốc.
Mặc dù đất nước Trung Quốc vừa thoát ra đỉnh cao của cuộc cách mạng văn hóa vô sản, mọi mặt chính trị, kinh tế văn hóa còn nhiều khó khăn, nhưng phát huy truyền thống tốt đẹp đã có được, Trung Quốc tiếp tục giúp đỡ cho nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp kháng Mỹ cứu nước.
Tháng 4. 1970 nhân thành công của hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương, chính phủ Trung Quốc đã ra tuyên bố khẳng định: nhiệt liệt chào mừng hội nghị và kiên quyết ủng hộ tuyên bố chung của hội ghị cấp cao Đông Dương “ chính phủ và nhân dân Trung Quốc kiên quyết ủng hộ nhân dân Việt Nam tiến hành đến cùng cuộc chiến tranh chống Mỹ”.
Bên cạnh ủng hộ tinh thần, Trung Quốc tiếp tục viện trợ cho nhân dân ta một khối lượng vật chất hàng hóa không nhỏ, bao gồm vũ khí bộ binh, quân trang quân dụng, lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh, nhiên liệu, phương tiện vận tải , xe quân sự, pháo và đạn pháo…
Ngoài việc giúp đỡ vật chất vũ khí phương tiện chiến tranh cho nhân dân Việt Nam đánh Mỹ, Trung Quốc tiếp tục làm nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa quá cảnh mà các nước khác giúp đỡ Việt Nam.
Năm 1972 Mỹ tiến hành thả thủy lôi phong tỏa các cảng sông, cửa biển, ngăn khôngcho tàu thuyền các nước chuyên chở hàng hóa vũ khí giúp Việt Nam. Các thủy thủ Trung Quốc đã dùng tàu vận tải Hồng Kỳ neo đậu ở phao số 0, lợi dụng nước thủy triều thả hàng hóa giải quyết nhu cầu cấp thiết cho Việt Nam.
Trung Quốc giúp Việt Nam xây dựng các khu chứa xăng dầu ở Lạng Sơn – Quảng Ninh, chi viện cho Việt Nam 500 km đường ống dã chiến cùng một số máy móc thiết bị, nhờ đó Việt Nam đã xây dựng được tuyến đường ống T72 từ Đồng Đăng về Hà Nội, từ Móng Cái về Hải Dương, góp phần đánh bại chiến lược bao vây phong tỏa của Mỹ.
Nếu tính chung từ 1965 đến 1975, tổng giá trị hàng hóa các nước viện trợ cho Việt Nam cả về quân sự lẫn kinh tế là 6561triệu rúp. Số lượng trên chủ yếu là của Liên Xô, Trung Quốc và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa.
Sự giúp đỡ về vật chất lẫn tinh thần mà Trung Quốc và các nước dành cho nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ thực sự là một biểu tượng tốt đẹp của tinh thần đoàn kết và trách nhiệm quốc tế xã hội chủ nghĩa, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta.
2.2 Trung Quốc gây trở ngại cho Việt Nam trong tiến trình kháng Mỹ
2.2.1 Bên cạnh sự giúp đỡ có hiệu quả về vật chất lẫn tinh thần, ở một số thời điểm trước những thử thách nghiêm trọng, Trung Quốc cũng đã gây nên những trở ngại trong tiến trình kháng Mỹ của quân và dân ta.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta bước vào giai đoạn cuối cũng là lúc mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc trở nên sâu sắc, điều đó bất lợi cho cách mạng Việt Nam. Là một nước nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, Việt Nam chịu sự tác động không nhỏ của các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, và đây cũng là hai nước viện trợ chính cho cách mạng Việt Nam.
Trung Quốc từ chỗ đối đầu đã xích dần đến với Mỹ, chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Đế quốc Mỹ nhìn thấy Trung Quốc là một thế lực quốc tế lợi hại, do vậy mỗi bước leo thang thay đổi chiến lược chiến tranh ở Việt Nam, Washington luôn tìm đủ mọi cách thăm dò thái độ của Bắc Kinh.
Trung Quốc vừa giúp Việt Nam vừa kìm hãm Việt Nam. Họ không muốn Việt Nam tiến lên đánh đổ Mỹ - ngụy bắng con đường đấu tranh vũ trang. Mao Trạch Đông đã từng tuyên bố với nhà báo Mỹ: “quân đội Trung Quốc sẽ không vượt biên giới của mình để đánh nhau”, “ người không đụng đến ta, thì ta không đụng đến người”. Hay nói cách khác là bật đèn xanh cho Mỹ trực tiếp xâm lược Việt Nam. Bước vào những năm 70 quan hệ Trung – Mỹ trở nên khăng khít hơn. Trung Quốc đến với Mỹ vì những quyền lợi của Trung Quốc, đồng thời để chống Liên Xô, khống chế Việt Nam. Mỹ cũng muốn dùng Trung Quốc để chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũng như dành thắng lợi ở Việt Nam.
Tháng 3.1971 Trung Quốc mời một đoàn bóng bàn Mỹ sang thăm Trung Quốc mở đầu cho cái mà dư luận thế giới gọi là “ngoại giao bóng bàn”. Sau đó là các cuộc gặp gỡ trao đổi ở cấp đại sứ, cấp nguyên thủ quốc gia, tiêu biểu là chuyến thăm Trung Quốc của tổng thống Nic xơn (1972). Từ việc giảm cấm vận và bao vây kinh tế đối với Trung Quốc, Mỹ đã ủng hộ việc đưa Trung Quốc vào Liên hợp quốc và trở thành một trong năm thành viên thường trực của hội đồng bảo an (1971). Qua chuyến thăm của Nic xơn, thông cáo Thượng Hải đã được ký kết. Mỹ nhượng bộ cho Trung Quốc một số quyền lợi ở Liên hợp quốc, công nhận Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc, chia sẻ quyền lợi và địa vị với Trung Quốc ở Đông Nam Á. Đặc biệt là việc giải quyết quân Mỹ rút khỏi Đài Loan thì Trung Quốc phải ép Việt Nam chấp nhận giải pháp của Mỹ, thừa nhận tình trạng chia cắt Việt Nam, thừa nhận sự tồn tại của ngụy quyền ở miền nam Việt Nam.
Như vậy Trung Quốc đã lấy Việt Nam để thỏa hiệp với Mỹ hòng đạt được quyền lợi cho Trung Quốc.
Tháng 12.1972 sau khi cuộc đàm phán Pa ri đạt được thỏa thuận nhất định, đại sứ quán Trung Quốc chuyển tới Việt Nam lời đe dọa của Mỹ: “ nếu Việt Nam cứ giữ lập trường(….) thì đàm phán đứt quãng và Mỹ sẽ có mọi hành động bảo vệ nguyên tắc của mình”.
Bất chấp sức ép của Bắc Kinh và Washington, Việt Nam không những không nhân nhượng những vấn đề có tính nguyên tắc mà còn trừng trị thích đáng đế quốc Mỹ, cuối cùng Mỹ phải ký hiệp định Pa ri về Việt Nam (27.1.1973), chấm dứt sự có mặt lâu dài của Mỹ ở Việt Nam.
2.2.2 Trong khuôn khổ đường lối hòa hoãn và cấu kết với Mỹ dọn đường bánh trướng xuống Đông Nam Á, đồng thời phá hoại mặt trận đoàn kết nhân dân 3 nước Đông Dương gây thêm sức ép đối với Việt Nam, từ 1970 Bắc Kinh tìm cách nắm các lượng Cam Pu Chia.
Trung Quốc không đồng ý để cho sinh viên Việt Nam ở Trung Quốc biểu tình chống Lon Non sau cuộc đảo chính lật đổ Xi Ha Núc (18.3.1970),dật dây cho bọn Pôn Pốt – Yêng Xa Ri phản đối hội nghị cấp cao lần 2 của nhân dân Đông Dương, cũng như gợi ý triêu tập hội nghị 5 nước 6 bên trên đất Trung Quốc ( nam, bắc Việt Nam, Lào, Cam Pu Chia, Trung Quốc và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên) với mục tiêu chống Nhật; ý đồ của họ là làm chệch mục tiêu đấu tranh của nhân dân Đông Dương, đồng thời tập hợp lực lượng dưới sự chỉ đạo của Trung Quốc. Việt Nam đã không tán thành, ý đồ của Trung Quốc bị thất bại.
Trung Quốc còn dùng bè lũ Pôn Pốt để phá hoại cách mạng Đông Dương, tích cực biến Cam Pu Chia thành bàn đạp để tiến công Việt Nam, khống chế Việt Nam, Lào, Cam Pu Chia.
2.2.3 Hiệp định Pa ri ký kết Mỹ cút khỏi Việt Nam. Những người lãnh đạo Trung Quốc nói với lãnh đạo Đảng và nhà nước Việt Nam “ ở Việt Nam cần ngừng ( chiến đấu) nửa năm, một năm, một năm rưỡi, hai năm càng tốt. Họ hoàn toàn ngừng viện trợ quân sự, tìm cách lôi kéo tướng tá và quan chức ngụy quyền Sài Gòn hợp tác với họ.
Đặc biệt nguy hiểm là từ 1973 những người cầm quyền Bắc Kinh tăng cường những hành động khiêu khích và lấn chiếm đất đai ở các tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam nhằm làm suy yếu những cố gắng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng miền nam.
Trung Quốc còn ngăn cản Việt Nam khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình để khôi phục và phát triển kinh tế. Họ còn đòi “ không để một nước thứ ba vào thăm dò vịnh bắc bộ”. chính vì vậy mà cuộc đàm phán đường biên giới trên biển giữa hai nước (1974) trở nên bế tắc.
Nguy hiểm hơn, ngày 19.1.1974, Trung Quốc sử dụng lực lượng hải quân và không quân tiến đánh ngụy quyền Sài Gòn, chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa – từ lâu vốn là lãnh thổ của Việt Nam, nhằm khống chế Việt Nam từ phía đông. Hành động đó có tính toán và được sự đồng ý của Mỹ. Do vậy khi quân ngụy Sài Gòn ở Hoàng Sa yêu cầu viện trợ, Mỹ đã bác bỏ và ra lệnh cho hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương tránh xa quần đảo Hoàng Sa.
Có thể nói trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Việt Nam đang dồn tâm, dồn sức cho việc giải phóng miền nam thống nhất đất nước, Trung Quốc đã thực hiện chính sách hai mặt, vừa giúp đỡ, vừa có những hành đông gây cản trở cho cách mạng Việt Nam. Quan hệ Việt – Trung đã có những dấu hiệu rạn nứt rõ rệt, biểu hiện cho một chiều hướng xấu.
Nhân dân Việt Nam luôn luôn biết ơn sự giúp đỡ về vật chất lẫn tinh thần của Đảng, chính phủ và nhân dân Trung Quốc, nhưng cũng kiên quyết giữ vững đường lối độc lập tự chủ của mình, đi đúng đường lối mà Đảng cộng sản Việt Nam đã vach ra, để cuối cùng dành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng Việt Nam, giải phóng miền nam thống nhất đất nước.
2. 1 Trung Quốc tiếp tục giúp đỡ Việt Nam
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta đã nhận được sự ủng hộ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của bạn bè quốc tế, của nhân dân tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ, trong đó có sự ủng hộ của đảng, chính phủ và nhân dân Trung Quốc.
Mặc dù đất nước Trung Quốc vừa thoát ra đỉnh cao của cuộc cách mạng văn hóa vô sản, mọi mặt chính trị, kinh tế văn hóa còn nhiều khó khăn, nhưng phát huy truyền thống tốt đẹp đã có được, Trung Quốc tiếp tục giúp đỡ cho nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp kháng Mỹ cứu nước.
Tháng 4. 1970 nhân thành công của hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương, chính phủ Trung Quốc đã ra tuyên bố khẳng định: nhiệt liệt chào mừng hội nghị và kiên quyết ủng hộ tuyên bố chung của hội ghị cấp cao Đông Dương “ chính phủ và nhân dân Trung Quốc kiên quyết ủng hộ nhân dân Việt Nam tiến hành đến cùng cuộc chiến tranh chống Mỹ”.
Bên cạnh ủng hộ tinh thần, Trung Quốc tiếp tục viện trợ cho nhân dân ta một khối lượng vật chất hàng hóa không nhỏ, bao gồm vũ khí bộ binh, quân trang quân dụng, lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh, nhiên liệu, phương tiện vận tải , xe quân sự, pháo và đạn pháo…
Ngoài việc giúp đỡ vật chất vũ khí phương tiện chiến tranh cho nhân dân Việt Nam đánh Mỹ, Trung Quốc tiếp tục làm nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa quá cảnh mà các nước khác giúp đỡ Việt Nam.
Năm 1972 Mỹ tiến hành thả thủy lôi phong tỏa các cảng sông, cửa biển, ngăn khôngcho tàu thuyền các nước chuyên chở hàng hóa vũ khí giúp Việt Nam. Các thủy thủ Trung Quốc đã dùng tàu vận tải Hồng Kỳ neo đậu ở phao số 0, lợi dụng nước thủy triều thả hàng hóa giải quyết nhu cầu cấp thiết cho Việt Nam.
Trung Quốc giúp Việt Nam xây dựng các khu chứa xăng dầu ở Lạng Sơn – Quảng Ninh, chi viện cho Việt Nam 500 km đường ống dã chiến cùng một số máy móc thiết bị, nhờ đó Việt Nam đã xây dựng được tuyến đường ống T72 từ Đồng Đăng về Hà Nội, từ Móng Cái về Hải Dương, góp phần đánh bại chiến lược bao vây phong tỏa của Mỹ.
Nếu tính chung từ 1965 đến 1975, tổng giá trị hàng hóa các nước viện trợ cho Việt Nam cả về quân sự lẫn kinh tế là 6561triệu rúp. Số lượng trên chủ yếu là của Liên Xô, Trung Quốc và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa.
Sự giúp đỡ về vật chất lẫn tinh thần mà Trung Quốc và các nước dành cho nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ thực sự là một biểu tượng tốt đẹp của tinh thần đoàn kết và trách nhiệm quốc tế xã hội chủ nghĩa, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta.
2.2 Trung Quốc gây trở ngại cho Việt Nam trong tiến trình kháng Mỹ
2.2.1 Bên cạnh sự giúp đỡ có hiệu quả về vật chất lẫn tinh thần, ở một số thời điểm trước những thử thách nghiêm trọng, Trung Quốc cũng đã gây nên những trở ngại trong tiến trình kháng Mỹ của quân và dân ta.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta bước vào giai đoạn cuối cũng là lúc mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc trở nên sâu sắc, điều đó bất lợi cho cách mạng Việt Nam. Là một nước nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, Việt Nam chịu sự tác động không nhỏ của các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, và đây cũng là hai nước viện trợ chính cho cách mạng Việt Nam.
Trung Quốc từ chỗ đối đầu đã xích dần đến với Mỹ, chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Đế quốc Mỹ nhìn thấy Trung Quốc là một thế lực quốc tế lợi hại, do vậy mỗi bước leo thang thay đổi chiến lược chiến tranh ở Việt Nam, Washington luôn tìm đủ mọi cách thăm dò thái độ của Bắc Kinh.
Trung Quốc vừa giúp Việt Nam vừa kìm hãm Việt Nam. Họ không muốn Việt Nam tiến lên đánh đổ Mỹ - ngụy bắng con đường đấu tranh vũ trang. Mao Trạch Đông đã từng tuyên bố với nhà báo Mỹ: “quân đội Trung Quốc sẽ không vượt biên giới của mình để đánh nhau”, “ người không đụng đến ta, thì ta không đụng đến người”. Hay nói cách khác là bật đèn xanh cho Mỹ trực tiếp xâm lược Việt Nam. Bước vào những năm 70 quan hệ Trung – Mỹ trở nên khăng khít hơn. Trung Quốc đến với Mỹ vì những quyền lợi của Trung Quốc, đồng thời để chống Liên Xô, khống chế Việt Nam. Mỹ cũng muốn dùng Trung Quốc để chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũng như dành thắng lợi ở Việt Nam.
Tháng 3.1971 Trung Quốc mời một đoàn bóng bàn Mỹ sang thăm Trung Quốc mở đầu cho cái mà dư luận thế giới gọi là “ngoại giao bóng bàn”. Sau đó là các cuộc gặp gỡ trao đổi ở cấp đại sứ, cấp nguyên thủ quốc gia, tiêu biểu là chuyến thăm Trung Quốc của tổng thống Nic xơn (1972). Từ việc giảm cấm vận và bao vây kinh tế đối với Trung Quốc, Mỹ đã ủng hộ việc đưa Trung Quốc vào Liên hợp quốc và trở thành một trong năm thành viên thường trực của hội đồng bảo an (1971). Qua chuyến thăm của Nic xơn, thông cáo Thượng Hải đã được ký kết. Mỹ nhượng bộ cho Trung Quốc một số quyền lợi ở Liên hợp quốc, công nhận Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc, chia sẻ quyền lợi và địa vị với Trung Quốc ở Đông Nam Á. Đặc biệt là việc giải quyết quân Mỹ rút khỏi Đài Loan thì Trung Quốc phải ép Việt Nam chấp nhận giải pháp của Mỹ, thừa nhận tình trạng chia cắt Việt Nam, thừa nhận sự tồn tại của ngụy quyền ở miền nam Việt Nam.
Như vậy Trung Quốc đã lấy Việt Nam để thỏa hiệp với Mỹ hòng đạt được quyền lợi cho Trung Quốc.
Tháng 12.1972 sau khi cuộc đàm phán Pa ri đạt được thỏa thuận nhất định, đại sứ quán Trung Quốc chuyển tới Việt Nam lời đe dọa của Mỹ: “ nếu Việt Nam cứ giữ lập trường(….) thì đàm phán đứt quãng và Mỹ sẽ có mọi hành động bảo vệ nguyên tắc của mình”.
Bất chấp sức ép của Bắc Kinh và Washington, Việt Nam không những không nhân nhượng những vấn đề có tính nguyên tắc mà còn trừng trị thích đáng đế quốc Mỹ, cuối cùng Mỹ phải ký hiệp định Pa ri về Việt Nam (27.1.1973), chấm dứt sự có mặt lâu dài của Mỹ ở Việt Nam.
2.2.2 Trong khuôn khổ đường lối hòa hoãn và cấu kết với Mỹ dọn đường bánh trướng xuống Đông Nam Á, đồng thời phá hoại mặt trận đoàn kết nhân dân 3 nước Đông Dương gây thêm sức ép đối với Việt Nam, từ 1970 Bắc Kinh tìm cách nắm các lượng Cam Pu Chia.
Trung Quốc không đồng ý để cho sinh viên Việt Nam ở Trung Quốc biểu tình chống Lon Non sau cuộc đảo chính lật đổ Xi Ha Núc (18.3.1970),dật dây cho bọn Pôn Pốt – Yêng Xa Ri phản đối hội nghị cấp cao lần 2 của nhân dân Đông Dương, cũng như gợi ý triêu tập hội nghị 5 nước 6 bên trên đất Trung Quốc ( nam, bắc Việt Nam, Lào, Cam Pu Chia, Trung Quốc và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên) với mục tiêu chống Nhật; ý đồ của họ là làm chệch mục tiêu đấu tranh của nhân dân Đông Dương, đồng thời tập hợp lực lượng dưới sự chỉ đạo của Trung Quốc. Việt Nam đã không tán thành, ý đồ của Trung Quốc bị thất bại.
Trung Quốc còn dùng bè lũ Pôn Pốt để phá hoại cách mạng Đông Dương, tích cực biến Cam Pu Chia thành bàn đạp để tiến công Việt Nam, khống chế Việt Nam, Lào, Cam Pu Chia.
2.2.3 Hiệp định Pa ri ký kết Mỹ cút khỏi Việt Nam. Những người lãnh đạo Trung Quốc nói với lãnh đạo Đảng và nhà nước Việt Nam “ ở Việt Nam cần ngừng ( chiến đấu) nửa năm, một năm, một năm rưỡi, hai năm càng tốt. Họ hoàn toàn ngừng viện trợ quân sự, tìm cách lôi kéo tướng tá và quan chức ngụy quyền Sài Gòn hợp tác với họ.
Đặc biệt nguy hiểm là từ 1973 những người cầm quyền Bắc Kinh tăng cường những hành động khiêu khích và lấn chiếm đất đai ở các tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam nhằm làm suy yếu những cố gắng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng miền nam.
Trung Quốc còn ngăn cản Việt Nam khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình để khôi phục và phát triển kinh tế. Họ còn đòi “ không để một nước thứ ba vào thăm dò vịnh bắc bộ”. chính vì vậy mà cuộc đàm phán đường biên giới trên biển giữa hai nước (1974) trở nên bế tắc.
Nguy hiểm hơn, ngày 19.1.1974, Trung Quốc sử dụng lực lượng hải quân và không quân tiến đánh ngụy quyền Sài Gòn, chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa – từ lâu vốn là lãnh thổ của Việt Nam, nhằm khống chế Việt Nam từ phía đông. Hành động đó có tính toán và được sự đồng ý của Mỹ. Do vậy khi quân ngụy Sài Gòn ở Hoàng Sa yêu cầu viện trợ, Mỹ đã bác bỏ và ra lệnh cho hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương tránh xa quần đảo Hoàng Sa.
Có thể nói trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Việt Nam đang dồn tâm, dồn sức cho việc giải phóng miền nam thống nhất đất nước, Trung Quốc đã thực hiện chính sách hai mặt, vừa giúp đỡ, vừa có những hành đông gây cản trở cho cách mạng Việt Nam. Quan hệ Việt – Trung đã có những dấu hiệu rạn nứt rõ rệt, biểu hiện cho một chiều hướng xấu.
Nhân dân Việt Nam luôn luôn biết ơn sự giúp đỡ về vật chất lẫn tinh thần của Đảng, chính phủ và nhân dân Trung Quốc, nhưng cũng kiên quyết giữ vững đường lối độc lập tự chủ của mình, đi đúng đường lối mà Đảng cộng sản Việt Nam đã vach ra, để cuối cùng dành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng Việt Nam, giải phóng miền nam thống nhất đất nước.
Chương 3
Quan hệ Việt – trung nửa sau thập niên 70 (5.1975 – 1980) 1 Bối cảnh lịch sử 1.1 Trên thế giới Trên thế giới cuộc khủng hoảng năng lượng mang tính toàn cầu (1973) đã kéo theo nhiều cuộc khủng hoảng về tài chính, kinh tế, chính trị, và đặt ra cho nhân loại nhiều vấn đề bức xúc cần phải giải quyết: bùng nổ dân số, vơi cạn tài nguyên, chiến tranh hủy diệt…. Từ nửa sau thập niên 70 các nước tư bản chủ nghĩa đã đi vào cải tổ cơ cấu kinh tế, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, đồng thời tìm cách thích nghi về chính trị xã hội trước những biến động to lớn của tình hình thế giới, từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng. Trong lúc này, Liên Xô – thành trì của chủ nghĩa xã hội thế giới đã xuất hiện dấu hiệu trì trệ, mâu thuẫn Xô – Trung vẫn còn tiếp tục. Mỹ vẫn là nước đứng đầu thế giới tư bản về kinh tế tài chính. Sự thất bại trong chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình nước Mỹ, thực lực suy yếu, uy tín và địa vị trên trường quốc tế bị giảm sút. Sau thất bại ở Việt Nam , Mỹ phải điều chỉnh chiến lược trên thế giới và ở châu Á, nhất là Đông Nam Á cho phù hợp với tình hình mới. Chúng đẩy mạnh câu kết với các thế lực phản động quố tế, với Trung Quốc để chia rẽ hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới. ở Trung Quốc nửa sau thập niên 70 có nhiều thay đổi, Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông từ trần (1976), cuộc tranh chấp quyền lực trong đảng, nhà nước vẫn tiếp tục diễn ra. Tháng 12. 1978 hội nghị trung ương khóa 11 của đảng cộng sản Trung Quốc đã đề ra đường lối cải cách mở cửa, chính thức chấm dứt đại cách mạng văn hóa vô sản, mở ra một giai đoạn mới cho cách mạng Trung Quốc. Trung Quốc và Mỹ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (1.1.1979) 1.2 Trong nước
Cuộc
kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nhân dân ta vừa thoát ra khỏi 30 năm
đấu tranh giải phóng dân tộc đã bắt tay vào cuộc khôi phục và xây dựng
đất nước. Cả nước hòa bình độc lập thống nhất, tiến lên chủ nghĩa xã
hội, trong khí thế bừng bừng của một dân tộc vừa dành được thắng lợi vĩ
đại. Sau khi thực hiện thống nhất đất nước về mặt nhà nước, nhân dân ta
bắt tay vào thực hiên kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, để xây dựng một bước
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, cải thiện đời sống vật
chất tinh thần của nhân dân. Thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình.
Tranh thủ điều kiện thuận lợi nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, củng cố quốc phòng an ninh, phát huy tác dụng của Đảng và nhà nước ta trong công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường đoàn kết với Lào và Cam Pu Chia, xây dựng quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, xây dựng quan hệ hữu nghị với các nước trong thế giới thứ 3 cùng các nước khác trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Những năm đầu sau chiến tranh, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản của tình hình quốc tế và trong nước như đất nước hòa bình thống nhất, Đảng ta lãnh đạo, các nước xã hội chủ nghĩa đang lớn mạnh, phong trào độc lập dân tộc đang phát triển, quan hệ giữa các nước được mở rộng, cách mạng nước ta cũng gặp không ít khó khăn do chiến tranh ác liệt để lại, cơ cấu kinh tế hai miền chưa đồng nhất, cơ sở kinh tế bị phá hoại, các tệ nạn xã hội, các thế lực thù địch nước ngoài tiếp tục chống phá cách mạng Việt Nam… Trong bối cảnh đó, mối quan hệ Việt – Trung đã dẫn tới những ngày căng thẳng gay go nghiêm trọng nhất, chính Trung Quốc đã làm tăng thêm những khó khăn chồng chất cho nước Việt Nam vừa giải phóng. |
2 Quan hệ Việt Trung nửa sau thập niên 70 (5.1975 – 1980)
Đại thắng mùa xuân 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đoàn đại biểu của Đảng, chính phủ Việt Nam đi cảm ơn chính phủ và nhân dân các nước đã ủng hộ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ . Bởi thắng lợi của cuộc kháng chiến này cũng là “ thắng lợi của tình đoàn kết quốc tế, của sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào giải phóng dân tộc của các lực lượng dân chủ hòa bình trên thế giới”. Sau khi Việt Nam thắng Mỹ, các nước anh em bạn bè đã gửi điện, cử đoàn đại biểu đến chúc mừng. Ngày 1.5.1975 từ Bắc Kinh, Đảng chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng gửi điện mừng tới Đảng, chính phủ ta, nhấn mạnh “thắng lợi của các đồng chí đã mở ra thơì đại mới của nước Việt Nam đã được giải phóng, có ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa quốc tế trọng đại” đồng thời khẳng định “ sẽ làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình, kiên quyết ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa nhằm củng cố thành quả thắng lợi thống nhất và xây dựng tổ quốc của nhân dân Việt Nam”. Nhưng trên thực tế, Trung Quốc đã không thực hiện lời hứa hẹn đó mà còn có những hành động gây thêm khó khăn cho cách mạng Việt Nam cũng như làm tổn hại đến mối quan hệ Việt – Trung truyền thống. 2.1 Trung Quốc dùng viện trợ để tăng sức ép đối với Việt Nam Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta, Trung Quốc đã giúp đỡ rất nhiều, là một trong hai nước viện trợ chính cho Việt Nam. Tuy nhiên Trung Quốc cũng đã dùng viện trợ đó với ý nghĩa vừa giúp đỡ vừa khống chế Việt Nam, muốn Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc, đi theo đường lối của những người cầm quyền Bắc Kinh. Những năm 1969-1970, Trung Quốc giảm viện trợ đối với Việt Nam vì họ không tán thành Việt Nam thương lượng với Mỹ để kéo Mỹ xuống thang chiến tranh, và nếu những năm 1971- 1972 họ tăng viện trợ đối với Việt Nam cao nhất so với các năm trước, vì họ muốn lợi dụng vấn đề Việt Nam để thương lượng với Mỹ. Năm 1975 Mỹ thất bại ở miền nam , họ dùng viên trợ gây sức ép mới. Trung Quốc khước từ những yêu cầu viện trợ mới của Việt Nam, không chuyển hết số viện trợ đã thỏa thuận trong chiến tranh, trong đó có những công trình đang làm dở. Trung Quốc đã đơn phương tuyên bố chấm dứt toàn bộ viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt Nam, gọi về nước tất cả các chuyên gia và cán bộ kỹ thuật Trung Quốc đang công tác tại Việt Nam, chính lúc nhân dân Việt Nam đang hàn gắn vết thương chiến tranh mọi mặt kinh tế , văn hóa xã hội, đang gặp nhiều khó khăn rất cần sự giúp đỡ của các nước. Đi đôi với việc cắt viện trợ rút chuyên gia, giới cầm quyền Trung Quốc còn ngang nhiên vận động các nước, các tổ chức quốc tế ngừng viện trợ cho công cuộc xây dựng lại Việt Nam. Trung Quốc còn yêu cầu Việt Nam nhanh chóng thu xếp hoàn trả số lương ngoại tệ được quy đổi từ những hàng hóa quân sự đã cho Việt Nam vay theo quy chế viên trợ hoàn lại thanh toán sau chiến tranh. Họ đẩy mạnh vu cáo Việt Nam và cản trở quan hệ bình thường giữa Việt Nam với các nước thuộc tổ chức Asean, kêu gọi các nước đó lập “mặt trận chung với Trung Quốc” chống Việt Nam. Với cuộc vận động đó, Trung Quốc hi vọng trên thực tế sẽ thực hiện được chính sách bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị, tiến công về quân sự , như bọn đế quốc thực dân đã làm đối với Việt Nam. Tuy nhiên mưu đồ gây sức ép bằng viện trợ và các thủ đoạn khác không lay chuyển được đường lối độc lập tự chủ của việt Nam, không khuất phục được nhân dân Việt Nam. 2.2 Trung Quốc dùng Hoa kiều chống phá cách mạng Việt Nam Nước ta có 54 dân tộc anh em chung sống, Đảng, chính phủ ta luôn coi người Hoa ở hai miền nam – bắc là một bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam, được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam. Song những người cầm quyền Trung Quốc đã coi tất cả người Hoa ở Việt Nam là công dân Trung Quốc, để đòi quyền lãnh đạo đối với họ. Trên thực tế Bắc Kinh đã lập các tổ chức phản động và mạng lưới gián điệp người Hoa trên đất Việt Nam. Các tổ chức như: “ Hoa kiều hòa bình liên hiệp hội”, “ Hoa kiều yêu nước”, “ mặt trận thống nhất Hoa kiều” do Bắc Kinh thành lập và chỉ huy đã hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, chống nghĩa vụ quân sự, chống đi xây dựng kinh tế, kích động thù hằn dân tộc, đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc, in tiền giả…. Đầu năm 1978 những người cầm quyền Trung Quốc dựng lên cái gọi là “ vấn đề nạn kiều” công khai chống nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Họ dùng các tổ chức bí mật người Hoa, các tổ chức gián điệp của sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội dưới sự chỉ đạo của Bắc Kinh, bằng sự bịa đặt trắng trợn, những luận điệu vu cáo Việt Nam “ xua đuổi bài xích khủng bố người Hoa”, bằng những thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc, dụ dỗ, dọa nạt, đã gây nên trong quần chúng người Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam tâm trạng hoang mang lo sợ chiến tranh nổ ra, một tâm lý nghi ngờ thù ghét người Việt Nam, khiến họ ồ ạt kéo đi Trung Quốc. Bọn tay chân của Trung Quốc tổ chức cho Hoa kiều vượt biên trái phép, rồi ngăn chặn họ lại gây ùn tắc biên giới Việt – Trung, kích động họ chống nhà nước Việt Nam. Đồng thời họ dùng một số Hoa kiều thông thạo địa hình , phong tục tập quán đưa vào đội quân dẫn đường thám báo để xâm lược Việt Nam. Giới cầm quyền Bắc Kinh đã dùng người Hoa làm công cụ để gây rối loạn về chính trị, kinh tế, xã hội ở Việt Nam, hòng khuất phục nhân dân Việt Nam, đồng thời kích động dư luận Trung Quốc chuẩn bị chiến tranh xâm lược. 2.3 Trung Quốc giật dây cho bọn Pôn Pốt tiến hành chiến tranh biên giới chống Việt Nam Từ lâu giới cầm quyền Bắc Kinh đã muốn nắm Cam Pu Chia để khống chế Việt Nam và Đông Dương. Sau ngày 17.4.1975 Trung Quốc dùng bọn tay sai Pôn Pốt – Yêng Xa Ri chiếm quyền lãnh đạo đảng cộng sản Cam Pu Chia, gạt quốc trưởng Xi Ha Nuc và những người thân cận, thiết lập chế độ phát xít diệt chủng có một không hai trong lịch sử loài người và thông qua chế độ đó hoàn toàn kiểm soát nước Cam Pu Chia, biến Cam Pu Chia thành căn cứ quân sự của họ để tiến đánh Việt Nam từ phía tây. Họ đã đổ tiền, vũ khí trang bị chiến tranh, và đưa hàng vạn cố vấn Trung Quốc vào Cam Pu Chia để thành lập hàng chục sư đoàn gồm: bộ binh , thiết giáp, pháo binh; mở rộng nhiều căn cứ hải quân , không quân. Sau thất bại ở Việt Nam , Mỹ cũng cay cú trả thù bằng mọi thủ đoạn, đồng tình với Trung Quốc giúp Pôn pốt tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Dưới sự đạo diễn của Bắc Kinh, tập đoàn phản động Pôn Pốt – Yêng Xa Ri tuyên truyền vu khống Viêt Nam “xâm lược Cam Pu Chia” ráo riết hô hào chiến tranh chống Việt Nam. Từ sau tháng 4.1975 Pôn Pốt liên tục đưa quân lấn chiếm, bắn phá, gây xung đột ở biên giới tây nam. Từ 30.4.1977 “Cam Pu Chia dân chủ” thực sự phát động một cuộc chiến tranh xâm lấn trên toàn tuyến biên giới, bác bỏ đề nghị thương lượng của Việt Nam. Ngày 22.12.1978 chúng tập trung 19 sư đoàn tinh nhuệ đánh vào khu vực Bến Sỏi – Tây Ninh, mở đường tiến sâu vào nước ta. Trung Quốc tham vọng kẹp chặt Việt Nam bằng 2 mũi tiến công từ dưới lên (tây nam) và từ trên xuống (bắc). Thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình, quân dân Việt Nam đã đập tan cuộc chiến tranh lấn chiếm của bè lũ Pôn Pốt, làm thất bại kế hoạch quân sự có sự cấu kết giữa Pôn Pốt và tập đoàn phản động Bắc Kinh. Quân dân Cam Pu Chia được sự giúp đỡ của quân dân Việt Nam đã đứng lên đập tan chế độ diệt chủng tàn bạo, lập nên chế độ cộng hòa nhân dân (1979). Ý đồ của Trung Quốc dùng Cam Pu Chia tấn công Việt Nam từ phía tây nam đã bị đổ vỡ. 2.4 Trung Quốc trực tiếp xâm lược Việt Nam, phá hoại tình hữu nghị Việt – Trung Sau thất bại của Pôn Pốt – Yêng Xa Ri, Trung Quốc điên cuồng tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam với ý định “ giáng cho việt Nam một bài học” và mục tiêu đầy tham vọng: tiêu diệt một bộ phận lực lượng vũ trang của Việt Nam, phá hoại tiềm lực kinh tế quốc phòng, chiếm đất đai, kích động bạo loạn.
Để lừa gạt dư luận Trung Quốc và dư luận thế
giới, tập đoàn phản động Bắc Kinh tuyên bố rằng: đây chỉ là một cuộc
“phản kích tự vệ”. Sự thật đây là một cuộc chiến tranh xâm lược toàn
diện của Trung Quốc có sự chuẩn bị về nhiều mặt.
Sau chuyến thăm Mỹ và Nhật của Đặng Tiểu Bình (1.1979), cũng như sau khi hoàn thành việc chuyển quân xuống miền nam Trung Quốc, sát biên giới Việt – Trung, ngày 17.2.1979 giới cầm quyền Trung Quốc huy động 60 vạn quân gồm nhiều quân đoàn và sư đoàn độc lập, 800 xe tăng, xe bọc thép, hàng trăm máy bay, hàng ngàn khẩu pháo, mở cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc từ Quảng Ninh tới Phong Thổ - Lai Châu dài hơn 1000 km. Chúng ra sức tàn sát nhân dân, chủ yếu là phụ nữ trẻ em và người già, phá hoại các cơ sở kinh tế văn hóa xã hội. Nhân dân Việt Nam, đứng đầu là các tỉnh biên giới và bộ đội địa phương, đã chiến đấu dũng cảm làm cho quân Trung Quốc bị thiệt hại nặng. Trước sự chiến đấu dũng cảm của quân dân ta cũng như bị nhân dân thế giới và một bộ phận nhân dân Trung Quốc lên án mạnh mẽ, ngày 5.3.1979 giới cầm quyền Bắc Kinh phải tuyên bố rút quân khỏi Việt Nam, đánh dấu sự thất bại của một cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Cuộc chiến tranh do Trung Quốc phát động đã làm đổ máu nhân dân hai nước, làm tổn hại mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt Nam – Trung Quốc. Từ sau chiến tranh biên giới, Trung Quốc vẫn tiếp tục chống phá Việt Nam bằng mọi thủ đoạn khác nhau, duy trì lực lượng quân sự với trang bị vũ khí lớn ở biên giới Việt – Trung, tăng cường khiêu khích vũ trang, phá hoại hoạt động kinh tế, bắn giết dân thường trên biển cũng như trên bộ; đe dọa hòa bình an ninh của nước công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm bế tắc các cuộc đàm phán thương lượng về biên giới giữa hai nước, đòi dành chủ quyền ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam…. Có thể nói trong nửa cuối thập niên 70 của thế kỷ 20, mối quan hệ Việt – Trung không còn là mối quan hệ láng giêng hữu nghi. Trung Quốc từ việc giúp đỡ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ đã từng bước chuyển sang lập trường chống Việt Nam. Bằng những thủ đoạn khác nhau về chính tri, kinh tế, quân sự, ngoại giao, hòng khuất phục nhân dân Việt Nam từ bỏ đường lối độc lập tự chủ của mình. Nhân dân Việt Nam vừa trải qua 30 năm chiến tranh trường kỳ gian khổ chống Pháp, chống Mỹ, khi nước nhà thống nhất, mong muốn được chung sống hòa bình hữu nghị với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là với các nước láng giềng thân thiện. Nhưng những người cầm quyền Trung Quốc đã thực hiện chính sách thù địch với Việt Nam, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân hai nước, làm tổn hại tới mối quan hệ Việt – Trung đã được xây đắp trong lịch sử. Nhân dân Việt Nam mong muốn hòa bình, nhưng không nhân nhượng những gì thuộc về nguyên tắc, bằng mọi giá vẫn bảo vệ đến cùng đường lối độc lập tự chủ của mình, sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi âm mưu thủ đoạn đen tối của những người cầm quyền Trung Quốc. Đây là những năm tháng đen tối nhất trong quan hệ Việt – Trung và kéo dài đến hết thập niên 80, khi quan hệ Việt – Trung được bình thường hóa (11.1991).
Kết luận
Thập niên 70 của thế kỷ 20 đã lùi dần vào quá khứ, nhân dân hai nước Việt – Trung từ sau 1991 đến nay đã được sống trong hòa bình ổn định, mối quan hệ Việt – Trung ngày càng được củng cố và phát triển trên cơ sở 5 nguyên tắc “tôn trọng chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hòa bình”. Năm tháng đã đi qua, nhưng thập niên 70 của thế kỷ 20 sẽ còn để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc Việt Nam, cũng như trong lịch sử mối quan hệ Việt – Trung. 10 năm là một quãng thời gian ngắn trên hành trình của 2 dân tộc, nhưng cần thiết phải được xem xét đánh giá một cách khách quan, để từ đây góp phần vào việc củng cố phát triển hơn nữa mối quan hệ láng giềng hữu nghị và thân thiện giữa Việt Nam - Trung Quốc. Từ lịch sử chúng ta thấy mối quan hệ Việt – Trung trong thập niên 70 có những đặc điểm sau. Thứ nhất đó là sự tiếp tục của một mối quan hệ truyền thống trong lịch sử. Từ lâu trong lịch sử, các triều đại phong kiến và nhân dân hai nước đã có mối quan hệ qua lại, đặc biệt kể từ khi nước Việt Nam mới và nước Trung Hoa mới ra đời, mối quan hệ này đã trở nên vô cùng thắm thiết. Hai đảng và nhân dân hai nước đã giúp đỡ nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc . Việt Nam bước vào kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc đã giúp đỡ nhiệt tình và có hiệu quả. Thập niên 70 Trung Quốc vẫn tiếp tục mối quan hệ truyền thống đó. Tuy nhiên nửa thập niên đầu, mặc dù vẫn viện trợ cho Việt Nam chống Mỹ, nhưng mối quan hệ đó đã không còn được mật thiết như thập niên 50, 60. Lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam mãi mãi ghi nhớ sự giúp đỡ to lớn mà Đảng , chính phủ, nhân dân Trung Quốc dành cho mình trong hai cuộc kháng chiến cứu nước. Đối với Việt Nam đó là biểu hiện cao đẹp của mối tình đoàn kết chiến đấu của những người cùng chung cảnh ngộ, của tinh thần đoàn kết quốc tế. Chính sự giúp đỡ đó đã góp phần làm nên thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp chống đế quốc, thực dân xâm lược, giải phóng đất nước. Thứ hai đối với Trung Quốc, mối quan hệ đó thể hiện tính hai mặt. Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cũng như trong khôi phục và xây dựng đất nước rất cần sự giúp đỡ của anh em bạn bè quốc tế. Trung Quốc là một trong hai nước viện trợ chính cho Việt Nam, những người cầm quyền Trung Quốc đã thực hiện chính sách hai mặt, vừa giúp đỡ vừa khống chế Việt Nam. Họ giúp đỡ Việt Nam để đánh Mỹ. Trung Quốc và Mỹ cũng từng là đối địch của nhau, sự có mặt của Mỹ ở Đông Nam Á, đã ngăn cản ảnh hưởng của Trung Quốc ở vùng này. Trung Quốc giúp Việt Nam đánh Mỹ sẽ làm cho Mỹ yếu đi, hơn nữa sự có mặt của Mỹ ở Việt Nam, đặc biệt là ở bắc Việt Nam sẽ đe dọa an ninh của Trung Quốc , Tuy nhiên do mâu thuẫn Xô – Trung ngày càng căng thẳng, Trung Quốc cũng xích dần tới Mỹ, cùng phối hợp với Mỹ chống Liên Xô và ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô ở châu Á. Trung Quốc muốn Việt Nam đi theo đường lối của Trung Quốc chống Liên Xô. Họ không muốn Việt Nam trở thành một nước độc lập, thống nhất, hùng mạnh, mà chỉ muốn Việt Nam là một nước yếu để phụ thuộc vào Trung Quốc. Nói cách khác vì quyền lợi ích kỷ của Trung Quốc mà Trung Quốc khống chế Việt Nam và từng bước công khai chống nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sử dụng viện trợ để ép Việt Nam, dùng Hoa kiều để phá hoại cách mạng Việt Nam, giật dây chiến tranh biên giới tây nam và đặc biệt là cho quân trực tiếp thực hiện chiến tranh xâm lược Việt Nam (1979). Nhân dân Việt Nam với đường lối độc lập tự chủ đã từng bước đập tan mọi âm mưu của những người cầm quyền Trung Quốc cũng như sự cấu kết giữa Mỹ với Trung Quốc trong việc phá hoại cách mạng Việt Nam. Thứ ba, thập niên 70 là sự mở đầu cho một khúc quanh trong quan hệ Việt – Trung, nó còn kéo dài đến tận đầu thập niên 90 khi quan hệ Việt – Trung được bình thường hóa, tình trạng căng thẳng giữa hai nước mới chấm dứt. Giai đoạn đầu của thập niên70 với sự cấu kết giữa Trung Quốc và Mỹ, báo hiệu quan hệ Việt – Trung đang trên đà xuống dốc. Từ sự giúp đỡ thân thiện với Việt Nam, Trung Quốc đã dùng Việt Nam làm con bài để mặc cả với Mỹ. 5 năm tiếp theo là sự công khai phản bội của giới cầm quyền Trung Quốc. Cho tới cuộc chiến tranh biên giới 1979 thì Trung Quốc không còn che đậy được âm mưu thâm độc của mình trong việc chống phá cách mạng Việt Nam. Từ láng giềng thân thiện, Trung Quốc đã coi Việt Nam là một kẻ đối địch, quan hệ Việt – Trung đã đi đến những ngày đen tối nhất. Những năm70 và sau đó là những năm 80 đã ghi lại những dấu ấn không lấy gì làm tốt đẹp trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, cũng như quan hệ của Trung Quốc đối với Việt Nam. Cuộc chiến tranh chống phá Việt Nam đã trở thành một vết đen trong lịch sử hơn nửa thế kỷ của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Từ quan hệ Việt – Trung trong thập niên 70 và rộng hơn là cả thập niên sau đó, chúng ta có thể rút ra một số bài học như sau. Đối với Trung Quốc: Việt Nam , Trung Quốc là hai nước láng giềng, việc Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ là sự tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, đồng thời nâng cao uy tín vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế cũng như trong hàng ngũ các nước xã hội chủ nghĩa. Việc Trung Quốc từ sự khống chế đến việc công khai chống phá cách mạng Việt Nam đã gây nên những tổn thất đau thương cho nhân dân hai nước Việt – Trung, làm tổn hại đến cách mạng hai nước cũng như ảnh hưởng tiêu cực tới phong trào cách mạng thế giới. Các cuộc chiến tranh do Trung Quốc gây ra với Việt Nam và các nước láng giềng, chỉ gây nên sự xáo trộn tình hình an ninh và làm cho Trung Quốc suy giảm vai trò, uy tín của mình trên trường quốc tế. Từ thực tế lịch sử đã để lại cho giới cầm quyền Trung Quốc bài học sâu sắc. Trong thời đại ngày nay các nước lớn nhỏ khác nhau đều là những bộ phận trong tổng thể duy nhất của xã hội loài người, các quốc gia dù lớn hay nhỏ đã là quốc gia độc lập thống nhất thì họ cũng có đường lối độc lập tự chủ của mình, xung đột giữa các dân tộc chỉ gây đau thương và kìm hãm sự phát triển của chính các dân tộc đó. Nếu thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho chính bản thân từng nước, góp phần xây dựng khu vực, xây dựng thế giới hòa bình , phát triển. Đối với Việt Nam: Trung Quốc là nước láng giềng phía bắc, từ bao đời nay nhân dân Việt Nam luôn giữ mối quan hệ hòa hiếu thân thiện, trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc, tôn trọng lẫn nhau. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và những năm sau đó, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại đoàn kết với các nước anh em xã hội chủ nghĩa, các lực lượng dân chủ hòa bình và tiến bộ trên thế giới, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, trong đó có Trung Quốc, tập trung đấu tranh chống đế quốc thực dân xâm lược, dành độc lập dân tộc. Khi mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc căng thẳng chúng ta vẫn nhận được sự giúp đỡ của cả hai nước. Tuy nhiên do sự nhận thức sai lầm về lý luận và thực hiện đường lối dối ngoại bất lợi cho cách mạng Trung Quốc và cách mạng thế giới của những người cầm quyền Trung Quốc, quan hệ Việt – Trung đã đi vào khúc quanh. Nhân dân Việt Nam vẫn kiên định đi theo đường lối độc lập tự chủ của mình không phụ thuộc dựa dẫm vào Trung Quốc, từng bước làm nên thắng lợi to lớn cho cách mạngViệt Nam. Nhân dân Việt Nam luôn luôn nâng cao cảnh giác cách mạng sẵn sàng đập tan mọi âm mưu thủ đoạn phá hoại của nước ngoài, trong đó có cả âm mưu chống phá Việt Nam của giới cầm quyền Trung Quốc. Trong thập niên 70 cũng như thời gian trước và sau đó, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, cũng như sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đường lối đó đã và đang được nhân dân Việt Nam phát huy trong thời đại ngày nay. Việt Nam và Trung Quốc, hai nước láng giềng núi liền núi, sông liền sông, tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước đã được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Ngày nay thế giới đang có nhiều biến đổi to lớn, Đảng và nhân dân hai nước vẫn kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã dành được những thắng lợi quan trọng. Tình hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc đang được củng cố. Chúng ta mong rằng với bài học của quá khứ và sự nỗ lực của nhân dân hai nước trên tinh thần “ khép lại quá khứ hướng tới tương lai”, tình hữu nghị Việt – Trung sẽ ngày càng phát triển tốt đẹp hơn, đưa Trung Quốc và Việt Nam tiến lên hơn nữa trên con đường chủ nghĩa xã hội./. Huy Thư Theo:http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=26733.0 |
Nhãn:
QUAN HỆ VIỆT-TRUNG
Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014
Bài phát biểu của đồng chí Lê Duẩn về tập đoàn phản động Trung Quốc chống Việt Nam.
Nguồn: Thư viện Quân đội Nhân dân, Hà Nội. Tài liệu do Christopher Goscha có được và dịch cho CWIHP.
Nói chung, sau khi chúng ta đánh bại Mỹ,
không đế quốc nào dám đánh chúng ta nữa. Chỉ có những người nghĩ rằng
họ vẫn có thể đánh chúng ta và dám đánh chúng ta là những kẻ phản động
Trung Quốc. Nhưng người dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn thế. Tôi
không biết những kẻ phản động Trung Quốc này sẽ tiếp tục tồn tại thêm
bao lâu nữa. Tuy nhiên, miễn là họ tồn tại, thì họ sẽ tấn công chúng ta
như họ vừa thực hiện (nghĩa là đầu năm 1979).
Nếu
chiến tranh đến từ phương Bắc, thì các tỉnh [Bắc Trung Bộ] Nghệ An, Hà
Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành cơ sở cho toàn bộ đất nước. Các tỉnh này
tốt nhất, là các căn cứ mạnh nhất, tốt nhất và hiệu quả nhất. Vì nếu
vùng đồng bằng [Bắc Bộ] tiếp tục là vùng liên tục căng thẳng, thì tình
hình sẽ rất phức tạp. Vấn đề không đơn giản chút nào. Nếu không phải là
người Việt Nam, thì sẽ không có người nào đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam
chiến đấu chống Mỹ, cả thế giới còn lại đều sợ Mỹ …
Mặc dù Trung Quốc đã giúp [Bắc] Triều
Tiên chỉ với mục đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ. Sau khi cuộc chiến
kết thúc [ở Triều Tiên] và khi áp lực lên Việt Nam, ông ta (chỗ này hình
như nói đến Chu Ân Lai khi đoạn văn sau đó cho thấy vậy) nói rằng, nếu
Việt Nam tiếp tục chiến đấu, thì sẽ phải tự lo liệu. Ông ta sẽ không
giúp thêm nữa và gây áp lực với chúng ta để ngừng chiến đấu.
Khi chúng ta ký Hiệp Định Geneva,
rõ ràng là Chu Ân Lai đã chia đất nước ta làm hai [phần]. Sau khi nước
ta bị chia thành hai miền Nam – Bắc như thế, một lần nữa ông ta gây sức
ép lên chúng ta, không được làm gì đối với miền Nam Việt Nam. Họ ngăn
cấm chúng ta đứng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa do Mỹ hậu thuẫn].
[Nhưng] họ, [người Trung Quốc,] không thể làm gì để ngăn cản chúng ta.
Khi
chúng ta ở miền Nam và chuẩn bị chiến tranh du kích ngay sau khi ký
Hiệp định Geneva, Mao Trạch Đông đã nói với Đại hội Đảng của chúng ta
rằng, ngay lập tức, chúng ta phải buộc Lào chuyển hai tỉnh đã được giải
phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu không, người Mỹ sẽ tiêu diệt hai
tỉnh này, một tình huống rất nguy hiểm [theo cái nhìn của Trung Quốc]!
Ngay lập tức, Việt Nam đã phải làm việc với người Mỹ [liên quan đến vấn
đề này]. Mao đã bức hiếp chúng ta bằng cách này và chúng ta đã phải làm
điều đó.
Sau
đó, khi hai tỉnh này đã được chuyển cho Viêng Chăn, những tên phản động
[Lào] ngay lập tức bắt giữ Souphanouvong (Chủ tịch Lào từ năm
1975-1986). Lào có hai tiểu đoàn bị bao vây lúc đó. Hơn nữa, họ vẫn chưa
sẵn sàng chiến đấu. Sau đó, một tiểu đoàn đã có thể thoát khỏi sự [bao
vây]. Lúc đó, tôi đưa ra quan điểm của tôi là, Lào phải được phép tiến
hành chiến tranh du kích. Tôi mời Trung Quốc đến và thảo luận về vấn đề
này với chúng ta. Tôi nói với họ: “Các đồng chí, nếu các đồng chí tiếp
tục gây áp lực với Lào bằng cách này, thì lực lượng của họ sẽ hoàn toàn
tan rã. Bây giờ họ phải được phép tiến hành chiến tranh du kích“.
Trương
Văn Thiên (Zhang Wentian), người trước đó là Tổng Thư ký [Đảng Cộng sản
Trung Quốc] và sử dụng bút danh Lạc Phú, trả lời tôi: “Vâng, các đồng
chí, điều các đồng chí nói đúng. Hãy để chúng tôi cho phép tiểu đoàn đó
của Lào đảm nhiệm chiến tranh du kích“.
Ngay
lập tức, tôi hỏi Trương Văn Thiên: "Các đồng chí, nếu các đồng chí cho
phép Lào gánh vác chiến tranh du kích, thì không có gì phải sợ việc phát
động chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam. Điều gì làm cho các đồng
chí sợ đến nỗi các đồng chí ngăn cản hành động như thế?"
Ông ta [Trương Văn Thiên] đã nói: “Không có gì phải sợ!”
Trương Văn Thiên đã nói thế. Tuy nhiên, Ho Wei,
Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam lúc đó, đã ngồi ở đó và nghe điều đã nói.
Ngay lập tức, ông ta điện cho Trung Quốc (báo cáo điều Lê Duẩn và Trương
Văn Thiên đã nói). Ngay lập tức, Mao trả lời: “Việt Nam không thể phát
động chiến tranh du kích ở miền Nam. Việt Nam phải nằm chờ trong một
thời gian dài!” Chúng ta rất nghèo. Làm sao chúng ta có thể đánh Mỹ nếu
không có Trung Quốc làm căn cứ hậu tập? Nên chúng ta phải nghe theo họ,
đúng không?
Tuy
nhiên, chúng ta đã không đồng ý. Chúng ta đã bí mật tiếp tục phát triển
lực lượng. Khi [Ngô Đình] Diệm kéo lê máy chém khắp miền Nam Việt Nam,
chúng ta đã ban hành lệnh
thành lập lực lượng quần chúng để chống lại lệnh đã được lập và nắm
quyền [từ chính phủ Diệm]. Chúng ta đã không chú ý [đến Trung Quốc].
Khi
cuộc nổi dậy giành chính quyền bắt đầu, chúng tôi đi Trung Quốc để gặp
Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình đã nói với tôi: “Đồng chí,
bây giờ sai lầm của đồng chí đã xảy ra rồi, đồng chí chỉ nên đánh ở mức
trung đội trở xuống“. Đó là áp lực mà họ đã áp đặt lên chúng ta.
Tôi nói [với Trung Quốc]: “Vâng, vâng! tôi sẽ làm điều đó. Tôi sẽ chỉ chiến đấu ở mức một trung đội trở xuống“.
Sau
khi chúng ta chiến đấu và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta có thể chiến
đấu hiệu quả, đột nhiên Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng, vì Mỹ
đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân đội [Trung Quốc] đến giúp chúng ta xây
dựng đường xá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu tình hình đất nước
ta để sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống
khu vực Đông Nam Á. Không có lý do nào khác.
Chúng
tôi biết rõ ý đồ này, nhưng phải cho phép họ (sự xâm nhập của quân đội
Trung Quốc). Thôi thì cũng được. Nhưng họ quyết định đưa quân vào. Tôi
yêu cầu họ chỉ gửi người, nhưng quân lính của họ đã đến cùng với súng
đạn. Tôi cũng phải chịu điều này.
Sau
đó, ông ta (Mao Trạch Đông) bắt chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông
ta đến xây một con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ (thuật ngữ tiếng Việt
chỉ miền Nam Việt Nam). Tôi từ chối. Họ tiếp tục yêu cầu nhưng tôi không
nhượng bộ. Họ gây áp lực với tôi cho quân của họ vào nhưng tôi đã không
chấp thuận. Họ tiếp tục gây sức ép nhưng tôi vẫn không chịu.
Tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy họ có âm mưu cướp nước ta từ lâu và âm mưu đó ác độc như thế nào.
-
Sau khi Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền Nam Việt Nam, chúng ta đã
phát động cuộc tổng tấn công vào năm 1968 để buộc họ giảm leo thang. Để
đánh bại Hoa Kỳ, một điều cần phải biết là làm thế nào để họ từ từ giảm
leo thang. Đó là chiến lược của chúng ta. Chúng ta chiến đấu chống một
kẻ thù lớn, kẻ thù với dân số 200 triệu người và thống trị thế giới. Nếu
chúng ta không thể làm cho họ giảm leo thang từng bước, thì chúng ta sẽ
thất bại và không thể tiêu diệt kẻ thù. Chúng ta phải đấu tranh để làm
nhụt ý chí họ để buộc họ phải đi đến bàn đàm phán với chúng ta mà không
cho phép họ đưa thêm quân.
Đến
lúc họ muốn thương lượng với chúng ta, Ho Wei đã viết một bức thư cho
chúng tôi, nói rằng: “Các ông không thể ngồi xuống đàm phán với Hoa Kỳ.
Các ông phải đưa quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam để đánh với họ“. Ông ta
gây áp lực với chúng tôi cách này, làm cho chúng tôi bối rối vô cùng.
Đây không phải là vấn đề hoàn toàn đơn giản. Rất là mệt mỏi mỗi khi tình
huống như thế phát sinh [với Trung Quốc].
Chúng
tôi quyết định không thực hiện cách đó (nói đến lời khuyên của Hồ Wei
không đàm phán với Hoa Kỳ). Chúng tôi phải ngồi xuống ở Paris. Chúng tôi
phải làm cho họ (Mỹ) giảm leo thang để đánh bại họ. Trong thời gian đó,
Trung Quốc đã thông báo [với Mỹ]: “Nếu các ông không tấn công tôi, tôi
sẽ không tấn công các ông. Nhưng rất nhiều quân lính mà các ông muốn đưa
vào Việt Nam, tùy các ông“. Trung Quốc nhất trí điều này và đã gây áp
lực với chúng tôi bằng cách đó.
Họ
(Trung Quốc) đã trao đổi nhiều với Mỹ và ép buộc chúng ta phục vụ như
là một con bài để mặc cả theo cách này. Khi người Mỹ nhận ra rằng họ đã
thua trận, ngay lập tức, họ sử dụng Trung Quốc để [tạo điều kiện] rút
quân [ở miền Nam Việt Nam]. Nixon và Kissinger đã đến Trung Quốc để thảo
luận vấn đề này.
-
Trước khi Nixon đi Trung Quốc, [mục đích chuyến đi của ông ta là] giải
quyết vấn đề Việt Nam bằng cách đó, để phục vụ lợi ích của Mỹ và giảm
bớt thất bại của Mỹ, cũng như cùng lúc cho phép ông ta lôi kéo Trung
Quốc về phía Mỹ. Chu Ân Lai đã đến gặp tôi. Chu Ân Lai nói với tôi: “Lúc
này, Nixon đến gặp tôi chủ yếu là thảo luận về vấn đề Việt Nam, do vậy
tôi phải đến gặp đồng chí để thảo luận điều đó với đồng chí“.
Tôi
trả lời: “Đồng chí, đồng chí có thể nói bất cứ điều gì đồng chí thích,
nhưng tôi không nghe theo đồng chí. Đồng chí là người Trung Quốc, tôi là
người Việt. Việt Nam là của tôi (đất nước của tôi), hoàn toàn không
phải của các đồng chí. Các đồng chí không có quyền nói [về vấn đề Việt
Nam] và các đồng chí không có quyền thảo luận [các vấn đề đó với Mỹ].
Hôm nay, các đồng chí, chính tôi sẽ nói với các đồng chí điều mà thậm
chí tôi chưa hề nói với Bộ Chính trị, rằng đồng chí đã nêu ra vấn đề
nghiêm trọng và vì thế tôi phải nói:
-
Năm 1954, khi chúng tôi giành chiến thắng tại Điện Biên Phủ, tôi đã ở
[tỉnh] Hậu Nghĩa. Bác Hồ đã điện nói với tôi rằng, tôi phải vào miền Nam
để tập hợp [các lực lượng ở đó] và nói chuyện với đồng bào miền Nam [về
vấn đề này]. Tôi đi bằng xe tải vào miền Nam. Trên đường đi, đồng bào
ra chào đón tôi vì họ nghĩ rằng chúng tôi đã giành chiến thắng. Đau đớn
vô cùng! Nhìn đồng bào miền Nam, tôi đã khóc. Vì sau đó, Hoa Kỳ sẽ đến
và tàn sát [người dân] một cách khủng khiếp.
Khi
vừa tới miền Nam, ngay lập tức, tôi đã điện cho Bác Hồ để xin ở lại
[miền Nam] và không trở lại miền Bắc để tôi có thể đánh thêm mười năm
nữa hoặc hơn. Đồng chí đã gây khó khăn cho tôi như thế này (muốn nói đến
vai trò của Chu Ân Lai trong việc chia cắt Việt Nam tại Geneva năm
1954), đồng chí có biết không“?
Chu
Ân Lai nói: “Tôi xin lỗi đồng chí. Tôi đã sai. Điều đó tôi sai” (muốn
nói đến sự chia cắt Việt Nam tại Geneva). Sau khi Nixon rời khỏi Trung
Quốc, một lần nữa, ông ta (Chu Ân Lai) đến Việt Nam để hỏi tôi về một số
vấn đề liên quan đến cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ngay
lập tức, tôi nói với Chu Ân Lai: “Nixon đã gặp các đồng chí rồi. Chẳng
bao lâu nữa, họ (Hoa Kỳ) sẽ tấn công chúng tôi thậm chí còn mạnh hơn“.
Tôi
hoàn toàn không sợ. Cả hai (Mỹ và Trung Quốc) đã thương lượng với nhau
để đánh tôi mạnh hơn. Ông ta (Chu Ân Lai) đã không bác bỏ quan điểm này
là vô căn cứ và chỉ nói rằng: “Tôi sẽ gửi thêm súng đạn cho các đồng
chí“.
Sau
đó ông ta (Chu Ân Lai) nói (về mối lo ngại âm mưu bí mật Trung – Mỹ):
“Không có điều đó“. Tuy nhiên, hai bên đã thảo luận làm thế nào để đánh
chúng ta mạnh hơn, gồm các cuộc tấn công bằng bom B-52 và phong tỏa cảng
Hải Phòng. Rõ ràng là như thế.
–
Nếu Liên Xô và Trung Quốc đã không mâu thuẫn với nhau, thì Hoa Kỳ không
thể tấn công chúng ta quyết liệt như họ đã tấn công. Khi hai [cường
quốc Trung Quốc và Liên Xô] xung đột, người Mỹ đã không bị [phe đối lập
là khối xã hội chủ nghĩa] cản trở. Mặc dù Việt Nam có thể thống nhất và
đoàn kết với cả Trung Quốc lẫn Liên Xô, để đạt được điều này rất phức
tạp, lúc đó chúng ta phải dựa vào Trung Quốc nhiều thứ. Lúc đó, hàng năm
Trung Quốc cung cấp viện trợ 500.000 tấn thực phẩm, cũng như súng ống,
đạn dược, tiền bạc, chưa kể đến viện trợ đô la. Liên Xô cũng đã giúp
bằng cách này. Nếu chúng ta không thể làm điều đó (đoàn kết và thống
nhất với Trung Quốc và Liên Xô), mọi thứ sẽ rất nguy hiểm.
Mỗi
năm tôi đã phải đi Trung Quốc hai lần để nói chuyện với họ (lãnh đạo
Trung Quốc) về [các sự kiện] ở miền Nam Việt Nam. Về phía Liên Xô, tôi
không phải nói gì cả (về tình hình ở miền Nam Việt Nam). Tôi chỉ nói một
cách chung chung. Khi giao thiệp với Trung Quốc, tôi đã phải nói rằng
cả hai [nước] đang đánh Mỹ. Tôi đã đi một mình. Tôi phải có mặt về vấn
đề này. Tôi đã đến đó và nói chuyện với họ nhiều lần bằng cách này, mục
đích chính là để xây dựng quan hệ gần gũi hơn giữa hai bên (nghĩa là
Trung Quốc và Việt Nam). Chính xác là vào thời điểm đó Trung Quốc gây áp
lực với chúng ta để xa lánh Liên Xô, cấm chúng ta không được đi với
Liên Xô.
Họ
đã làm rất căng. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh đã đến và nói với
tôi: “Đồng chí, tôi sẽ giúp đồng chí vài tỷ [có lẽ là nhân dân tệ] mỗi
năm. Đồng chí không thể nhận bất cứ thứ gì từ Liên Xô“.
Tôi không đồng ý điều này. Tôi nói: “Không, chúng ta phải đoàn kết và thống nhất với toàn bộ phe [xã hội chủ nghĩa]“.
Năm
1963, khi Khrushchev phạm sai lầm, ngay lập tức [Trung Quốc] ban hành
một tuyên bố 25 điểm và mời đảng chúng ta đến cho ý kiến . Anh Trường
Chinh và tôi đã đi cùng với một số anh em khác. Trong cuộc thảo luận, họ
(Trung Quốc) lắng nghe chúng tôi đến, hình như là điểm thứ 10, nhưng
khi đến điểm “không từ bỏ phe xã hội chủ nghĩa”, họ đã không nghe… Đặng
Tiểu Bình nói: “Tôi chịu trách nhiệm về tài liệu của chính tôi, tôi muốn
nghe ý kiến của các đồng chí, nhưng tôi không chấp nhận quan điểm này
của các đồng chí“.
Trước
khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống
trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng chí,
tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của 500
triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống
khu vực Đông Nam Á“. Đặng Tiểu Bình cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu
là vì nông dân nghèo, trong tình cảnh khó khăn cùng cực!”
Khi
chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh thấy đó, âm
mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám tuyên bố
điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ
không nghĩ đến đánh Việt Nam!
Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí có thể thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.
Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!
Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!
Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Mao
nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông,
nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi
tới Thái Lan!
Đối
với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy
nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các
đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta
hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi
nói: “Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?” Tôi nói:
“Đúng, và cả các ông nữa. Tôi đánh các ông luôn. Các ông có biết điều đó
không?“
Tôi
đã nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói: “Có, có!” Ông ta muốn
chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á.
Đưa người dân đến sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.
Trong
quá khứ (nói đến vấn đề có thể xuất phát từ mối đe dọa của Trung Quốc
trong thời gian này), chúng ta đã chuẩn bị rất nhiều, không phải là
chúng ta không chuẩn bị. Nếu chúng ta không chuẩn bị, tình hình gần đây
sẽ rất nguy hiểm. Không phải là vấn đề đơn giản.
Mười
năm trước, tôi đã triệu tập các anh em trong quân đội đến gặp tôi. Tôi
nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ mâu thuẫn với nhau. Đối với Trung Quốc, họ
đã bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình hình căng thẳng này, các đồng chí
phải nghiên cứu vấn đề này ngay lập tức. Tôi sợ rằng quân đội không
hiểu ý tôi, nên tôi nói với họ rằng, không có cách nào khác để hiểu vấn
đề này. Nhưng họ vẫn thấy khó hiểu. Hoàn toàn không dễ. Nhưng tôi không
thể nói bằng cách nào khác. Và tôi đã không cho phép những kẻ khác túm
lấy tôi.
Khi
tôi đến Liên Xô, Liên Xô cũng làm khó tôi về Trung Quốc. Liên Xô đã
triệu tập một cuộc họp gồm 80 đảng [cộng sản] để hỗ trợ Việt Nam, nhưng
Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì [buổi hợp này] không chỉ đơn
giản chỉ nhằm giúp Việt Nam, mà còn có mục đích lên án Trung Quốc. Nên
Việt Nam đã không đi.
Liên
Xô nói: “Bây giờ các đồng chí bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế [hay] là cái gì?
Tại sao các đồng chí làm điều này?” Tôi nói: “Tôi hoàn toàn không bỏ
rơi chủ nghĩa quốc tế. Tôi không bao giờ làm điều này. Tuy nhiên, để là
người quốc tế, trước tiên phải đánh bại Mỹ. Và nếu một nước muốn đánh
bại Mỹ, thì phải có sự thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi
đến hội nghị này, thì Trung Quốc sẽ gây nhiều khó khăn lớn với chúng
tôi. Các đồng chí, hãy hiểu cho tôi“.
Tại
Trung Quốc cũng có nhiều ý kiến và tranh luận khác nhau. Chu Ân Lai
đồng ý việc hình thành một mặt trận với Liên Xô để chống Mỹ. Một lần,
khi tôi đi Liên Xô để dự lễ kỷ niệm quốc gia, tôi có đọc một bức điện
Trung Quốc gửi sang Liên Xô, nói rằng: “Bất cứ khi nào có ai đó tấn công
Liên Xô, thì Trung Quốc sẽ đứng bên cạnh các bạn“. Đó là vì đã có một
hiệp ước hữu nghị giữa Liên Xô và Trung Quốc từ thời trước đó (tháng 2
năm 1950).
Ngồi
cạnh Chu Ân Lai, tôi hỏi ông ta: “Trong bức điện gửi đến Liên Xô gần
đây, đồng chí đồng ý thành lập một mặt trận với Liên Xô, nhưng tại sao
các đồng chí không thành lập một mặt trận chống Mỹ?” Chu Ân Lai nói:
“Chúng tôi có thể thành lập mặt trận chống Mỹ. Tôi chia sẻ quan điểm đó.
Các đồng chí, tôi sẽ thành lập một mặt trận với các đồng chí [Việt
Nam]“. Bành Chân cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Quan điểm này cực kỳ chính
xác!” Nhưng khi vấn đề được thảo luận tại Thượng Hải, Mao nói là không
thể và hủy bỏ nó. Các đồng chí thấy nó phức tạp như thế nào.
Mặc
dù Chu Ân Lai giữ vững một số quan điểm này, ông ta dù sao cũng đồng ý
xây dựng một mặt trận và [ông ta] đã giúp Việt Nam rất nhiều. Cám ơn ông
ta rằng tôi có thể hiểu [nhiều về những gì đang diễn ra ở Trung Quốc].
Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm. Có lần, ông ta nói với tôi: “Tôi đang
làm hết sức mình để tồn tại ở đây, sử dụng Li Chiang tích lũy và hỗ trợ
cho các đồng chí“. Thì ra vậy (tức là Chu Ân Lai đã sử dụng Li Chiang,
để giúp người Việt Nam). Có nghĩa là, không có Chu Ân Lai, điều này sẽ
hoàn toàn không thể xảy ra. Tôi đang mắc nợ ông ta.
Tuy
nhiên, không đúng để nói rằng các lãnh đạo khác của Trung Quốc hoàn
toàn chia sẻ quan điểm của Chu Ân Lai. Họ khác nhau nhiều thứ. Phải nói
rằng, người kiên quyết nhất là người có tinh thần Đại Hán và là người
muốn chiếm Đông Nam Á, đó chính là Mao Trạch Đông. Tất cả các chính sách
[của Trung Quốc] đều nằm trong tay ông ta.
Điều
tương tự cũng áp dụng đối với các nhà lãnh đạo hiện tại của Trung Quốc.
Tuy nhiên, chúng ta không biết tương lai sẽ ra sao, [sự thật của vấn đề
là] họ đã tấn công chúng ta. Trong quá khứ, Đặng Tiểu Bình đã làm hai
điều mà hiện đang bị đảo lộn. Đó là, khi chúng ta giành chiến thắng ở
miền Nam Việt Nam, nhiều [lãnh đạo] Trung Quốc không hài lòng. Tuy
nhiên, dù sao Đặng Tiểu Bình cũng chúc mừng chúng ta. Vì lý do này, ngay
lập tức ông ta đã bị những người khác xem như là người theo chủ nghĩa
xét lại.
Khi
tôi đi Trung Quốc lần cuối, tôi dẫn đầu phái đoàn, và tôi đã gặp phái
đoàn Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình đứng đầu. Khi nói về vấn đề lãnh thổ,
gồm cả việc thảo luận về một số hòn đảo, tôi nói: “Hai đất nước chúng ta
ở gần nhau, Có một số vùng lãnh thổ của chúng ta vẫn chưa được xác định
rõ ràng. Hai bên nên thành lập các cơ quan để xem xét vấn đề này. Các
đồng chí, làm ơn đồng ý với tôi [về vấn đề này]”. Ông ta (Đặng Tiểu
Bình) đồng ý, nhưng sau khi làm như vậy, ngay lập tức ông ta bị nhóm
lãnh đạo khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.
Nhưng
bây giờ ông ta (Đặng Tiểu Bình) điên rồi. Bởi vì ông ta muốn cho mọi
người thấy rằng ông ta không phải là người theo chủ nghĩa xét lại, cho
nên ông ta đã tấn công Việt Nam mạnh hơn. Ông ta để cho họ tiếp tục tấn
công Việt Nam.
Sau
khi đánh bại Mỹ, chúng ta giữ lại hơn một triệu quân, các đồng chí lãnh
đạo Liên Xô hỏi chúng tôi: “Các đồng chí định đánh với ai mà giữ lại
một đội quân thường trực lớn như vậy?” Tôi nói: “Sau này, các đồng chí
sẽ hiểu“. Lý do duy nhất chúng ta giữ quân đội thường trực như thế là vì
mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam. Nếu không có [một mối đe
dọa như thế], thì điều này (quân đội thường trực lớn) sẽ không cần. Gần
đây, bị tấn công trên hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rằng] rất nguy
hiểm nếu chúng ta đã không được duy trì một đội quân lớn.
(B)
(Ý nghĩa của chữ “B” này trong văn bản gốc không rõ ràng) – Sau Đệ nhị
Thế chiến, tất cả mọi người tin rằng tên sen đầm quốc tế là đế quốc Mỹ.
Họ có thể tiếp quản và bắt nạt cả thế giới. Tất cả các nước, gồm các
nước lớn đều sợ Mỹ. Chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ.
Tôi
hiểu vấn đề này vì công việc đã dạy tôi. Người đầu tiên sợ [Mỹ] là Mao
Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, đó là, Việt Nam và Lào, rằng: “Ngay lập
tức, các ông phải chuyển giao hai tỉnh của Lào đã được giải phóng cho
chính phủ Viêng Chăn. Nếu các ông không làm như vậy, thì Mỹ sẽ sử dụng
điều đó làm lý do tấn công. Đó là mối nguy lớn”. Về phía Việt Nam, chúng
tôi đã nói: “Chúng ta phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng miền Nam
Việt Nam“. Ông ta (Mao) nói: “Các ông không thể làm điều đó. Miền Nam
Việt Nam phải nằm đợi trong một thời gian dài, đợi một đời, 5-10 đời
hoặc thậm chí 20 đời kể từ bây giờ. Các ông không thể đánh Mỹ. Đánh Mỹ
là nguy hiểm“. Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến mức độ đó…
Nhưng
Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiếp tục chiến đấu. Nếu Việt Nam không
đánh Mỹ thì miền Nam Việt Nam sẽ không được giải phóng. Một đất nước
chưa được giải phóng sẽ vẫn là một đất nước lệ thuộc. Không ai có được
độc lập nếu chỉ có một nửa đất nước được tự do. Không có được độc lập
cho đến năm 1975, đất nước chúng ta cuối cùng có được độc lập hoàn toàn.
Có độc lập, tự do sẽ đến. Tự do phải là tự do cho cả nước Việt Nam …
Engels
đã nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó, Liên Xô, Trung Quốc và chính
chúng ta cũng đã nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước rất khác về nội
dung [chiến tranh nhân dân]. Không đúng là chỉ vì các bạn có hàng triệu
người, thì các bạn có thể làm bất cứ điều gì các bạn muốn. Trung Quốc
cũng nói đến chiến tranh nhân dân, tuy nhiên, [họ cho rằng] “khi kẻ thù
tiến lên, thì chúng ta phải rút lui“. Nói cách khác, phòng thủ là chính,
và chiến tranh được chia thành ba giai đoạn, vùng nông thôn được sử
dụng để bao vây thành thị, trong khi [các lực lượng chính] chỉ ở lại
trong rừng núi… Người Trung Quốc ở thế phòng thủ và rất yếu [trong Đệ
nhị Thế chiến]. Ngay cả với 400 triệu người đọ sức với quân đội Nhật Bản
có 300.000 – 400.000 quân, Trung Quốc vẫn không thể đánh bại họ.
Tôi
phải lặp lại điều này như thế, vì trước khi Trung Quốc gửi cố vấn cho
chúng ta, một số anh em Việt Nam chúng ta không hiểu. Họ nghĩ rằng
[Trung Quốc] rất có khả năng. Nhưng họ không có kỹ năng và do đó chúng
ta đã không làm theo [những lời khuyên của Trung Quốc].
Năm
1952, tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc vì tôi bị bệnh và cần điều trị.
Đây là lần đầu tiên tôi đi nước ngoài. Tôi đặt câu hỏi cho họ (Trung
Quốc) và thấy nhiều điều rất lạ. Có những khu vực [đã bị] quân Nhật
chiếm đóng, mỗi khu có dân số khoảng 50 triệu người, nhưng không có lấy
một chiến binh du kích…
Khi tôi từ Trung Quốc trở về, tôi đã gặp Bác [Hồ]. Bác hỏi tôi:
- Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài, phải không?
Vâng, đây là lần đầu tiên tôi đi ra nước ngoài.
- Chú đã thấy gì?
Tôi thấy hai điều: Việt Nam rất dũng cảm và họ (Trung Quốc) không dũng cảm chút nào.
Tôi
hiểu điều này kể từ ngày đó. Chúng ta (Việt Nam) hoàn toàn khác với họ.
Lòng can đảm vốn có trong con người Việt Nam và do đó chúng ta chưa bao
giờ có một chiến lược phòng thủ (ý nói ở thế thủ). Mọi người dân chiến
đấu.
Gần
đây, họ (Trung Quốc) đã mang hàng trăm ngàn quân vào xâm chiếm nước ta.
Hầu hết, chúng ta đã sử dụng lực lượng dân quân và quân đội trong vùng
để tấn công họ. Chúng ta không ở thế thủ và do đó họ phải lùi bước. Họ
không thể quét sạch dù một trung đội Việt Nam, trong khi chúng ta đã xóa
sổ vài trung đoàn và hàng chục tiểu đoàn của họ. Có được như vậy là vì
chiến lược tấn công của chúng ta.
Đế
quốc Mỹ đã đánh với chúng ta trong một cuộc chiến kéo dài. Họ rất mạnh,
nhưng họ đã thua. Nhưng có một yếu tố đặc biệt, đó là những mâu thuẫn
gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [Vì điều này,] họ đã tấn công chúng
ta mạnh như thế này.
…
Việt Nam đã chiến đấu chống Mỹ, và đã chiến đấu rất quyết liệt, nhưng
chúng ta biết rằng Hoa Kỳ là một nước rất lớn, khả năng tích lũy hơn 10
triệu quân và đưa tất cả các loại vũ khí được xem là mạnh của họ vào để
đánh chúng ta. Vì vậy, chúng ta đã phải chiến đấu trong một thời gian
dài để làm cho cho họ giảm leo thang. Chúng ta là những người có thể làm
được điều đó, Trung Quốc thì không thể. Khi quân đội Mỹ tấn công Quong
Tre (Quảng Trị?), ngay lập tức Bộ Chính trị ra lệnh đưa quân đội vào
chiến đấu. Chúng ta không sợ.
Sau
đó tôi đi Trung Quốc gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Điều đó (cuộc
tấn công vào Quảng Trị) có lẽ là chưa từng có, có một không hai. Chỉ có
một [cơ hội] trên đời này, không có cơ hội thứ hai. Không ai dám làm
những điều các đồng chí đã làm“.
…
Chu Ân Lai là người đứng đầu Bộ Tham mưu. Ông ta dám nói, ông ta thẳng
thắn hơn. Ông ta nói với tôi: “Nếu tôi biết trước cái cách mà các đồng
chí sử dụng, chúng tôi không cần Vạn lý Trường chinh“.
Vạn
lý Trường chinh là gì? Vào đầu cuộc hành quân có 300.000 quân, đến cuối
Vạn lý Trường chinh chỉ còn 30.000 quân. 270.000 người đã chết. Thực sự
ngu ngốc khi thực hiện cách này. Nói như vậy để các đồng chí biết chúng
ta đang đi trước họ như thế nào. Trong tương lai không xa, nếu chúng ta
chiến đấu chống lại Trung Quốc, chúng ta chắc chắn sẽ giành chiến thắng
… Tuy nhiên, sự thật là nếu một nước khác [không phải Việt Nam] chiến
đấu chống lại Trung Quốc, không rõ họ có giành được chiến thắng như thế
này không (như Việt Nam).
…
Nếu Trung Quốc và Liên Xô thống nhất với nhau, không chắc Hoa Kỳ có dám
đánh chúng ta hay không. Nếu hai nước thống nhất và liên kết với nhau
để giúp chúng ta, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta cái cách mà họ
đã đánh. Họ sẽ do dự ngay từ đầu. Họ sẽ do dự như thời Kennedy. Việt
Nam, Trung Quốc và Liên Xô, tất cả đã giúp Lào và ngay lập tức Mỹ ký một
hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân Mỹ sang Lào, họ để cho Đảng
[Nhân dân Cách mạng] Lào tham gia chính phủ ngay lập tức. Họ không dám
tấn công Lào nữa.
Sau
đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] xung đột với nhau, Mỹ được
[Trung Quốc] thông báo là họ có thể tiến tới và tấn công Việt Nam mà
không sợ. Đừng sợ [sự trả đũa của Trung Quốc]. Chu Ân Lai và Mao Trạch
Đông đã nói với Mỹ: “Nếu các ông không tấn công tôi, thì tôi sẽ không
tấn công các ông. Các ông có thể đưa nhiều quân vào miền Nam Việt Nam mà
các ông muốn. Tùy các ông“.
…
Hiện tại, chúng ta có biên giới với một nước rất mạnh, một nước với ý
đồ bành trướng mà nếu muốn được thực hiện, phải bắt đầu với một cuộc xâm
lược Việt Nam. Vì vậy, chúng ta phải chung vai gánh vác, vai trò lịch
sử khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta chưa bao giờ trốn tránh trách nhiệm
lịch sử. Trước đây, Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ của mình, và lần này
Việt Nam xác định không cho phép họ bành trướng. Việt Nam giữ độc lập
riêng mình và làm như vậy cũng là để bảo vệ nền độc lập của các nước
Đông Nam Á. Việt Nam kiên quyết không để Trung Quốc thực hiện âm mưu
bành trướng. Trận đánh gần đây [với Trung Quốc] chỉ là vòng một. Hiện họ
vẫn còn chuẩn bị nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, bất kể họ chuẩn bị đến mức
độ nào, Việt Nam cũng sẽ thắng …
Tiến
hành chiến tranh không phải là đi bộ thong thả trong rừng. Gửi một
triệu quân vào cuộc chiến chống lại một nước ở bên ngoài liên quan đến
vô số khó khăn. Gần đây họ đưa 500.000 – 600.000 binh lính để đánh chúng
ta, nhưng họ đã không có thiết bị vận tải đầy đủ để cung cấp lương thực
cho quân đội của họ. Trung Quốc hiện đang chuẩn bị 3,5 triệu quân,
nhưng họ phải để lại một nửa số quân đó ở biên giới [Trung-Xô] để ngăn
chặn Liên Xô. Vì lý do đó, nếu họ đưa 1 hoặc 2 triệu quân vào để đánh
chúng ta, chúng ta sẽ không sợ bất cứ điều gì. Chúng ta chỉ có 600.000
quân tham gia, và trong tương lai gần, nếu chúng ta phải đánh với 2
triệu quân, sẽ không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ.
Chúng
ta không sợ bởi vì chúng ta biết cách đánh. Nếu họ đưa 1 triệu quân, họ
sẽ chỉ giành được một chỗ đứng ở miền Bắc. Đi xuống vùng trung du, vùng
đồng bằng và Hà Nội và thậm chí xuống dưới sẽ khó khăn hơn nữa.
Các
đồng chí, như các đồng chí biết, bọn Hitler tấn công quyết liệt theo
cách này, nhưng khi họ (Đức Quốc xã) đến Leningrad, họ không thể vào
được. Với thành phố, người dân và các công trình phòng thủ, không thể
nào thực hiện các cuộc tấn công hiệu quả chống lại mỗi người và mọi
người. Thậm chí đánh trong hai, ba hoặc bốn năm, họ vẫn không thể vào.
Mỗi làng ở đó (ở miền Bắc) thì giống như thế. Đường lối của chúng ta là:
mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ
chiến đấu và họ sẽ không thể nào vào được cả.
Tuy
nhiên, không bao giờ đủ khi chỉ đánh kẻ thù ở tiền tuyến. Phải có một
đội quân hậu tập trực tiếp mạnh mẽ. Sau trận đánh gần đây kết thúc,
chúng tôi đánh giá rằng, trong tương lai không xa, chúng ta phải đưa
thêm vài triệu người đến mặt trận phía Bắc. Nhưng kẻ thù đến từ phía
bắc, hậu phương trực tiếp cho cả nước phải là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà
Tĩnh … Hậu phương trực tiếp bảo vệ thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ
Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Chúng ta có thể đánh chúng bằng nhiều cách …
Chúng ta có thể sử dụng 2-3 quân đoàn để giánh một cú mạnh vào chúng,
sẽ làm cho chúng lảo đảo, trong khi chúng ta tiếp tục giữ đất của chúng
ta. Để đạt được mục đích này, mỗi người lính phải là một người lính thực
và mỗi đội phải là một đội hình thực sự.
-
Bây giờ đã đánh xong một trận rồi, chúng ta không nên chủ quan. Chủ
quan và đánh giá thấp kẻ thù là sai lầm, nhưng thiếu tự tin cũng sai.
Chúng ta không chủ quan, chúng ta không đánh giá thấp kẻ thù. Nhưng
chúng ta cũng tự tin và vững tin vào chiến thắng của chúng ta. Chúng ta
cần phải có cả hai điều này.
-
Bây giờ Trung Quốc có âm mưu đánh [chúng ta] để mở rộng xuống phía Nam.
Nhưng trong thời đại hiện nay họ không thể đánh và dọn dẹp một cách dễ
dàng. Trung Quốc chỉ đánh Việt Nam có vài ngày mà cả thế giới đã hét
lên: “Không được đụng đến Việt Nam“! Thời đại hiện nay không giống như
thời xưa. Trong những ngày này, không chỉ có chúng ta và họ (muốn nói
Trung Quốc). Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với nhau. Loài người vẫn
chưa hoàn toàn đi vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa, nhưng đây là lúc mọi
người đều muốn độc lập và tự do. [Ngay cả] trên các đảo nhỏ, người dân
cũng muốn độc lập, tự do.
Cả
nhân loại hiện nay như thế. Điều đó là rất khác với thời xưa. Thời đó,
người dân chưa nhận thức rõ những điều này. Do đó, câu của Bác Hồ:
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một ý tưởng của thời đại hiện
nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm độc lập, tự do …
Việt Nam là một quốc gia tượng trưng cho độc lập và tự do.
-
Khi phải chiến đấu chống Mỹ, anh em chúng ta trong Bộ Chính trị đã thảo
luận với nhau về vấn đề này, cân nhắc liệu chúng ta có dám đánh Mỹ hay
không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã bày tỏ quyết tâm: để
chiến đấu chống Mỹ, chúng ta không sợ Mỹ. Tất cả đều đồng tâm. Khi tất
cả đã đồng ý đánh Mỹ, không sợ Mỹ, chúng ta cũng không sợ Liên Xô. Tất
cả đều đồng ý. Chúng ta cũng không sợ Trung Quốc. Tất cả đều đồng ý. Nếu
chúng ta không sợ ba điều này, chúng ta có thể đánh Mỹ. Đó là cách
chúng tôi đã thực hiện trong Bộ Chính trị hồi đó.
Mặc
dù Bộ Chính trị đã gặp và tổ chức các buổi thảo luận như thế và mọi
người đồng lòng, sau này có một người đã nói với một đồng chí điều mà
tôi đã nói. Đồng chí đó đặt câu hỏi cho Bộ Chính trị, hỏi lý do gì mà
Anh Ba một lần nữa lại nói rằng, nếu chúng ta muốn đánh Mỹ, thì chúng ta
không nên sợ Trung Quốc? Tại sao anh ấy phải nói như vậy nữa?
Lúc
đó, anh Nguyễn Chí Thanh, người đã bị nghi là có cảm tình với Trung
Quốc, đứng lên và nói: “Kính thưa Bộ Chính trị và kính thưa Bác Hồ, lời
phát biểu của Anh Ba là đúng. Phải nói như thế (ý nói không cần phải sợ
Trung Quốc), vì họ (Trung Quốc) gây rắc rối cho chúng ta nhiều điều. Họ
chặn chúng ta ở chỗ này, rồi họ trói tay chúng ta ở chỗ kia. Họ không
cho chúng ta đánh…“
Trong
khi chúng ta đánh ở miền Nam Việt Nam, Đặng Tiểu Bình quy định rằng tôi
chỉ có thể đánh ở mức trung đội trở xuống và không được đánh ở mức cao
hơn. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) nói: “Ở miền Nam, do các ông phạm sai lầm
về việc đã khởi động đánh trước, các ông chỉ nên đánh ở mức trung đội
trở xuống, không được đánh ở mức cao hơn“. Họ gây áp lực lên chúng ta
như thế.
-
Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta có lẽ phải.
Chúng ta không sợ ngay cả anh trai của chúng ta. Chúng ta cũng không sợ
bạn bè của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không sợ kẻ thù của chúng ta.
Chúng ta đã đánh họ rồi. Chúng ta là con người, chúng ta không sợ bất cứ
ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết chúng ta độc lập.
Chúng
ta phải có một quân đội mạnh mẽ, bởi vì đất nước chúng ta đang bị đe
dọa và bị bắt nạt … Không thể khác được. Nếu không, thì sẽ nguy hiểm vô
cùng, nhưng đất nước chúng ta nghèo.
-
Chúng ta có một quân đội mạnh, điều đó không có cách nào làm nhụt chí
chúng ta. Có một số chính sách của Trung Quốc đối với chúng ta: xâm lược
và chiếm đóng nước ta, tìm cách làm suy yếu chúng ta về kinh tế và làm
cho điều kiện sống của chúng ta khó khăn. Vì những lý do này, để chống
lại Trung Quốc, trước hết, chúng ta phải, không những chiến đấu, mà còn
làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn. Để đạt được mục đích này, theo tôi, quân
đội của chúng ta không nên là một lực lượng lãng phí nguồn lực của nhà
nước, mà nên là một lực lượng sản xuất mạnh mẽ. Khi kẻ thù đến, họ
(những người lính) cầm súng ngay lập tức. Khi không có kẻ thù, thì họ sẽ
sản xuất đàng hoàng. Họ sẽ là biểu tượng tốt nhất và cao nhất trong sản
xuất, sản xuất nhiều hơn bất cứ người nào khác. Dĩ nhiên, đó không phải
là một câu chuyện mới …
-
Hiện nay, trên vai quân đội của chúng ta đang gánh vác một nhiệm vụ
lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của chúng ta, trong khi cùng lúc bảo vệ
hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng của
bè lũ phản động Trung Quốc không thể thực hiện được nữa, sẽ là lợi ích
của cả thế giới. Việt Nam có thể làm điều này. Việt Nam có 50 triệu
người rồi. Việt Nam có những người bạn Lào và Campuchia và có địa thế
vững chắc. Việt Nam có phe [XHCN] và tất cả nhân loại đứng về phía ta.
Rõ ràng là chúng ta có thể làm điều này.
…
Các đồng chí có biết người nào trong đảng chúng ta, trong nhân dân của
chúng ta, nghi chúng ta sẽ thua Trung Quốc? Dĩ nhiên là không có ai cả.
Nhưng chúng ta phải duy trì các mối quan hệ bạn bè của chúng ta. Chúng
ta không muốn hận thù dân tộc. Tôi lặp lại: tôi nói điều này bởi vì tôi
chưa bao giờ cảm thấy căm thù Trung Quốc. Tôi không cảm thấy như thế. Đó
là họ đánh chúng ta.
Hôm
nay tôi cũng muốn các đồng chí biết rằng trong thế giới này, người đã
bảo vệ Trung Quốc là chính tôi! Đó là sự thật. Tại sao vậy? Bởi vì trong
hội nghị tháng 6 năm 1960 tại Bucharest, 60 đảng đứng lên chống lại
Trung Quốc, nhưng chỉ có mình tôi là người bảo vệ Trung Quốc. Việt Nam
chúng ta là thế. Tôi sẽ tiếp tục lặp lại điều này: Tuy họ cư xử tồi tệ,
chúng ta biết rằng người của họ là bạn của chúng ta. Về phía chúng ta,
chúng ta không cảm thấy xấu hổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, âm mưu của một
số lãnh đạo (Trung Quốc) là một vấn đề khác. Chúng ta coi họ chỉ là một
bè lũ. Chúng ta không nói tới đất nước họ. Chúng ta không nói người dân
Trung Quốc xấu với chúng ta. Chúng ta nói bè lũ phản động Bắc Kinh. Tôi
nói lại điều này một lần nữa một cách nghiêm túc như thế.
Vì
vậy, chúng ta hãy kiểm soát tình hình chặt chẽ, trong tư thế sẵn sàng
chiến đấu, và không bao giờ nới lỏng sự cảnh giác. Về mối quan hệ với
Trung Quốc cũng vậy. Tôi tin rằng trong 50 năm, hoặc thậm chí trong 100
năm, chủ nghĩa xã hội có thể thành công, và lúc đó chúng ta sẽ không bị
vấn đề này nữa. Nhưng sẽ mất một thời gian [dài] như thế. Vì vậy, chúng
ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương diện.
Hiện
nay, chắc chắn không ai còn nghi ngờ nữa. Nhưng cách đây năm năm, tôi
dám chắc rằng [không có] đồng chí nào nghi ngờ Trung Quốc có thể đánh
chúng ta. Nhưng có. Đó là vì các đồng chí [này] không có kiến thức về
vấn đề này. Nhưng đó không phải là trường hợp của chúng tôi (Lê Duẩn và
ban lãnh đạo). Chúng ta biết rằng Trung Quốc đã và đang tấn công chúng
ta [cách đây] mười năm hoặc hơn. Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên [về
cuộc tấn công của Trung Quốc vào tháng 1 năm 1979].
Ngọc Thu, dịch từ: Wilson Center.
Nhãn:
LÊ DUẨN,
QUAN HỆ VIỆT-TRUNG
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)
