Thứ Hai, 22 tháng 3, 2021

“Quốc sách ấp chiến lược” - một sản phẩm chính trị thâm độc của Ngô Đình Nhu tan theo số phận của gia đình họ Ngô

Nguyễn Đắc Xuân

http://sachhiem.net/NDX/NDX018.php

ngày 19 tháng 8, 2010

Sau Hiệp Định ngừng bắn Genève 1954, chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam, được Hoa Kỳ viện trợ, yên ổn trên năm năm. Đến năm 1960, Mặt trận Giải phóng miền Nam VN ra đời và không ngừng phát triển, Nam Việt Nam trở thành 1 trong 10 khu vực thử thách và là khu vực thử thách đầu tiên của chiến lược toàn cầu mới của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ thấy phải tăng cường chiến tranh để chống lại Phong trào giải phóng đang bùng lên. Ngày 29-4-1961 Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ phê duyệt "Kế hoạch chống nổi dậy". Kế đến nhiều phái đoàn nghiên cứu của Mỹ bay sang Việt Nam: Phái đoàn phó tổng thống Mỹ Johnson (5-1961), phái đoàn Tiến sĩ Staley thuộc Viện nghiên cứu Stanford (6-1961), phái đoàn của Taylor và Rosow trong bộ quốc phòng Mỹ (10-1961)..... Sau đó kế hoạch Staley - Taylor ra đời. Kế họach nầy có tham vọng giải quyết chiến tranh VN với 3 giai đọan:

Giai đoạn 1 thực hiện từ giữa năm 1961, nội dung chủ yếu là bình định miền Nam bằng biện pháp “Ấp chiến lược” (Strategic Hamlets).

Giai đoạn 2 thực hiện từ đầu năm 1963, khôi phục kinh tế, tăng cường lực lượng quân đội, hoàn thành công cuộc bình định.

 Giai đoạn 3 thực hiện đến cuối năm 1965, phát triển kinh tế, ổn định miền Nam và kết thúc chiến tranh.

Kế hoạch được mở đầu và có ý nghĩa quyết định ở giai đoạn 1 là thực hiện cho được “quốc sách Ấp chiến lược”. Đó vừa là mục tiêu cơ bản, biện pháp chiến lược, vừa là kế sách trước mắt và lâu dài để giành thắng lợi trong chiến tranh ở Việt Nam.

1. “Quốc sách Ấp Chiến Lược” (ACL)

Ngày 3-2-1962, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký Sắc luật 11/TTP, thiết lập Ủy ban Trung ương Đặc trách ACL, Ủy ban họp mỗi tuần 1 lần, do Cố vấn Ngô Đình Nhu giữ chức Chủ tịch, Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương giữ chức Tổng thư ký, Ủy viên gồm các bộ Quốc phòng, Nội vụ, Giáo dục, Công dân vụ, Canh nông v.v. và nhiều cán bộ cao cấp quân dân chính (1) (Chính Đao, Việt Nam Niên biểu 1939-1975, Tập I-C : 1955-1963, Nxb Văn Hóa tại Houston TX 2000, tr. 251). Trụ sở đặt trong ba phòng ở đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn). ACL là quốc sách của chính quyền anh em nhà họ Ngô. Với quốc sách ACL Mỹ và VNCH lúc đó dự định sẽ xây dựng 17.000 ấp, gom khỏang 10 triệu dân nông thôn, có thể bình định được vùng nông thôn Miền Nam Việt Nam trong vòng 18 tháng.

Ngày 23-3-1962, Sài Gòn phát động chính sách ACL. Thí điểm đầu tiên là khu vực Bến Cát (Bình Dương) tức chiến dịch Mặt trời mọc (Sunrise). Người phụ trách chương trình ACL nầy là  Albert Phạm

Ngọc Thảo. Chỉ huy tổng quát là tướng Văn Thành Cao (2) (Chánh Đạo, Việt Nam Niên biểu 1939-1975, Tập I-C : 1955-1963, Nxb Văn Hóa tại Houston TX 2000, tr. 251)

Dân quê bị lùa vào "Ấp Chiến Lược" 

 Mỗi ACL được bao quanh (thường gồm ba hào, hai thành cài chông mìn, dây thép gai), có từ một đến nhiều chòi canh có tầm nhìn xa, có thiết lập hệ thống báo động để phát hiện mọi trường hợp xâm nhập bí mật, ban đêm các cổng chính ra vào được đóng lại. Việc quản lý Ấp do một Ban trị sự phụ trách, việc phòng thủ bảo vệ Ấp do lực lượng Phòng vệ dân sự phối hợp với các đơn vị Thanh niên, Thanh nữ Cộng Hòa của Ấp sở tại phụ trách. ẤCL được tổ chức theo phương thức tự quản, tự phòng. nhằm tách rời du kích của lực lượng Giải phóng miền Nam ra khỏi dân nông thôn, cô lập du lích và cơ sở cách mạng để tiêu diệt hay kêu gọi chiêu hồi.

  “Quốc sách ACL” là một mô hình bình định nông thôn do Anh quốc thực hiện thành công ở Malaixia. Robert Thompson - chuyên gia quân sự về chống du kích,  được mời sang Nam Việt Nam làm cố vấn xây dựng ACL. Tháng 4-1962, quốc hội VNCH tuyên bố chương trình Âp chiến lược là một "quốc sách chống cộng".

Để có tiền thực hiện “Quốc sách ACL”, ngày 21-8-1962, Hoa Kỳ đã ký kết với Chính phủ Diệm sẽ mua 10 triệu Mỹ kim tiền VNCH theo hối suất tự do, để VN có tiền tài trợ các dự án về Ấp Chiến Lược và giúp đỡ đồng bào Thượng tỵ nạn (3) (Đoàn Thêm, sđd. tr.328) Để cho Hoa Kỳ thấy hiệu quả của ngân sách Hoa Kỳ bỏ ra cho VNCH, ngày 30-9-1962 chính phủ Ngô Đình Diệm tuyên bố đã có 1/3 Tổng số thôn ấp biến thành ALC (4) (Chính Đạo,  sđd. Tr. 261) Dưới áp lực của Cố vấn Ngô Đình Nhu, ngày 10-10-1962, Phong trào Nhân Dân tái thiết dinh Độc Lập quyên được hơn 19 triệu, phải dành 10 triệu cho ALC (5) (Đoàn Thêm, sđd. tr.331)

Ngày 26-3-1963, Ngô Đình Nhu chủ trì lễ khánh thành Trại “Nhân, Trí, Dũng” ở trung tâm huấn luyện cán bộ ACL tại suối Lồ Ô (6) (ĐoànThêm, sđd. tr.343). Để thấy sự quan trọng của “quốc sách ACL”, ngày 16-4-1963 tại Trại "Nhân, Trí, Dũng" (suối Lồ Ồ),  Ngô Đình Nhu đã chủ trì khóa học 11.

"Bộ trưởng Công dân vụ báo cáo về thành phần dự khóa 11 huấn luyện CB/XDACL gồm các thành phần sau:

-1/ cán bộ cao cấp trung ương, từ cấp Chánh sự vụ trở lên, mỗi bộ năm người. Riêng Bộ ngọai giao có thể cử nhiều hơn;

-2/ một số tỉnh trưởng, quận trưởng chưa thụ huấn, 60 sĩ quan thuộc bộ TTM, 133 sĩ quan khóa I Tâm lý chiến

-3/ Ngoài ra còn có ông luật sư Trần Văn Khiêm (7) (Trần Văn Khiêm, em ruột của Trần Thị Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu) tình nguyện theo học nữa (8) (Intra Ministry Committee for Strategic Hamlets" , Douglas Pike Collection: Other Manuscripts , TexasTech University. Trích lại của Hữu Nghị: và cuộc đảo chính Diệm Nhu:Nhu va Ấp chiến lược.)

Nhiều giáo sư, giảng viên Đại học Huế đã có mặt trong khóa học nầy. Cũng nhờ qua khóa học ấy mà đa số các giáo sư, giảng viên Đại học Huế thấy được âm mưu phá họai lịch sử văn hóa tôn giáo truyền thống Việt Nam như thế nào. Nhiều người “tốt nghiệp”khóa học ấy đã về Huế tham gia Phong trào thanh đấu chống chế độ gia đình trị họ Ngô từ tháng 5 cho đến đầu tháng 11-1963. (nguồnđã dẫn ở trên(Nguồn: "Intra Ministry Committee for Strategic Hamlets" , Douglas Pike Collection: Other Manuscripts , Texas TechUniversity). Trong thời gian đang diễn ra khóa học ACL lần thứ 11, ngày 17-4-1963, nhân viên Phủ Tổng Thống khánh thành ACL Bình Hưng gần Phú Lâm, do Chi đòan Công chức bảo trợ (9) (Đoàn Thêm, sđd tr.345) các học viên khóa học có dịp thấy nhãn tiền tham vọng biến miền Nam trở thành “tiền đồn chống Cộng, chống văn hóa truyền thống VN” của anh em nhà họ Ngô. .

Từ khi thực hiện “Quốc sách ACL”, hành quân càn quét lập ấp chiến lược trở thành hoạt động chủ yếu nhất của quân đội VNCH, sôi nổi nhất trong những năm 1962 - 1963. Tính đến cuối năm 1962 đã có gần 4.000 cuộc hành quân càn quét phục vụ cho chương trình ACL, trong đó có nhiều cuộc càn quét quy mô lớn như "Chiến dịch mặt trời mọc", "Chiến dịch Bình Tây", "Chiến dịch Sao Mai", "chiến dịch Thu Đông"... Đến cuối năm 1962 đầu năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên bố đã xây dựng được 9.095 ấp, gom giữ được khoảng 8 triệu dân.

2. “Quốc sách Ấp Chiến Lược”mong manh

“bùa hộ mạng” của Ngô Đình Nhu

Với kết quả được báo cáo như thế, Cố vấn Ngô Đình Nhu rất tự hào về thành tích ấy. Nhưng Ngô Đình Nhu không được cơ sở báo cáo rằng hằng đêm đã có bao nhiêu ACL đã bị phá, có bao nhiêu ACL do người của Mặt trận Giải phóng tổ chức, chỉ huy, ví dụ như trường hợp Albert Phạm Ngọc Thảo ở ấp thí điểm Bến Cát (Bình Dương) nói trên.

http://vietnamaaa.numeriblog.fr/congsan/2009/06/li%C3%AAn-th%C3%A0nh-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-b%E1%BB%8F-qu%C3%AAn-l%E1%BB%8Bch-s%E1%BB%AD.html

Mô hình tổng quát ấp chiến lược (ảnh history.sandiego.edu)

Sự thực thì việc xây dựng các ACL rầt mất thì giờ, rất tốn kém nhưng “kết quả” không như Nhu tưởng. ACL không giúp gì cho việc hành quân chống Cộng của quân đội mà ngược lại, miền Nam càng có nhiều ACL càng phát sinh nhiều đồn bót buộc quân đội VNCH phải thêm nhiệm vụ bảo vệ. Do đó quân đội VNCH rất lơ là với “quốc sách ACL”. Ngô Đình Nhu rất ưu tư vấn đề nầy.

Biên bản một cuộc họp của Ủy ban liên Bộ về ACL, ngày 2-3-1963, ghi lại nội dung thuyết giảng của Nhu về "quốc sách ACL" như sau:

"Tôi chỉ yêu cầu vùng, tiểu khu để ý đến những vùng lập ACL, chớ không phải chỉ lo cho ACL mà thôi. Vì dù có lập ACL hay không, bao giờ địch tập trung tấn công, thì quân đội cũng phải đối phó cả. Ủy ban ACL chỉ yêu cầu quân đội hai việc: một là đặc biệt cảnh giác vùng lập ACL; hai là đuổi địch đừng để cho địch tập trung đại đơn vị trong vùng lâp ACL được. ACL được thành lập sẽ chắc chắn làm nhẹ đi trách nhiệm của quân đội. Trước đến giờ, hành quân là tìm địch. Tìm không được, thì trở về, địch hoat động trở lại. Mình đi nhiều, địch phân tán hết. Mình đi ít, địch phục kích. Như vậy, dầu nhiều hay dầu ít, hành quân cũng bất lợi, vì tốn kém, mỏi mệt, ít khi thành công xứng đáng với cố gắng của quân đội". (nguồn: đã dẫn ở trên, trích lại của Hữu Nghị).

Ý kiến của Ngô Đình Nhu không được thực hiện như Nhu muốn, do đó trong cuộc họp ngày 12-4-1963 Nhu đã phê phán gắt hao Ủy ban liên bộ như sau:

- "Tôi nhận thấy việc tiếp viện cho các ACL bị VC tấn công không được thực hiện đúng mức và kịp thời. Các tỉnh phải liên lạc thường xuyên bằng vô tuyến với các quận để thông báo tin tức cho nhau đề cảo cảnh giác, đồng thời cấp quận cũng phải liên lạc luôn luôn với các ACL để hỏi biết tình hình, tin tức và đốc xuất họ đề cao cảnh giác, nhất là về ban đêm và các ngày nghỉ lễ, chiều thứ bảy, ngày chủ nhật. Thường, tôi thấy các địa phương còn thiếu ý thức cảnh giác, nhất là trong những ngày nghỉ, vì vậy tội yêu cầu các ông tỉnh trưởng, quận trưởng phải cố gắng làm việc nhiều hơn trong những ngày đó. Nếu cần nghỉ, thì nghỉ vào những ngày khác trong tuần, để tránh qui luật cố định mà địch có thể lợi dụng" (Trong một cuộc họp ngày 16-9-1963, Cố vấn  Ngô Đình Nhu đã nổi nóng với các tướng tá VNCH rằng:

"Sau mỗi lần VC tấn công một ấp chiến lược (ACL), tôi yêu cầu các Khu chiến thuật và cấp tỉnh, quận tổ chức hành quân trả đũa tức thới. Vấn đề này tôi đã đề cập nhiều lần nhưng chưa thấy các nơi tích cực thi hành. Nếu ta không hành quân trả đũa, thì đương nhiên ta khuyến khích địch tấn công mạnh các ACL. Tôi cũng nhận thấy bên quân đội không chú trọng nhiều tới việc yểm trợ công tác xây dựng ACL".

Tối 18-9-1963, Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge mời cơm Cố vấn Ngô Đình Nhu và Bộ trưởng ngoại giao Trương Công Cừu. Trong điện tín đánh đi trưa hôm sau về Bộ ngọai giao Hoa Kỳ, Cabot Lodge có nhận xét: "Nhu nói thật nhiều, lập đi lập lại rằng y đã sáng tạo ra các ACL, rằng ai cũng bảo, kể cả người Mỹ, rằng y sẽ không làm nổi được đâu, song y vẫn đã làm được" (nguồn: FRUS, vol.IV, 129). Cabot Lodge viết như thế có nghĩa là Nhu muốn chứng tỏ cho Hoa Kỳ biết không ai có thể thay thế Nhu trong công cuộc “chống Cộng” ở miền Nam Việt Nam. Rõ ràng Nhu muốn lấy  “Sự thành công” của “Quốc sách ACL” làm cái bùa hộ mạng cho mình. Và, ACL  cũng là sự nghiệp chính trị lớn nhất của “Cố vấn Ngô Đình Nhu”.

3. Giải tán quốc sách Ấp Chiến Lược - lời chê tiếng khen

Quốc sách ACL biến những làng quê trở thành đốn bót quân sự sẵn sàng chiến đấu, những làng nào không thuận tiện biến thành làng chiến đấu thì phải dọn đến những nơi thuận tiện, bỏ hết nhà thờ họ, đình chùa, miếu mạo mang truyền thống văn hóa Việt ra đời từ thuở sinh cơ lập nghiệp và có thể thay vào đó một ngôi nhà thờ Thiên chúa giáo. Quốc sách ACL là một quốc sách phản dân (10) (Mười tám năm sau vụ đảo chính Diệm - Nhu. William Colby, nguyên giám đốc CIA, người đã từng làm trưởng luới CIA tại miền Nam từ năm 1959, trong một cuộc phỏng vấn dành cho chương trình "Phỏng vấn sử học " của thư viện Lyndon Baines Johnson ngày 2-6-1981 đã phát biểu: "Tôi nghĩ rằng đó là một sai lầm của trào Diệm - Nhu khi nhấn mạnh đến ACL. Do lẽ ACL không phải là một bộ phận truyền thống của chính quyền. Nhu đã góp phần vào tư duy ACL đó, Nhu không muốn bộ máy quyền lực truyền thống trong làng mạc tồn tại. Lẽ ra Nhu nên giữ lại bộ máy quyền lực cổ truyền này".) (Trích lại của Hữu Nghi). (Do đó, tướng Dương Văn Minh sau khi đã triệt hạ được gia đình họ Ngô, vào ngày 9-3-1964 ra tiếp Sắc luận 103/SL/CT  “giải tán” cái gọi là “quốc sách ấp chiến lược” để cho dân lập lại làng quê cũ hay về lại làng quê đã bị  bắt buộc phải  ra đi.

Đồng bào nổi dậy đập tan hàng loạt ấp chiến lược của địch

Chủ trương nầy của Dương Văn Minh đã giúp cho dân chúng nông thôn phá rã hàng ngàn ấp chiến lược. Không những dân quê đứng lên phá ACL, ngay sinh viên Đại học Huế cũng đã tổ chức thành nhiều nhóm về các vùng nông thôn, nhân danh “chống dư đảng Cần lao” triệt hạ bộ máy cai trị ở làng xã ra đời thừ thời Diệm Nhu, phá các ACL, lập nên chính quyền “thân dân” ở nông thôn chung quanh Huế. Người đứng đầu Phong trào nầy là sinh viên Luật Nguyễn Thiết, sinh viên Cao đẳng Mỹ Thuật Lê Minh Trường, Sinh viên văn khoa Lê Mạnh Trinh…Phong trào phá Ấp chiến lược ở vùng nông thôn Thừa Thiên Huế đã góp một phần quan trọng cho Phong trào đồng khởi của Mặt trận Giải phóng Thừa Thiên năm 1964. 

 Linh mục Cao Văn Luận- nguyên Viện trưởng Viện Đại học Huế, một trí thức phò Ngô, đã phê phán Sắc luật giải tán ACL của Dương Văn Minh như sau:

Tôi lại nghe một tướng lãnh cầm đầu phe Cách-Mạng (tức Trung tướng Dương Văn Minh) tuyên bố rằng ấp chiến lược không cần thiết, không ích lợi, những hàng rào quanh  Ấp chiến lược là hàng rào nhà tù.

 Không cần ông phải ký sắc lệnh cho phép dân chúng phá các hàng rào Ấp Chiến lược thì các cán bộ nằm vùng của Cộng sản cũng dựa lời tuyên bố vội vàng hớ hênh đó, giải thích sai lạc thêm lời tuyên bố đó, để mở ra một phong trào phá bỏ Ấp chiến lược, gỡ rào, san bằng hào lũy giải giới thanh niên chiến đấu. Nhiều Ấp chiến lược trước đây lập được những thành tích ngăn chận Cộng sản hữu hiệu, nay thanh niên chiến đấu và cán bộ công dân lo sợ bị tân chế độ đàn áp bắt bớ, vứt súng bỏ trốn, bỏ ngỏ các Ấp chiến lược cho du kích Việt Cộng và các cán bộ nằm vùng. Việt Cộng xúi dân nổi lên phá rào, san lũy, giải giới thanh niên chiếm đấu, mở ngỏ đón bọn Cộng sản nằm vùng. Nhiều Ấp chiến lược kiểu mẫu, qui tụ phần lớn giáo dân trở thành nạn nhân đầu tiên của phong trào sai lầm này” (11) (LM.Cao Văn Luận, Bên giòng lịch sử, Hồi ký 1940-1965, Nxb Trí Dũng, SG 1972, tr.381)

Trong buổi lễ “Tưởng niệm cố Đại tướng Dương Văn Minh” tổ chức tại Chùa Việt Nam (Los Angeles) vào ngày 18.9.2001, ông Đỗ Mậu - người cùng với tướng Dương Văn Minh tổ chức lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm tháng 11-193, tác giả hồi ký Việt Nam máu lửa quê hương tôi đã đọc bài “Khóc Dương Văn Minh” gồm 10 trang in cở A4. Trong những ý nghĩ cuối đời, ông Đỗ Mậu cho rằng ông Dương Văn Minh “là một lãnh tụ sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng”. Đỗ Mậu viết:

Với tư cách Chủ Tịch Hội Đồng Cách Mạng ông (Dương Văn Minh) đã đưa ra hai quyết định mà chỉ có thời gian và chánh tình quốc tế mới chứng minh được ông là một lãnh tụ sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng. Đó là việc ông ra lệnh hạ sát hai ông Diệm Nhu và quyết định hủy bỏ “Quốc sách ấp chiến lược” (NĐX nhấn mạnh) vì chương trình này là những chủ trương vô cùng thâm độc. Anh em nhà Ngô và người Công giáo Việt Nam lấy lý do chống Cộng sản để xây dựng chương trình, nhưng mục đích thầm kín là để triệt hạ nền văn hóa dân tộc, xóa bỏ đạo thờ cúng ông bà, xóa bỏ đời sống xã hội theo truyền thống cổ truyền cha ông để lại…” (12) (Hoành Linh Đỗ MậuKhóc cố Đại tướng Dương Văn Minh, 10 trang in cở A4, trước khi qua đời tác giả gởi cho Nguyễn Đắc Xuân một bản sao)

“Quốc sách ACL” bị giải tán, giai đoạn 1 thực hiện từ giữa năm 1961, nội dung chủ yếu là bình định miền Nam bằng biện pháp “Ấp chiến lược” (Strategic Hamlets) của kế hoạch Staley - Taylor hòan tòan thất bại. Vì thế Mỹ và VNCH không thực hiện được giai đọan hai và giai đọan ba để giành chiến thắng, kết thúc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam vào năm 1965 như họ đã lập kế họach. Sự thất bại của quốc sách ACL mở đầu cho những thất bại lớn hơn về sau không phải vì thiếu tiền, thiếu kỹ thuật phòng thủ, thiếu phương tiện mà chính vì nó thiếu chính nghĩa, thiếu cái tâm, đi ngược lại với truyền thống văn hóa của dân tộc. Không chỉ các lực lượng giải phóng dân tộc phá các ACL để cứu dân mà cả những người dù ở bên kia chiến tuyến mà còn một chút thương dân ở đáy lòng cũng  phải hành động như thế. Đó là trường hợp của tướng Dương Văn Minh đúng 45 năm trước (1964-2009).      

Nguyễn Đắc Xuân, Gác Thọ Lộc, Tháng Một 2009

NDVN, ngày 8/2/09

 

VÀI ĐIỀU VỀ LIÊN THÀNH, TÁC GIẢ “BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG"


Nguyễn Đắc Xuân

http://sachhiem.net/NDX/NDX017.php

 ngày 25 tháng 11, 2009

Chủ nhật, 13 tháng 11, 2009, 18:49, tôi nhận được một e-mail của “Một người yêu Huế” với nội dung như sau:

Kính gửi nhà văn Nguyễn Đắc Xuân,

Tôi là một người dân Huế xa xứ, vì yêu Huế nên rất quan tâm đến những chuyện vui buồn của Huế. Vừa qua tôi có đọc bài viết “Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng của ông Liên Thành và sau đó là bài phản hồi của ông Hoàng Phủ Ngọc Phan trên trang web Lề Bên Trái. Tôi cũng theo dõi những trang web hải ngoại giới thiệu quyển sách Biến động miền Trung của Liên Thành và loạt bài “Liên Thành và mắm tôm” của Bảo Quốc Kiếm… Tuy vậy, vẫn còn một số chuyện mà tôi nghĩ rằng những người trong cuộc chưa nói hết. Được biết ông Nguyễn Đắc Xuân cũng là một trong số những người trong cuộc, là nhân chứng quan trọng – hơn nữa ông còn là nhà Huế học, rất am hiểu về các biến động lịch sử nói trên. Vậy tôi xin mạo muội gửi thư này kèm một số câu hỏi có liên quan đến ông, nhờ ông giải đáp giùm. Mục đích của tôi không phải vì hiếu kỳ mà vì muốn hiểu được sự thật, nên cũng mong được nghe ông nói những điều trung thực, với lương tâm và trách nhiệm của người cầm bút để ghi chép lịch sử, nhất là lịch sử thành phố Huế.

Xin hỏi:

1) Trong sách BĐMT, tại tr. 108, Liên Thành viết ông là bạn học của Liên Thành, xin ông cho biết lúc cùng học với ông, Liên Thành là người như thế nào? Những gì Liên Thành viết về nhân thân của ông có đúng không?

2) Nghe nói ông Liên Thành là học trò của nhà giáo Ngô Kha, có đúng không? Cho đến nay bà con ở Huế có ai biết thêm thông tin gì về cái chết của thầy Ngô Kha không?

3) Ngoài việc giết thầy Ngô Kha, Liên Thành có còn phạm thêm những tội ác nào nữa không?

Xin trân trọng cảm ơn và mong được hồi âm theo địa chỉ riêng hoặc trên một phương tiện truyền thông nào đó thì càng tốt.

Một người yêu Huế

Xin trả lời:

Vào khoảng tháng 4-2007, một nhà thơ bạn cũ của tôi, nguyên là công an Việt Nam Cộng hòa, cấp trên của Liên Thành đang ở San Jose (Cali) mail cho tôi biết Liên Thành, Chỉ huy trưởng BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, vừa khởi đăng trên một Website ở Hoa Kỳ loạt bài bôi bác Phong trào Đấu tranh chống Mỹ Vận động Hòa bình của Phật giáo và Sinh viên Học sinh Huế từ năm 1966 đến 1975, đề nghị tôi nên lên tiếng để bảo vệ sự thật. Lúc ấy tôi đang khẩn trương chuẩn bị báo cáo chuyên đề “Phong trào văn thơ âm nhạc vận động hòa bình những năm 1964-1966 ở miền Nam Việt Nam” với William Joiner Center (WJC) ở Boston nên tôi không thực hiện được lời đề nghị của anh bạn nhà thơ năm xưa. Đến tháng 5-2007, sau khi hoàn thành việc báo cáo ở WJC, ngồi ở Boston, tôi có dịp đọc loạt bài của Liên Thành với cái tít rất hấp dẫn “Biến động miền Trung – Những chuyện chưa ai nói” từ tập san Biệt Động Quân. Đọc chưa xong loạt bài đó thì hết hạn visa ở Mỹ, tôi phải về Việt Nam. Đến mùa Thu năm 2008, một anh bạn ở Houston (Texas), gởi tặng tôi cuốn Biến động miền Trung (BĐMT) của Liên Thành do tập san Biệt Động Quân xuất bản, (Westminster) tháng 5-2008, dày 440 trang, vì anh bạn đọc thấy trong sách này, Liên Thành đã dành nhiều trang viết về tôi. Rồi mới đây, hồi cuối Hè 2009, không biết ai đó ở bên Mỹ biết địa chỉ e-mail của tôi cũng đã gởi cho tôi bài “Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng” của Liên Thành lại cũng có nhiều “thông tin” liên quan đến tôi. Dù muốn dù không tôi cũng phải đọc hết cái mớ hổ lốn mà Liên Thành đã bịa đặt và phổ biến ở hải ngoại ấy. Nhưng tôi không động bút vì những lý do sau đây:

1. Tôi là một nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa hơi đâu đi phản biện Liên Thành, một người mà tôi biết rất rõ tông chi họ hàng, học hành thi cử, đạo đức, quá trình làm công an mật vụ tay sai cho Hoa Kỳ, tội ác gây ra cho người dân Huế từ năm 1966 đến 1975 và ngay cả sau năm 1975 ở Hoa Kỳ của anh ta.

2. Tôi tin gia đình những người được Liên Thành xếp loại “trong hàng ngũ quốc gia”, được ông “Cựu Thiếu tá Chỉ huy trưởng BCH/CSQG TTH” viết là “Việt cộng nằm vùng”, như Trung tướng Tổng cục trưởng Tổng cục Chiến tranh Chính trị Trần Văn Trung (hiện ở Pháp), Đoàn Công Lập, Trưởng ty Cảnh sát Huế, từng là cấp trên trực tiếp của Liên Thành, nhân viên Công an Mật vụ VNCH làm việc với Liên Thành như Lê Văn Thiện (hiện ở Cali) v.v… sẽ có ý kiến thẳng thắn với Liên Thành.

3. Thật tình tôi cũng không muốn đề cập đến Liên Thành vì cuộc đời học hành, đi dạy giờ, tranh đấu Phật giáo, nghiên cứu nhà Nguyễn, nghiên cứu Kỳ Ngoại hầu Cường Để với Phong trào Đông Du[1], tôi thân quen với quá nhiều người trong gia đình của Liên Thành như bác Tráng Đinh, con bác là Liên Phú (tức Thượng tọa Chơn Kim ở Đơn Dương, Lâm Đồng ngày nay), Liên Đàm (đã mất), như thầy Tráng Cử (làm giám thị thời tôi dạy giờ trường Bán Công Huế, (anh Nguyễn Ngọc Minh hiện ở San Jose còn nhớ), con thầy Tráng Cử là Liên Hương (Việt Kiều Canada, đã cùng tôi giúp thực hiện cuốn phim Theo dấu Ba Vua), Liên Mai (hiện đang giữ nhà thờ Cường Để ở 9 Tân Lăng, An Cựu Huế), Tôn Nữ Thạch Hà (hiện có nhà ở sát tường phía đông chùa Từ Đàm ngày nay), ông Liên Á (cháu đích tôn của cụ Cường Để, hiện ở Gò Vấp, TPHCM) v.v…

Tác giả Nguyễn Đắc Xuân với Liên Hương trước bàn thờ vua Duy Tân ở An Lăng (2008)

Nói đến Liên Thành là chọc vào cái vết thương đau của hậu duệ của Kỳ Ngoại hầu Cường Để thân quen của tôi nên tôi tránh.

Nhưng nay bạn hỏi riêng về những thông tin có liên quan đến nhân thân và một vài người bạn của tôi, nếu tôi không trả lời thì thông tin về tôi sẽ không đúng với sự thực, không đúng với những gì tôi đã và đang viết trong các bài mang tính hồi ký của tôi. Vậy tôi chỉ xin trả lời giới hạn trong phạm vi ấy. Những thông tin khác xin hẹn trong một dịp khác sẽ tiếp tục nếu hoàn cảnh và thời gian cho phép.

1. Liên Thành là bạn học của Nguyễn Đắc Xuân?

Tại trang 108, BĐMT, Liên Thành viết về Nguyễn Đắc Xuân như sau:

Thế nhưng định mệnh trớ trêu, bẵng đi vài năm, khi tôi từ đơn vị tác chiến về Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế, vào tháng 6 năm 1966, đảm nhiệm chức vụ Phó Trưởng ty Cảnh Sát Đặc Biệt, để dẹp loạn miền Trung, hai người tôi phải đối đầu là thầy, và thằng bạn học cũ từ thuở xa xưa vào năm lớp nhì, lớp nhất tại trường tiểu học Nam Giao và những năm kế tiếp tại trường Quốc Học, đó là Nguyễn Đắc Xuân. [Nguyễn Đắc Xuân sinh năm 1937 tại Huế, nhưng trên giấy tờ khai sanh là 1943, hắn gốc Quảng Nam. Thuở nhỏ học trường Tiểu học Nam Giao, gần chùa Từ Đàm, Xuân và tôi cùng học với hai Thầy là, thầy Bút và thầy Liên. Nhà Nguyễn Đắc Xuân ở cuối dốc Bến Ngự, nhà tôi ở đỉnh dốc Bến Ngự, cạnh chùa Từ Đàm. Nguyễn Đắc Xuân cựu học sinh Quốc Học 1956-1961, sinh viên Văn khoa và Đại học Sư phạm 1961-1966, ban Sử địa]

Trong hồ sơ cá nhân của thầy và của Nguyễn Đắc Xuân, cả hai đều hoạt động trong ban Trí vận của cơ quan Thành ủy Huế, trực thuộc Thành ủy viên Hoàng Kim Loan. Cả hai đều là những tay tranh đấu rường cột của Phong trào Tranh đấu Phật Giáo miền Trung của ông Trí Quang, từ tháng 3 năm 1963.”

1.1. Liên Thành viết: “vào tháng 6 năm 1966”,…. “hai người tôi phải đối đầu là thầy, và thằng bạn học cũ”.

NĐX bình luận: Cuối tháng 5-1966, khi Thiệu-Kỳ ra lịnh hai bạn Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan và tôi ra trình diện, sau đó hai bạn thoát ly ngay. Còn tôi vào ẩn trong chùa Kim Tiên, chùa Tường Vân và Đình Dương Xuân Hạ, đến đầu tháng 7-1966 thì Tường gởi thư bảo tôi ra chiến khu nghỉ một thời gian. Tôi đi. Tháng 6-1966 chúng tôi đâu còn tranh đấu ở Huế nữa để Liên Thành phải đối đầu? Có phải Liên Thành hư cấu thông tin đó để  thấy vai trò quan trọng của mình lúc ấy chăng?

1.2. Liên Thành viết: “Nguyễn Đắc Xuân sinh năm 1937 tại Huế, nhưng trên giấy tờ khai sanh là 1943, hắn gốc Quảng Nam.”

NĐX bình luận: Trong các sách đã xuất bản của tôi (như Kiến thức Triều Nguyễn và Huế xưa, tập IV), trên nhiều trang Web, tiểu sử của tôi được ghi rõ ràng. Tôi sinh năm 1937, nhưng theo dượng ghẻ sống trong rừng Phụng Sơn (Đà Lạt), không được đi học. Đến khi được đi học tôi phải khai trụt tuổi xuống thành sinh năm 1943. Chuyện nầy liên quan đến sự chênh lệch trong bằng cấp và lý lịch cán bộ của tôi hiện nay, tôi đã trình bày nhiều lần, không có gì bí ẩn cả. Tôi ở trong rừng Phụng Sơn do người Quảng Nam thành lập, tôi chơi thân với các bạn Quảng Nam, bị ảnh hưởng bạn nên nói giọng Quảng, chứ tôi không phải người Quảng Nam. Mẹ tôi người Thanh Hóa, cha tôi người Dã Lê Chánh, xã Thủy Vân, Hương Thủy, Thừa Thiên, ông bà sinh tôi ra khi cha tôi đang làm thủ quỹ cho Hãng buôn Morin Huế. Liên Thành nghe tôi nói giọng Quảng nên đoán mò cho tôi gốc Quảng Nam là quá sai.

1.3. Liên Thành viết: “Thuở nhỏ (NĐX) học trường Tiểu học Nam Giao, gần chùa Từ Đàm.”

NĐX bình luận: Tôi chỉ học Tiểu học hai năm (1952-1954) với thầy Võ Quang Khương (hiện đang sống ở Bảo Lộc, Lâm Đồng) và thầy Nguyễn Tri Bật (đã qua đời ở 30A Hương Sơn, Nha Trang) tại trường Đa Phước (nay là Trường Trại Mát), Đà Lạt. Tôi không hề học Trường Tiểu học Nam Giao bao giờ.

1.4. Liên Thành viết: “Xuân và tôi cùng học với hai Thầy là, thầy Bút và thầy Liên. Nhà Nguyễn Đắc Xuân ở cuối dốc Bến Ngự, nhà tôi (Liên Thành) ở đỉnh dốc Bến Ngự, cạnh chùa Từ Đàm.”

NĐX bình luận: Từ Tiểu học ở Đa Phước Đà Lạt (1952) cho đến năm đỗ Tú tài II ở Quốc học (1961), trong lớp tôi không hề có một người bạn học nào có tên là Liên Thành cả, và cũng không có thầy Bút, thầy Liên nào cả. Mấy năm Đệ Ngũ – Đệ Tứ (1956-1958) Quốc học, lớp tôi có bạn Liên Đàm con bác Tráng Đinh và cô Tạ Thị Hóa ở Vỹ Dạ mà thôi. (Hỏi ông cựu phi công quân sự Đặng Văn Âu từng học một lớp với tôi và Liên Đàm, hiện đang ở Mỹ sẽ rõ.) Trước năm 1975, gia đình tôi chỉ có một ngôi nhà rường của ông nội tôi (Chánh đội Nhạc chánh Nam Triều) để lại tại làng Dã Lê Chánh, xã Thủy Vân, chưa hề có một mái nhà nào ở Huế hoặc ở “cuối dốc Bến Ngự” cả. Vì thế ở làng Dã Lê đi học, gặp những ngày cuối năm mưa lụt tôi hay ở lại nhà của Liên Đàm, (TT Chơn Kim, tức Liên Phú, còn nhớ rõ). Vì thế Liên Thành viết “Nhà Nguyễn Đắc Xuân ở cuối dốc Bến Ngự” là chuyện không có thật, hoặc ai đó hư cấu viết giúp cho Liên Thành nên trật lất, hoặc Liên Thành không biết gì về tôi, mà muốn viết vu khống tôi nên không cần sự thật cứ dựng chuyện viết bừa để lừa bịp những người chưa biết tôi!

1.5. Liên Thành viết: “Nguyễn Đắc Xuân cựu học sinh Quốc Học 1956-1961, sinh viên Văn khoa và Đại học Sư phạm 1961-1966, ban Sử địa.”

NĐX bình luận: Liên Thành là “sếp” công an mật vụ của VNCH tại Thừa Thiên-Huế, đã “lập hồ sơ cá nhân” của Nguyễn Đắc Xuân, mà không biết Nguyễn Đắc Xuân là sinh viên Ban Việt Hán Đại học Văn khoa và cả Đại học Sư Phạm đến 5 năm (1961-1966) lại bảo Nguyễn Đắc Xuân là sinh viên “ban Sử địa” thì thật buồn cười. Nếu có ai chưa tin thì cứ điện thoại hỏi ông Nguyễn Lý Tưởng – dân Sử địa ngày xưa, hiện đang rất gần gũi với Liên Thành ở Hoa Kỳ sẽ được xác nhận ngay. Qua chi tiết nhỏ nầy không rõ trình độ công an mật vụ của Liên Thành thuộc cái cấp buôn làng thôn bản nào mà kém đến vậy. Các nhân viên CIA thầy của Liên Thành, nếu họ biết cậu học trò của mình kém đến vậy, chắc họ tiếc đã lỡ bỏ công dạy cho Liên Thành.

1.6. Liên Thành viết: “Trong hồ sơ cá nhân của thầy (tức Hoàng Phủ Ngọc Tường) và của Nguyễn Đắc Xuân, cả hai đều hoạt động trong ban Trí vận của cơ quan Thành ủy Huế, trực thuộc Thành ủy viên Hoàng Kim Loan”.

NĐX bình luận: “Trong hồ sơ cá nhân… của Nguyễn Đắc Xuân” là hồ sơ nào? Hồ sơ do Liên Thành – Chỉ huy trưởng BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế lập hay hồ sơ do ngành an ninh của chính quyền Thừa Thiên-Huế ngày nay lập? Nếu hồ sơ do Liên Thành lập thì khi chạy khỏi Huế sau ngày 26-3-1975, Liên Thành có đủ thì giờ để lục tìm và mang theo không? Và có đem hồ sơ đó sang Mỹ để tham khảo khi viết BĐMT không? Chắc chắn là không. Nếu là hồ sơ cá nhân của Nguyễn Đắc Xuân do ngành an ninh Thừa Thiên-Huế ngày nay lập thì làm sao Liên Thành có được để tham khảo? Trong lý lịch cán bộ của tôi cho đến nay vẫn ghi “Ngày tham gia cách mạng 10-7-1966” tức là ngày tôi ra chiến khu theo cái thư của bạn tôi là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cái mốc thời gian nầy rất quan trọng, nó liên quan đến thời gian tham gia Cách mạng trong lý lịch Đảng viên của tôi, liên quan đến lương bổng, không thể khai khác được. Nếu khai khác tôi phạm tội man khai lý lịch, sẽ bị kỷ luật ngay. Cho đến nay tôi chưa hề bị kỷ luật vì tội man khai lý lịch bao giờ. Lý lịch của tôi chính xác, rõ ràng. Do đó chuyện Liên Thành viết Nguyễn Đắc Xuân “hoạt động trong ban Trí vận của cơ quan Thành ủy Huế, trực thuộc Thành ủy viên Hoàng Kim Loan” là chuyện tưởng tượng, bịa đặt với ác ý kết tội tôi trong thời gian tranh đấu Phật giáo Nguyễn Đắc Xuân đã là cán bộ trí vận của Mặt trận Giải phóng rồi. Trong hồi ký của tôi, tôi đã viết rõ: Tôi chỉ gặp ông Hoàng Kim Loan trên đường tôi ra chiến khu ngày 10-7-1966 mà thôi.     

Tóm lại, chuyện học hành, tranh đấu, viết lách của tôi và tiểu sử của tôi công khai trên báo chí trong và ngoài nước mấy chục năm qua như thế, tôi cũng đang sống sờ sờ ở Huế đây, nhiều trang Web trong và ngoài nước luôn cập nhật các bài viết của tôi, thế mà Liên Thành dám mạo nhận là bạn học của tôi, hư cấu thông tin về nhân thân của tôi sai 100% như thế, thật quá liều. Chuyện thật về tôi ai cũng có thể kiểm chứng được mà Liên Thành dám phịa ra như thế, thì thử hỏi những bí ẩn chính trị, lịch sử liên quan đến những người đã chết mà Liên Thành tung ra trong BĐMT có được bao nhiêu phần trăm sự thật? Phải chăng 0 %?

2. Hỏi: “Nghe nói ông Liên Thành là học trò của nhà giáo Ngô Kha, có đúng không? Cho đến nay bà con ở Huế có ai biết thêm thông tin gì về cái chết của thầy Ngô Kha không?”

Trả lời: Liên Thành nguyên là học trò của Ngô Kha, đã công nhận với nhiều bạn bè của ông. Theo ông Lê Quang X. (PA 25, người khai thác can phạm sau năm 1975, nay đã hưu trí), cho biết hồ sơ can phạm khai còn lưu tại Công an Thừa Thiên-Huế thì vào khoảng đầu năm 1973, hai mật vụ Lê Đình Liên và Nguyễn Đình Cáp đi giám thị bằng Honda 67 thì gặp nhà thơ Ngô Kha mặc áo măng-tô trắng, đầu đội mũ phớt đi qua cầu Gia Hội. Liên và Cáp đón đầu Ngô Kha và yêu cầu Kha lên xe. Kha không chút ngạc nhiên bèn hỏi: “Lên xe nào?” Liên đáp: “Xe 67 nầy.” Kha trèo lên xe. Chiếc xe 67 chở ba vụt chạy về gặp Thiếu úy Trưởng G đặc biệt Dương Văn Sỏ tại nhà riêng ở Nguyễn Thị Giang (bên cạnh quán Bar Why not, 21 Võ Thị Sáu, Huế ngày nay). Sỏ nói: “Để tau ăn cơm xong rồi sẽ đi báo ôn.” Ăn xong Sỏ đi báo với Trương Công Ân và Ân báo với Liên Thành. Kết quả các nhân viên mật vụ vừa bắt Ngô Kha nhận được chỉ thị của Liên Thành “1.000 năm mây bay”. Đến 4 giờ chiều Ngô Kha vẫn còn ở Ty thẩm vấn. Ân đến hỏi bọn Sỏ: “Sao chưa hành động?” Chúng nói trời chưa tối. Đến tối mấy đứa Sỏ, Nghệ, Liên, Cáp chở Ngô Kha về hướng Thuận An, lấy búa đánh Kha chết ngay tại Mỹ An rồi trùm bao bố thả xuống hói gần đó. Bọn chúng báo cáo với Liên Thành: “1.000 năm…” xong và đã giải quyết ở Mỹ An. Liên Thành chửi: “Chúng bây quá ngu, như rứa dân chúng biết răng? Đi vớt lên, kiếm chỗ chôn cho thật kín đáo ngay.”

Nhà thơ Ngô Kha (1935-1973)-thầy giáo của Liên Thành (Ảnh tư liệu của tác giả)

Theo gia đình các ông bác trong họ Ngô của Ngô Kha, cùng lứa tuổi và ở gần nhà Ngô Kha (30 Lê Đình Chinh, P. Phú Hiệp ngày nay)[2], bổ sung thêm một vài chi tiết cụ thể hơn:

Hai tên mật vụ Lê Đình Liên và Nguyễn Đình Cáp phát hiện Ngô Kha qua cầu Gia Hội và vào nhà 42 Bạch Đằng – nhà của bà quả phụ Ngô Giu[3], chị dâu của Ngô Kha, chúng sục vào nhà bắt Ngô Kha. Bà Ngô Giu là công chức biết rõ luật lệ bèn hỏi:

“Các ông bắt người phải có lệnh của cấp có trách nhiệm chớ?”

Hai tên mật vụ ú ớ rồi để một tên ở lại canh giữ Ngô Kha và một tên chạy lấy lệnh của Liên Thành. Trong lúc chờ đợi bà Ngô Giu bảo Ngô Kha:

“Chú trèo tường phía sau nhà trốn đi. Để chị lo đối phó với mấy người ấy.”

Ngô Kha không đồng ý nên trả lời chị:

“Em làm việc chính đại quang minh. Có việc gì phải trốn. Cứ để cho chúng bắt!”

Quả nhiên sau đó chúng đem lệnh bắt Ngô Kha do Liên Thành ký đến và bắt Ngô Kha đem đi. Ngô Kha mất tích từ đó.

Họ hàng của Ngô Kha cũng cho biết: Theo lệnh của Liên Thành, xác của Ngô Kha được vớt lên khỏi bờ hói ở Mỹ An đem lên bỏ nằm chết trần truồng trong phòng thẩm vấn. Không rõ từ nguồn tin nào, ông Phạm Bá Nhạc, Phó Công an quận Hương Thủy, biết chuyện ấy rất đau đớn. Ngô Kha có một người chị là mẹ kế của Phạm Bá Nhạc. Dù sao trên danh nghĩa Ngô Kha cũng là cậu của Nhạc. Nhạc liền lên Huế xin Liên Thành một ân huệ cho phép Nhạc mua cho Ngô Kha một cái săng. Liên Thành đồng ý với điều kiện phải giữ tuyệt đối bí mật. Nếu để lộ Nhạc sẽ bị giết ngay. Nhạc cam kết sẽ giữ bí mật tuyệt đối. Ngô Kha được táng ở cồn mồ phía nam Huế. Để giữ mạng sống của mình, Nhạc không dám hé môi ngay với bà Cao Thị Uẩn, thân mẫu của Ngô Kha. Sau 1975, Phạm Bá Nhạc đi học tập. Nhiều năm sau nầy, trước khi đi HO, Nhạc có nói nhỏ cho gia đình biết Ngô Kha đã chết vào ngày 27 tháng Chạp năm Nhâm Tý (nhằm ngày 30-1-1973) chứ không phải ngày 25 tháng Chạp như gia đình và bạn bè của Ngô Kha thường tổ chức kỵ trong mấy chục năm qua. Còn xác Ngô Kha được táng cụ thể chỗ nào thì vẫn còn trong vòng bí mật.

Gần đây, đối chiếu từ nhiều nguồn tư liệu, tôi đã khoanh vùng được nơi táng Ngô Kha ở cồn mồ làng An Cựu. Sau năm 1975 cồn mồ đó đã bị giải tỏa san lấp để dựng xí nghiệp Gỗ Hương Giang, nay là khu kho ngoại quan phía sau trạm xăng dầu gần Bến xe phía Nam. Xác của giáo sư, nhà thơ Ngô Kha được vùi lấp cụ thể vào tọa độ nào, hay còn nằm dưới đất vùng kho ngoại quan, hay đã được dời đi đâu v.v… là những câu hỏi ám ảnh chúng tôi, những người bạn, những người học trò và gia đình Ngô Kha trong mấy chục năm qua. Không trả lời được những câu hỏi nầy, chúng tôi thật không dám ngẩng đầu nhìn anh khi gặp lại ở chốn vĩnh hằng. Chúng tôi đang có kế hoạch nhờ nhà ngoại cảm Bích Hằng (Hà Nội) chỉ hộ. Nhưng nhân đây tôi có lời khẩn thiết gởi đến các ông từng làm việc dưới trướng Liên Thành biết rõ đầu đuôi cái chết của Ngô Kha như Lê Văn Thiện, Dương Văn Sỏ (có tin đã qua đời), Trương Công Ân,  Phạm Bá Đạt, Lê Đình Liên, Nguyễn Đình Cáp, Hồ Đình Chi v.v… đang ở Hoa Kỳ hãy cởi bỏ mọi hận thù, bố thí một chút từ tâm chỉ cho gia đình Ngô Kha[4] và họ Ngô ở Thế Lại và chúng tôi biết Ngô Kha đã được chôn lấp nơi đâu để chúng tôi đến đó dựng cho Ngô Kha một tấm bia và hằng năm đến ngày 27 Tết, đến thắp cho hương hồn Ngô Kha một nén hương. Mong lắm thay.

3. Hỏi: Ngoài việc giết thầy Ngô Kha, Liên Thành có còn phạm thêm những tội ác nào nữa không?”

Trả lời: Vì giới hạn của một  lá thư trả lời bạn đọc, tôi chỉ xin kể thêm một tội ác nữa của Liên Thành sau đây:

Biết tôi là người nghiên cứu về cụ Cường Để, mỗi lần gặp tôi anh Hà Thúc Quyết (bà con với ông Hà Thúc Ký, Đảng trưởng Đảng Đại Việt) hay kể chuyện người cháu nội của cụ Cường Để là Liên Thành, sếp công an mật vụ ở Huế cuối những năm sáu mươi đầu những năm bảy mươi. Quyết kể nhiều chuyện Liên Thành ác dã man. Tôi tường thuật lại sau đây một chuyện: Chuyện Liên Thành chặt đầu một người bạn thân trốn ở Thủy Bằng hồi mùa Hè năm 1968.

Theo Hà Thúc Quyết, người biết rõ chuyện chặt đầu bạn ấy của Liên Thành là bác sĩ Hà Công Lương (hiện đang định cư ở Nam California). Nghe kể nhiều lần nhưng tôi không dám tin. Rồi một hôm, vô tình tôi gặp cả Hà Thúc Quyết và Hà Công Lương ở quán cà-phê Sơn bên bờ sông Hương, tôi hỏi trực tiếp Hà Công Lương chuyện Liên Thành chặt đầu bạn thực hư như thế nào. Hà Công Lương khẳng định chuyện ấy có thực.

 

Di ảnh Hồ Đăng Lương, bạn rất thân của
Liên Thành ngày xưa
(Ảnh tư liệu của tác giả)

Qua thông tin của Hà Thúc Quyết, Hà Công Lương, tôi gặp cô Hồ Thị Châu, em ruột Hồ Đăng Lương, ở Huế, để phối kiểm lại các nguồn thông tin tôi đã nghe kể. Xin tóm tắt sự kiện đã được phối kiểm như sau:

Hồi đầu những năm sáu mươi thế kỷ trước, Hồ Đăng Lương ở Thôn Dương Xuân Thượng 1 (bên phải đàn Nam Giao), có hai người bạn cùng học Trường Tiểu học Nam Giao là Hà Công Lương và Liên Thành. Nhà của Hồ Đăng Lương khá, ông bà Hồ Đăng Duyên và bà Thái Thị Sen lại rất quý bạn của con. Vì thế Hà Công Lương và Liên Thành hay ở lại ăn cơm, học bài, chơi đùa ở nhà Hồ Đăng Lương. Ba người thân nhau như ruột thịt cho đến những năm học Trung học.

Bia mộ Hồ Đăng Lương tại thôn Dương Xuân Thượng 1, bên phải đàn Nam Giao
(Ảnh của tác giả)

Sau đó Hà Công Lương đỗ Tú tài rồi vào Đại học Y khoa, Hồ Đăng Lương mãi đến năm 1967 mới đỗ và trốn lính, ở nhà với cha mẹ. Liên Thành học kém, nhà nghèo, không học lên cao được phải đi lính địa phương quân. Đến tháng 6-1966, Liên Thành xin chuyển qua làm Cảnh sát Đặc biệt, được Nguyễn Ngọc Loan tin dùng trong việc đàn áp Phong trào Đấu tranh Đô thị mùa Hè 1966 ở Huế. Vì chơi thân với Hồ Đăng Lương nên Liên Thành biết bạn mình có tư tưởng chống VNCH. Sau Tết Mậu Thân 1968, Liên Thành được báo tin Hồ Đăng Lương có hoạt động cho Việt cộng trong Tết Mậu Thân. Không nghi ngờ gì nữa, Liên Thành tìm bắt Hồ Đăng Lương. Đăng Lương biết thế nên trốn ra khỏi địa phương. Sau một thời gian truy tìm, đến ngày 6-6-1968, Liên Thành phát hiện được hầm bí mật nơi Hồ Đăng Lương đang trốn ở gần nhà ông Kiểm Hoanh, ở vùng núi sau lưng Lăng Khải Định thuộc xã Thủy Bằng. Liên Thành cho giở nắp hầm bí mật và gọi Đăng Lương lên nộp mạng. Nhưng Đăng Lương không lên,  Liên Thành rút chốt lựu đạn ném xuống hầm, Đăng Lương chụp lựu đạn ném lên lại. Liên Thành điên tiết cho đào hầm bí mật của Đăng Lương, kéo Đăng Lương lên khỏi miệng hầm và cầm dao chặt đầu người bạn học đã từng ăn một mâm, ngồi học cùng một bàn suốt nhiều năm xưa. Sau đó Liên Thành lấy đầu của Hồ Đăng Lương cắm vào một cái cọc chôn bên con đường từ lăng Khải Định về làng Dã Lê Thượng xã Thủy Phương với mục đích nhử phục kích đồng đội đồng chí của Đăng Lương ban đêm về lấy đầu Đăng Lương. Nhưng cả tuần sau Liên Thành không phục kích được ai, dân chúng địa phương sợ hôi thối đã lén lấy đầu Đăng Lương đem chôn. Đăng Lương bị bạn Liên Thành thảm sát, thân dập một nơi, đầu chôn một nẻo. Đến sau 1975 một vài năm, một đồ đệ cũ của Liên Thành (hiện còn sống gần chợ Bến Ngự) báo cho bà Thái Thị Sen biết Hồ Đăng Lương, con trai bà, đã bị thảm sát như thế nào và đã bị vùi dập nơi đâu. Nhờ thế gia đình của Hồ Đăng Lương tìm được thân và đầu của anh đem về ráp lại táng ngay trong khu vườn, nơi Liên Thành, Hà Công Lương và người đã bị bạn thảm sát chơi đùa năm xưa.

Chuyện thảm sát đã diễn ra hơn 40 năm, nhưng mỗi lần nghe kể lại ai cũng rùng mình.

Chuyện Liên Thành giết thầy Ngô Kha, chặt đầu bạn Hồ Đăng Lương chưa được Liên Thành viết trong hồi ký Biến động miền Trung. Nhân trả lời bạn đọc, tôi đề nghị những người đang có cuốn sách này nên photocopy bài viết này kèm theo cuốn sách để thấy rõ hơn “cái công lao to lớn” của Liên Thành thời làm Chỉ huy trưởng BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế đối với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu  trước đây.

Trong quá khứ Liên Thành đã hành xử với thầy mình và bạn mình dã man như thế, đến tuổi già đáng lẽ phải hồi tâm sám hối với trời đất, với ông bà để xin được giải tội trước khi giả từ cái cõi tạm nầy, nhưng Liên Thành đã không những không hồi tâm sám hối mà còn làm ngược lại. Lưu vong ở Mỹ, Liên Thành không gây được tội ác giết người bằng da bằng thịt nữa, nay xoay qua viết sách bịa đặt bao điều xằng bậy, ác độc hòng giết tinh thần, uy tín xã hội của những người không cùng “lý tưởng” làm tay sai cho ngoại bang Mỹ như mình. Nghiên cứu văn hóa, lịch sử Việt Nam tôi chưa hề gặp một mẫu nhân vật phản diện nào mang cái nghiệp độc ác, quỷ quyệt nặng nề như Liên Thành. Đến bao giờ Liên Thành mới giải được cái nghiệp chướng ấy?

Chúng ta hãy tin vào luật nhân quả!

Huế, 20-11-2009

© 2009 Nguyễn Đắc Xuân

Thứ Năm, 11 tháng 3, 2021

Một 9x nghĩ gì khi đọc Vòng tay học trò?

 

Chán chương trình học và không khí ở Văn khoa trường Luật, bỏ học, đi làm thư kí riêng cho một tỉ phú, không bao lâu lại bỏ công việc ấy, về Nha Trang dạy học nhưng bị từ chối, chuyển lên Đà Lạt rồi lại bỏ Đà Lạt, mãi đến mùa hè năm 1964, với một xấp giấy pelure mỏng ố vàng, một cây bút, và một tháng trong đời, Nguyễn Thị Hoàng mới ngồi xuống và viết một mạch.

Sau này, vị nữ sĩ đã kể lại như thế sự tích ra đời tiểu thuyết “Vòng tay học trò”, tác phẩm từng làm điên đảo giới thanh thiếu niên Sài Gòn một thuở, tái bản tới 4 lần trong vòng mấy tháng, cũng suýt chút nữa đã được Kiều Chinh và Đặng Trần Thức chuyển thể thành phim.

Sự tung hô, như bao giờ cũng vậy, luôn đi kèm với sự hạ bệ. Các nhà phê bình thời ấy không tiếc những lời cay nghiệt nhất cho “Vòng tay học trò”: "phi luân", "sự buôn lậu tư tưởng trong một con bệnh dâm thành phố", "trường hợp ngoại lệ, mất thăng bằng, bệnh hoạn". Khi nhà văn Dương Nghiễm Mậu so sánh Nguyễn Thị Hoàng với Quỳnh Dao, cây bút diễm tình nổi tiếng của Đài Loan, thì nhà văn Viên Linh đã phản đối ngay: "Quỳnh Dao viết về cái trong sáng, không viết về cái nhầy nhụa".

Biếm họa Nguyễn Thị Hoàng và tác phẩm “Tiếng chuông gọi người tình trở về”

Những cụm từ sởn gai ốc được ném không thương tiếc vào một tác phẩm mà nói cho cùng chỉ là kể lại một mối tình dằn vặt giữa một cô giáo và một cậu học trò, một tình cảm thường bị coi là cấm kỵ. Tầm thời điểm này, ở Pháp cũng có hai tác phẩm với đề tài tương tự, một là “Un certain sourire”, cuốn thứ hai của nữ sĩ Francoise Sagan sau “Buồn ơi chào mi”, hai là “Mourir d'aimer”, một bộ phim rất ăn khách năm 1971 của đạo diễn André Cayatte. Không tác phẩm nào gây ra một vụ ì xèo ở quê hương của nó như “Vòng tay học trò” đã gây ra ở miền Nam Việt Nam.

Đem so với những cuốn "dâm thư" nặng đô như “Justine” của Marquis de Sade hay “Chuyện nàng O” của Pauline Réage, những cuốn tiểu thuyết cũng sục sạo đời sống tinh thần của những người đàn bà, thì khó có thể hiểu tại sao “Vòng tay học trò” lại bị coi là một văn hóa phẩm nguy hiểm và đồi bại. Không những trò tra tấn tình dục và không tình dục, thậm chí không cả khao khát hay huyễn tưởng tình dục, “Vòng tay học trò” giống hơn một bài thơ hiện sinh, hay đứa con lai của chủ nghĩa diễm tình Đài Loan của Quỳnh Dao, Trương Ái Linh và niềm hứng khởi với nhánh triết học hiện sinh phi lý do Jean-Paul Sartre khởi xướng đang được giới văn nghệ sĩ và thanh thiếu niên bấy giờ say mê, tin rằng "con người sinh ra không lý do, kéo lê cuộc đời vì nhu nhược và chết do ngẫu nhiên".

Sau hơn nửa thế kỷ im hơi lặng tiếng vì những đổi thay lịch sử, “Vòng tay học trò” và một số tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Thị Hoàng như “Một ngày rồi thôi”, “Tiếng chuông gọi người tình trở về”, “Tuần trăng mật màu xanh”, “Cuộc tình trong ngục thất” vừa được một đơn vị làm sách tuyển lựa và in ấn công phu, giới thiệu trở lại với bạn đọc đương thời về một nữ sĩ của văn chương miền Nam, một trong ngũ đại nữ sĩ hàng đầu của Sài Gòn xưa. Trong một tác phẩm của Haruki Murakami, ông từng cho một nhân vật tuyên bố rằng mình không muốn tốn thời gian cho những cuốn sách vớ vẩn và chỉ sờ vào những cuốn sách mà tác giả của nó đã chết được ít nhất 30 năm, vì chỉ những cuốn sách ấy mới đáng tin cậy mà thôi, hàm ý thời gian là thước đo duy nhất cho giá trị của một tác phẩm văn học. Nguyễn Thị Hoàng tuy vẫn còn đương thế, nhưng có lẽ 50 năm là quãng thời gian đủ dài để ta có thể nhìn lại “Vòng tay học trò” cùng các tác phẩm của bà với sự khách quan và sự "lạnh" cần thiết, triệt tiêu được những dung sai không đáng có gây ra bởi sức nóng hầm hập của những vụ ồn ào, của vòng kim cô mà cái gọi là "thuần phong mỹ tục" đội lên đầu chúng ta hay những lời phán xét được buông ra một cách cẩu thả trong quá khứ.

Vậy thì ở thời điểm này, đọc “Vòng tay học trò” còn hay không? Còn hay. Nhưng nó còn liên quan gì tới thời đại này không và liệu nó có mang cái phẩm chất bất tử, vượt thời đại của những tác phẩm kinh điển? Có lẽ là cả có và không. Ở mặt nào đó, cuốn sách đã lỗi thời. Vẻ diêm dúa trong nội tâm các nhân vật và sự thiếu vắng tính sáng tạo cho những màn cút bắt ái tình khiến “Vòng tay học trò” khó mà hấp dẫn được những độc giả ngày nay vốn đã được bọc đường trong trí tưởng tượng phong phú nơi những cuốn sách ngôn tình "ngược luyến tàn tâm" của Trung Quốc, những series phim tình cảm hoa hòe hoa sói của Hàn Quốc hay những bộ tiểu thuyết của những ông hoàng, bà hoàng lãng mạn châu Âu như Marc Levy, Guillaume Musso hay Cecelia Ahern.

Kể cả cái bi kịch mối tình "sư đồ" hay rộng hơn là người đàn bà lớn tuổi đắm say bên người tình trẻ thì thời đó có thể mới mẻ, còn ngày nay cũng đã sáo mòn và bị khai thác đến cùng tận, không còn tạo nên cảm giác hưng phấn kích thích khi khám phá "vùng đất cấm” ít ai dám bén mảng như đã từng. Nói tóm lại, mong muốn “Vòng tay học trò” được tìm lại như tìm lại một đứt gãy bị lãng quên trong lịch sử văn chương Việt Nam hiện đại, hay như tìm lại một toàn cảnh đầy đủ hơn về văn học nước nhà, thì sẽ khả thi hơn là mong muốn “Vòng tay học trò” được đón nhận nhiệt liệt, được trở thành sách gối đầu giường (hay sách chụp ảnh sống ảo) của những kẻ lãng mạn (hay ra vẻ lãng mạn) khăn gói lên Đà Lạt sống chậm (hay khoe sống chậm).

Nhưng, “Vòng tay học trò” có thể không còn phù hợp với thị hiếu đại chúng đương đại, nó lại nặng những tâm tư không bao giờ cũ với một tập hợp những người thuộc chủ nghĩa hư vô không mưu cầu sự đồng điệu với những giá trị chung của xã hội và có thể sẽ dần trở thành một "cult", nghĩa là một tác phẩm không dành cho tất cả nhưng lại được một nhóm người nhất định yêu thích điên cuồng. Thường xuyên trong “Vòng tay học trò” và các tác phẩm khác của Nguyễn Thị Hoàng, nhân vật hãi hùng bắt gặp mình lạc trong những vùng sương giá băng của thực tại, nơi không gì chờ họ, họ không chờ ai, họ chuội khỏi thế giới họ đang sống, chuội khỏi tình yêu, chuội khỏi vòng tay người tình, hay nói như Jean-Paul Sartre thì họ "không do ai tạo thành, không lý do, không có một tương quan nào với một hữu thể nào khác, hữu thể tự thân thực là thừa đến muôn đời".

Bìa tái bản năm 2021 của tác phẩm “Vòng tay học trò”

Văn chương của Nguyễn Thị Hoàng bỏ qua mọi sắp đặt lộ liễu khác, diễm lệ đến mức khiến cho sự chán chường, nỗi buồn u tối, sự lẻ loi triền miên, sự chơ vơ không lối thoát, sự sầu bi ngột ngạt cũng lấp lánh một vẻ cuốn hút khôn nguôi. Ta không thể ngăn mình muốn được thử một lần lao đầu vào đời sống như họ: tự chôn mình dưới cát như Điệp trong “Tiếng chuông gọi người tình trở về” hay vui một đêm cùng người tình trên chuyến đò xứ Huế như Ý Lan và Đông trong “Tuần trăng mật màu xanh”. Ngay cả cách họ tự dày vò chính mình cũng cám dỗ làm sao, như cái cách mà cô giáo Trâm của “Vòng tay học trò” lấy 200 đồng của mình đưa cho người tình trẻ, rồi chỉnh áo quần cho cậu, dù biết là để cậu đi gặp một người con gái khác, hay cách mà một người vợ trong “Tiếng chuông gọi người tình trở về” mường tượng về người tình năm xưa của người chồng biến mất. Cuộc đấu tranh duy nhất mà họ phải đấu tranh là cuộc đấu tranh để tìm ý nghĩa cho sự tồn tại, vốn cũng là cuộc đấu tranh chỉ xảy ra khi rốt cuộc, người ta không còn phải đấu tranh vì bất cứ điều gì thực tế hơn và thiết thực hơn. Họ có lẽ đã sung sướng đến nỗi không mưu cầu hạnh phúc mà lại "thích hưởng thú đau thương", một sở thích có thể bị gọi là "trưởng giả".

Giờ đây, nhìn lại vị trí của văn chương Nguyễn Thị Hoàng trên văn đàn, ta có thể thấy đó dường như là một trong những trường hợp đầu tiên của văn chương hiện đại bị phê phán và ngờ vực vì tính bi lụy, ướt át, quẩn quanh những huyễn tưởng tầm thường, mà sau này những nhà văn ngôn tình, diễm tình sẽ trở thành nạn nhân chịu trận tiếp theo. Chính Nguyễn Thị Hoàng cũng đã từng tự trào về văn chương phái nữ. Bà để một nhân vật của mình trong “Vòng tay học trò” nói thế này về nữ văn sĩ George Sand của văn học Pháp, "nổi tiếng cũng chỉ vì phụ nữ hiếm trong làng văn, chứ thật ra sự nghiệp của bà ta có đáng gì so với những tác phẩm vĩ đại của các văn hào nam giới".

Cũng có thể là chẳng đáng gì thật. Và số phận của những tác phẩm như “Vòng tay học trò” sẽ lại tiếp tục chìm trôi cùng thời gian, cũng có thể sẽ bị lãng quên, bị chối bỏ, nhưng trải qua một đời đã nếm trải hết "mê lầm, oan khiên, bạc đãi, ngộ nhận, của khổ nạn triền miên tâm và cảnh", nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng nhận chân điều đó hơn ai hết: "Thế hệ đọc những trang cũ ngày xưa đã già cỗi hoặc lụi tàn. Tuổi trẻ ngày nay sẽ hoàn toàn xa lạ và có thể vô cảm với mớ đồ cũ trên tay, nhưng qua dòng trôi chảy của thời gian và thế sự, biết đâu vẫn còn có ai vớt lại chút bọt bèo mong manh của quá khứ. Chút bọt bèo có thể sẽ là mầm xanh cho mùa hoa trái mới, cũng có thể là phiến hóa thạch vô tri vì cuộc đợi chờ vô vọng mấy mươi năm mà kỳ thực đã mấy nghìn năm bên bờ ảo hóa”.

Hiền Tranghttp://antgct.cand.com.vn/Chuyen-de/Mot-9x-nghi-gi-khi-doc-Vong-tay-hoc-tro-633288/

Người chế tạo xe chữa cháy đầu tiên tại Việt Nam

 Hơn 50 năm cống hiến trí tuệ và tuổi trẻ cho sự nghiệp khoa học và giáo dục, PGS.TS Nguyễn Lê Ninh - nguyên Chủ nhiệm ngành Cơ khí động lực, kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Ôtô - Máy kéo trường Đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh có nhiều sáng kiến, thành tựu trong nghiên cứu khoa học, cải tiến, chế tạo và đưa vào thực tiễn đời sống các sản phẩm hữu ích. Một trong số đó là loại xe chuyên dụng phục vụ trong công tác phòng cháy chữa cháy (PCCC) tại Việt Nam. 

Vào những năm đầu của thập niên 90 thế kỷ 20, ông và cộng sự là các kỹ sư trẻ hàng đầu đã cho ra đời dòng xe chuyên dụng chữa cháy "made in Việt Nam", là một trong những thành công vượt bậc, đánh dấu bước ngoặt lớn trong khoa học kỹ thuật và công nghệ Việt Nam thời kỳ đó.

Từ trăn trở của người làm khoa học…

Là tiến sĩ ngành Động cơ đốt trong tại Đức từ năm 1975, với nhiều năm nghiên cứu trong lĩnh vực cơ khí động lực, PGS.TS Nguyễn Lê Ninh được nhiều người biết đến như một nhà khoa học đầy tâm huyết, có nhiều ứng dụng Khoa học - Kỹ thuật và sáng kiến trong ngành công nghệ ôtô,  một nhà giáo tâm huyết đã giảng dạy chính thức tại ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Bách khoa TP HCM, Trường Sĩ quan kỹ thuật Quân khu 7 …

Xe PCCC đầu tiên do PGS.TS Nguyễn Lê Ninh chế tạo thành công và đưa vào sử dụng cho cảnh sát PCCC TP Hồ Chí Minh.

Nhà riêng của ông nằm trong một con hẻm thuộc Quận 11, TP Hồ Chí Minh. Trong nhà, ký ức một thời "cháy hết mình vì khoa học" vẫn được ông lưu giữ đầy đủ. Đó là những thành công trong nghiên cứu, chế tạo, sản xuất các loại xe chuyên dụng hữu ích, phục vụ nhu cầu của đất nước.

Dấu ấn khó quên của ông cùng các cộng sự là câu chuyện về chiếc xe chuyên dụng chữa cháy được cải tiến, sản xuất đầu tiên tại Việt Nam, sản phẩm phục vụ trong công tác PCCC cho nhiều tổ chức xã hội.

PGS Ninh nhớ lại: "Những năm đầu của thập niên 80, Việt Nam trong giai đoạn hết sức khó khăn khi Mỹ cấm vận, Liên Xô cắt giảm viện trợ, mọi thứ phục vụ đời sống đều hiếm hoi vì theo chế độ phân phối bao cấp".

Vụ cháy lớn tại tòa nhà IMEXCO đã bộc lộ tất cả những điểm yếu kém trong khả năng của lực lượng cứu hỏa lúc bấy giờ. Xe chữa cháy rất hiếm, với 3 loại xe của Nhật, Liên Xô và Đức. Kết cấu từng xe rất hạn chế. Xe Nhật chở 2,1m3 nước, xe Liên Xô chở 2,2m3 nước và xe của Đức chở được 2,4m3 nước. Nguyên liệu chính để dập lửa là nước và bọt khí, nhưng chỉ phun được khoảng một vài phút là cạn. Lực lượng cứu hỏa liên tục báo thiếu nước trong lúc chữa cháy… 

Áp suất vòi phun cũng hạn chế, nước bắn lên không đến được tầng cao nên không khống chế được "bà hỏa" ở các tầng trên. Quá khẩn cấp, thành phố buộc phải huy động trực thăng của Quân khu 7 từ sân bay Tân Sơn Nhất ra hỗ trợ. Sau vụ cháy ước tính thiệt hại tài sản lên đến hàng chục tỷ đồng thời bấy giờ...

Nhu cầu về trang thiết bị và phương tiện PCCC trở nên cấp bách. Xe chữa cháy chỉ dập được đám cháy nhỏ do không đủ nước, phun nước không xa… Trăn trở với thực tế, trách nhiệm của người làm khoa học đã thôi thúc ông nảy sinh ra ý định phải chế tạo bằng được xe chữa cháy đa dụng hơn, khối lượng chở nước lớn hơn để đảm bảo các yêu cầu khác.

PGS.TS Nguyễn Lê Ninh (áo trắng) cùng cộng sự đang thi công tại xưởng.

Ông Ninh kể tiếp: "Cũng sau vụ hỏa hoạn đó, anh Nguyễn Văn Huấn (Ba Huấn) lúc này là Phó Chủ tịch UBND, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Khoa học TP. Hồ Chí Minh có gặp tôi và nói: "Ông là chuyên gia trong ngành ôtô nên thành phố giao nhiệm vụ cho ông phải thiết kế, chế tạo xe chữa cháy cho thành phố, phục vụ nhân dân!".

Nhận trọng trách trên vai, ông cảm thấy có thêm động lực. Nhưng điều nan giải lớn nhất là kinh phí.

"Tôi phải tính toán kỹ lưỡng, lên chi tiết các phương án để thực hiện dự án làm sao được tiết giảm tối đa vì lúc này đất nước vẫn đang bị cấm vận, thiếu thốn cả nguyên liệu và trang thiết bị. Trong khi đó, việc chế ra một chiếc ôtô chuyên dùng chữa cháy rất tốn kém, gồm nhiều khâu, nguyên vật liệu tạo ra sản phẩm đắt đỏ, cơ sở vật chất phải đủ lớn để đảm bảo phục vụ cho gia công, sản xuất…" - ông Ninh nhớ lại.

Ông lên kế hoạch tính toán chi tiết, thiết kế bản vẽ kết cấu xe, kết hợp nguyên liệu phù hợp cho từng bộ phận xe, phải làm sao vừa đạt được yêu cầu chữa cháy tiện lợi vừa đảm bảo giảm chi phí, tiết kiệm ngân sách so với mua xe nhập khẩu.

Kinh phí được cấp rất hạn chế, chỉ đủ mua những vật liệu cơ bản. Trong quá trình triển khai, nhận thấy các đơn vị quân đội của Bộ Quốc phòng đóng trên địa bàn đang có những trang thiết bị cơ khí loại nặng và nguyên liệu phù hợp từ thời trước để lại, ông Ninh đã thương lượng nhờ hỗ trợ, giúp đỡ và nhận được ưu đãi cả về giá và số lượng. Bộ Tự lệnh thành phố ủng hộ dự án, cho thuê mặt bằng làm xưởng cơ khí…

Nhân sự lúc này là những kỹ sư trẻ đã được đào tạo trong ngành chế tạo ôtô, cùng với một số sinh viên trong bộ môn cơ khí ôtô tập trung phụ việc, mục đích vừa tạo công ăn việc làm, vừa giúp các em được cọ sát thực tế, học đi đôi với hành.

Xưởng chế tạo ôtô được dựng lên ngay trên đường Tô Hiến Thành (quận 10, TP. Hồ Chí Minh). Bản vẽ kết cấu xe chữa cháy đã hoàn chỉnh, ông đồng thời bắt tay vào viết thuyết minh dự án về mô hình thử nghiệm tại Công ty Phát triển kỹ thuật Cơ khí - Điện tử (DEMETEC) trực thuộc UBKH&KT TP Hồ Chí Minh do ông làm Giám đốc.

"Tôi đã chọn loại xe KAMAZ của Liên Xô, trọng tải 11,2 tấn để cải tạo thành xe chữa cháy chuyên dụng, kéo dài cabin, thiết kế thùng chứa nước và nguyên liệu (Foam) dùng để phun bọt khí, làm kho chứa các chất hữu cơ lỏng như xăng, dầu, nhằm đảm bảo đủ nguyên liệu khi chữa hỏa hoạn lớn"…

Những thiết bị khác cùng với một số vật tư được thực hiện gia công tại các nhà máy cơ khí Quốc phòng như Z-751, Z-756 và ngay tại Khoa cơ khí của ĐH Bách khoa TP Hồ Chí Minh. Riêng ống dẫn nước, súng phun và thiết bị chuyên dùng được mua lại của phòng Hậu cần thuộc Trung tâm Thiết bị PCCC Công an TP. Hồ Chí Minh. Sau đó, tập hợp các thành phần của xe chữa cháy để tiến hành lắp ráp...

… đến chế tạo thành công xe PCCC

Sau 4 tháng 20 ngày miệt mài thi công, tập thể gần 10 nhân sự đã "hô biến" thành công chiếc xe tải nặng hiệu KAMAZ 53212 của Liên Xô thành xe chữa cháy đa dụng đầu tiên tại Việt Nam vào tháng 6 năm 1991.

PGS.TS Nguyễn Lê Ninh kể lại thời điểm chế tạo xe PCCC đầu tiên tại Việt Nam.

Xe PCCC này có tải trọng 11,2 tấn, dung tích lên đến 10m³ nước và 1m3 bọt, có động lực liên hoàn để kéo bơm nước (không phải dùng động cơ riêng). Cabin được kéo dài thành 2 hàng ghế, chở thêm 9 người (gồm 7 lính cứu hỏa, 01 tài xế, 01 phụ xe). Trong khi đó xe chữa cháy của Liên Xô chỉ chở được 2,1m³ nước và phải dùng thêm 1 đến 2 xe Jeep chở lính cứu hỏa đến hiện trường. Đây được xem là thành công lớn trong nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Lê Ninh.

Mỗi xe có thùng (bồn) chứa nước từ 4 đến 10 tấn, nguyên liệu làm từ tôn 4 li. Mỗi thùng đều có vách ngăn trước, giữa, sau và dưới đáy thùng để khi xe chạy gấp không cho nước tạo ra lực quán tính, không rung lắc hoặc gây lật xe.

Ngoài ra, các cuộn ống dẫn phun nước gồm 2 loại với chiều dài 7 và 12 mét, có giá treo, phần đuôi xe có nơi đặt trang thiết bị bảo hộ, trên nóc xe làm sàn không trơn, có rào chắn bảo vệ… Tất cả phải hợp lý, thuận tiện để đảm bảo an toàn cho các chiến sĩ khi thực hiện thao tác chữa cháy.

Trước khi đưa vào vận hành, xe được đem đến trụ sở Công an PCCC TP Hồ Chí Minh (số 258 Trần Hưng Đạo, quận 1) để thử nghiệm phun lên tháp theo dõi cháy có độ cao 32m. Kết quả hơn cả mong đợi, khi chiều cao dòng nước phun vượt đỉnh tháp, độ phun xa đạt 70m. Anh em cứu hỏa tại Trung tâm PCCC Công an TP HCM vỡ òa trong vui mừng như đáp lại sự thành công của thầy trò.  "Giây phút đó vẫn theo chúng tôi đến bây giờ" - PGS Ninh tươi cười nói.

Thời gian sau đó, hàng loạt xe PCCC "made in Việt Nam" tiếp theo ra đời, cung cấp cho lực lượng PCCC, Công an TP. Hồ Chí Minh để kịp thời đưa vào sử dụng. Xe chuyên dụng chữa cháy đã cứu hỏa thành công nhiều vụ cháy nghiêm trọng trên địa bàn thành phố như vụ cháy lớn ở kho Tổng cục Hậu cần (ngay cảng Sài Gòn), cháy khách sạn trên đường An Dương Vương (quận 10), cháy kho của xưởng sản xuất ở quận Thủ Đức, cháy nhà dân (quận 11)…

Lúc bấy giờ hầu hết các tỉnh thành từ Quảng Nam, Đắk Lắk cho đến Kiên Giang, Cà Mau… đều biết dòng xe PCCC hiệu DEMETEC tiện dụng, có giá thành phù hợp. Riêng tại thành phố có thêm Tân Cảng TP. Hồ Chí Minh, Z-753, Công an PCCC các quận, Khu chế xuất Tân Thuận, công ty Vedan đặt hàng… 

Thành công trong nghiên cứu chế tạo loại xe chuyên dùng trong PCCC không chỉ góp phần vào việc chủ động giải quyết vấn đề thiếu phương tiện PCCC, mà còn giúp tiết kiệm cho ngân sách Thành phố khá lớn. Bởi lúc bấy giờ, giá thành của loại xe chữa cháy tương tự của Cộng hòa Áo có sức chứa 10m3 nước với giá trên 3 tỷ đồng, trong khi xe chữa cháy 10m³ nước và 1m³ nguyên liệu phun bọt hiệu DEMETEC do ông chế tạo chỉ với 190 triệu đồng mà vẫn đảm bảo những yêu cầu kỹ thuật chữa cháy cao hơn.

Với thành công này, ông đã được UBND TP. Hồ Chí Minh tặng bằng khen nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày ban hành Pháp lệnh PCCC của Chính phủ, Cục PCCC tặng giấy khen trong việc góp phần vào công cuộc bảo vệ An ninh thành phố và đất nước, Bằng khen lao động sáng tạo của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Huy chương vì sự nghiệp Các Hội KH&KT cùng nhiều bằng khen, giấy khen khác…

Từng giữ trọng trách ở nhiều cương vị khác nhau như nguyên Ủy viên Hội đồng Khoa học TP. Hồ Chí Minh (nhiệm kỳ I, II), nguyên Ủy viên BCH Liên hiệp các Hội KH&KT TP. Hồ Chí Minh, nguyên Phó Chủ tịch Hiệp hội kỹ sư Ôtô Việt Nam (VSAE)… nay dù đã bước sang tuổi 85 nhưng PGS.TS Nguyễn Lê Ninh vẫn tiếp tục tham gia công tác xã hội. Hiện ông là Ủy viên UB MTTQ VN, kiêm Ủy viên HĐTV Khoa học - Kỹ thuật - Môi trường thuộc MTTQ VN (TP. Hồ Chí Minh).

Con người ông vẫn toát lên sự đam mê, nhiệt huyết với khoa học khi đau đáu trăn trở: "Làm gì để biến Khoa học kỹ thuật trở thành động lực ổn định và phát triển kinh tế xã hội?" Đây cũng là câu hỏi mà cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng đặt ra trong bức thư gửi đội ngũ các nhà khoa học Việt Nam năm 1986. Và câu chuyện của ngành công nghiệp ôtô Việt Nam, nếu chỉ thấy cái lợi trước mắt, thích "ăn xổi" không đầu tư cơ bản, đào tạo... thì nền móng chế tạo ôtô "Made in Việt Nam" sẽ còn xa vời…

Ngoài xe chuyên dụng phục vụ chữa cháy, PGS.TS Nguyễn Lê Ninh đã nghiên cứu, chế tạo thành công nhiều loại xe khác: Xe chở hàng siêu trường siêu trọng cho Công trình thủy điện Trị An, phục vụ công trình xây dựng đường dây 500KV (truyền tải điện năng từ Trị An về các tỉnh phía Nam - Việt Nam) có trọng tải lên đến 150 tấn; Xe ép chở rác từ 2,5 - 7 tấn (chuyển giao công nghệ cho Công ty Hapulico Hà Nội); Trạm trộn bê tông công suất 100 tấn/ngày tại Dĩ An, Bình Dương; Xe thang phục vụ cắt tỉa cành lá cho cây xanh trên cao; Thiết kế và chỉ đạo thi công thành công hàng loạt xe tải IFA W50 thành xe khách 62 chỗ ngồi, đạt Huy chương vàng tại Hội chợ Giảng Võ (Hà Nội). Đặc biệt, thiết kế chế tạo riêng xe đặc chủng cho Bộ Tư lệnh Quân khu 7, Quân khu 9…
Quỳnh Hương http://antg.cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Nguoi-che-tao-xe-chua-chay-dau-tien-tai-Viet-Nam-587398/