Thứ Năm, 20 tháng 3, 2014

Những luận điệu cũ rích và đòi hỏi phi lý

Theo dõi tin tức liên quan tới vấn đề nhân quyền ở Việt Nam được phổ biến trên internet trong những ngày vừa qua, cho thấy các sự kiện như Quốc hội Việt Nam thông qua Hiến pháp, Việt Nam trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền LHQ, và kỷ niệm 65 năm Ngày Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền,... đã bị một số các tổ chức, cá nhân lợi dụng vu cáo, xuyên tạc nhằm chống phá Việt Nam.
Từ cuối tháng 11-2013 đến đầu tháng 12-2013, trên internet xuất hiện nhiều tin tức liên quan tới Việt Nam qua các "tuyên bố", "kiến nghị", "thư ngỏ"... với nội dung không có gì mới, chủ yếu lặp lại luận điệu xuyên tạc, vu cáo và đưa ra đòi hỏi phi lý về nhân quyền. Một nhóm người trong nước (theo đánh giá của một blogger nổi tiếng: "Có cố gắng xoay mọi chiều ống kính thì cũng vẫn từng ấy gương mặt"!) cố làm rùm beng cái gọi là "mạng lưới blogger Việt Nam", "ngày hội nhân quyền"! Rồi trong khi cái gọi là "kiến nghị thành lập hội đồng nhân quyền" chưa ráo mực đã thấy mấy người vốn nhẵn mặt trên internet lập cái gọi là "phụ nữ nhân quyền"; và lập tức Ngô Nhân Dụng - một cây bút chống cộng, từ nước Mỹ vội viết bài ca ngợi! Sau khi tin tức các hoạt động này được quảng bá, một blogger nhận xét: "Nhìn mấy bức hình chụp buổi ra mắt tẻ nhạt đến tang thương, khiến chính cộng đồng chống cộng của họ thất vọng tràn trề: "Nhìn mấy bức hình kia thì chứng tỏ sự tẻ nhạt lên đến tột cùng của ngày gọi là ra mắt mạng lưới blogger. Tẻ nhạt đến nỗi phải mượn một ông tây vào ngồi cùng để chụp hình cho vui, tẻ nhạt đến nỗi mỗi người ôm một cái điện thoại ngồi bấm bấm, tẻ nhạt đến nỗi mua một lẵng hoa đến để ngắm,... Điều này cho thấy điều gì? Đó là sớm muộn cũng phải giải tán cái mạng lưới mới ngày đầu ra mắt mà đã "rách" này thôi"! Về "kiến nghị thành lập hội đồng nhân quyền", một blogger khác trao đổi rành mạch: "Thành thực chia sẻ rằng kiến nghị rất lỗi thời rồi. Lý do? 1. Thứ nhất, Chính phủ đã thành lập cơ quan chuyên về công tác Nhân quyền từ lâu lắm rồi. Tên gọi là Ban Chỉ đạo về Nhân quyền tại Quyết định 63/2004/QĐ-TTg ngày 16-4-2004 của Thủ tướng Chính phủ; 2. Thứ hai, chức năng và nhiệm vụ đề nghị cho "Hội đồng thúc đẩy Nhân quyền" mới chỉ là một phần trong chức năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo về Nhân quyền các cấp đã và đang thực thi; 3.
Từ năm 2007, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đặt yêu cầu với Viện Nhân quyền Đức trình Quốc hội về lập mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia với nghiên cứu tổng thể các mô hình cơ quan nhân quyền các nước trên thế giới, đã trình Quốc hội xem xét xây dựng mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia cho Việt Nam. Việc nghiên cứu này là cơ sở cho việc xây dựng văn bản Luật Nhân quyền, từ đó mới xây dựng một mô hình hoàn thiện cho cơ quan nhân quyền. Hiện Ban Chỉ đạo về Nhân quyền đang xúc tiến việc này..."! Trên thực tế, không chỉ người Việt Nam ở trong nước mới nhận rõ bản chất các hoạt động kể trên, mà càng gần đây, xem xét tình hình cụ thể, nhiều người Việt ở nước ngoài cũng thấy rõ vấn đề. Như về cái gọi là "xã hội dân sự" chẳng hạn, từ nước Đức, trong entry Xã hội dân sự?, blogger với nick karelphung đã viết: "Qua việc sửa đổi Hiến pháp vừa rồi, có nhiều đối tượng mang danh là trí thức mà lên mạng phát ngôn bừa bãi...
Quốc hội, chính quyền, người dân khác làm theo ý mình thì hoan hỉ, làm trái ý hoặc làm sai là quay sang chụp đủ thứ mũ lên đầu họ. Hết hô hào đa đảng, đa nguyên bây giờ lại quay sang đòi "xã hội dân sự" (XHDS) và tôi không hiểu XHDS họ đang hô hào có phải là cho tôi, cho bạn, cho Tổ quốc Việt Nam hay chỉ để thỏa mãn cái tôi của họ"! Về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và tự do báo chí, trả lời phỏng vấn của PhoBolsaTV(đã có trên youtubevới nhan đề: Một số ý kiến của ông Đinh Viết Tứ về tình hình Việt Nam hiện nay), nhà báo Đinh Viết Tứ - một người Mỹ gốc Việt, nói: "Tôi thấy nhất định phải có một đảng chịu trách nhiệm trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, hiện không có lực lượng nào có thể đứng ra làm việc đó, ngoài Đảng Cộng sản. Ở trong nước, nếu anh muốn ủng hộ một lực lượng theo đúng suy luận của người hiểu biết và đầy đủ thông tin thì không tìm thấy một lực lượng nào.
Toàn là các nhóm có ý đồ hạn hẹp, không nhóm nào có ý đồ tốt... Theo dõi tình hình trong nước từ năm 1975 đến nay, có thể thấy rõ ràng là tự do càng ngày càng mở rộng, dân chủ càng ngày càng mở rộng. Từ điều kiện của Việt Nam, đó là tự do báo chí, còn nếu từ đòi hỏi của một người từ bên ngoài nhìn vào sẽ không thấy được tự do báo chí. Người viết có trách nhiệm sẽ hiểu đó là tự do, còn người thiếu trách nhiệm sẽ coi đó là chưa có tự do. Qua việc những người "bất đồng chính kiến" nói năng lung tung, tôi thấy điều họ (Nhà nước -HQ) làm như thế là đúng, đất nước hiện nay đang rất cần một sự đồng thuận, rất cần một lực lượng bảo vệ an ninh, quốc phòng, rất cần "đầu tàu" để kéo toàn dân đi theo, "đầu" tàu đó, lực lượng đó không có ở đâu, ngoài những người cộng sản".
Thế nhưng trước sự thật này, một số tổ chức, cơ quan truyền thông, cá nhân, thậm chí là một số nhà ngoại giao, vẫn không có cái nhìn thiện chí, khách quan với vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Gần đây các website tiếng Việt của BBC, VOA, RFA, RFI,... hầu như ngày nào cũng đăng tin, bài nhân danh "quốc tế", "dư luận", "người trẻ", "nhân sĩ, trí thức" cố gắng tìm mọi cách làm ảnh hưởng tới uy tín của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Các đài này chỉ loanh quanh với tuyên bố của RSF, HRW, AI, International PEN - mấy tổ chức mà qua việc làm của họ có thể đặt ra câu hỏi: Phải chăng một trong các "nguồn sống" của các tổ chức này là xuyên tạc và vu cáo Việt Nam? Nếu "người trẻ" được mấy cơ quan truyền thông trên huy động "thảo luận" đều không rõ danh tính, thì mỗi khi tại Việt Nam có sự kiện gì và các cơ quan này tổ chức phỏng vấn thì y như rằng vẫn chỉ mấy gương mặt.
Nếu là người nước ngoài thì đó là các vị Loretta Sanchez, Zoe Lofgren, Chris Smith, Phil Robertson (HRW), Benjamin Ismail (RSF); nếu là người Việt lại thấy các nhân vật chống cộng như Võ Văn Ái, Nguyễn Đình Thắng, Đoàn Viết Hoạt. Đến mức, sau khi nghe "thảo luận của người trẻ" do Trà My thực hiện trên VOA ngày 6-12, bạn đọc đã comment như sau: "Cứ nhắm mắt phát biểu bừa bãi! Đành rằng nhà nước Cộng sản Việt Nam còn những chuyện chưa làm được, hoặc làm chưa đến nơi, đến chốn. Nhưng về nhân quyền, họ đã làm được khối việc mà không phải quốc gia nào cũng làm nổi. Họ đã phấn đấu cho sự bình đẳng của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Người dân tộc thiểu số đâu có bị kỳ thị, bị phân biệt đối xử! Thậm chí được hưởng các quyền lợi hơn hẳn như: giáo dục, y tế, vay vốn... Phụ nữ Việt Nam ngày càng có tiếng nói độc lập, bình đẳng với nam giới. Trẻ em Việt Nam cũng được chăm sóc, bảo vệ trong những điều kiện tốt nhất có thể của nhà nước. Việc xóa đói giảm nghèo có hiệu quả rõ rệt. Sự chênh lệch về các mặt giữa thành thị với nông thôn, miền núi thu hẹp đáng kể... Đó là các thành tựu do quan tâm đến nhân quyền mà có, không phải do cha vơ chú váo nào đem lại!".
Từ thực tế trên, một số vị đại diện ngoại giao tại Hà Nội cần tiếp cận vấn đề nhân quyền ở Việt Nam một cách toàn diện, khách quan, từ đó xem xét lại một số ý kiến đưa ra gần đây. Vì trong tuyên bố, thông cáo báo chí nhân Ngày nhân quyền quốc tế, dù đã thừa nhận "Rõ ràng Việt Nam đã đạt được kết quả to lớn trong việc thực thi các quyền xã hội và kinh tế,...hầu như không có một nước nào thành công như Việt Nam trong công tác xóa đói giảm nghèo hoặc xây dựng trường học và bệnh viện", mà các vị lại đưa ra một số ý kiến sai lạc.
Trong số các ý kiến đó, đáng tiếc là việc đồng nhất hành vi vi phạm luật pháp Việt Nam với tự do tôn giáo và tự do báo chí. Vì, tự do báo chí, tự do tôn giáo hoàn toàn không liên quan tới hành vi lợi dụng báo chí, lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền chống phá nhà nước. Hơn nữa, hẳn các vị đều biết mỗi quốc gia đều có hệ thống luật pháp nhằm giữ gìn kỷ cương, bảo đảm ổn định xã hội để phát triển. Vì thế, nếu Bộ luật Hình sự CHLB Đức có Điều 86 về "tuyên truyền bất hợp pháp" quy định ai vi phạm sẽ bị phạt tù tới ba năm hoặc phạt tiền; thì nước Anh có D-Notices - luật yêu cầu truyền thông không được phép công khai tin tức để ảnh hưởng tới an ninh quốc gia. Năm 2002 tại Hoa Kỳ, Tổng thống George W.Bush ký luật ASPA (H.R.4775) "bảo vệ quân đội Mỹ, nhân viên, quan chức được bầu và bổ nhiệm khác của Chính phủ Hoa Kỳ chống lại truy tố hình sự bởi một tòa án hình sự quốc tế mà Hoa Kỳ không là thành viên"... Vì thế, sẽ là thiếu tỉnh táo nếu không xem xét một cách khách quan để từ đó can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam - một dân tộc có quyền tự quyết, được tự do quyết định chế độ chính trị và tự do theo đuổi đường hướng phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, như Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trịcủa LHQ đã khẳng định.
Như khoản 1 Điều 14 Hiến pháp nước ta đã khẳng định: "Ở nước CHXHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật", Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi việc bảo đảm, tạo điều kiện giúp mọi người dân phát triển hài hòa, được hưởng thành tựu về nhân quyền, đạt tới trình độ phát triển chung của loài người là mục đích cao nhất phải hướng tới. Và chúng ta ý thức rằng, chỉ có thể đạt tới mục đích bằng những hành động thiết thực, cụ thể, hiệu quả. Không phải viện dẫn đâu xa, thành tựu về nhân quyền trong các năm qua đã cho thấy điều này.

HỒNG QUANG

Họ đã tự loại mình khỏi đội ngũ

Thời gian qua, một số cơ quan truyền thông và địa chỉ trên internet làm rùm beng việc một vài cá nhân xin ra khỏi Ðảng Cộng sản Việt Nam. "Tại sao họ lại làm rùm beng như thế?", đó là câu hỏi mà tác giả Hồ Ngọc Thắng phân tích trong bài viết gửi tới Báo Nhân Dân. Xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo...


Sống ở nước ngoài nhưng hằng ngày tôi vẫn luôn luôn quan tâm tới tình hình trong nước, hầu như tôi không bỏ qua những thông tin nào liên quan đến con người và Tổ quốc Việt Nam, vì ở đó tôi còn anh em, họ hàng và những người bạn thân thiết từ thuở ấu thơ. Cái khó đối với một người sống xa Tổ quốc là luôn phải biết phân biệt thông tin đúng sự thật với thông tin không đúng sự thật, thông tin bị thổi phồng phục vụ ý đồ xấu. Mà trên internet lúc nào cũng tràn ngập thông tin, tin lành mạnh cũng nhiều, và tin không lành mạnh cũng lắm. Gần đây, tôi chú ý tới thông tin được mấy hãng truyền thông ở nước ngoài và một số trang mạng, blog đua nhau nhắc đi nhắc lại rồi bình luận, phỏng vấn với nội dung tiêu cực. Ðó là tin vài cá nhân tuyên bố ra khỏi Ðảng Cộng sản Việt Nam, cả đơn từ của họ cũng được đưa trên in-tơ-nét. Tôi ngạc nhiên vì biết đó là điều hết sức bình thường với mọi đảng chính trị, không có gì là mới mẻ, đặc biệt. Vậy tại sao họ lại làm rùm beng như thế? Tin tức, bình luận của họ và mấy người hùa theo rất giật gân.
Tuy không phải là đảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam, nhưng trong thời kỳ trước khi di cư hợp pháp sang châu Âu vì lý do gia đình, tôi tham gia Ðoàn Thanh niên Lao động Việt Nam - nay là Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Qua bạn bè được kết nạp Ðảng, tôi biết thường là tổ chức Ðoàn, Công đoàn cơ sở hoặc đoàn thể giới thiệu thành viên gương mẫu về mọi mặt với Ðảng. Nếu được đồng ý, người đó sẽ dự khóa bồi dưỡng đối tượng Ðảng về lý luận, nghiên cứu Ðiều lệ Ðảng, rồi làm đơn, được đảng viên chính thức giới thiệu. Tại lễ kết nạp, đảng viên mới tuyên thệ suốt đời trung thành với Ðảng và sự nghiệp của Ðảng... Ðó là quy trình nghiêm ngặt, đâu phải làm đơn khoe khoang tôi giỏi lắm là sẽ được kết nạp! Hồi còn học cấp 3, trường tôi có một số học sinh được kết nạp vào Ðảng. Họ là học sinh gương mẫu, có thành tích xuất sắc trong học tập và tu dưỡng đạo đức, tích cực tham gia công việc của trường, xã hội. Ở chiến trường Quảng Trị, một số chiến sĩ trong trung đội của tôi được kết nạp ngay tại mặt trận. Họ là những người dũng cảm, gương mẫu, lập thành tích cao. Cần nhấn mạnh là mọi người đều tình nguyện, không bị ép buộc. Với người Việt Nam, được kết nạp vào Ðảng Cộng sản Việt Nam là một vinh dự. Trở thành đảng viên, họ xác định sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ trong bất kỳ tình huống nào. Một người tin tưởng vào lý tưởng của Ðảng, và vào Ðảng không vì mục đích vụ lợi, sẽ không bao giờ rời hàng ngũ của Ðảng, ngay cả trong giây phút nguy hiểm nhất. Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành lại độc lập dân tộc, đã chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, đạt được các thành tựu trong thời kỳ đổi mới là do có hàng triệu đảng viên mang phẩm chất như vậy. Một người nào đó bị khai trừ khỏi Ðảng sẽ thấy xấu hổ với gia đình, bạn bè, người quen, không "vạch áo cho người xem lưng" và thường phải giấu giếm. Nên điều tôi chú ý là tại sao một số người xin ra khỏi Ðảng lại khoe việc này trên internet như một "thành tích"?
Nhân nói đến việc gia nhập hoặc ra khỏi một đảng chính trị nào đó, xin dẫn lại một số số liệu. Ở phương Tây, một trong những điều lo ngại của các đảng chính trị là quá trình "lão hóa" đảng viên, đó là khi số đảng viên lớn tuổi ngày càng nhiều thêm, rồi số đảng viên bị khai trừ hay rời bỏ hàng ngũ tăng lên, mà đảng viên mới gia nhập không đủ để bù đắp về số lượng. Ở CHLB Ðức, một thí dụ về sự thăng trầm số lượng đảng viên là đảng Cơ đốc giáo Ðức (CDU) hiện nay do bà Thủ tướng A.Merkel làm Chủ tịch. Trong đợt bầu cử Quốc hội CHLB Ðức hôm 22-9-2013, đảng này thu thắng lợi rất lớn. So với các đảng khác, CDU có được số phiếu cử tri nhiều nhất để thành lập chính phủ liên minh với đảng Dân chủ xã hội Ðức (SPD), đảng Liên minh xã hội Cơ đốc giáo (CSU). Nhưng trong 12 tháng vừa qua CDU lại mất 8.000 đảng viên. Thời hoàng kim về số lượng đảng viên của CDU là hồi đầu những năm 90 thế kỷ trước. Lúc đó CDU có tới 750.000 đảng viên, cuối năm 2008 còn 530.755, tháng 5-2011 còn 499.646 đảng viên; hiện nay CDU có 468.329 đảng viên. Dù mấy năm qua CDU sút kém về số lượng đảng viên (281.671 người) nhưng không ai nói đảng này đang tan rã. Vừa qua, vì tranh luận liên quan tới việc chọn đảng viên của CDU làm ứng cử viên bầu vào Quốc hội CHLB Ðức, một đảng viên quan trọng của CDU đã bỏ đảng, đó là ông Siegfried Kauder. Từ tháng 11-2009 tới tháng 10-2013, ông là Chủ tịch Ủy ban Tư pháp của Quốc hội CHLB Ðức. Ai quan tâm đến chính trị, đều biết ông là em trai một chính trị gia nổi tiếng của CDU - ông Volker Kauder. Ông Volker Kauder là đại biểu Quốc hội CHLB Ðức từ năm 1990, từ năm 2005 đến nay ông là Chủ tịch khối CDU/CSU trong Quốc hội CHLB Ðức. Tuy là anh em ruột, song trong quá trình hoạt động chính trị, họ lại không tìm được một con đường chung để phấn đấu vì sự nghiệp của cùng một đảng.
Ðảng lớn nhất ở CHLB Ðức là đảng Dân chủ xã hội Ðức (SPD) cũng không tránh khỏi tình trạng suy giảm số lượng đảng viên. Năm 1977, đảng này có tới một triệu đảng viên, nhưng sang những năm 80 của thế kỷ trước còn 900.000 đảng viên. Trong những năm sau đó, SPD mất tới 400.000 đảng viên. Tháng 11-2013, SPD chỉ còn 474.820 đảng viên. Vừa qua, vì bất đồng quan điểm mà một nhân vật chủ chốt của đảng này đã rời khỏi đảng, đó là ông Wolfgang Clement. Từ năm 1998 đến năm 2002, ông là Thủ hiến tiểu bang Nodrhein-Westfalen có số dân đông nhất với 17,6 triệu người, rồi làm Bộ trưởng Liên bang phụ trách kinh tế và việc làm (nhiệm kỳ từ năm 2002 đến năm 2005). Một trong các điểm ông tranh cãi gay gắt với đảng của mình là SPD muốn đưa ra quy định pháp lý về mức lương tối thiểu cho người lao động. Tuy thuộc vào nhóm thiểu số, nhưng ông không chấp nhận ý kiến của đa số đảng viên. Có một điều thú vị là quy định về mức lương tối thiểu cho người lao động không những đã được thông qua trong nghị quyết của SPD, mà còn được ghi vào thỏa thuận mới đây giữa SPD và CDU, CSU để thành lập Chính phủ liên minh.
Ở quốc gia khác của châu Âu, thí dụ Vương quốc Anh, đảng cầm quyền hiện nay là Ðảng Bảo thủ, thành lập năm 1834, cũng có sự sụt giảm về số lượng đảng viên. Năm 1980, đảng này có 400.000 đảng viên, nhưng đến năm 2012 còn 130.000 đảng viên. Tuy giảm tới hai phần ba đảng viên, nhưng không có ai, kể cả phe đối lập ở Anh, cho rằng là Ðảng Bảo thủ đang tan rã. Một sự kiện mới đây ở Hoa Kỳ đã làm Tổng thống Obama và Ðảng Dân chủ phải đau đầu là việc do bất đồng với chính sách của Nhà Trắng, Hạ nghị sĩ thuộc Ðảng Dân chủ Parker Griffith đã rời bỏ hàng ngũ và gia nhập Ðảng Cộng hòa. Griffith ở nhóm bảy người của Ðảng Dân chủ tại Hạ nghị viện Hoa Kỳ không chỉ phản đối chính sách y tế, mà còn bỏ phiếu chống biện pháp kích thích kinh tế của Tổng thống Obama, chống dự luật thay đổi khí hậu mà Chủ tịch Hạ viện thuộc Ðảng Dân chủ Nancy Pelosi nhiệt tình xúc tiến. Nhưng với người dân Hoa Kỳ thì sự kiện này cũng rất bình thường.
Ở các nước kể trên, dư luận chỉ biết số đảng viên ra hoặc vào một đảng nào đó sau khi lãnh đạo đảng công bố, còn thông thường chỉ người đó và cơ sở người đó sinh hoạt mới biết, không ai làm đơn ra đảng hoặc vào đảng rồi đưa lên in-tơ-nét để quảng cáo. Riêng đảng viên giữ trọng trách của một đảng hay đảng viên là dân biểu của một đảng thì khi ra khỏi đảng sẽ công bố cho dân chúng, cử tri, để họ nắm bắt được xu hướng chính trị mới của người này, như các ông Wolfgang Clement, Parker Griffith đã nhắc tới ở trên. Chỉ với các đảng viên vào hàng "đặc biệt" như họ, báo chí, truyền hình mới đưa tin, phỏng vấn, chủ yếu giúp công chúng sáng tỏ vấn đề, không phải để tôn vinh người xin ra đảng, cũng không phải từ đó tung tin đảng này, đảng khác tan rã đến nơi! Với đảng viên bình thường thì báo chí, truyền hình hầu như không quan tâm. Do đó, việc các cơ quan truyền thông như BBC, VOA, RFI,... quan tâm tới vài ba người xin ra khỏi Ðảng Cộng sản Việt Nam là rất không bình thường, chắc chắn họ có mục đích riêng thiếu thiện chí.
THỜI gian trước, tôi có đọc một số bài, nghe mấy người gần đây xin ra Ðảng trả lời phỏng vấn của BBC, RFA, VOA,... Lúc đó tôi cứ ngỡ họ không phải đảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam, bởi nếu là đảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam thì không ai viết như thế, nói như thế. Hóa ra không phải. Nên tôi nghĩ chẳng cần làm đơn, họ cũng đã không còn là đảng viên rồi. Việc họ và một số người làm ầm ĩ chỉ để "ghi điểm" với ai đó, hoặc họ cố tình làm rùm beng để làm ảnh hưởng tới uy tín của Ðảng Cộng sản Việt Nam mà thôi. Với bất cứ đảng chính trị nào cũng vậy, chất lượng đảng viên, số lượng đảng viên luôn là mối quan tâm hàng đầu. Nhưng theo tôi, chất lượng đảng viên vẫn là yếu tố quan trọng hơn, vì đường lối và vai trò tổ chức, lãnh đạo của đảng, tác động và ảnh hưởng của đảng với xã hội trước hết phụ thuộc vào sự tín nhiệm của nhân dân đối với từng đảng viên. Vì thế, có thể nói mấy người làm rùm beng chuyện xin ra khỏi Ðảng đã tự đào thải mình, tự loại mình khỏi đội ngũ những người cộng sản chân chính.

HỒ NGỌC THẮNG (CHLB Ðức)

Những nhận định hồ đồ

Gần đây, việc Việt Nam trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc đã được sự chú ý và đồng tình của dư luận tiến bộ trên thế giới. Nhưng, các thế lực thù địch, các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí đã đưa ra một số ý kiến cố tình hạ thấp ý nghĩa sự kiện, tiếp tục xuyên tạc vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, và đáng tiếc trong đó có ý kiến của ông Scott Busby - quyền Phó trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ, đặc trách về dân chủ, nhân quyền và lao động...


Nếu coi thái độ lươn lẹo và bất chấp sự thật của một số tổ chức, cá nhân đã và đang lợi dụng vấn đề nhân quyền để vu cáo, xuyên tạc, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam thì phải khẳng định diễn biến các động thái mà họ thực hiện trước và sau khi Việt Nam trở thành thành viên mới của Hội đồng nhân quyền LHQ (UNHRC) là bằng chứng điển hình. Trước ngày LHQ tiến hành bỏ phiếu kín để bầu thành viên mới của UNHRC, họ đã phối hợp với nhau để đồng loạt đưa ra đủ loại tuyên bố, thư từ, kiến nghị,... gửi tới một số địa chỉ nhằm một mặt xuyên tạc vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, mặt khác tìm mọi cách tác động để cản trở Việt Nam trở thành thành viên của UNHRC. Mấy cơ quan truyền thông như VOA, BBC, RFA, RFI cũng tỏ ra xăng xái trong các hoạt động này, điển hình là bài viết đăng trên VOA với nhan đề Việt Nam vận động để chiếm một ghế tại Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc (!). Khi viết như thế, VOA sẽ nghĩ sao khi chính Hoa Kỳ đang là thành viên UNHRC, chẳng nhẽ đó cũng là hành động "chiếm một ghế"!? Ở trong nước, người gần đây được mấy cơ quan truyền thông nước ngoài tán dương là "bình luận gia" còn sử dụng năng lực "thầy bói xem voi" để bịa ra "ba kịch bản" khi bầu Việt Nam vào UNHRC, theo người này thì không có "kịch bản" nào là sáng sủa. Thế rồi, sau khi kết quả bầu cử của UNHRC được công bố, đối mặt với sự thật bẽ bàng, tất cả vội đồng loạt tỏ thái độ "bất bình", hoặc "ngậm bồ hòn làm ngọt". Riêng "bình luận gia" hôm trước vừa hùng hồn "dự đoán" nay phải mượn lời của một nhân vật phiếm chỉ để hạ thấp ý nghĩa của sự kiện: "Tui chẳng biết hội đồng nhân quyền là cái gì"! Nhưng rồi họ lại tỏ ra hỉ hả khi thấy bà Peggy Hicks, Giám đốc pháp lý toàn cầu của Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW) đưa ra yêu sách hết sức vô lý đòi Hội đồng Nhân quyền "phải giải thích rõ ràng" (!); rồi nữa là ngày 25-11, trả lời phỏng vấn của RFA, ông Scott Busby - quyền Phó trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ, đặc trách về dân chủ, nhân quyền và lao động, lại đưa ra một số ý kiến theo luận điệu của họ.
Trước hết cần nói rằng, bài trả lời phỏng vấn trên RFA của ông Scott Busby được thực hiện trong một cuộc tiếp xúc báo chí rất không bình thường sau chuyến đi của ông tới Việt Nam. Như nguoi-viet.com cho biết, thì cuộc tiếp xúc tổ chức tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ theo lời mời của bà Laura Scheibe - viên chức Văn phòng đặc trách dân chủ, nhân quyền, lao động vùng châu Á - Thái Bình Dương; với sự có mặt của đại diện một số cơ quan truyền thông vốn luôn là diễn dàn của thế lực thù địch với nhà nước Việt Nam, như RFA, SBTN và các cái gọi "Ðài phát thanh tập hợp vì nền dân chủ, tuần báo "Phố Nhỏ"... Trước một cử tọa như thế, không rõ ông Scott Busby đã nói những điều nhân danh chính quyền Hoa Kỳ hay chỉ là suy nghĩ của cá nhân ông? Nhưng, dù là nhân danh hay ý kiến riêng thì phát ngôn của ông đã phản ánh không trung thực (nếu không nói xuyên tạc) vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, không phù hợp với tinh thần Tuyên bố chung về quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ do Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Trương Tấn Sang và Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama ký ngày 25.7.2013, trong đó: "hai nhà Lãnh đạo khẳng định cam kết mở ra một giai đoạn mới cho quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và những lợi ích chung... Hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh các nguyên tắc trong quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ, trong đó có tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau".
Trong bài trả lời phỏng vấn, ông Scott Busby trình bày ba mục đích chuyến đi của ông tới Việt Nam. Ông đã nói không úp mở rằng: "Mục đích thứ ba trong chuyến đi của tôi là để nói chuyện trực tiếp với các nhóm xã hội dân sự, các nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam muốn cho họ biết sự ủng hộ của chúng tôi đối với họ, và muốn biết cách mà chúng tôi có thể giúp họ là như thế nào"!? Không rõ sau khi nói chuyện, ông Scott Busby lĩnh hội được những gì mà ông đi tới nhận định: "rõ ràng là vẫn còn những vấn đề lớn về nhân quyền đang tồn tại ở Việt Nam, người dân vẫn chưa có thể thực hiện quyền tự do ngôn luận, người ta vẫn chưa hoàn toàn được quyền tự do tụ tập hay lập hội, cũng như chưa hoàn toàn được tự do thờ phụng"!? Nhận định của ông vừa vô lý, vừa trái khoáy vì không lẽ ông không biết trước đó chỉ mấy ngày, 184 quốc gia trên tổng số 192 thành viên của Liên hợp quốc tham gia bỏ phiếu đã bầu Việt Nam vào UNHRC? Và người đọc không khỏi hồ nghi để đặt câu hỏi: Chẳng nhẽ 184 quốc gia lại không sáng suốt bằng ông Scott Busby sau khi có mặt ở Việt Nam chỉ bốn ngày? Dù giữ bí mật cho những người ông đã gặp "để bảo vệ sự hoạt động của họ", nhưng căn cứ vào điều ông tiết lộ: "những người tôi gặp gỡ là những luật sư, những người đại diện cho những nhân vật bị sách nhiễu, bị truy tố về những tội danh khác nhau chẳng hạn như lật đổ chính quyền, sử dụng internet, facebook, blog... ngoài ra, tôi cũng gặp các nhà lãnh đạo tôn giáo". Qua đây, có thể biết, ông Scott Busby đã gặp gỡ ai và cần khẳng định gặp những người như vậy, ông ta sẽ không bao giờ có được cái nhìn khách quan về thực trạng vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, càng không thể hiện được thiện chí (nếu ông thực sự có thiện chí) muốn cùng Việt Nam hoàn thiện và phát triển nhân quyền.
Gần đây, giới thiệu cuốn sách Món hàng xuất cảng làm chết người nhất của Mỹ: dân chủ (America's deadliest export: democracy) của W.Blum xuất bản năm 2013, trong rất nhiều trích dẫn về việc Hoa Kỳ sử dụng nhân quyền như một chiêu bài, có một trích dẫn làm người ta phải kinh ngạc, đó là tổng kết của W.Blum về các hành động của Hoa Kỳ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, gồm: "Nỗ lực lật đổ hơn 50 chính quyền ngoại bang, hầu hết đã được bầu một cách dân chủ; Can thiệp thô bạo vào sự bầu cử dân chủ của ít nhất là 30 quốc gia; Toan tính ám sát hơn 50 người lãnh đạo ngoại quốc; Thả bom trên dân chúng trong hơn 30 quốc gia; Toan tính dẹp một phong trào quần chúng hay quốc gia trong 20 nước". Sau nhiều dẫn dụ và phân tích, tác giả người Mỹ gốc Việt nói trên viết: "Về nhân quyền thì tin Việt Nam nay chính thức là thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ chắc chắn là làm cho quý vị không vui, vì tin đó như một cái tát vào mặt quý vị và các tổ chức, cá nhân chuyên trơ trẽn xía vào những chuyện nội bộ nhỏ nhặt ở Việt Nam, rêu rao vấn đề nhân quyền ở Việt Nam rất tồi tệ, đặc biệt là Phil Robertson của tổ chức HRW. Những lời quý vị lên án một cách thiển cận Việt Nam vi phạm nhân quyền đã trở nên lạc lõng, lố bịch và vô giá trị. Kết quả 184/192 quốc gia bầu Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền LHQ chứng tỏ thế giới đã nhận định là ở Việt Nam không có vấn đề nhân quyền như là chính sách của Nhà nước. Nhưng quý vị không chịu mở mắt ra để nhìn vào thực tế". Tác giả viết tiếp: "Mỹ, hay các cá nhân Mỹ, bất kể họ là thượng nghị sĩ hay dân biểu, hay những tổ chức của Mỹ như HRW, AI, đều không có tư cách để nói về nhân quyền ở Việt Nam".
Ngày 17-11, nhân việc Việt Nam trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ, trả lời phỏng vấn của Việt Weekly - cơ quan báo chí của người Mỹ gốc Việt, ông Lê Hoài Trung - Ðại sứ Ðại diện thường trực của Việt Nam tại LHQ nói: "Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 184 quốc gia. Tại Việt Nam, hiện có trên 100 cơ quan đại diện ngoại giao, văn phòng của các quốc gia, các tổ chức quốc tế. Ðó là chưa kể tới trên 500 tổ chức phi chính phủ nước ngoài, trong đó nhiều tổ chức đã mở văn phòng ở Việt Nam. Vì vậy, họ theo dõi rất sát tình hình trên các mặt ở Việt Nam. Họ đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam trong thực hiện đổi mới với những nội dung quan trọng nhằm tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy công bằng xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát huy quyền tự do, dân chủ của người dân... Việt Nam chia sẻ quan điểm chung của cộng đồng quốc tế được các quốc gia thành viên LHQ cùng nhất trí trong Tuyên bố của Hội nghị thế giới về quyền con người tổ chức ở Viên, Áo năm 1993 rằng, quyền con người là giá trị phổ quát, đồng thời cũng cần tính đến những đặc thù của mỗi dân tộc, mỗi khu vực và những hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, tôn giáo khác nhau. Lấy thí dụ, với các lý do đặc điểm trong thể chế của mình nên tới nay Hoa Kỳ chưa phê chuẩn Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và chưa trở thành thành viên của Công ước về quyền trẻ em. Nhưng Việt Nam lại là thành viên của cả hai công ước đó...". Và ông nhấn mạnh: "điều đáng tiếc là có một số tổ chức / cá nhân muốn áp đặt cách nhìn của mình, hoặc vì những ý đồ xấu nên đã đưa thông tin sai lệch, kể cả vu cáo về tình hình quyền con người ở Việt Nam. Việt Nam bác bỏ những thông tin, vu cáo đó. Ðiều đáng nói ở đây là những việc làm của họ đi ngược lại với lợi ích của nhân dân Việt Nam và những nỗ lực thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam". Thiết nghĩ, ông Scott Busby nên tham khảo ý kiến trên đây để khách quan đánh giá.

VŨ HỢP LÂN

Nhân quyền thể hiện cụ thể qua cuộc sống của người dân

"Với người khác, nhân quyền có thể là một khái niệm trừu tượng, thiên về lý thuyết, hoặc đề cập tới những vấn đề lớn lao. Nhưng với tôi, nhân quyền là điều khá cụ thể, gắn liền với cuộc sống của đất nước, con người". Ðó là ý kiến trong bài viết của tác giả Hồ Ngọc Thắng từ CHLB Ðức gửi Báo Nhân Dân, xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo.
Những tháng cuối năm 2013, thông tin từ Việt Nam đã đem đến cho tôi nhiều niềm vui, nhưng cũng có nỗi buồn. Buồn vì trận bão Haiyan gây thiệt hại rất lớn cho nhiều địa phương trên cả nước, trong đó có quê tôi. Tôi biết mỗi lần thiên tai như vậy, Nhà nước lại huy động một lượng tiền của, hàng hóa rất lớn để cứu trợ kịp thời, sau đó là tái thiết cơ sở hạ tầng bị tàn phá, giúp đỡ gia đình bị thiệt hại nhanh chóng ổn định cuộc sống. Ðó là biện pháp cấp tốc và lâu dài mà từ rất lâu rồi tôi đã nhận thấy trong chính sách kinh tế - xã hội nhất quán của Ðảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Nhưng, lại có rất nhiều tin vui. Một trong số đó là thông tin ngày 12-11-2013, Việt Nam trúng cử với số phiếu cao nhất trong số 14 nước thành viên mới, và lần đầu tiên trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ. Với các tổ chức, cá nhân luôn lợi dụng vấn đề nhân quyền để phê phán hay chống phá Việt Nam thì sự kiện này là một thất bại rất lớn của họ. Từ việc ghi nhận các thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn những quyền của người dân trong các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tôn giáo và tín ngưỡng,... cộng đồng quốc tế đã tin cậy và bầu Việt Nam vào một tổ chức quan trọng của LHQ.
Với người khác, nhân quyền có thể là một khái niệm trừu tượng, thiên về lý thuyết, hoặc đề cập tới những vấn đề lớn lao, nhưng với tôi, nhân quyền là điều khá cụ thể, gắn liền với cuộc sống của đất nước, con người. Ðể đánh giá về nhân quyền, cần có cách nhìn khách quan, đặt trong hoàn cảnh cụ thể với điều kiện đặc thù riêng ở mỗi nước. Suy nghĩ và nhận thức của tôi về nhân quyền thay đổi theo tuổi đời và sự trải nghiệm của bản thân trong cuộc sống. Nhớ thời còn đi chân đất đến trường ở quê tôi, một vùng biển Thanh Hóa thường xuyên có bão, lụt. Một tối, nghe Ðài Phát thanh tiếng nói Việt Nam đưa tin sóng biển có thể dâng cao, mọi người trong vùng đều lo lắng, cố gắng triển khai công việc phòng chống. Nhìn đoàn thuyền, bè, mảng làm bằng những cây luồng to mà các anh chị dân quân để ngay trước nhà, mẹ tôi bảo thế là yên tâm rồi. May mắn là năm đó sóng biển không cao lắm, nhưng tôi biết nếu tình huống xấu xảy ra, gia đình tôi cũng như mọi gia đình khác sẽ được chính quyền giúp đỡ một cách nhanh chóng. Giờ nhìn lại tôi nghĩ, đó là hành động thiết thực của chính quyền nhằm bảo vệ nhân quyền của người dân. Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại miền bắc của đế quốc Mỹ, có năm nước sông Hồng lên cao, Thủ đô Hà Nội có thể bị ngập, tính mạng của hàng vạn người bị đe dọa nghiêm trọng, vì một số đoạn trong hệ thống đê điều từng bị bom phá hỏng. Vào thời điểm đó, người Mỹ tuyên bố không úp mở là sẽ ném bom "đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá". Ðảng và Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực hết sức để giúp nhân dân vượt qua thiên tai hiểm nghèo, khắc phục hậu quả bão lụt, vừa vận động nhân dân thế giới ngăn chặn hành động có tính chất hủy diệt, như ném bom đê điều. Tôi nghĩ đó cũng để bảo vệ quyền quan trọng nhất trong nhân quyền - là quyền được sống.
Từ năm 1972 đến năm 1975, tôi là chiến sĩ của QÐND Việt Nam đã trực tiếp chiến đấu tại tuyến đầu của mặt trận Quảng Trị. Tại đây, tôi đã tận mắt chứng kiến những trận bom rải thảm, những trận pháo kích có tính hủy diệt của "pháo đài bay" B52 và tàu chiến Hạm đội 7 Hoa Kỳ từ Biển Ðông. Ở đó, tôi không chỉ bị sức ép của bom, pháo mà còn rất nhiều lần khó thở đến ngất xỉu tưởng không tỉnh lại được vì đối phương sử dụng đạn pháo hóa học chứa hơi cay. Tôi đã đi qua những khu rừng bị hủy hoại do chất độc màu da cam của quân đội Mỹ rải xuống. Cũng ở đó, tôi đã từng chứng kiến những cái chết, gặp những người mẹ, người chị, những em bé cơ thể mang thương tích vì mảnh bom, pháo, bị vướng mìn của quân đội Mỹ và Sài Gòn. Thế mà nay lại có kẻ bịa đặt rồi làm rùm beng các sự kiện không có trong thực tế để vu cáo "Hà Nội vi phạm nhân quyền". La lối như vậy, họ cố tình quên ai là người mang bom đạn đến Việt Nam, và cố tình quên nhiều người dân Việt Nam chết hoặc bị thương do bom mìn còn sót lại; nhiều người phải chịu hậu quả của chất độc màu da cam. Họ cố tình làm như không biết là hiện nay, Nhà nước Việt Nam vẫn đang phải huy động nhiều sức người, tiền của để giải quyết hậu quả của chiến tranh xâm lược, như bom mìn chưa nổ, các khu vực còn ảnh hưởng của chất độc màu da cam. Tôi nghĩ, giải quyết hậu quả chiến tranh cũng là hành động vì nhân quyền, đấu tranh đòi các công ty hóa chất ở Hoa Kỳ bồi thường thiệt hại cho nạn nhân chất độc màu da cam cũng là hoạt động vì nhân quyền. Sau khi nước nhà thống nhất, Việt Nam bị cấm vận một thời gian dài, kinh tế khó khăn, Nhà nước không có đủ điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Dù hôm nay đã chấm dứt, thì vẫn phải nói rằng cấm vận là một việc làm rất vô nhân đạo, cản trở sự phát triển, không tạo điều kiện, cơ hội để Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền con người. Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện chủ trương "gác lại quá khứ, hướng tới tương lai", tôi nhắc lại một vấn đề của quá khứ không phải là để khơi dậy hận thù, mà để nói rằng đang có những người đạo đức giả trong khi một mặt hò hét đấu tranh cho nhân quyền, yêu cầu "Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền", thì mặt khác họ lại tảng lờ tình trạng trong thời gian rất dài nhiều người bệnh ở Việt Nam không đủ thuốc điều trị, nhiều nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin đang sống trong bất hạnh, đau đớn, nhiều gia đình Việt Nam đói nghèo vì hậu quả của chiến tranh.
Tôi nghĩ, vì nhân quyền là tổng thể các quan hệ xã hội trực tiếp, cụ thể liên quan đến việc thực thi quyền con người, đồng thời lại liên quan chặt chẽ với quan niệm của mỗi dân tộc và mỗi nền văn hóa, nên có cảm nhận khác nhau từ góc độ quan sát của mỗi người. Nhận thức này tôi có được sau một lần cùng gia đình đi du lịch ở Dominica - một quốc đảo ở vùng Caribe (gần Hoa Kỳ) và có nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào Hoa Kỳ. Kết thúc chuyến du lịch, tôi hỏi con gái và con trai, cả hai đều sinh ra rồi lớn lên ở CHLB Ðức: "Hai con thấy chuyến đi có thú vị không?" và câu trả lời của các cháu là: "Phong cảnh và thế giới thực vật giống hệt như quê nội". Ðối với tôi, qua chuyến đi tôi lại có điều kiện so sánh và càng thấy Nhà nước Việt Nam rất quan tâm tới đời sống của mọi người dân, phần lớn người dân Việt Nam sinh sống ở nông thôn hiện đã có cuộc sống khấm khá hơn nhiều. Ðưa con về thăm quê hương, tôi kể cho các con tôi chuyện quê nội bị tàn phá như thế nào trong chiến tranh phá hoại của người Mỹ. Các con tôi đều muốn đến thăm ngôi trường lần đầu tiên tôi đi học, ngôi trường nhỏ bé của tôi ngày trước đã được thay thế bằng những khu nhà mới rộng rãi và khang trang. Về nước đi thăm nhiều nơi nên tôi biết, sau chiến tranh hầu như mọi trường học, bệnh viện, bưu điện,... đều được xây mới. Nhiều quan sát khác của các con tôi sau mỗi lần về thăm Việt Nam làm cho tôi hiểu thêm rằng, không nên máy móc lấy các con số (thí dụ là về tiền bạc) để đánh giá sự phát triển nhân quyền ở một quốc gia. Một lần về quê, con gái tôi hồn nhiên nói về một chi tiết khiến tôi phải suy nghĩ, cháu nói: "Ở chợ Việt Nam, khi không có khách hàng, những người bán hàng thường hay đếm tiền và con thấy nét mặt họ rất rạng rỡ. Qua nét mặt cũng thấy họ rất vui với những gì họ có được. Ðể có suy luận đó, con tôi cũng từng chứng kiến ở CHLB Ðức cảnh những người dân nhận tiền trợ cấp xã hội hằng tháng, nét mặt buồn thiu khi cầm trong tay 500 ơ-rô - một lượng tiền không nhỏ với một số gia đình nông dân Việt Nam. Các bà, các chị bán hàng ngồi đếm những đồng tiền có thể là không nhiều, nhưng họ có niềm vui, đó là niềm vui từ lao động. Nó giúp tôi hiểu thêm rằng nếu chỉ lấy đồng tiền làm thước đo sẽ không thể hiểu tại sao Hàn Quốc là quốc gia có mức sống không kém phương Tây, nhưng số người tự tử nhiều thứ hai thế giới; Ðan Mạch được xếp hạng nhất trên thế giới về bình quân thu nhập, nhưng ở đó số lượng người tự tử cao nhất trong khu vực Bắc Âu?
Ðảng và Nhà nước đã và đang đề ra, thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội đúng đắn, thúc đẩy sự nghiệp CNH, HÐH, hội nhập quốc tế. Vì thế, vấn đề không phải là nước này, tổ chức quốc tế kia đánh giá hay bình chọn, vì người dân và cuộc sống con người luôn luôn là chủ thể, là mục tiêu cụ thể của mọi chính sách và hành động. Một việc làm thiết thực gần đây là sự phát triển quan trọng liên quan đến quyền con người trong Hiến pháp sửa đổi. Từ sự kiện này, tôi càng tin đất nước ta sẽ tiếp tục đạt được nhiều thắng lợi trong thúc đẩy các giá trị quyền con người, người dân ngày càng được hưởng tốt hơn các giá trị vật chất, tinh thần do xã hội đem lại. Ðó là bằng chứng chứng minh sự đúng đắn của Ðảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam trong việc xác định mục tiêu kinh tế - xã hội và quyết tâm cùng toàn dân hành động để đạt tới mục tiêu.
HỒ NGỌC THẮNG (CHLB Ðức)

Cải cách dân chủ và cái gọi là "diễn đàn xã hội dân sự"

Cuộc bạo động ngày 19-2-2014 tại Ukraina đã gây xôn xao dư luận trên thế giới, và phần lớn ý kiến phân tích đều xoáy sâu vào việc "chính quyền đàn áp phe đối lập". Tuy nhiên, theo tác giả Ðinh Hương, nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự kiện xảy ra ở Ukraina có liên quan tới một số vấn đề kinh tế - chính trị...
UKRAINA là quốc gia có địa hình đặc biệt: một nửa thuộc Tây Âu và một nửa thuộc Ðông Âu. Nét riêng này đưa tới sự khác biệt về ngôn ngữ và sắc tộc, cho nên sự chia rẽ cũng sớm hình thành. Từ thế kỷ 17, phía đông Ukraina sớm chịu sự cai trị của Ðế quốc Nga, sau đó rất lâu, Sa Hoàng mới thâu tóm nốt phía tây. Ðiều đó giải thích tại sao ngay cả khi Liên bang Xô Viết không tồn tại, thì người dân ở phía đông Ukraina vẫn tiếp tục chịu ảnh hưởng từ nền chính trị nước Nga. Trong nhiều thế kỷ, phía tây Ukraina lại chịu ảnh hưởng từ các đế chế phương Tây, thậm chí tới trước Chiến tranh thế giới lần II, một phần Ukraina vẫn thuộc quyền của đế chế Áo - Hung. Ðó là căn nguyên để lý giải tại sao người dân ở phía tây Ukraina thường có xu hướng thân thiết với EU hơn. Về tôn giáo cũng vậy, nếu một phần cư dân Ukraina nói tiếng Nga và theo Chính thống giáo, thì một phần cư dân Ukraina khác lại nói tiếng Ukraina và chịu ảnh hưởng của Công giáo.
Từ thế kỷ 17 đến nay, người phía tây luôn có xu hướng muốn chống lại ảnh hưởng của Nga lên văn hóa Ukraina, và như mới đây, hai cuộc "Cách mạng cam" liên tiếp diễn ra để đòi hỏi cải cách chính sách từ chính phủ, nhưng thực chất là nhằm chống lại ảnh hưởng của Nga đối với nền chính trị Ukraina. Nhưng văn hóa và chủ nghĩa dân tộc có phải là các nguyên nhân cốt lõi dẫn đến xung đột này? Một khía cạnh thực dụng hơn có thể tìm thấy qua nhận xét của Giáo sư Serhii Plokhii ở khoa Nghiên cứu Ukraina thuộc Ðại học Havard. Ông cho rằng, vấn đề xung đột có liên quan đến nguồn tài nguyên ở hai khu vực: phía đông và phía nam Ukraina vốn có đất đai màu mỡ hơn phía tây.
Ðương nhiên không thể phủ nhận những sai lầm trong chính sách, hệ thống chính trị dưới sự điều hành của Victor Yanukovych. Ukraina vốn là một nước nghèo với phần lớn lao động phải nhập cư vào Nga kiếm việc làm. Ðể giải quyết bài toán kinh tế mà người tiền nhiệm của ông Yanukovych là cựu Tổng thống Victor Yushchenko - một người vẫn hô hào cho chủ nghĩa dân tộc và có xu hướng thân EU - phải chịu bó tay. Rõ ràng, mặc dù EU muốn gây ảnh hưởng tới toàn bộ Ukraina nhưng lại không thấu hiểu và quan tâm đến thực trạng của Ukraina, cho nên cách duy nhất để lôi kéo một người vốn "đi trên dây" trong mối quan hệ tay ba như Yanukovych, EU phải sử dụng đến phương pháp biểu tình của dân chúng để gây sức ép. Trước đó, EU đưa ra thỏa thuận cho vay vốn đi kèm với một số chính sách làm suy yếu quyền lực của Yanukovych; trong khi đó Nga sẵn sàng chi 15 tỷ USD để vị Tổng thống này không bắt tay với EU. Lẽ đương nhiên, Yanukovych sẽ lựa chọn Nga thay vì EU. Ngay sau đó, một loạt cuộc biểu tình diễn ra, chủ yếu do những người ở phía tây dẫn đầu, nhằm phản đối quyết định của chính phủ. Với sự ủng hộ của EU, những người phía tây hy vọng thiết lập thể chế cộng hòa nghị viện giống như các nước Tây Âu khác, đồng thời nhận sự hỗ trợ kinh tế từ các nước này. Nhưng mục đích của EU không đơn thuần là Ukraina, mà chủ yếu thông qua việc trải rộng dân chủ theo kiểu phương Tây đến phía đông nước này, EU có thể làm suy yếu quyền lực của nước Nga.
Những cuộc biểu tình của phe đối lập phía tây Ukraina được gọi chung bằng tên gọi "Cách mạng cam". Lần thứ nhất (năm 2004), một số chính đảng đứng ra kêu gọi dân chúng phía tây kéo đến đường phố chính của Kiev để phản đối. Và đây sẽ là cái cớ để chính phủ Ukraina buộc tội thủ lĩnh của phe đối lập âm mưu lật đổ chính quyền. Nhưng ở "Cách mạng cam" lần thứ hai (năm 2013), phương pháp hoạt động của họ đã thay đổi. Phương pháp này còn được gọi là "phong trào xã hội" và rút kinh nghiệm từ "Cách mạng hoa hồng" ở Gruzia diễn ra tháng 11-2003 - được xem là "cuộc cách mạng" đầu tiên của các nước Ðông Âu chống lại ảnh hưởng của Nga. Giữ vai trò quan trọng nhất trong "Cách mạng hoa hồng" ở Gruzia là số lượng lớn các tổ chức phi chính phủ (NGO) được thành lập tại nước này từ cuối năm 2000. Dù không có quyền lực trong tay, nhưng các NGO lại có khả năng tiếp cận người dân tốt hơn, thường xuyên hơn chính phủ. Hai trong số những NGO quan trọng nhất lúc đó phải kể đến là Hiệp hội luật sư trẻ Gruzia và Viện Tự do - các tổ chức đứng ra tuyên truyền nhân quyền, tự do thông tin trước khi xảy ra "Cách mạng hoa hồng". Các NGO được phép tự do thành lập để thu hút những nguồn tài chính quốc tế vào Gruzia để giải quyết khủng hoảng kinh tế trong nước. Nhưng khi các NGO phát triển đủ mạnh, họ cho rằng chính quyền của Tổng thống Eduard Shevardnadze lại trở thành lực cản với sự phát triển đất nước; và cuối cùng, chính họ vận động một cuộc biểu tình bất bạo động với con số tới 100 nghìn người. "Cách mạng hoa hồng" thành công nhờ thực trạng bế tắc của Gruzia, cùng với sự hỗ trợ từ nước ngoài và phương tiện truyền thông.
Từ những kinh nghiệm của "Cách mạng hoa hồng", cuộc "Cách mạng cam" lần thứ hai không còn sự dẫn đầu của các chính khách. Trong khi các lãnh tụ của phe đối lập như Arseny Yatseniuk, Yulia Tymoshenko bị cầm tù; thì Vitaly Klitschko, nhà vô địch quyền Anh thế giới và Oleh Tyagnibok - nhà dân tộc chủ nghĩa hữu khuynh, đều không có chủ trương nào rõ rệt và không chắc chắn kiểm soát được phong trào. Những người đứng ra vận động quần chúng là các sinh viên và các tổ chức dân sự. Những người đi đầu trong cuộc biểu tình là các giáo sĩ, các ca sĩ nhạc Pop và các thành phần quá khích, vốn là cá nhân có khả năng triệu tập đám đông. Nhưng đám đông ở Ukraina không thể thực hiện một cuộc "cách mạng bất bạo động" như phe thân EU trông đợi. Ngay từ ngày 18-2-2014, khi Yanukovych không đáp ứng yêu cầu của 500 nghìn người biểu tình, những quả bom xăng đã được ném ra. Một toán người khác xông vào cướp kho vũ khí, lấy 1.500 súng ống và 100 nghìn viên đạn. Rõ ràng, những hành vi gây bạo động của đoàn người biểu tình đã được các thủ lĩnh phe đối lập tính toán và lập kế hoạch từ trước.
Từ ảnh hưởng của "Cách mạng hoa hồng", "Mùa xuân Arập", "Cách mạng Ai Cập" và giờ đây là "Cách mạng cam" lần thứ hai ở Ukraina, một số người ở Việt Nam cũng đang có những hoạt động tương tự. Bên cạnh đó, truyền thông internet với sự phát triển của blog cá nhân và facebook trở thành phương tiện được mấy người này ưa thích. Ðể đạt mục đích, người ta không ngần ngại bắt tay cả với tổ chức khủng bố "Việt Tân", mà sự lộ diện của thành viên tổ chức này trong các hoạt động vu cáo Việt Nam tại Genève (Thụy Sĩ) vừa qua là bằng chứng.
Có lẽ "Cách mạng hoa hồng", "Mùa xuân Arập" đã kích động thêm cho họ, và họ không cần biết từ sau "Cách mạng Ai Cập" các nước đi theo xu hướng này như Tusnia, Ai Cập, Libya, Yemen... đều phải đối mặt với xung đột bạo lực kéo dài. Và có một điều cần chú ý là ngay sau "cách mạng", người dân Ai Cập lại muốn lật đổ Tổng thống mới là ông Morsi để quay về với thể chế cũ! Tương tự như vậy với tình hình ở Ukraina. Các tổng thống tiền nhiệm của ông Yanukovych với sự hậu thuẫn của nước ngoài trong nhiều năm đã không thể giải quyết được bất ổn tài chính, và xung đột chính trị. Những người đối lập của các nước thực hiện phong trào xã hội đã tính toán một bước đi vội vã. Lật đổ một thể chế không có nghĩa rằng ngay lập tức thể chế mới với các nhà cầm quyền non kinh nghiệm có thể giải quyết được các bất ổn xã hội. Hơn thế nữa, các tổ chức và quốc gia bên ngoài cũng không thể cùng một lúc hỗ trợ tất cả các nước đang liên tiếp thi nhau "cải cách dân chủ"! Và như Thủ tướng Nga Dimitri Meredev đã từng nói: "Các đối tác phương Tây của chúng ta đôi khi hành xử như một con bò trong cửa hàng sành sứ vậy. Họ chen vào, nghiền nát mọi thứ, rồi sau đó không biết phải làm gì tiếp theo"!

ÐINH HƯƠNG 
 BÁO NHÂN DÂN Thứ năm, 27/02/2014

Thứ Bảy, 1 tháng 3, 2014

CỰU CÔNG AN TRIỆU PHONG TẠI TX QUẢNG TRỊ GẶP MẶT ĐẦU XUÂN

NGÀY 1 THÁNG 3 NĂM 2914, SỐ ACE ĐÃ TỪNG CÔNG TÁC , CHIẾN ĐẤU TẠI ĐỊA BÀN TRIỆU PHONG NAY SỐNG TẠI THỊ XÃ QUẢNG TRỊ GẶP MẶT ĐẦU XUÂN GIÁP NGỌ,